Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

ĐỀ TÀI THẢO LUẬN : Tình huống số 2 “Phân tích ngành dược Việt Nam”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (284.74 KB, 24 trang )

ĐÊ TÀI THẢO LUẬN

Tình huống số 2 “Phân tích ngành dược Việt Nam”
I.
II.

Tổng quan ngành Dược Việt Nam
Giải bài tập tình huống

Câu 1:
I.

Tổng quan ngành dược Việt Nam
Thời Bắc thuộc, do đặc điểm địa lý và quan hệ chính trị, nền y dược Việt Nam
có sự giao thoa và chịu nhiều ảnh hưởng từ nền y dược Trung Quốc. Qua trao
đổi học hỏi những vị thuốc, kinh nghiệm chữa bệnh kết hợp với các loại thảo
dược bản địa đặc thù đã tạo nền móng đầu tiên cho mảng Đông dược nói riêng
và ngành dược Việt Nam nói chung. Năm 938, thời kì Bắc thuộc kết thúc,
ngành y dược Việt Nam tiếp tục phát triển. Từ thời Lý, Trần, Hồ, Hậu Lê, Tây
Sơn và triều Nguyễn, nền y dược dân độc đã được chú trọng đáng kể. Từ năm
1858, trong thời kỳ Pháp thuộc, người Pháp đã đưa Tây y vào nước ta, năm
1902 mở trường đào tạo Dược sĩ Hà Nội, tổ chức một số bệnh viện, bệnh xá ở
các tỉnh, thành phố, phủ, huyện. Dưới sức ép của Pháp, nhiều dược sĩ không
được phép mở cửa hiệu, viện nghiên cứu khai thác dược liệu trong nước cũng
bị chèn ép, mảng Đông dược bị kìm hãm phát triển.
Giai đoạn 1946 – 1954 kháng chiến chống Pháp ngành dược vừa thiếu
dược sĩ, công nhân, trang thiết bị, vật tư, vừa thiếu kinh nghiệm và tổ chức
quản lí. Ngành chủ yếu phát triển theo hướng tự lực cánh sinh, tận dụng
mọi nguyên liệu sẵn có từ cây thuốc trong nước. Thời kì này, Việt Nam đã
sản xuất được thuốc chiến thương, Filatov, ống tiêm, kìm kẹp máu, dao
mổ, kim khâu... Cũng ở trong giai đoạn này, tại Thanh Hóa, chính quyền đã


mở các lớp trung cấp dược, ở chiến khu Việt Bắc có viện đại học dược và
-

mở nhiều lớp dược tá ở các liên khu.
Giai đoạn 1954 – 1975, miền Bắc tiến hành cải tạo ngành dược tự doanh,
xây dựng phát triển ngành dược quốc doanh. Năm 1965, nhu cầu sử dụng


thuốc tăng nhanh, nên hầu hết các xã đều có phong trào trồng và sử dụng
cây thuốc nam, hình thành một mạng lưới sản xuất dược hoàn chỉnh từ
trung ương đến địa phương để có thể sản xuất thuốc men theo từng vùng
theo hướng tự cung tự cấp. Giai đoạn sau 1975, ngành dược phát triển qua
3 giai đoạn chính:
+ Giai đoạn 1 (1975 – 1990): Ngành dược Việt Nam giai đoạn này chủ
yếu bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, sức sản xuất không đáng kể. Mức
tiêu thụ bình quân thuốc trên đầu người thời kỳ này đạt vào khoảng 0,5 1USD/năm. Do thuốc trong thời kỳ này khan hiếm nên tiêu chuẩn chất
lượng thuốc trong sử dụng chưa được chú trọng.
+ Giai đoạn 2 (1990 – 2005): Các nhà thuốc và các công ty sản xuất
thuốc phát triển rất nhanh, sản phẩm dược đa dạng, phong phú hơn. Đặc
biệt sau khi có Nghị quyết Trung ương IV và Quyết định 58 của Thủ tướng
chính phủ về công nghiệp dược đã có những bước phát triển đáng kể, đảm
bảo phần lớn nhu cầu về thuốc chữa bệnh, khắc phục được tình trạng thiếu
thuốc của nhiều năm trước đây. Giai đoạn này cũng chứng kiến quá trình
cổ phần hóa nhiều doanh nghiệp dược quốc doanh theo chủ trương cổ phần
hóa của nhà nước.
+ Giai đoạn 3 (từ năm 2005 đến nay): Các công ty dược đẩy mạnh quá
trình nâng cấp tiêu chuẩn sản xuất lên GMP-ASEAN  GMP-WHO  PIC/S
 EU-GMP… nhằm thích ứng với yêu cầu về chất lượng ngày càng gia
tăng và phù hợp với quá trình toàn cầu hóa của ngành dược Việt Nam trong
quá trình hội nhập với thế giới. www.fpts.com.vn 12 NGÀNH DƯỢC

PHẨM Ngành Dược phẩm B B.2 Trình độ phát triển và định vị trên bản
đồ thị trường dược phẩm thế giới B.2 Theo phân loại và xếp hạng cho
ngành công nghiệp dược: Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên Hợp Quốc
(UNIDO) chia công nghiệp dược theo 5 mức phát triển, Tổ chức Y tế Thế
giới (WHO) và Hội nghị Thương mại và Phát triển Liên Hiệp Quốc
(UNCTAD) xác định mức độ phát triển công nghiệp dược của các quốc gia
theo 4 cấp độ:


• Cấp độ 1: Nước đó hoàn toàn phải nhập khẩu thuốc.
• Cấp độ 2: Sản xuất được một số thuốc generic; đa số thuốc phải nhập
khẩu.
• Cấp độ 3: Có công nghiệp dược nội địa; có sản xuất thuốc generic; xuất
khẩu được một số dược phẩm.
• Cấp độ 4: Sản xuất được nguyên liệu và phát minh thuốc mới.
Theo cách đánh giá này, hiện nay công nghiệp dược Việt Nam đang ở
gần cấp độ 3 theo thang phân loại của WHO. Còn nếu theo thang phân loại
5 mức phát triển của UNIDO thì công nghiệp dược của Việt Nam mới chỉ ở
mức 3, nghĩa là “công nghiệp dược nội địa sản xuất đa số thành phẩm từ
nguyên liệu nhập”. Ngành công nghiệp hóa dược của Việt Nam vẫn chưa
phát triển do thiếu sự đồng bộ trong quy hoạch, chính sách, công nghiệp
phụ trợ…
Vì vậy, tính đến thời điểm hiện tại, Việt Nam chỉ mới có một nhà máy
sản xuất nguyên liệu kháng sinh bán tổng hợp của Mekophar, sản lượng
thiết kế khoảng 200 tấn Amoxicillin và 100 tấn Ampicillin mỗi năm, và
chủ yếu chỉ đủ phục vụ nhu cầu của doanh nghiệp trước áp lực cạnh tranh
từ nguyên liệu giá rẻ của Trung Quốc và Ấn Độ. Về định vị ngành dược
Việt Nam trên bản đồ dược thế giới, theo cách đánh giá phân loại của IMS
Health, Việt Nam thuộc nhóm 17 nước có ngành công nghiệp dược đang
phát triển (pharmerging countries). Cách phân loại này dựa trên tiêu chí cốt

lõi là tổng tiền thuốc tiêu thụ hàng năm, bên cạnh đó, IMS Health cũng sử
dụng các tiêu chí tham khảo khác như mức độ năng động, tiềm năng phát
triển của thị trường và khả năng thay đổi để thích nghi với các biến động về
chính sách quản lý ngành dược tại các quốc gia này. Các Quốc gia:
Venezuela, Ba Lan, Argentina, Thổ Nhĩ Kỳ, Mexico, Việt Nam, Nam Phi,
Thái Lan, Indonesia, Rumani, Ai Cập, Pakistan và Ucraina. Các quốc gia
này ghi nhận tổng tiền thuốc sử dụng từ 1 – 5 tỷ USD trong năm 2013.
Trong giai đoạn 2013 – 2018, tốc độ tăng trưởng bình quân chung của các
nước mới nổi có xu hướng chậm lại sau giai đoạn 2008 – 2012 tăng trưởng


mạnh, bình quân ở mức 11% - 14%. Trong đó, Việt Nam có mức tăng
trưởng cao thứ 2 trong nhóm (17.5%).
Biểu đồ: Tăng trưởng tổng giá trị tiêu thụ thuốc và chi tiêu bình quân đầu
người cho dược phẩm

Tổng hợp số liệu thống kê của BMI, IMS Health và Cục Quản lý Dược Việt
Nam, FPTS dự phóng mức chi tiêu một số chỉ tiêu tăng trưởng trọng yếu trong
giai đoạn 2014 – 2028 như sau: • Tăng trưởng dân số Việt Nam: Bình quân
2%/năm và vượt mốc 120 triệu người vào năm 2028. • Tăng trưởng tổng tiền
sử dụng thuốc tại Việt Nam: Bình quân 17%/năm (bao gồm hai yếu tố cốt lõi
là nhu cầu và mức tăng giá thuốc bình quân 8,6% mỗi năm). • Tăng trưởng
tổng tiền sử dụng thuốc sản xuất tại Việt Nam: 14,3%

II.
Giải bài tập tình huống
1. Cơ sở lý thuyết
 Mô hình các lực lượng điều tiết cạnh tranh trong ngành của M.Porter

Quyền lực

tương ứng
của các bên
liên quan
Các bên liên
quan khác

Gia nhập tiềm năng
Các đối thủ cạnh tranh trong
Đe dọa gia nhập mới
ngành

Cạnh tanh giữa các công ty hiện
tại

Quyền lực thương
lượng của người
mua


Người mua

Nhà cung
ứng
Quyền
thương
lượng của
người cung
ứng

Đe dọa của các sản phẩm/dịch

vụ thay thế
Sự thay thế

Michael Porter, nhà hoạch định chiến lược và cạnh tranh hàng đầu thế giới hiện nay, đã
cung cấp một khung lý thuyết để phân tích. Trong đó, ông mô hình hóa các ngành kinh
doanh và cho rằng ngành kinh doanh nào cũng phải chịu tác động của năm lực lượng
cạnh tranh. Các nhà chiến lược đang tìm kiếm ưu thế nổi trội hơn các đối thủ có thể sử
dụng mô hình này nhằm hiểu rõ hơn bối cảnh của ngành kinh doanh mình đang hoạt
động.
Theo Michael Porter, cường độ cạnh tranh trên thị trường trong một ngành sản xuất bất
kỳ chịu tác động của 5 lực lượng cạnh tranh sau:
(1). Sự cạnh tranh của các DN đang có trong ngành
Nó tuân theo các quy luật sau:
– Khi số lượng đông và quy mô tương đương nhau thì áp lực cạnh tranh cao
– Tốc độ tăng trưởng của ngành cao thì áp lực cạnh tranh thấp
– Chi phí cố định và chi phí lưu kho trong ngành cao sẽ tạo áp lực cạnh tranh cao
– Sản phẩm trong ngành không có khác biệt hóa thì áp lực cao vì sẽ cạnh tranh bằng giá
– Chi phí chuyển đổi nhà cung cấp của khách hàng thấp thì áp lực cạnh tranh cao


– Ngành có năng lực sản xuất dư thừa thì áp lực cao.
– Khi tính đa dạng chiến lược kinh doanh trong ngành không cao thì áp lực cao
– Rào cản rút lui khỏi ngành cao thì áp lực cao. Vì nếu như rào cản rút khỏi ngành dễ thì
đối thủ của ta sẽ chuyển sang ngành khác nhanh hơn thay vì trối chết bằng mọi giá để
không bị loại bỏ.
(2). Áp lực từ phía khách hàng
– Khách hàng ít thì người bán phụ thuộc vào người mua. Khi người mua ít thì họ rất dễ
cấu kết với nhau để càng tạo áp lực lên người bán
– Khi số lượng người mua lớn thì họ có thể tập trung lại để tạo ra sức mạnh đàm phán
gây áp lực lên người bán. Thông thường những người mua nếu không mâu thuẫn về mặt

lợi ích họ sẽ tập hợp lại trong các hiệp hội để có thể có một đơn hàng lớn đàm phán với
nhà cung cấp. Siêu thị bản chất cũng là việc tập hợp nhiều người mua lại với nhau để có
số lượng lớn đàm phán với các nhà cung cấp cho siêu thị.
(3). Sự đe dọa của các sản phẩm thay thế
– Ngành nào có lợi nhuận cao thì mức độ hấp dẫn của ngành càng cao. Áp lực từ sản
phẩm thay thế cao.
– Ngành nào có nhiều sản phẩm thay thế, đặc biệt sản phẩm thay thế lại rẻ thì áp lực từ
sản phẩm thay thế cao.
(4). Áp lực của các nhà cung cấp
– Khi số nhà cung cấp ít, sản phẩm thay thế lại không có nhiều thì áp lực từ Nhà cung cấp
(NCC) cao. Hầu hết các hàng hóa trên thị trường đều cấu thành từ nhiều thành phần từ
nhiều nhà cung cấp khác nhau


– Khi sản phẩm của NCC có đặc tính khác biệt được khách hàng đánh giá cao thì DN
khó chuyển đổi sản phẩm vì vậy áp lực cao.
– Khi số lượng mua của DN chiếm tỷ trọng nhỏ thì áp lực cao. Khi lượng mua thấp thì
thế đàm phán của DN rất thấp, NCC sẵn sàng hy sinh bạn.
– DN chịu chi phí cao thì áp lực từ nhà cung cấp cao vì việc chuyển đổi sản phẩm có thể
làm tăng chi phí.
– Khi nhà cung cấp có tham vọng hội nhập về phía trước thì áp lực cao.
(5). Nguy cơ thâm nhập của các đối thủ tiềm năng
– Khi quy mô sản xuất trong ngành lớn thì nguy cơ thâm nhập của đối thủ thấp và ngược
lại
– Sản phẩm trong ngành có mức độ khác biệt hóa cao thì nguy cơ thâm nhập thấp.
Nguyên nhân thông thường là khách hàng có mức độ trung thành cao với các sự khác
biệt. Doanh nghiệp rất khó khăn để tìm ra phân khúc của riêng mình khi mà khách hàng
đang rất trung thành với các phân khúc của họ.
– Đòi hỏi vốn cao khi gia nhập thì nguy cơ thâm nhập thấp và ngược lại.
– Chi phí chuyển đổi nhà cung cấp của khách hàng cao thì áp lực thấp.

– Khả năng tiếp cận kênh phân phối khó khăn thì áp lực thấp.
– Bất lợi về chi phí không có liên quan tới quy mô thì áp lực thấp.
2. Vận dụng phân tích tình huống
II.1.
Sự gia nhập mới

Việc gia nhập ngành của các công ty dược phẩm mới tương đối khó khăn. Chi
phí nghiên cứu và phát triển cho việc chế tạo ra một loại thuốc mới của các công ty
sản xuất dược phẩm là rất đáng kể. Chính vì dược phẩm là sản phẩm ảnh hưởng trực


tiếp đến sức khỏe, tính mạng con người nên phải trải qua quá trình kiểm tra nghiêm
ngặt của chính phủ, các hãng mới được phép cung cấp các loại dược phẩm này ra thị
trường trong thời gian dài. Ở Việt Nam, ngành dược đã có lịch sử hàng ngàn năm,
nhưng đến ngày hôm nay ngành dược trong nước mới chỉ đáp ứng khoảng 50% nhu
cầu thị trường.
Ngành dược là một ngành có tiềm năng nhiều hơn thách thức và có khả năng sinh
lời rất cao. Hơn nữa mức sống của người dân ngày một nâng cao nên nhu cầu chăm
lo sức khỏe cũng được quan tâm hơn. Nhận thấy nhiều lợi ích mà ngành dược mang
lại, nhiều cá nhân, tổ chức rất muốn gia nhập ngành này. Nhưng để gia nhập ngành
dược thì gặp phải rất nhiều rào cản. Muốn phát triển và cạnh tranh trong ngành đòi
hỏi doanh nghiệp phải có nguồn vốn vững chắc đầu tư vào cơ sở hạ tầng, công nghệ,
kỹ thuật, và quan trọng nhất là phải có kinh nghiệm chuyên môn sâu sắc.
Theo báo mới nhất của Business Monitor Index cho thấy mức tiêu thụ dược
phẩm tại Việt Nam tiếp tục duy trì với tốc độ tăng trưởng ấn tượng 16% vào năm
2013. Giá trị ước tính đạt khoảng 3.3 tỉ USD, hiện tại chi tiêu cho dược phẩm của
người Việt chiếm khoảng 2% GDP. Chính tiềm năng phát triển của ngành dược đã
biến lĩnh vực kinh doanh này trở thành mảnh đất màu mỡ cho các nhà sản xuất trong
lẫn ngoài nước. Tuy vậy rào cản cho việc gia nhập ngành của các doanh nghiệp là



khá lớn:
Quy mô sản xuất lớn: cuối tháng 11/2013 Dược Hậu Giang là công ty dược lớn nhất
Việt Nam đã hoàn thành việc xây dựng nhà máy sản xuất dược phẩm mới. Đây là nhà
máy hứa hẹn tạo ra năng suất gấp đôi với công suất thiết kế dự kiến lên tới hơn 9 tỉ
đơn vị một năm. Cùng lúc đó, công ty dược Imexpharm cũng đã xây dựng xong nhà
máy thuốc tiêm penicillin mới tại Bình Dương. Tính kinh tế của quy mô được thể
hiện rõ khi các doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất sẽ làm giảm chi phí bình
quân trên mỗi sản phẩm sản xuất ra. Từ đó tạo nên rào cản về giá cả cho các doanh



nghiệp có chiến lược gia nhập ngành
Chuyên biệt hóa sản phẩm: Công ty dược Traphaco tập trung vào nhóm sản phẩm
thuốc mang dáng dấp của thực phẩm chức năng có nguồn gốc từ thiên nhiên với hai
sản phẩm nổi bật là Họat huyết dưỡng não và Boganic. 2 sản phẩm trên đã chiếm


được lòng tin cũng như đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng tạo ra 1 tập khách
hàng trung thành rất lớn. Do vậy những công ty mới muốn gia nhập phải đầu tư rất


lớn để lôi kéo được lượng khách hàng này.
Hệ thống phân phối rộng khắp: Do chiến lược sản phẩm đánh chủ yếu vào kênh
OTC, Dươc Hậu Giang đã tận dụng hiệu quả hệ thống phân phối rộng khắp cả nước
trong tiêu thụ sản phẩm. Để thực hiện tham vọng thiết lập một mạng lưới phân phối
rộng khắp cả nước, Traphaco đã mua lại những công ty thiết bị y tế tại các tỉnh thành
trọng điểm như Thái Nguyên, Đắk Lắk, Quảng Trị. Đây là điều khá khó khăn khi các
công ty mới gia nhập muốn thuyết phục những kênh phân phối sẵn sàng chấp nhận


sản phẩm của mình bằng việc giảm giá, khuyến mại, quảng cáo,…
• Chính sách của chính phủ: Cho dù doanh nghiệp cung cấp 50% nhu cầu nhưng thị
trường nội địa chỉ đáp lại 38%. Chính phủ đặt mục tiêu thuốc nội địa đáp ứng 80%
nhu cầu thị trường vào năm 2020. Nhưng với việc kiểm tra khắt khe của bộ y tế mà
nhất là các sản phẩm đông dược có nguồn nguyên liệu chưa theo chuẩn quốc tế sẽ là
rào cản không hề nhỏ cho các doanh nghiệp muốn gia nhập ngành.
 Từ trên ta có thể thấy, có rất nhiều những rào cản làm cho việc gia nhập vào
ngành Dược ở Việt Nam gặp nhiều khó khăn. Do vậy các công ty sẽ cân nhắc
khi quyết định đầu tư vào ngành dược, dẫn đến mức độ gia nhập mới là không
cao làm cho mức độ cạnh tranh của các Công ty đang hoạt động trong ngành
Dược Việt Nam cũng giảm xuống. Vì thế, dưới tác động của lực lượng Gia
nhập tiềm năng thì tính hấp dẫn của ngành Dược là thấp.
II.2.
Đe dọa từ các sản phẩm thay thế.
Sau khi gia nhập WTO, ngành dược Việt Nam có cơ hội tiếp xúc với nguồn vốn
dồi dào và trình độ khoa học công nghệ tiên tiến trên thế giới. Từ đó nhiều doanh
nghiệp đã nắm bắt cơ hội cải tiến cho mình. Vì vậy, ngày càng có nhiều các sản phẩm
về thuốc mới xuất hiện thay thế sản phẩm cũ, cải tiến chất lượng và chức năng. Sự
xuất hiện của sản phẩm thay thế thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của người tiêu
dùng.
Trong đó phải kể đến các doanh nghiệp lớn trong thị trường dược Việt Nam như
Dược Hậu Giang, Traphaco, dược Cửu Long, Pharmedic,.. thì việc đầu tư nghiên cứu


phát triển và cải tiến sản phẩm là công việc ưu tiên hàng đầu, bởi nó quyết định sự
tồn tại của doanh nghiệp trong ngành.
Hiện tại người tiêu dùng quan tâm nhiều đến thực phẩm chức năng như canxi,
các loại Vitamin A,B,E,.. mà quên đi việc cung cấp các thành phần dinh dưỡng này
thông qua các sản phẩm thức ăn và đồ uống. Chính vì vậy việc cạnh tranh chỉ mới
diễn ra chủ yếu giữa các đối thủ trong ngành. Các doanh nghiệp nhận ra được con

đường triển vọng đó nên đã tích cực đầu tư công nghệ tạo ra sản phẩm mới.
 Do dược phẩm là một nhu cầu thiết yếu nên rất khó tìm ra một sản phẩm thay
thế cho mặt hàng này. Do vậy mức độ đe dọa của các sản phẩm thay thế là
thấp làm cho tính hấp dẫn của ngành tăng lên.
II.3.
Sự cạnh tranh của các doanh nghiệp đang có trong ngành
Ngành dược là một trong những ngành có môi trường cạnh tranh nội bộ cao. Hiện
nay, cả nước có 178 doanh nghiệp sản xuất thuốc bao gồm cả tân dược và đông
dược, trong số đó có 100 doanh nghiệp sản xuất thuốc tân dược, 78 doanh nghiệp
sản xuất thuốc đông dược, ngoài ra có 5 doanh nghiệp sản xuất văccxin, sinh phẩm
y tế. Mặc dù là số lượng doanh nghiệp nhiều nhưng quy mô còn nhỏ (về vốn và nhà
xưởng), chủ yếu sản xuất thuốc phổ thông và phân phối.
Sau khi gia nhập WTO , cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài càng cao . Số
lượng doanh nghiệp ngoài đăng kí kinh doanh tại Việt Nam tăng từ hơn 300 năm
2007 lên gần 500 doanh nghiệp năm 2010. Ngoài ra các doanh nghiệp còn chịu sự
cạnh tranh gay gắt từ các công ty dược nước ngoài được thành lập chi nhánh và
thực hiện các hoạt động xuất nhập khẩu dược phẩm theo lộ trình cam kết mở cửa
của WTO . Do vậy, áp lực cạnh tranh sẽ rất lớn.
• Tính đến năm 2013, mức tiêu thụ thuốc trên đầu người Việt mới chỉ là 36,79
USD/năm. con số này so với Trung Quốc là 63.64 USD và Hàn Quốc là 294.2
USD. Mức chi tiêu về thuốc theo đầu người tại Việt Nam được dự đoán có
thể tăng hơn gấp đôi vào năm 2015. Tăng trưởng này được thúc đẩy bởi sự
phát triển của xã hội và bởi sự mở rộng của hệ thống bảo hiểm y tế quốc gia.
Ngày nay, 65% trên 90 triệu người dân Việt Nam có bảo hiểm y tế . Đến năm
2020 , con số này có thể đạt 90% . Mức chi tiêu của người dân được kỳ vọng


sẽ tăng trong tương lai. Do vậy đây sẽ là một cơ hội cho ngành Dược phát
triển.
• Phân khúc thuốc Đông dược: chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng giá trị ngành

dược khoảng 0.5%- 1.5% giá trị sản xuất toàn ngành . Hiện có khoảng 80
doanh nghiệp sản xuất Đông dược trong đó có 5 doanh nghiệp đạt chuẩn
GMP-WHO và hơn 400 cơ sở sản xuất nhỏ không có đăng kí. Cạnh tranh cao
do có nhiều tương đồng về số mục sản phẩm và giá cả giữa các đơn vị.
• Phân khúc sản xuất Tây dược : gồm 100 doanh nghiệp sản xuất . Thuốc Tây
dược nội đại chủ yếu là thuốc kháng sinh và vitamin , thực phẩm chức
năng… chiếm 22% và 21% thị phần sản xuất thuốc trong nước. Cạnh tranh
trong 2 thị phần này phần lớn là cạnh tranh gián tiếp (do doanh nghiệp Việt
Nam chủ yếu sản xuất thuốc đã hết hạn bằng sáng chế) tuy nhiên thuốc nhập
khẩu còn có ưu thế hơn do tâm lý chuộng thuốc ngoại của người tiêu dùng.
• Cạnh tranh với các công ty nước ngoài và các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài. Có thể thấy áp lực cạnh tranh giữa các công ty trong nước và
nước ngoài là khá cao cho dù chính phủ đã có biện pháp khuyến khích.
Doanh số các công ty dược phẩm nội địa chiếm gần một nửa nhu cầu về thuốc
của Việt Nam trong năm 2012. Tuy nhiên, gần như tất cả những sản phẩm
này là các thuốc generic giá rẻ. Hơn 70% giá trị của thị trường là từ nhập
khẩu. Tất cả sản phẩm Dược công nghệ cao tại Việt Nam đều từ nhập khẩu.
 Như vậy trong cạnh tranh nội bộ ngành dược , không chỉ có sự cạnh tranh

giữa các công ty nội địa về cùng một loại sản phẩm mà còn có sự cạnh tranh
giữa Đông dược và Tây dược và khó khăn hơn cả là sự cạnh tranh với sự
ngày càng lớn mạnh của các công ty dược có vốn đầu tư nước ngoài . Chính
điều đó đã làm cho môi trường cạnh tranh trong ngành dược ngày càng
gay gắt. Do vậy sức hấp dẫn của ngành dược khi chịu tác động của các đối
thủ cạnh tranh trong ngành là kém hấp dẫn.
2.4. Quyền lực thương lượng của các nhà cung ứng và của khách hàng


Mối quan hệ của khách hàng và nhà cung ứng trong ngành dược của Việt Nam ảnh
hưởng đến việc tăng (giảm) giá thành và do đó làm giảm (tăng) khối lượng sản phẩm

được cung ứng (tiêu thụ). Khi các doanh nghiệp trong ngành dược có quyền lực trong các
điều khoản giao dịch, họ sẽ kiếm được lợi nhuận lớn hơn. Còn khi trong ngành dược có
nhiều nhà cung ứng và ít khách hàng, khách hàng thường có lợi hơn.
Trong thị trường dược Việt Nam, quyền lực thương lượng phụ thuộc vào các yếu
tố:
- Mức độ tập trung:
Ngành dược Việt Nam hiện có khoản 178 doanh nghiệp sản xuất thuốc, trong đó
có 100 công ty sản xuất tân dược và 78 doanh nghiệp sản xuất Đông dược, ngoài ra còn
khoảng 300 cơ sở sản xuất Đông dược và thực phẩm chức năng nhỏ lẻ. Đi đầu phải kể
đến 13 công ty dược phẩm đang ,niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Đó là:
Dược Hậu Giang, Imexpharm, Domesco, Dược Cửu Long,Pharmedic, S.P.M, Traphaco,
Dược OPC và Dược Phong Phú, cùng với 4 doanh nghiệp chuyên phân phối là
Vimedimex, Ladopharm, Dược Hà Tây và Dược Bến Tre. Bên cạnh đó còn có nhóm
doanh nghiệp vốn nước ngoài tiêu biểu như Sanofi Aventis hay United Pharma.
Trong các doanh nghiệp kể trên, những doanh nghiệp chiếm được thị phần lớn trên
thị trường dược Việt Nam có thể kể đến hai cái tên lớn: Dược Hậu Giang và Traphaco.
Ngoài ra Domesco cũng được xem là một nhà cung ứng tiềm năng khi cho thấy sự cải
thiện trong hiệu quả hoạt động và quản trị chi phí.


Dược Hậu Giang: là DN đầu ngành xét cả về quy mô vốn hóa lẫn khả năng
sinh lời. Trong suốt 5 năm qua, bình quân Dược Hậu Giang thu được 1 đồng
lợi nhuận trên mỗi 2 đồng doanh thu, nếu chưa trừ chi phí hoạt động. Biên lợi
nhuận ròng nằm trong nhóm cao nhất ngành (từ 18-20%), tỷ suất ROE (lợi

nhuận trên vốn chủ sở hữu) liên tục đạt trên 30%.
• Traphaco: là công ty Dược lớn thứ 2 trên thị trường hiện nay với doanh thu
đạt gần 1.700 tỷ đồng năm 2012. Tốc độ tăng trưởng bình quân lợi nhuận



trong 5 năm qua khoảng 10%, biên lợi nhuận ròng sau thuế cũng khoảng
10%. Mức ROE khoảng 26%.
• Domesco: là tập đoàn Dược phẩm nước ngoài nắm gần 46% sở hữu. Chỉ số
ROE khoảng 18%. Lợi nhuận sau thuế cũng có mức tăng ấn tượng 20%.
Với mức độ tập trung của ngành dược Việt Nam thì các doanh nghiệp như Dược
Hậu Giang, Traphaco hay Domestic chiếm lĩnh 1 thị phần lớn sẽ có quyền lực thương
lượng mạnh và khả năng tạo áp lực lên các doanh nghiệp khác lớn.
- Đặc điểm hàng hóa,dịch vụ:
Giá trị của hàng hóa, dịch vụ phụ thuộc rất lớn vào chất lượng của các bộ phận
được mua từ các nhà cung ứng. Đặc biệt là với sản phẩm đòi hỏi sự an toàn, chất lượng
tốt và sử dụng mang lại hiệu quả như thuốc hay các thực phẩm chức năng thì những
doanh nghiệp đáp ứng tốt yêu cầu của thị trường sẽ có quyền lực thương lượng cao.
Dược Hậu Giang tập trung vào nhóm sản phẩm kháng sinh, giảm đau và hô hấp
với chất lượng hợp lý và giá thành rẻ còn Traphaco lại tập trung vào nhóm sản phẩm thốc
Đông dược mang dáng dấp thực phẩm chức năng có nguồn gốc từ thiên nhiên như Hoạt
Huyết Dưỡng Não hay Bổ Gan Boganic. Cả hai đều đưa ra được những sản phẩm đáp
ứng được nhu cầu của người tiêu dùng và thực sự chiếm lĩnh được những phân khúc chủ
đạo trên thị trường Dược Việt Nam.
- Chuyên biệt hóa sản phẩm, dịch vụ:
Khả năng thay thế một sản phẩm bằng một sản phẩm khác càng khó thì quyền lực
của nhà cung ứng càng cao.
Đối với một nước có thu nhập bình quân đầu người còn thấp như Việt Nam thì
phần lớn người tiêu dùng đều ưu tiên những sản phẩm thuốc có chất lượng tốt đồng thời
giá cả hợp lý hơn là những sản phẩm chất lượng tốt nhưng giá thành cao như thuốc ngoại.
Ngoài ra việc sử dụng các sản phẩm có nguồn gốc từ thiên nhiên hay áp dụng các bài


thuốc dân gian cũng được người tiêu dùng quan tâm sử dụng. Bởi vậy, đáp ứng tốt nhu
cầu của khách hàng thì quyền lực của nhà cung ứng càng cao.
- Chi phí chuyển đổi nhà cung ứng:

Mức chi phí chuyển đổi nhà cung ứng càng cao thì khách hàng càng trung thành
với nhà cung ứng hiện tại.
Ví dụ: Nếu chi phí chuyển đổi các sản phẩm có nguồn gốc Đông dược đang dùng
hiện tại sang các sản phẩm dược của nước ngoài có giá thành cao hơn nhưng hiệu quả
không đáng kể thì khách hàng càng trung thành với nhà cung ứng hiện tại và quyền lực
của nhà cung ứng càng lớn và ngược lại.
- Khả năng tích hợp về phía sau (phía trước):
Mức chi phí hợp lý sẽ giúp doanh nghiệp giảm được giá thành của các sản phẩm
dược và tăng cường quyền lực thương lượng của doanh nghiệp với khách hàng và ngược
lại. Cũng như vậy đối với các khách hàng muốn tích hợp hóa về phía trước.
=> Từ những phân tích trên, ta đưa ra kết luận sau
Quyền lực thương lượng của nhà cung ứng
• Đối với thuốc tân dược: Sức
mạnh nhà cung cấp còn cao do
hầu hết các loại nguyên vật liệu
để bào chế thuốc trong nước
đều phải nhập khẩu từ nước
ngoài (90%). Do nước ta mới
chú trọng đầu tư vào mảng bào
chế thuốc và chủ yếu sản xuất
các loại thuốc thông thường,
chưa chú trọng đầu tư phát triển
nguồn nguyên liệu dược.
Do ngành dược phụ thuộc nhiều vào nước
ngoài, nên dễ gặp phải những áp lực từ
phía nhà cung cấp, như tăng giá nhập khẩu,
hay nạn làm thuốc giả, kém chất lượng.
- Đối với thuốc đông Dược: Nguyên vật

Quyền lực thương lượng của khách hàng

- Khách hàng nhỏ lẻ: là người tiêu dùng.
Người tiêu dùng tiêu thụ thuốc qua 2 kênh
chính là từ sự kê toa của bác sĩ ở các phòng
khám, trung tâm y tế và bệnh viện (22%),
hoặc mua lẻ ở các nhà thuốc bên ngoài
(78%). Sự tiêu dùng các loại thuốc hoàn
toàn phụ thuộc vào sự kê toa của các bác sĩ,
các dược sĩ, một phần do lĩnh vực đặc thù
nên người tiêu dùng không am hiểu về
thuốc cho nên chấp nhận mua các loại
thuốc và mức giá đã ấn định sẵn. Đồng
thời, thuốc là hàng hoá thiết yếu, là nhu cầu
cấp thiết đối với người bệnh mà không có
sản phẩm nào thay thế được, do đó người
mua không thể nào trả giá cho tính mạng
của mình. Chính vì vậy quyền lực thương


liệu được thu thập khá dễ dàng. Ví dụ như
Traphaco đã tận dụng cây đinh lăng để bào
chế thuốc Hoạt huyết dưỡng não. Do vậy
quyền lực thương lượng của nhà cung ứng
đối với thuốc Đông dược là thấp.

lượng của khách hàng nhỏ lẻ là thấp.
- Người tiêu dùng tổ chức: là các Bệnh
viện, phòng khám, trung tâm y tế, nhà
thuốc tư nhân. Những nơi này giống như
các đại lý, với số lượng thuốc mua vào lớn
để phân phối lại cho các nhà tiêu dùng nhỏ

lẻ. Bên cạnh đó, còn do một phần lớn hậu
đãi của những công ty dược nên nguồn đầu
ra của các DN sản xuất thuốc thường nhắm
vào những kênh phân phối này. Do những
yếu tố trên mà khả năng mặc cả của những
nhà tiêu dùng có tổ chức này lớn hơn hẳn,
và cũng là vị khách hàng mà các công ty
dược hết sức ưu đãi.
KL: Vậy, với mỗi đối tượng khách hàng hoặc nhà cung ứng khác nhau thì lại có quyền
lực thương lượng là khác nhau. Do vậy yếu tố quyền lực thương lượng của khách hàng
và nhà cung ứng chưa nói lên được về tính hấp dẫn của ngành Dược Việt Nam.

2.5. Quyền lực tương ứng của các bên liên quan khác
- Cổ đông: Lợi nhuận thu về lớn, giá cổ phiếu tăng sẽ giúp củng cố niềm tin cho các cổ
đông và ngược lại.
Ví dụ: trung bình trong 3 năm qua, trên mỗi 100 đồng tài sản, Dược Hậu Giang tạo
ra tới hơn 20 đồng lợi nhuận cho cổ đông. Báo cáo thường niên của Dược Hậu Giang
luôn đạt giải tốt nhất trên sán chứng khoán. Điều này đã củng cố niềm tin cho nhà đầu tư
về một công ty dẫn đầu ngành dược với hiệu quả kinh doanh ấn tượng để họ tiếp tục đầu
tư cho Dược Hậu Giang.
- Công đoàn: tiền lương ổn định, có cơ hội thăng tiến, điều kiện làm việc tốt sẽ tạo điều
kiện để họ gắn bó lâu dài với doanh nghiệp, nỗ lực hơn trong công việc. Tại Công ty
Dược Hậu Giang, bộ máy quản trị được đánh giá là minh bạch và hiệu quả.
- Chính phủ: chính phủ củng cố các Quy định và Luật , hỗ trợ và tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp trong và ngoài nước đặc biệt là các doanh nghiệp hợp tác với tập đoàn


dược phẩm lớn của thế giới như Domesco, Imexpharm,… sẽ tạo cơ hội để ngành dược
Việt Nam ngày càng phát triển.
- Các tổ chức tín dụng: các doanh nhiệp hợp tác, trung thành với các điều khoản giao ước

sẽ giúp hai bên đạt được lợi ích mong muốn và ngược lại.
- Các hiệp hội thương mại: tham gia vào các chương trình của Hội sẽ giúp mở rộng cơ
hội về hợp tác đầu tư, lực lượng lao động,... tuy nhiên cũng mang lại những thách thức
như: năng lực cạnh tranh,…
- Dân chúng: tạo cơ hội việc làm cho dân địa phương, đóng góp vào sự phát triển của xã
hội…
- Các nhóm quan tâm đặc biệt: đóng góp cải thiện thành thị.
KẾT LUẬN: Từ việc phân tích các lực lượng cạnh tranh trên, ta thấy có 3 lực lượng làm
cho ngành Dược Việt Nam giảm tính hấp dẫn do các lực lượng đó làm cường độ cạnh
tranh trong ngành tăng lên khá cao. Chính vì vậy, chung quy lại ngành Dược Việt Nam
có tính hấp dẫn thấp.
4. Giải pháp

Mục tiêu chung của ngành dược Việt Nam hiện nay là: Cung ứng đầy đủ, kịp thời,
có chất lượng, giá hợp lý các loại thuốc theo cơ cấu bệnh tật tương ứng với từng giai
đoạn phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm sử dụng thuốc an toàn, hợp lý. Chú trọng
cung ứng thuốc cho đối tượng thuộc diện chính sách xã hội, đồng bào dân tộc thiểu số,
người nghèo, vùng sâu, vùng xa.
Mục tiêu định hướng của ngành dược Việt Nam trong tương lai: Thuốc sản xuất
trong nước cơ bản đáp ứng nhu cầu sử dụng, sản xuất được thuốc chuyên khoa đặc trị,
chủ động sản xuất vắc xin, sinh phẩm cho phòng chống dịch bệnh, sản xuất được nguyên
liệu làm thuốc. Hệ thống kiểm nghiệm, phân phối thuốc, công tác dược lâm sàng, thông
tin thuốc ngang bằng các nước tiên tiến trong khu vực.


Các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện chiến lược của ngành dược:
1. Giải pháp về xây dựng pháp luật, cơ chế chính sách: sửa đổi, bổ sung Luật
dược; ban hành chính sách ưu đãi đối với việc sản xuất, cung ứng và sử dụng thuốc
generic, thuốc chuyên khoa đặc trị, thuốc có dạng bào chế đặc biệt, vắc xin, sinh phẩm;
ban hành chính sách ưu đãi cho việc nghiên cứu, sản xuất thuốc có nguồn gốc từ dược

liệu Việt Nam mang thương hiệu quốc gia.
2. Giải pháp về quy hoạch: Quy hoạch nền công nghiệp dược theo hướng phát
triển công nghiệp bào chế, hóa dược, vắc xin, sinh phẩm y tế, ưu tiên thực hiện các biện
pháp sáp nhập, mua bán, mở rộng quy mô để nâng cao tính cạnh tranh; quy hoạch hệ
thống phân phối thuốc theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại và hiệu quả; quy hoạch phát
triển dược liệu theo hướng sản xuất hàng hóa quy mô lớn, phát triển vùng nuôi trồng cây,
con làm thuốc, bảo hộ, bảo tồn nguồn gen và phát triển những loài dược liệu quý hiếm,
đặc hữu;…
3. Giải pháp về thanh tra, kiểm tra và hoàn thiện tổ chức
4. Giải pháp về đầu tư: Đẩy mạnh huy động các tổ chức, cá nhân trong và ngoài
nước đầu tư để phát triển ngành dược; Nhà nước đầu tư, hỗ trợ phát triển hệ thống cung
ứng thuốc cho các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào
dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; khuyến khích đầu tư theo hình
thức hỗn hợp công tư (PPP) đối với dự án xây dựng nâng cấp, xây mới cơ sở nghiên cứu
dược; đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư đối với dự án có sử dụng đất để xây dựng nhà máy,
khu công nghiệp dược.
5. Giải pháp về hợp tác và hội nhập quốc tế: Tranh thủ nguồn lực, kinh nghiệm,
năng lực quản lý của các nước, Tổ chức y tế thế giới (WHO) và các tổ chức quốc tế để
phát triển ngành Dược Việt Nam; tăng cường hợp tác với các nước là bạn hàng truyền
thống của Việt Nam và các nước có nền công nghiệp dược phát triển.

Câu 2: Những yếu tố thành công cốt lõi


1. Sự hấp dẫn các nhà đầu tư

Thị trường Việt Nam 90 triệu dân với mức thu nhập bình quân đầu người đạt gần
1.900USD/năm, trong khi mức tiêu thu cho dược phẩm mới chỉ khoảng 35
USD/năm đang là một bệ phóng rất lớn cho ngành dược Việt Nam.
Ngày nay nhận thức của người dân Việt Nam về các loại dịch bệnh cũng được cải

thiện rõ rệt trong thời gian gần đây.Trong khi đó thị trường nội địa còn chưa được
khai thác hết mà đó nhu cầu chi tiêu cho sản phẩm dược ngày càng tăng cao. Hơn
thế nữa, người tiêu dùng Việt Nam có mức sống ngày càng được nâng cao, tình
trạng sức khỏe lại càng được quan tâm vì vậy nhu cầu dùng thuốc để đảm bào sức
khỏe lại càng được chú trọng.
Ta có thể thấy rõ nét qua kết quả kinh doanh mà 2 doanh nghiệp dược đã đạt được
để thấy rõ được nhu cầu tiêu thu dược phẩm:
Công ty Dược Hậu Giang có tỉ suất ROE (lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu) của
công ty liên tục trên 30% trong vòng năm 5. Dữ liệu lịch sử cho thấy, trung bình
trong 3 năm qua, trên mỗi 100 đồng tài sản Dược Hậu Giang có thể tạo ra tới 20
đồng lợi nhuận cho cổ đông.
Hay Dược Traphaco chỉ trong vòng 5 năm doanh thu đã tăng gấp 2 lần đạt gần
1.700 tỉ đồng. Mức ROE luôn duy trì ổn định trong 3 năm trở lại đây là 25%.
Qua số liệu trên ta có thể thấy được sản phẩm dược luôn chiếm nhu cầu cao đối
với đời sống của con người. Vì vậy Ngành dược Việt Nam có rất nhiều thuận lợi
để phát triển và có sự thu hút, hấp dẫn mạnh mẽ đối với các nhà đầu tư.
2. Kênh phân phối mở rộng
Mở rộng hệ thống, thay đổi chiến lược phân phối đang được các doanh nghiệp
ngành được đẩy mạnh, nhằm tăng tỷ trọng doanh thu trên kênh OTC đồng thời
tạo lợi thế cạnh tranh so với doanh nghiệp FDI, các doanh nghiệp này được quyền
phân phối trực tiếp dược phẩm tại Việt Nam
o Doanh nghiệp dẫn đầu ngành về hệ thống phân phối hiện nay là Công ty cổ
phần Hậu Giang với 1200 nhân viên kinh doanh, 12 công ty con bán hàng,
o

24 chi nhánh, 68 hiệu thuốc và hơn 22000 khách hàng trên cả nước.
Đứng thứ 2 là hệ thống phân phối trong nước là Công ty Cổ phần Traphaco
cũng đang có bước đổi mới trong cách thức bán hàng. Traphaco đã thay đổi
chính sách chiết khấu, trong đó người bán hàng phải cam kết không bán



dưới giá sàn mới được nhận ưu đãi riêng và các đại lý phải thanh toán tiền
mới được nhận hoa hồng. Nhờ đó Traphaco đã và đang sàng lọc toàn bộ
mạng lưới bán hàng hiện hữu một cách hiệu quả.
Bên cạnh đó việc mở rộng và nâng cao chất lượng các cửa hàng, đại lý hiện hữu,
một số doanh nghiệp ngành được dược phẩm đang tăng cường các thương vụ
M&A với các tỉnh, nhằm khai thác hệ thống phân phối, bán hàng, đồng thời tạo
dựng các mối liên quan hệ với các cơ sở y tế mà các đơn vị này đã thiết lập và xây
dựng đến tận tuyến huyện, xã.
3. Bao phủ thị trường, chiếm lĩnh được từng phân khúc chỉ đạo

Dược Hậu Giang và Traphaco là “bá chủ thị trường” với những sản phẩm đặc
trưng và thực sự chiếm lĩnh được những phân khúc chủ đạo. Nếu như ở phía Nam,
Dược Hậu Giang là bá chủ thì Traphaco lại thống lĩnh thị trường miền Bắc. Trong
khi Dược Hậu Giang chọn nhắm vào nhóm sản phẩm kháng sinh, giảm đau và hô
hấp với chất lượng hợp lý và giá thành rẻ hơn nhiều so với thuốc ngoại thì Traphaco
lại tập chung vào nhóm các sản phẩm mang dáng dấp của thực phẩm chức năng có
nguồn gốc thiên nhiên.
Tận dụng được nguồn nguyên liệu cây đinh lăng sẵn có, nhà máy dược phẩm công
nghệ cao Traphaco CNC đã cho ra đời Hoạt Huyết Dưỡng Não, mang dấu ấn của
một bài thuốc cổ truyền trị các chứng đau đầu, giảm trí nhớ rất hay gặp ở người
trung niên. Tương tự, Boganic là một sản phẩm giúp giải độc gan cho người uống
nhiều bia rượu đã trở nên rất thành công ở Việt Nam, một quốc gia có lượng tiêu thụ
bia trên đầu người vào loại cao nhất châu Á.
4. Mức giá cạnh tranh, lợi nhuận cao

Bất chấp việc phải đầu tư nhiều cho chi phí bán hàng và marketing, lợi
nhuận ròng của Dược Hậu Giang vẫn nằm trong nhóm cao nhất ngành( từ 1820%). Lợi nhuận cao cho phép công ty có dòng tiền ổn định và dồi dào để đầu tư.
Hoạt động kinh doanh hiệu quả của Dược Hậu Giang còn được phản ánh rõ
nét qua tỉ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu và tỉ lệ lợi nhuận thu được trên mỗi



đồng tài sản. Không cần sử dụng nhiều đòn bẩy, tỉ suất ROE( lợi nhuận trên vốn
chủ sở hữu) của công ty này liên lục trên 30% trong vòng 5 năm qua. Đó là kết
quả của một biên lợi nhuận ấn tượng cùng với mức thu nhập cao trên mỗi đồng tài
sản, Dược Hậu Giang có thể tạo được tới hơn 20 đồng lợi nhuận cho cổ đông.
Xét về mặt tăng trưởng và hiệu quả hoạt động, Traphaco cũng không thua
kém gì Dược Hậu Giang. Thực tế, tốc đọ tăng trưởng bình quân lợi nhuận trong 5
năm qua của Traphaco là cao nhất ngành, đạt khoảng 35%. Chiến lược gia tăng tỉ
trọng cuản hàng tự sản xuất với lợi nhuận hấp dẫn là thực sự hiêu quả khi hiện đạt
khoảng 10%.
Mức ROE khoảng 26% vào năm ngoái của Traphaco vẫn vô cùng hấp dẫn.
Điều này được khẳng định khi Traphaco được công ty chứng khoán TVS đánh giá
là một trong 50 công ty kinh doanh hiệu quả nhất thị trường.
Domesco thể hiện vai trò của người dẫn dắt thị trường ở góc độ hợp tác với
cổ đông chiến lược nước ngoài. Hiện công ty có lượng cổ phần niêm yết lớn nhất
hiện nay có cổ đông chiến lược là một tập đoàn dược phẩm nước ngoài nắm gần
46% sở hữu. Theo đó, Domesco được dự báo sẽ là nhà sản xuất chính cho tập
đoàn dược phẩm CFR Pharmaceutical SA đến từ Chile.

5. Tăng cường nhận thức cho khách hàng.
- Mức tăng trưởng thu nhập của người dân đã góp phần đáng kể trong việc chi tiêu y tế
của toàn khu vực. Nếu như trước đây cuộc sống khó khăn, người dân lo tới cái ăn cái mặc
thì khi cuộc sống ổn định, thu nhập tăng, họ chú trọng tới sức khỏe của mình, ý thức
được sức khỏe là quan trọng,
- Việc mở các hội thảo về sức khỏe, tư vấn sức khỏe cộng đồng nhằm thúc đẩy nhu cầu
tiêu dùng của người dân, để người tiêu dùng thấy được rằng việc sử dụng thuốc không
chỉ để chữa bệnh như nhu cầu thiết yếu mà các loại thuốc còn có tác dụng bồi bổ sức
khỏe như vitamin hay các loại tăng cường sức khỏe,.. Khi dân số Việt Nam đang tăng
trưởng khá nhanh với gia tăng thu nhập đã thúc đẩy chi tiêu cho dược phẩm, thúc đẩy sự

phát triển ngành dược phẩm của Việt Nam.


6. Tính cạnh tranh của thị trường dược cao
- Thị trường dược Việt Nam được đánh giá là thị trường có tính cạnh tranh cao với các
nhà đầu tư trong nước cũng như nước ngoài, bởi nhu cầu khám chữa bệnh cũng như chi
phí bình quân tiền thuốc/ đầu người/ năm ngày càng tăng cao.
- Với cơ cấu dân số hơn 90 triệu dân, mỗi năm trung bình tăng 1 triệu người, mô hình
bệnh tật thay đổi, nhu cầu chăm sóc sức khỏe tăng cao, mức sống cải thiện, điều kiện tiếp
cận dịch vụ y tế được cải thiện, cơ chế chính sách thoáng hơn, thị tr ường dược Việt Nam
đang là điểm nóng trong khu vực.
- Tính trong năm 2012 có khoảng hơn 100 công ty dược phẩm tại Việt Nam, gần 10%
trong số đó có vốn đầu tư nước ngoài, 4% khác hoạt động dưới hình thức liên . Dẫn đến
sự cạnh tranh giữa doanh nghiệp trong và ngoài nước, như một số công ty Dược Hậu
Giang, Traphaco,công ty hợp tác với khối ngoại như Domesco, Imexpharm... Khi số
lượng doanh nghiệp đông và quy mô tương đương thì áp lực cạnh tranh trong ngành tăng
cao.
- Với nhu cầu tiêu dùng lớn, lượng nhà cung ứng đa dạng đòi hỏi các công ty phải có tầm
nhìn về sản xuất sản phẩm phù hợp, có chiến lược marketing, đồng thời cung cấp sản
phẩm có giá thành hợp lý, chất lượng tốt, xây dựng thương hiệu uy tín để thu hút khách
hàng.
7 . Trình độ khoa học, kỹ thuật
Từ giữa những năm 1990 cho tới nay, nhờ thay đổi cơ chế quản lí và tác dộng tích cực
của cơ chế thị trường, nền công nghiệp dược Việt Nam có những bước tiến vượt bậc.
hàng loạt các dây chuyển sản xuất thuốc với công nghệ hiện đại đã được đầu tư. Đến
tháng 6/2011 đã có 103 nhà máy sản xuất dược phẩm đạy GMP-WHO trong đó có một
vài nhà máy đạt tiêu chuẩn GMP châu Âu, GMP Nhật Bản sản xuất 919 triệu USD dược
phẩm ( số liệu đến tháng 12 năm 2010) những con số này chứng minh cho chất lượng
thuốc nội bởi khi đạt chuẩn GMP nghĩa là thuốc sản xuất trong nước đạt tiêu chuẩn khu



vực và quốc tế từ nguyên liệu đầu vào, dây chuyền sản xuất, hệ thống kiểm nghiệm, kho
bãi, khâu thực hành và phân phối thuốc tốt.
Sau hơn 15 năm áp dụng GMP, hiện nay công nghệ bào chế dược phẩm Việt Nam đang
tỏ ra có lợi thế cạnh tranh tương đối trong khu vực. nhiều tập đoàn đa quốc gia đang
nhắm tới các nhà máy dược phẩm Việt Nam để tìm kiếm khả năng hợp tác trong lĩnh vực
bào chế phù hợp với chiến lược chuyển công nghiệp bào chế sang châu Á có nhiều lợi thế
cạnh tranh (khả năng hấp thụ công nghệ, đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại với chi
phí rẻ hơn phương tây, nhân lực có trình độ thích hợp nhưng chi phí rẻ tương đối so với
chi phí nhân lực ở phương tây).
Dược Hậu Giang, công ty dược lớn nhất Việt Nam, đã hoàn thành việc xây dựng nhà
máy sản xuất dược phẩm mới để tăng gấp đôi công suất thiết kế lên hơn 9 tỷ đơn vị sản
phẩm một năm. Cùng lúc đó, Imexpharm, một công ty dược có hệ thống nhà máy vào
loại hiện đại nhất nước, cũng đã xây xong nhà máy thuốc tiêm penicillin mới tại tỉnh
Bình Dương. Những động thái tăng tốc mở rộng quy mô gần đây của các công ty dược
Việt Nam đang cho thấy những bước khơi động kĩ càng trước cuộc đua sắp tới.
Mua lại những công ty thiết bị y tế tại các tỉnh thành trọng điểm như Thái Nguyên ở các
khu vực phía Bắc, Đăk Lắc ở khu vực Tây Nguyên hay Quảng Trị ở khu vực Trung
Trung Bộ, Traphaco đang thể hiện tham vọng thiết lập một mạng lưới phân phôi rộng
khắp cả nước, tạo đòn bấy để gia tăng vị thế trong ngành.
8. Sự hậu thuẫn của nhà nước, chính phủ.
Ngành dược trong nước còn được hậu thuẫn bởi chính phủ đã phê duyệt chiến lược phát
triển ngành dược theo hướng nâng tỷ lệ sản xuất thuốc trong nước từ 50% tổng giá trị
như hiện nay lên 80% đến năm 2020. Mặc dù thuốc nội chiếm khoảng 40-50% số lượng
thuốc dùng tại các bệnh viện nhưng chi phí rẻ hơn rất nhiều mà hiệu quả điều trị vẫn cao
và người dùng thay đổi quan niệm về thuốc nội.


Câu 3: Các doanh nghiệp ngành dược Việt Nam có thể phân chia thành những
nhóm chiến lược nào? Tại sao?


 Dựa vào loại sản phẩm có thể chia thành nhóm chiến lược sau:

Chuyên về Tân Dược
1. Công ty cổ phần dược

Chuyên về Đông dược
1. Công

1. Công

2.

2.

Hậu Giang
2. Công ty cổ phần xuất

3.
4.
5.
6.
7.

nhập
khẩu
Y
tế
DEMESCO
Công ty cổ phần dược

phẩm IMEXPHARM
Công ty cổ phần hóa dược
phẩm Mekophar
Công
ty
cổ
phần
PYMEPHARCO
Công ty cổ phần dược vật
tư y tế Hải Dương
Công ty cổ phần dược
phẩm Nam Hà



3.
4.
5.
6.
7.

ty cổ phần
TRAPHACO
Công ty cổ phần dược
OPC
Công ty đông dược
Thuận Thiên Hải
Công ty đông dược
Đông Hải
Công ty đông dược

Xuân Quang
Công ty đông dược
Bình Đông
Công ty đông dược Lâm
Vĩnh Sanh

Chuyên về các sản phẩm chức
năng

3.
4.
5.
6.
7.

ty cổ phần
VIMEDIMEX
Công ty cổ phần dược
Hà Tây
Công ty cổ phần dược
Bến Tre
Công ty cổ phần chức
năng IMC
Công ty thực phẩm chức
năng Cường Dương
Công ty thực phẩm chức
năng An Khánh
Công ty thực phẩm chức
năng Vision


Nhóm thuốc Tân dược: bán giá rất cao, cần phải chữa trị khỏi bệnh trong thời

gian ngắn như sốt, hắt hơi,cảm cúm….
• Nhóm thuốc Đông dược: bán giá trung bình, chữa các bệnh mã tính liên quan
đến hằng ngày như lao động nặng nhọc, làm việc trong môi trường không
đảm bảo và sử dụng trong thời gian lâu dài
• Nhóm thực phẩm chức năng: giá bán cao, sản phẩm này không phải là thuốc
và chỉ có tác dụng hỗ trợ điều trị, thời gian sử dụng tùy sản phẩm.
 Dựa vào 2 nhân tố giá và chi phí R&D, ta có thể chia nhóm chiến lược trong

ngành dược Việt Nam như sau:
Nhóm dược phẩm tiêu dùng trong nước

Nhóm dược phẩm tiêu dùng nước ngoài


1. Công ty cổ phần dược phẩm Hậu

1. Công ty cô phần xuất nhập khẩu y tế

Giang
2. Công ty cổ phần TRAPHACO
3. Công ty cổ phần dược phẩm Cửu
Long
4. Công ty cổ phẩm dược phẩm Phong
Phú

Demesco
2. Công ty cổ phần dược phẩm
IMEXPHARM

3. Công ty cổ phần PYMEPHARCO



Nhóm dược phẩm trong nước: Nhóm chiến lược này đầu tư phát triển mạnh
thị phần trong nước, chính vì thế các công ty trong nhóm này R&D thấp và
nhấn mạnh vào cạnh tranh giá. Họ theo đuổi chiến lược rủi ro thấp , rủi ro
thấp vì không đầu tư hàng triệu USD vào R&D. Hơn nữa, nguyên nhiên liệu
để sản xuất không quá khó để tìm kiếm hay chế biến, chủ yếu là có sẵn nên

giá thành của nhóm này thấp.
• Nhóm dược phẩm ngoài nước: Đây là nhóm chiến lược mà các công ty
trong nhóm này đều liên kết, hợp tác , có cổ đông lớn là nước ngoài. Các
công ty trong nhóm này đang theo đuổi các chiến lược rủi ro cao/ thu nhập
cao. Gọi là rủi ro cao bởi vì nghiên cứu thuốc cơ bản là rất khó khăn và tốn
kém. Để đưa ra thị trường một loại thuốc mới có thế tốn từ 100-300 triệu
USD cho R&D với gần một thập kỉ để nghiên cứu và thử nghiệm lâm sàng.
Chiến lược cũng có thu nhập cao bởi vì chỉ cần một thành công có thể được
cấp bản quyền, cho phép người phát minh thời gian độc quyền 17 năm về
sản xuất cà bán sản phẩm đó. Điều này để người thuyết minh đặt giá rất cao
đối với thuốc có bản quyền và cho phép công ty có thu nhập hàng triệu thâm
chí là hàng tỉ USD trong suốt thời gian giữ bản quyền.



×