Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Tiểu luận hành vi cạnh tranh không lành mạnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.42 KB, 12 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Kinh tế thị trường được xem là một trong những phát minh vĩ đại nhất
trong lịch sử phát triển của văn minh nhân loại. Cho đến nay chúng ta không thể
tìm ra được kiểu tổ chức kinh tế nào có hiệu quả hơn kinh tế thị trường vì nó
luôn hàm chứa trong mình những thách thức đối với sự nhạy bén và sáng tạo của
con người thông qua môi trường cạnh tranh. Cạnh tranh là một động lực thúc
đẩy sự phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên nếu cạnh tranh quá gay gắt sẽ dẫn
đến cạnh tranh không lành mạnh.
Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp đã và sẽ
xâm hại quyền tự do kinh doanh, gây hậu quả xấu cho môi trường kinh doanh,
cho các doanh nghiệp làm ăn chân chính và cho người tiêu dùng. Cơ chế thị
trường cũng đặt ra nhu cầu phải thiết lập và duy trì một môi trường cạnh tranh
công bằng và bình đẳng cho các chủ thể kinh doanh.
Vì vậy vấn đề chống cạnh tranh không lành mạnh luôn là vấn đề được
Đảng, Nhà nước và cả xã hội quan tâm. Việc xây dựng chế định pháp lý về cạnh
tranh, đặc biệt là chống cạnh tranh không lành mạnh đã được các nhà nghiên
cứu, lập pháp chú ý nhằm cải thiện môi trường pháp lý, khuyến khích hơn nữa
các hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh của các chủ thể kinh tế trong và ngoài
nước. Tuy nhiên trước một nền kinh tế đang trên đà phát triển mạnh mẽ như
hiện nay, sự vận động của các quan hệ kinh tế ngày càng phong phú và đa dạng
dẫn đến quy mô cũng như mức độ cạnh tranh ngày càng tăng, những hành vi
cạnh tranh không lành mạnh xuất hiện ngày càng nhiều với những thủ đoạn
ngày càng tinh vi. Trong khi đó việc thực thi pháp luật cạnh tranh còn chưa thực
sự có hiệu quả, Cơ quan quản lý cạnh tranh còn chưa phát huy hết vai trò của
mình trong việc chống lại các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Hơn nữa
trong môi trường toàn cầu hóa, công nghệ thông tin phát triển vượt bậc, việc tận
dụng điều kiện đó thông qua hình thức quảng cáo để cạnh tranh không lành
mạnh đang ngày càng phổ biến.
1



Do đó, việc đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu về hành vi cạnh tranh không
lành mạnh mà đặc biệt là hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
luôn là vấn đề vô cùng cấp thiết.

2


NỘI DUNG
1. Lý luận chung về cạnh tranh, hành vi cạnh tranh không lành mạnh
1.1. Khái niệm cạnh tranh
Cạnh tranh là sự chạy đua giữa hai hay nhiều đối thủ. Cạnh tranh trong
nền kinh tế về bản chất được hiểu là sự chạy đua giữa các doanh nghiệp trên thị
trường nhằm không ngừng tung ra thị trường những sản phẩm và dịch vụ tốt
nhất với giá cả thấp nhất nhằm lôi kéo khách hàng về phía mình. Với mục đích
tối ưu hóa lợi nhuận của các doanh nghiệp, cạnh tranh đã thúc đẩy quá trình tích
tụ và tập trung tư bản diễn ra không đều ở các ngành, các lĩnh vực kinh tế khác
nhau. Đây là tiền đề vật chất cho sự hình thành các hình thái cạnh tranh không
lành mạnh. Cạnh tranh còn là môi trường đào thải các nhà kinh doanh không
thích nghi được với các điều kiện của thị trường.
Về các hình thức cạnh tranh: Dựa vào tính chất của thủ đoạn cạnh tranh
và ảnh hưởng của nó, cạnh tranh được chia thành cạnh tranh lành mạnh và cạnh
tranh không lành mạnh; Dựa vào mức độ tác động của Nhà nước đối với cạnh
tranh, cạnh tranh được chia thành cạnh tranh tự do và cạnh tranh có sự điều tiết
của Nhà nước; Dưới góc độ cạnh tranh hoàn hảo, cạnh tranh được chia thành
cạnh tranh hoàn hảo, cạnh tranh không hoàn hảo và độc quyền.
Cạnh tranh có vai trò cực kỳ quan trọng đối với sự phát triển kinh tế.
Thứ nhất, nó điều chỉnh quan hệ cung cầu trên cơ sở quyền tự do lựa chọn của
người tiêu dùng. Trong môi trường cạnh tranh khó có thể bóc lột người tiêu
dùng vì luôn có một đối thủ khác chào bán sản phẩm với giá tốt hơn. Thứ hai,
đảm bảo đáp ứng thị hiếu và nhu cầu của người tiêu dùng. Thứ ba, cạnh tranh

tạo sức ép, buộc các doanh nghiệp phải phân bổ nguồn lực xã hội một cách có
hiệu quả, là động lực bên trong thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Thứ tư, tạo điều
kiện thuận lợi cho sản xuất thích ứng hàng loạt với sự biến động của nhu cầu xã
3


hội và đổi mới công nghệ. Thứ năm, tạo cơ sở hình thành phương thức hợp lý và
công bằng cho quá trình phân phối lại trong xã hội. Thứ sáu, thúc đẩy quá trình
đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm và đổi mới tổ chức nền kinh tế. Thứ bảy,
là môi trường đào thải các nhà sản xuất, kinh doanh không thích nghi được với
điều kiện của thị trường. Thứ tam, giúp tạo sự đổi mới chung, thường xuyên và
liên tục vì vậy mang lại sự tăng trưởng kinh tế chung cho toàn xã hội.
Tuy nhiên bên cạnh có cạnh tranh cũng có những tác động tiêu cực, thể
hiện ở xu hướng phân hóa các doanh nghiệp, phân hóa giàu nghèo, gây ra tình
trạng phá sản, nạn thất nghiệp, gây mất ổn định về mặt xã hội, tạo sức ép lớn đối
với chính sách kinh tế và chính sách xã hội của mỗi quốc gia. Cạnh tranh không
lành mạnh càng tạo ra nhiều hậu quả tiêu cực đối với người tiêu dùng và với chủ
thể tham gia cạnh tranh.
1.2. Khái niệm cạnh tranh không lành mạnh
Xét ở góc độ khái quát, cạnh tranh không lành mạnh là những hành vi
cạnh tranh đi ngược lại với các nguyên tắc xã hội, tập quán và truyền thống kinh
doanh, xâm phạm lợi ích của các nhà kinh doanh khác, lợi ích của người tiêu
dùng và lợi ích của toàn xã hội.1
Có thể nói hành vi cạnh tranh không lành mạnh là những hành vi cụ thể,
đơn phương vì mục đích cạnh tranh của chủ thể kinh doanh luôn thể hiện tính
không lành mạnh (chứ không phải là bất hợp pháp) mà mục tiêu của nó là gây ra
cho một hay các đối thủ cạnh tranh sự bất lợi hay thiệt hại trong hoạt động kinh
doanh.2
Khoản 4 Điều 3 Luật Cạnh tranh năm 2004 quy định: “Hành vi cạnh
tranh không lành mạnh là hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình

kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây
1

Đặng Vũ Huân, Pháp luật về kiểm soát độc quyền và chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam, Nhà xuất
bản chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.
2

Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp luật, Cạnh tranh và xây dựng pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay,
Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội, 2001.

4


thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng.”
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh có những đặc điểm biểu hiện chính
như sau: Thứ nhất, chủ thể thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh là các
chủ thể tham gia trên thị trường thuộc mọi thành phần kinh tế dù có thuộc doanh
nghiệp hay không. Dẫn đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh xảy ra trong
mọi ngành, mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, mọi công đoạn của quá trình sản
xuất kinh doanh. Thứ hai, hành vi cạnh tranh không lành mạnh trái với các
chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh. Việc xác định hành vi nào là
cạnh tranh không lành mạnh dựa trên hai căn cứ chính đó là căn cứ vào luật định
và căn cứ vào tập quán kinh doanh thông thường đã được thừa nhận rộng rãi
trong đời sống của thị trường. Thứ ba, hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây
thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp
và người tiêu dùng.
Việc xác định hành vi nào là hành vi cạnh tranh không lành mạnh là một
vấn đề rất quan trọng về mặt chính sách. Về nguyên tắc, ngoài các quy định
được nêu ra trong Công ước Paris năm 1883, các quốc gia tùy từng điều kiện,

hoàn cảnh, nhu cầu cụ thể của nước mình mà xác định hành vi nào là hành vi
cạnh tranh không lành mạnh.
Luật Cạnh tranh năm 2004 điều chỉnh hầu như toàn diện các hành vi
cạnh tranh không lành mạnh. Điều 39 Luật Cạnh tranh năm 2004 quy định 10
hành vi sau là hành vi cạnh tranh không lành mạnh:
“1. Chỉ dẫn gây nhầm lẫn;
2. Xâm phạm bí mật kinh doanh;
3. Ép buộc trong kinh doanh;
4. Gièm pha doanh nghiệp khác;
5. Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác;
6. Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh;
5


7. Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh;
8. Phân biệt đối xử của hiệp hội;
9. Bán hàng đa cấp bất chính;
10. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác theo tiêu chí xác
định tại khoản 4 Điều 3 của Luật này do Chính phủ quy định.”
Như vậy Luật Cạnh tranh năm 2004 xác định quảng cáo nhằm cạnh
tranh không lành mạnh là một hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Quảng cáo
đưa thông tin sai lệch về dữ liệu của hàng hóa và phương thức điều kiện thương
mại là một trong những hành vi cạnh tranh không lành mạnh mang tính phổ biến
nhất. Hiện nay ở Việt Nam hành vi này diễn ra khá mạnh dưới nhiều hình thức
và góc độ khác nhau. Doanh nghiệp có quyền quảng cáo để giới thiệu, khuếch
trương về hàng hóa hay dịch vụ của mình. Với bản chất là quá trình thông tin có
ý nghĩa lớn trong định hướng hành vi mua sắm và sử dụng dịch vụ của khách
hàng, quảng cáo là phương pháp quan trọng giúp doanh nghiệp quảng bá sản
phẩm của mình, cạnh tranh giành thị phần trên thị trường. Để đạt được mục tiêu
này ở mức độ tối đa, một số doanh nghiệp có thể thực hiện hành vi quảng cáo

không trung thực như so sánh hàng hóa dịch vụ của mình với hàng hóa dịch vụ
của doanh nghiệp khác, sử dụng những sản phẩm quảng cáo hoặc những thông
tin có thể gây nhầm lẫn cho khách hàng… Những hành vi quảng cáo như vậy
đều được cho là hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Điều 45 Luật Cạnh tranh năm 2004 quy định cấm doanh nghiệp thực
hiện hoạt động quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh. Có thể nhận thấy
rằng điều khoản này là tương đối rõ ràng nhưng riêng với khoản 3 (Đưa thôn tin
gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng về một trong các nội dung sau đây)
có sự trùng lặp với Điều 40 (Chỉ dẫn nhầm lẫn). Thêm vào đó khoản 4 (Các hoạt
động quảng cáo khác mà pháp luật có quy định cấm) còn chưa liệt kê được rõ
ràng là các hoạt động quảng cáo khác mà pháp luật cấm là các hoạt động nào.
2. Thực trạng hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
6


Không thể phủ nhận được các lợi ích của quảng cáo, các doanh nghiệp
cần quảng cáo để đưa sản phẩm thâm nhập thị trường còn người tiêu dùng thì có
thêm nhiều thông tin hơn trước khi mua bán hoặc sử dụng hàng hóa, dịch vụ.
Tuy nhiên với sự xuất hiện tràn lan trên các phương tiện thông tin đại chúng như
hiện nay, quảng cáo có nhiều biến tướng, đôi khi quảng cáo trở thành phương
tiện để các doanh nghiệp thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh cũng
như xâm hại đến lợi ích của người tiêu dùng.
Nói đến ngành quảng cáo Việt Nam, chúng ta thường nghĩ ngay đến một
thực tế về sự yếu thế của các doanh nghiệp nội địa trước sự lấn lướt của các
hãng quảng cáo nước ngoài. Theo Hiệp hội quảng cáo Việt Nam thì toàn bộ
khoảng 3000 doanh nghiệp trong nước chỉ chiếm vẻn vẹn 20% thị phần quảng
cáo trong khi 80% còn lại được nắm giữ bởi khoảng 30 công ty nước ngoài.3
Một thực tế khó có thể phủ nhận là nội dung của các chương trình, tiết
mục quảng cáo hàng hóa nước ngoài hay hơn, hấp dẫn hơn so với quảng cáo của
Việt Nam. Có thể nói nó đã trở thành một món ăn tinh thần của đại đa số người

xem truyền hình.
Cuộc chiến trong lĩnh vực quảng cáo đầy kịch tính và nóng bỏng. Các
hành vi cạnh tranh không lành mạnh xuất hiện ngày càng nhiều từ các doanh
nghiệp nước ngoài lẫn các doanh nghiệp trong nước. Có thể nhận thấy các hành
vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo tồn tại chủ yếu dưới
các dạng sau:
2.1. Quảng cáo không trung thực
Các hành vi quảng cáo gian dối, quảng cáo quá lố về quy cách, phẩm
chất của hàng hóa đang diễn ra một cách công nhiên ở nước ta. Các chỉ số mà
quảng cáo đưa ra thì có cơ quan nhà nước nào đứng ra kiểm chứng được hay
không. Nguy hiểm hơn cả là quảng cáo không trung thực về các loại dược phẩm,
đặc biệt các sản phẩm tăng trí thông minh, tăng cường sức khỏe…
3



7


Quảng cáo gian dối về giá cũng là một hình thức quảng cáo điển hình
hiện nay. Quảng cáo này gây nhầm lẫn nhất cho người tiêu dùng, tạo ấn tượng
rằng mức giá này mới là hết sức lợi nhuận.
Những lời quảng cáo thiếu trung thực xuất phát từ việc lợi dụng lòng tin,
sự nhẹ dạ của khách hàng nhằm móc túi người tiêu dùng. Các nhà cung cấp lợi
dụng các khe hở của pháp luật vì họ thừa hiểu rằng để kiểm định được những
chỉ tiêu đó không phải là việc đơn giản và có thể thực hiện được bất cứ lúc nào.
2.2. Quảng cáo so sánh.
Đây là loại quảng cáo nhằm hạ thấp danh tiếng của một sản phẩm, dịch
vụ của đối thủ cạnh tranh để nâng cao sản phẩm, dịch vụ của mình trên cơ sở so
sánh hai loại sản phẩm với nhau. Ví dụ Viettel đưa ra so sánh giá cước dịch vụ

với VNPT. Có những loại quảng cáo so sánh tuy không đưa ra trực tiếp cụ thể
doanh nghiệp, sản phẩm nào nhưng lại đưa ra thông tin làm cho khách hàng nghĩ
ngay đến loại sản phẩm nào và của doanh nghiệp nào.
Mặc dù Điều 45 Luật Cạnh tranh năm 2004 quy định cấm các doanh
nghiệp thực hiện các hoạt động quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh,
song dường như điều này còn tỏ ra kém hiệu lực khi mà những hành vi quảng
cáo này vẫn tiếp diễn liên tục dưới nhiều hình thức như phát tờ rơi hay quảng
cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng.
2.3. Quảng cáo nhằm gây nhầm lẫn nguồn gốc, xuất xứ của sản phẩm.
Ở loại hành vi quảng cáo này, người quảng cáo đưa vào các nội dung
các chỉ dẫn nhằm mục đích cố tình gây ra sự hiểu sai lệch về nguồn gốc, xuất xứ
của sản phẩm.
Hoặc hành vi quảng cáo mang tính lừa gạt ngừoi tiêu dùng là quảng cáo
hứa thưởng nhưng phần thưởng không hề được trao đến tay người tiêu dùng.

8


3. Đề xuất xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh nói chung và hành
vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh nói riêng
3.1. Hoàn thiện quy định pháp luật về chống cạnh tranh không lành
mạnh
Thứ nhất, bổ sung một số hành vi cạnh tranh không lành mạnh mới vào
Luật Cạnh tranh năm 2004.
Thứ hai, sửa đổi Luật Cạnh tranh theo hướng bảo vệ lợi ích người tiêu
dùng một cách thiết thực hơn.
Thứ ba, đề xuất về đối tượng áp dụng của Luật Cạnh tranh năm 2014
nên là tất cả các chủ thể tham gia trên thị trường với mục đích cạnh tranh chứ
không nên giới hạn bó hẹp là doanh nghiệp.
Thứ tư, Luật Cạnh tranh cần đảm bảo sự tương thích, hài hòa với các

luật liên quan.
3.2. Về thẩm quyền xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Sự chồng chéo về thẩm quyền trong xử lý hành vi cạnh tranh không lành
mạnh khiến doanh nghiệp không biết trình báo sự việc đến cơ quan nào, như thế
nào. Do vậy Luật Cạnh tranh cần quy định rõ ràng cụ thể trách nhiệm của từng
cơ quan có liên quan, mà thẩm quyền giải quyết tranh chấp thuộc về hai cơ quan
chuyên trách là Cục quản lý cạnh tranh và Tòa án.
3.3. Nâng cao năng lực và thẩm quyền của Cục quản lý cạnh tranh trong
việc xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp.
Theo Luật Cạnh tranh năm 2004 thì Cục quản lý cạnh tranh có vai trò
trung tâm, then chốt, quyết định đến hiệu quả trong việc phòng, chống đối với
các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Cục quản lý cạnh tranh không chỉ có
nhiệm vụ điều tra mà còn có cả nhiệm vụ xử lý, xử phạt đối với các hành vi này.
Tuy nhiên thực tế từ khi ra đời đến nay, Cục quản lý cạnh tranh chỉ tiếp nhận
9


một số lượng rất ít các vụ liên quan đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh và
trong số đó cũng chỉ giải quyết được một số vụ. Do đó cần có những giải pháp
để phát huy hiệu quả nhất với vị trí, chức năng và nhiệm vụ mà Luật Cạnh tranh
đã giao cho cơ quan này như nâng cao chuyên môn nghiệp vụ, chất lượng năng
lực cán bộ, nâng cao thẩm quyền của Cục quản lý cạnh tranh.
Ngoài ra cần nâng cao ý thức pháp luật và tự bảo vệ của doanh nghiệp
cũng như người tiêu dùng, xây dựng đạo đức kinh doanh của doanh nghiệp, phát
huy vai trò của thương lượng và hòa giải trong việc giải quyết tranh chấp liên
quan đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh.

10



KẾT LUẬN
Sự ra đời của Luật Cạnh tranh năm 2004 đã đánh dấu một bước ngoặt
quan trọng trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật tạo
khung pháp lý cho nền kinh tế nước ta, góp phần tạo ra một môi trường cạnh
tranh lành mạnh, công bằng, bình đẳng cũng như hạn chế được các hành vi cạnh
tranh không lành mạnh nói chung và hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không
lành mạnh nói riêng.

11


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Cạnh tranh năm 2004;
2. Nghị định của Chính phủ số 71/2014/NĐ-CP ngày 21/7/2014 quy định chi tiết
Luật Cạnh tranh về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh;
3. Nghị định của Chính phủ số 119/2011/NĐ-CP ngày 16/12/2011 quy định chi
tiết thi hành một số điều của Luật Cạnh tranh;
4. Đặng Vũ Huân, Pháp luật về kiểm soát độc quyền và chống cạnh tranh không
lành mạnh ở Việt Nam, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004;
5. Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp luật, Cạnh tranh và xây dựng pháp luật
cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội, 2001.

12



×