Tải bản đầy đủ (.ppt) (52 trang)

Bài Giảng Văn Hoá Và Phát Triển Ở Việt Nam _ www.bit.ly/taiho123

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.67 KB, 52 trang )

BÀI 6

VĂN HOÁ VÀ PHÁT TRIỂN
Ở VIỆT NAM

TS Phan Quốc Anh


NỘI DUNG
1. Đặt vấn đề
2. Văn hóa là trung tâm của sự phát
triển
3. Con đường phát triển của Việt
Nam


1. Đặt vấn đề:
Xuất phát từ tình hình thế giới trong vài năm
gần đây, người ta thường coi kinh tế học là
lý thuyết phát triển, lấy tài sản của cải làm
trọng tâm, có nó là có tất cả. Có kinh tế là
có hạnh phúc no ấm, đó là lý thuyết phát
triển ngự trị hàng bao thế kỷ nay trên toàn
thế giới, nảy sinh tư tưởng muốn làm giàu
phải có kinh tế. Nhưng những năm sau này
thế giới phát hiện ra rằng trong lý thuyết
phát triển rằng: kinh tế có thể phát triển
nhưng đời sống chưa chắc đã sung sướng
hạnh phúc.



Lý thuyết về kinh tế bị bất cập, dẫn chứng
là chủ nghĩa tư bản phát triển giàu có
nhưng vẫn bất bình đẳng, khoảng
cách giàu nghèo ngày càng xa, nền
tảng đạo đức xã hội bị thoái hoá, môi
trường tự nhiên bị hủy hoại, nguy cơ
hủy diệt của chiến tranh luôn luôn rình
rập.


Học thuyết kinh tế là tăng sản phẩm xã
hội. Trong 300 năm CNTB phát triển
nhanh thì được cái gì, biết bao bi kịch
đang diễn ra trong xã hội tư bản.
Trong xã hội nông nghiệp: trước đây ở
nước ta đói triền miên, đối với nền
nông nghiệp lúa nước như nước ta và
một số nước Đông Nam á khác, khi
chưa phát triển chỉ lo cái ăn. Chính vì
vậy tâm lý của các nước ở xã hội
nông nghiệp là muốn phát triển nhanh
bằng con đường phát triển kinh tế.


Trong xã hội công nghiệp: có nhiều thành
tựu phát triển rất nhanh, KH - CN,
truyền thông, thu nhập bình quân đầu
người tăng nhanh, trái đất thu nhỏ
như một cái làng gọi là làng tinh cầu.
Xã hội công nghiệp không còn lo đói

nữa, không quan tâm đến sự ăn, chỉ
lo sự chơi, tốc độ các dịch vụ phát
triển nhanh, phát triển hệ thống viễn
thông, máy tính, internet (trong lúc đó
1975 ở Hà Nội nước ta còn xe trâu đi
trên đường phố).


Văn hoá phát triển trong sự thống nhất
đầy mâu thuẫn với văn minh. Tiềm
năng sáng tạo và những giá trị nhân
đạo của văn hoá chỉ có thể thực hiện
được nhờ văn minh, nhưng sự phát
triển phiến diện của văn minh có thể
dẫn đến sự lãng quên những lý tưởng
cao đẹp, ý nghĩa nhân bản của văn
hoá


Phát triển kinh tế nhanh dẫn đến rất nhiều
nghịch lý xã hội, người ta gọi là nghịch
lý của văn minh. Thế kỷ XX, khi loài
người đã đạt nhiều thành tựu KHKT cao
để phục vụ con người, thì cũng có
những sáng tạo cho chiến tranh và trở
thành bị kịch nhân loại:
(Hai cuộc chiến tranh thế giới trong thế kỷ XX đã cướp đi hàng trăm
triệu người. Chỉ với 2 quả bom nguyên tử mà Mỹ cảnh cáo Nhật
đã thiêu cháy hàng triệu người trên hai hòn đảo của Nhật bản
mà di chứng của những người còn sống sót là dở sống, dở

chết. Chất độc Diôxin (chất độc màu da cam) trong cuộc chiến
tranh Việt Nam cũng là một thành tựu khoa học quân sự, đã để
lại di chứng thật khủng khiếp trong gen di truyền của những ai
đã từng đến vùng chiến trường Việt Nam)


Sau chiến tranh thế giới lần thứ 2 kết
thúc, thế giới lại lao vào cuộc chiến
tranh lạnh. Hai phe đã thi nhau sản
xuất vũ khí hạt nhân nhiều đến nỗi, chỉ
cần 1/10 số bom hạt nhân của Nga
hoặc của Mỹ là đã có thể xoa sạch sự
sống trên trái đất này.


Trước đây, Kinh thánh có nói đến chữ:
“Ngày tận thế”, nhưng đó chỉ là một
ám ảnh của của tín đồ thiên chúa giáo
lo sợ chúa trời trừng phạt. Với vũ khí
hạt nhân, nỗi ám ảnh đó cho toàn thể
loài người có khả năng trở thành thực
tế. Một trong 2 vị tổng thống Nga hoặc
Mỹ trong giây phút vô thức, nhấp vào
nút bấm hạt nhân là hàng tỉ người đến
với ngày tận thế chỉ trong tích tắc.


Ngoài ra còn rất nhiều nghịch lý của văn
minh: tai nạn giao thông, khai thác kiệt
quệ môi trường, hiểm hoạ sinh thái,

bệnh tật, dịch, đất đai, cây xanh bị phá
huỷ làm nhà máy, nhà máy, xe cộ thải
ra khí độc gây bệnh ung thư, trái đất
nóng lên, băng tan làm mực nước
biển dâng cao v.v… sẽ đưa loài người
đến “ngày tận thế” được báo trước.


Có thể dẫn ra hàng trăm, hàng ngàn nghịch lý
của sự phát triển.
KHCN phát triển đến mức con người trở thành nô lệ
của KHCN. Con người sáng tạo ra máy vi tính, tin
học, ai cũng phải học vi tính, tin học, con người
nghĩ ra những loại máy móc hiện đại, để có việc
làm phải tiếp cận tất cả sự hiện đại đó mới có thể
có việc làm.
Trên vai của những đứa trẻ là gánh nặng của những tri
thức hiện đại, chúng phải học không còn thời gian
nào để vui chơi giải trí nữa: Vi tính, ngoại ngữ,
khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, học ngày, học
đêm, đua nhau học hành và thi cử, sinh ra cận thị,
loạn thị, street v.v…
Vật nuôi cây trồng cũng đi vào công nghiệp hóa: rau
công nghiệp, gà công nghiệp…rồi con người cũng
sẽ công nghiệp, con người cũng sẽ trở thành cái
máy robot vận hành trong xã hội công nghiệp.


Phát triển làm gì nếu không
biết kiềm chế những hiểm

hoạ này. Vì vậy mới có lý
thuyết văn hoá phát triển.
Ngày nay, người ta nói
nhiều đến khái niệm “phát
triển bền vững”.


2. Văn hóa là trung tâm của sự
phát triển
2.1. Quan điểm của UNESCO:
Văn hóa là trung tâm điều tiết sự phát
triển (UNESCO).


Trong thập kỷ quốc tế phát triển văn hoá,
UNESCO đã nhấn mạnh: “Khi các
mục tiêu tăng trưởng kinh tế được đặt
ra mà tách rời môi trường văn hoá thì
kết quả thu được sẽ rất khập khiễng,
mất cân đối cả về mặt kinh tế lẫn văn
hoá, đồng thời tiềm năng sáng tạo của
mỗi dân tộc sẽ bị suy yếu đi rất nhiều”.


Do đó “Nhận thức về vị trí, vai trò của văn
hoá trong phát triển, chúng ta cần
vượt lên trên cách tiếp cận kinh tế học
thuần túy và tìm ra hàng trăm các
phương thức có thể được để cho tính
công nghiệp và tính sáng tạo có thể

gắn bó móc nối với nhau và để kinh tế
có thể bắt rễ trong văn hoá”
(UBQG về thập kỷ quốc tế phát triển văn hoá: Thập kỷ thế giới
phát triển văn hoá. Nxb VHTT, 1992, tr. 19 – 22).


Xuất phát từ những bài học kinh nghiệm
của dân tộc, đồng thời tiếp thu thành
tựu trí tuệ của thời đại, Đảng và Nhà
nước ta cũng đã có những nhận thức
mới về vai trò của văn hoá trong phát
triển, khi khẳng định mạnh mẽ rằng:

“Kinh tế và văn hoá gắn bó với nhau hết
sức chặt chẽ: kinh tế không tự mình phát
triển nếu thiếu nền tảng văn hoá và văn hoá
không phải là sản phẩm thụ động của kinh
tế. Phát triển trên cơ sở kết hợp hài hòa
kinh tế và văn hoá là sự phát triển năng
động, có hiệu quả và vững chắc nhất”

(Báo cáo của Chủ tịch HĐBT Võ Văn Kiệt tại kỳ họp thứ X, Quốc Hội khóa VIII).


Trước đây phát triển tự nó mở đường
bằng kinh tế, kinh tế quyết định văn
hóa (phú quý sinh lễ nghĩa). Ngày nay,
văn hóa, đạo lý của loài người quyết
định sự điều tiết phát triển.
Vấn đề là VH điều tiết sự phát triển như

thế nào? Đạo lý - sự tôn trọng lẫn
nhau - theo nguyên tắc cùng chung
sống (cộng sinh). Loài người hay có
tính tự tôn dân tộc, coi văn hóa của
mình là hay nhất.


Người châu Á cúi đầu là chào,
người châu Âu cúi đầu là mặc
niệm. Trước đây hai bên chê
nhau nhưng nay với lý thuyết
văn hóa bao dung thì đó là sự
khác biệt về văn hóa chứ
không phải phân biệt văn hóa
cao hay văn hóa thấp.


Với quan điểm bao dung văn hóa, đề cao
văn hóa tất cả các dân tộc trên thế
giới, các dân tộc được đối xử bình
đẳng. Năm 1982 UNESCO mở hội
nghị về văn hóa ở Mehico chia ra các
khu vực VH như sau:
1) Phương tây (tây Âu)
3) Trung Quốc
5) Ả Rập
7) Đông nam Á

2) Đông Âu
4) Ấn Độ

6) Châu Phi
8) Châu mỹ la tinh


Các vùng văn hóa này được đối xử bình
đẳng, không lấy bất cứ đâu làm trung
tâm để gò ép. Phải tôn trọng cái khác
mình để người khác lại tôn trọng mình
gọi là tập tính cộng sinh. Hội nghị
cũng tuyên bố quyền con người cũng
là văn hóa, quyền sống, quyền tự thể
hiện mình. Tuỳ theo hoàn cảnh của
mỗi dân tộc, mỗi quốc gia để vận
dụng quyền con người cho thích hợp


Phát triển xưa kia nói đến kinh tế là
đủ, là nói đến GDP. Tức nếu GDP
cao thì kinh tế phát triển cao.
Nhưng sau này, người ta cho
rằng GDP có thể phát triển cao
nhưng phân phối không đều thì xã
hội vẫn không có văn hóa.


Mô hình hình tam giác
kinh tế các nước nghèo
10% giàu

10% trung lưu


80% nghèo

GDP các nước
nghèo được phân
phối theo mô hình
chóp, người nghèo
chiếm đa số 80%,
giàu 10 %, trung
lưu 10%.


Mô hình hình quả trứng
kinh tế các nước phát triển

Nếu XH phát triển
theo các hình quả
trứng thì XH ổn
định vì 80 % trung
lưu, 10 % người
giàu và 10 %
người nghèo.

10% giàu

80 % trung lưu

10 % nghèo



Tuy nhiên cũng không tuyệt đối
hoá GDP và phát triển kinh tế
nhưng cũng không được coi nhẹ
nó vì không phát triển GDP thì XH
sẽ nghèo, mà nghèo thì không thể
phát triển VH văn minh được. Có
một thời chúng ta đã sai khi coi
nhẹ sự phát triển GDP và đề cao
VH.


×