Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Frédéric Chopin.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.39 KB, 10 trang )

Frédéric Chopin (1810 - 1849)

1/ Trường phái Cổ Điển và trường phái Lãng Mạn.
Các thời kỳ lịch sử của bộ môn Âm Nhạc được phân biệt bằng các
trường phái hay giai đoạn trong đó một đường hướng diễn tả âm
thanh đã được thịnh hành. Các nhà nghiên cứu đã dùng các danh
từ như "cổ điển" và "lãng mạn" để phân biệt về tác giả, tác phẩm
và thời kỳ. Trong các năm từ 1770 tới 1800 và đôi khi tới tận 1830,
nét nhạc của các nhạc sĩ lừng danh như Hayden, Mozart,
Beethoven đã mang nhạc vẻ "cổ điển". Danh từ này hàm chứa các
ý nghĩa về sự toàn hảo, tiêu chuẩn, dùng làm mẫu mực cho các
sáng tác âm nhạc về sau. Việc phân loại cũng đã được căn cứ vào
số lượng nhạc âm (musical sound) bị giới hạn, vào cách hòa âm
căn bản, do cách xử dụng nhịp điệu (rhythm) và nhạc thức (form)
và do cả cách truyền cảm đi từ nhạc sĩ sáng tác qua nhạc sĩ trình
diễn tới thính giả.
Các nhạc sĩ sáng tác đã thí nghiệm, làm biến đổi và làm phát triển
cách diễn tả âm nhạc từ các nguyên tắc căn bản. Như thế, cách
nhận thức về mỹ thuật nói chung và về âm nhạc nói riêng đã thay
đổi theo thời gian và trường phái "lãng mạn" dần dần xuất hiện.
Vào đầu thế kỷ 19, tinh thần lãng mạn đã thể hiện qua cách nhận
thức về vẻ đẹp của các "khu vườn Anh" (English garden), tại nơi
này không còn cách trồng tỉa cân đối, cách xếp đặt công phu nữa.
Nhiều người đã bắt đầu đánh giá cao loại phong cảnh tự nhiên,
mang vẻ hoang dã, phóng khoáng. Về kiến trúc, đường nét cổ điển
với cách đối xứng và phức tạp đã nhường chỗ cho tính bất quy tắc
và sự đổi mới về chi tiết. Cách thưởng thức nghệ thuật đã thay đổi
từ năm 1764 với sự xuất hiện của lối kiến trúc Gothic mới.
Cách nhận thức mới về nghệ thuật đã làm nẩy sinh ra một thế giới
1
xa xôi với thế giới "quen thuộc và mỗi ngày", và trường phái lãng


mạn đã khác biệt với trường phái cổ điển về sự "xa lạ và xa vời"
(strangeness and remoteness). Do đó Walter Pater đã định nghĩa
trường phái lãng mạn là "sự thêm vào vẻ đẹp chất liệu xa lạ" (the
addition of strangeness to beauty).
Một nét vẻ đặc biệt khác của trường phái lãng mạn (romanticism)
là tính không giới hạn (boundlessness). Nghệ thuật lãng mạn lùi về
quá khứ và hướng cả về tương lai, trải rộng tầm vóc phủ lên thế
giới và lan ra vũ trụ. Trong khi các quy tắc cổ điển chú trọng đến
tính trật tự, sự cân bằng về kiểm soát và sự hoàn hảo trong các
giới hạn được hiểu rõ, thì trường phái lãng mạn lại ca ngợi tính tự
do, sự say đắm, các chuyển động để theo đuổi những gì đạt tới
được và không bao giờ đạt tới được. Nghệ thuật lãng mạn bị ám
ảnh bởi tinh thần mong đợi, ước vọng về một hoàn thành rất xa
vời.
Trong các bộ môn nghệ thuật, Aâm Nhạc là thứ dễ diễn tả, dễ bộc
lộ nhất. Nhờ âm thanh và nhịp điệu, âm nhạc đã mô tả các cảm
xúc, ấn tượng, làm lộ ra những xúc động nội tâm. Aâm Nhạc đã
dùng thứ ngôn ngữ riêng để nói lên thứ hình ảnh hiện thân của thế
giới cũng như các cảm xúc trong cuộc đời của mọi người. Aâm
nhạc được định nghĩa là một loại ngôn ngữ không phải là lời nói
thông thường. Các nhạc cụ vì vậy đã trở nên một phương tiện,
một thứ xe chuyên chở tư tưởng và tình cảm. Các nhạc sĩ lãng
mạn đã khéo léo phối hợp âm nhạc với lời nói, thành lời ca, hòa
vào tiếng đàn như trong thể nhạc Lied, một loại bài hát đã được
sáng tác thành công vào thế kỷ 19 bởi Schubert, Schumann,
Brahms và Hugo Wolf, hay trong loại nhạc kịch trường (music
drama) của Wagner. Ngoài ra còn có loại nhạc chương trình
(program music) phối hợp với thơ, với cách mô tả, cách tường
thuật, cách bắt chước các âm thanh tự nhiên và các âm thanh
chuyển động, đã dùng tới các hình ảnh tưởng tượng và được diễn

tả ra bằng âm thanh.
Nhạc chương trình của thế kỷ 19 khởi đầu bằng bản "Giao Hưởng
Đồng Quê" (Pastoral Symphony) của Beethoven, kéo dài tới giữa
thế kỷ với các nhạc sĩ Mendelssohn, Schumann, Berlioz, Liszt rồi
với các nhạc sĩ đại diện của cuối thế kỷ là Debussy và Richard
Strauss. Các nhạc sĩ của thời đại này đã cố gắng bằng cách dùng
âm thanh, liên kết một câu chuyện, một bài thơ, một hoạt cảnh với
một bản nhạc lãng mạn.
Thế kỷ 19 cũng gặp sự chuyển tiếp về thính giả và sự bảo trợ âm
2
nhạc. Loại thính giả đồng nhất, thường có văn hóa cao và số
lượng hạn hẹp như giới quý tộc, đã được thay thế bằng giới trung
lưu đông đảo hơn nhưng không đồng nhất, không có trình độ cao
về thưởng thức âm nhạc. Các bảo trợ về âm nhạc của các hầu
tước, bá tước, các cung đình cũng bị nhường chỗ cho các hội hòa
nhạc (concert societies) và các đại hội âm nhạc (musical festivals).
Nhạc sĩ sáng tác vào thế kỷ 19 đã đứng trước một sân khấu rộng
lớn hơn, phải cố gắng làm sao cho nhạc phẩm của mình được
nhiều người nghe và hiểu. Sự tương phản về tính phổ thông của
thời đại này đối với thời đại trước đã được thể hiện qua các sáng
tạo đồ sộ của Meyerbeer, Berlioz, Wagner, Strauss hay Mahler,
hay qua các bản nhạc dương cầm ngắn của Schubert,
Mendelssohn và Chopin.
Trường phái lãng mạn của thế kỷ 19 còn có một nét đặc thù, đó là
sự khác biệt giữa các nhạc sĩ chuyên nghiệp và các nhạc sĩ tài tử.
Các nhạc sĩ độc tấu với tài nghệ xuất sắc đã xuất hiện như
Paganini về vĩ cầm và Liszt về dương cầm. Đã tăng thêm các tiêu
chuẩn chuyên nghiệp khiến cho sang thế kỷ 20, vai trò của nhạc
trưởng trở nên rất quan trọng và nhạc trưởng đôi khi còn được gọi
là "nhà độc tài của dàn nhạc".

Trường phái cổ điển và trường phái lãng mạn có thể được coi là
hai cực của nền nghệ thuật. Tinh thần cổ điển đi tìm kiếm sự trật
tự, sự cân đối, sự trong sáng của đề tài trong khi tinh thần lãng
mạn lại đặt nặng sự xa lạ, tính ngạc nhiên và tình cảm ngây ngất
(ecstasy), nhìn cuộc đời với tính chủ quan, khác hẳn yếu tố khách
quan của tinh thần cổ điển. Chính vì thế nhà triết học người Đức
Friedrich Nietzsche trong các bài viết về nghệ thuật, đã so sánh hai
tinh thần cổ điển và lãng mạn bằng hình ảnh của Apollo, vị thần Hy
Lạp của ánh sáng và đo lường, tương phản với Dionysus, vị thần
của lòng đam mê và tính say sưa. Cả hai đặc tính trái ngược cổ
điển và lãng mạn đã là hai xung lực căn bản của bản chất con
người.
Các cải tiến kỹ thuật vào thế kỷ 19 đã làm phát minh ra các nhạc
cụ mới, chẳng hạn như các kèn saxophone và tuba. Việc thêm các
"van" (valves) vào loại kèn đồng (brass instruments) đã cho phép
kèn tù và (horn) thổi được các giai điệu của Wagner và
Tchaikovsky. Đàn dương cầm cũng nhờ các tiến bộ khoa học mà
có một khung căng dây đàn (frame) đúc bằng gang, các dây đàn
cứng cáp hơn và to dài hơn nên đã phát ra các âm thanh lộng lẫy
hơn, sâu đậm hơn. Nhờ cây đàn dương cầm với các âm thanh từ
nhẹ (soft) tới mạnh (forte), Liszt đã trình tấu các bản nhạc thuộc
3
trường phái lãng mạn khác với các bản sônát của Mozart vào thế
kỷ trước.
Trong thế kỷ trước, nhạc sĩ sáng tác cũng là nhạc sĩ trình diễn.
Mozart và Beethoven đã trình bày các concerto của chính mình
giống như Franz Liszt diễn tấu nhạc phẩm "Tưởng Khúc Hungari"
(Hungarian Rhapsodie) hay Niccolo Paganini với các giai điệu vĩ
cầm mang âm sắc quái dị. Sau đó, các nhạc sĩ trình diễn tài ba
dần dần diễn tấu các nhạc phẩm của nhiều nhạc sĩ sáng tác khác.

Trong thời kỳ lãng mạn của thế kỷ 19, đàn dương cầm đã đóng
một vai trò quan trọng trong bộ môn âm nhạc. Tại châu Aâu và
châu Mỹ trong thế kỷ này, cây đàn dương cầm trở nên nhạc cụ
chính trong gia đình, đã hấp dẫn các nhạc sĩ tài tử vì khả năng của
đàn có thể diễn tả vừa giai điệu, vừa hòa âm, khác với các loại
nhạc cụ dây và gió.
Các bậc thầy về các nhạc bản dương cầm của thế kỷ 19 gồm
Schubert, Chopin và Liszt, Mendelssohn, Schumann và Brahms…
những nhạc sĩ đại tài này đã khai thác các nguồn vô tận của đàn
dương cầm và diễn tả một cách xúc tích vẻ lãng mạn và kịch tính
của các nhạc phẩm trữ tình.
2/ Thời niên thiếu của Frederic F. Chopin.
Frederic F. Chopin được gọi là "nhà thi sĩ" của cây đàn dương
cầm. Nghệ thuật âm nhạc của Chopin là trái tim của thời kỳ âm
nhạc lãng mạn và nhờ Chopin, đàn dương cầm đã đạt được thời
kỳ vàng son rực rỡ.
Frederic Chopin sinh ngày 22 tháng 2 năm 1810 tại Zelazowa
Wola gần Warsaw, nước Ba Lan, là con thứ hai trong bốn người
của ông Nicholas Chopin, một người Pháp đã qua Ba Lan để dạy
tiếng Pháp cho các gia đình quyền quý. Mẹ của Chopin là người
Ba Lan, một người có giáo dục cao, thuộc gia đình quý tộc
Skarbek nhưng đã bị sa sút và ông Nicholas đã là phụ giáo cho gia
đình này. Cậu bé Frederic đã tiếp thu được một nền giáo dục căn
bản tốt đẹp và đã được học âm nhạc với nhạc sĩ Joseph Elsner, vị
sáng lập và cũng là giám đốc của Nhạc Viện Warsaw mới được
thành lập. Năm lên 7 tuổi, Frederic đã sáng tác nhạc và nhạc bản
đầu tiên đó đã được trình diễn nơi công cộng. Năm sau, Frederic
cũng đã biểu diễn âm nhạc trước công chúng bằng bản Concerto
của Adalbert Gyrowetz.
4

Năm 1826, Frederic Chopin là sinh viên chính thức của Nhạc Viện
Warsaw nhờ đó đã học hỏi được căn bản về nhạc lý, hòa âm và
đối điểm. Chopin cũng làm quen với các nhạc phẩm của nhiều
nhạc sĩ rồi từ đó đã sáng tác ra các biến khúc (variations) từ
những ảnh hưởng của nhạc bản Don Giovanni của Wolfgang A.
Mozart.
Nhạc phong của Chopin từ lúc đầu đã mang âm vẻ đặc biệt, khiến
cho vị giáo sư âm nhạc là ông Elsner không muốn ép buộc môn đệ
đi vào khuôn mẫu cổ điển và đã cho phép chàng nhạc sĩ trẻ tuổi
này hoàn toàn tự do để phát triển những nét nhạc đặc sắc cá
nhân.
Chopin là một nhạc sĩ trẻ tuổi tài hoa và cũng sớm đa tình. Trong
các năm còn là sinh viên âm nhạc, Chopin đã say đắm cô ca sĩ trẻ
trung tên là Constantia Gladkowska, người đã gây nên trong nội
tâm của chàng nhạc sĩ "nước mắt và tiếng thở dài", thứ lãng mạn
phổ thông của thế kỷ 19. Chính trong hoàn cảnh đam mê này,
Chophin vào tuổi 19 đã viết nên phần Adagio của Concerto cung
Fa thứ vì nghĩ tới nàng ca sĩ trẻ đẹp đó.
Năm 1828, nhạc sĩ sáng tác kiêm dương cầm tên là Johan
Nepomuk Hummel, người thành phố Vienna, đã viếng thăm
Warsaw và đã trình diễn các nhạc kịch kiểu Ý (Italian opera).
Chopin nhờ thế làm quen được với nền âm nhạc của thế giới tây
phương thời bấy giờ. Sau đó, Frederic Chopin đã tới thăm thành
phố Berlin, được nghe các nhạc phẩm của George Frederick
Handel và của Felix Mendelssohn rồi lúc trở về Warsaw, lại được
nghe Niccolo Paganini trình diễn âm nhạc. Tới lúc này Chopin cảm
thấy rất cần phải ra khỏi nước Ba Lan. Cha của chàng xin chính
phủ trợ cấp cho việc du học nhưng lời yêu cầu bị khước từ, vì thế
Chopin đã tự túc ra đi, tới thành phố Vienna để dàn xếp việc xuất
bản một số nhạc phẩm cũng như trình diễn âm nhạc tại vài địa

điểm.
Ngày 11-8-1829 tại rạp hát Karntnerthor, Chopin đã biểu diễn âm
nhạc trước công chúng rồi lúc trở về Warsaw năm sau, lại ra mắt
thính giả bằng nhiều nhạc phẩm có tên là "Tùy hứng khúc"
(fantasie) mang nhạc đề quốc gia (national themes) cùng với một
loạt các luyện khúc (etudes) đầu tiên. Sau đó, Chopin đã du lịch
qua nhiều thành phố như Breslau, Dresden và Prague, tới Vienna
rồi vì hoàn cảnh chính trị không ổn định, Chopin đã không sang
được nước Ý. Trong khi sống tại Vienna, Chopin đã sáng tác
5

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×