Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

tự diễn biến” và “tự chuyển hóa”, một số biểu hiện, nguyên nhân và gải pháp phòng chống “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.26 KB, 15 trang )

MỞ ĐẦU
Trong văn kiện Đại hội XI (2011), lần đầu tiên Đảng ta nhận định:
“Trong nội bộ, những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” có những diễn biến phức tạp”1. Nghị quyết Trung
ương 4 khóa XI nhận định các thế lực thù địch thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa”. Đến Đại hội XII, Đảng ta tiếp tục nhận định: “những biểu hiện
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công
chức, viên chức và sự quan liêu, tham nhũng, lãng phí diễn biến phức tạp”2.
Điểm mới của Đại hội XII so với Đại hội XI đã chỉ rõ địa chỉ của “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức,
viên chức, nhưng Đại hội XII vẫn chưa chỉ rõ biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ là gì. Chính vì thế, việc kiểm điểm theo tinh thần
Nghị quyết Trung ương 4 chưa chỉ rõ được bộ phận “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” là ai.
“Tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” là sự tự thay đổi về tư tưởng chính
trị của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên theo hướng trái với hệ tư
tưởng chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hiện tượng “tự diễn biến” và
“tự chuyển hóa” đang diễn ra ngày càng nhiều với đa dạng hình thức; đang là
một thách thức to lớn đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của
chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Chính vì vậy nên tôi đã chọn đề tài “tự
diễn biến” và “tự chuyển hóa”, một số biểu hiện, nguyên nhân và gải pháp
phòng chống “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa”. để làm đề tài nghiên cứu
cho môn học của mình


NỘI DUNG
Chương 1.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BIỂU HIỆN TỰ DIỄN BIẾN, TỰ CHUYỂN HÓA
1.1. Khái niệm
Vấn đề “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ không phải bây
giờ, cũng không phải chỉ có ở Việt Nam mà có từ trong Phong trào Cộng sản


quốc tế và ở các nước Xã hội chủ nghĩa khác.
“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong hệ thống chính trị cũng như
trong xã hội ở các nước Xã hội chủ nghĩa thường xuất hiện khi mà tình hình
thế giới diễn biến phức tạp, tình hình trong nước có nhiều khó khăn, thách
thức. Nói cách khác khi mà cách mạng thế giới, cách mạng trong nước có
những “khúc quanh lịch sử” thì trong nội bộ Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ
chức xã hội sẽ xuất hiện những đối tượng cơ hội chính trị và nảy sinh vấn đề
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Ngay từ cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa cơ hội, đối tượng cơ hội chính trị
đã xuất hiện trong Phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế theo khuynh
hướng tư tưởng đối lập nhau như: Phái Latxan, phái Công Liên, phái
Blongxki, phái Bruđông, phái Bacunin… Những phần tử thuộc các trường
phái đó không những không đi theo, không ủng hộ mà còn công khai, quyết
liệt chống lại Học thuyết Mác về chủ nghĩa xã hội khoa học. Đó là những
người cộng sản đã bị biến chất, thoái hóa về tư tưởng chính trị, họ “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” và trở thành những “con chiên ngoan đạo” của “Chủ
nghĩa cơ hội tả khuynh” hay “Chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh”.
Vào đầu những năm 60, 70 của thế kỷ XX, ở Liên Xô xuất hiện “Chủ
nghĩa xét lại hiện đại”, một trào lưu tư tưởng - chính trị đối lập, thù địch với
Chủ nghĩa Mác-Lênin. Những kẻ theo “Chủ nghĩa xét lại”, đứng đầu là Khơrut-sốp (nguyên Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản


Liên Xô), đã phê phán đòi “xem lại”, “xét lại” Học thuyết Mác-Lênin. Trong
thời kỳ đó, ở Việt Nam cũng đã xuất hiện những cán bộ, đảng viên, trí thức,
văn nghệ sỹ, phóng viên báo chí, triết gia, sỹ quan quân đội…; trong đó có
những người là cán bộ trung, cao cấp theo “Chủ nghĩa xét lại”. Sau đó, ở
nước ta cũng đã xuất hiện những cán bộ, đảng viên “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” đi theo “Chủ nghĩa bành trướng, bá quyền, sô-vanh nước lớn” chống lại
Đảng, Nhà nước ta.
Từ những năm 90 của thế kỷ XX đến nay, khi Liên Xô và các nước Xã

hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, hệ thống Xã hội chủ nghĩa tan rã, ở nước ta lại
xuất hiện các đối tượng cơ hội chính trị. Thực chất đó là những cán bộ, đảng
viên đã sa vào “vũng bùn”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Theo Đại Từ điển tiếng Việt: “Diễn biến là biến đổi theo chiều hướng
nào đó”; “chuyển hóa là biến đổi từ dạng này, hình thái này sang dạng khác,
hình thái khác”(1). Trên cơ sở lý luận và thực tiễn của Chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, từ góc độ chính trị của Việt Nam cho thấy “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ là nói tới sự suy thoái, thay đổi quan
điểm, lập trường tư tưởng - chính trị ở một bộ phận cán bộ, đảng viên hay
trong một tổ chức Đảng, cơ quan Nhà nước, đoàn thể xã hội thuộc hệ thống
chính trị của chế độ nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam. “Tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” thường do những nguyên nhân: sự tác động từ hoạt động tuyên
truyền thù địch, sự tác động tiêu cực của diễn biến tình hình thế giới (như sự
sụp đổ của chế độ Nhà nước Xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông
Âu, hay từ các cuộc “cách mạng màu”, “cách mạng mùa xuân Ả Rập”…) và
sự tác động bởi tình trạng mất dân chủ, quan liêu, tham nhũng, lãng phí
nghiêm trọng, phân hóa giàu nghèo gia tăng dẫn tới sự bất mãn, bất bình trong
xã hội. Song, trước hết và chủ yếu là do nguyên nhân chủ quan từ chính bản
thân những cán bộ, đảng viên lập trường tư tưởng - chính trị không vững
vàng, do bất mãn hay do sự buông lỏng công tác quản lý, giáo dục của tổ chức
Đảng, cơ quan Nhà nước, Đoàn thể xã hội…


“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” diễn ra trên nhiều mặt như: nhận thức
lệch lạc về tư tưởng, chính trị; sự sa đọa về đạo đức, lối sống… Các biểu hiện
suy thoái trên có quan hệ tương tác với nhau; từ sự suy thoái về tư tưởng chính trị có thể dẫn tới sự tha hóa về đạo đức, phẩm chất lối sống và ngược
lại, tha hóa về đạo đức, lối sống có thể dẫn đến sự thoái hóa về tư tưởng chính trị.
“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có thể diễn ra trong nội bộ Đảng,
chính quyền Nhà nước và trong xã hội. Nguy hiểm nhất là “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ lãnh đạo Đảng và chính quyền Nhà nước xã hội chủ

nghĩa. Thực tế cho thấy, một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn tới cuộc
chính biến ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu trước đây bắt
nguồn từ sự “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ngay trong nội bộ Ban lãnh đạo
Đảng và Nhà nước Liên Xô cũng như Ban lãnh đạo Đảng và Nhà nước ở một
số nước Đông Âu.
“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có thể nảy sinh ở những cán bộ, đảng
viên, quần chúng đến những cán bộ, đảng viên có chức, có quyền ở các cấp.
Đáng chú ý hơn là những cán bộ cấp cao, cán bộ có nhiệm vụ hoạch định
chính sách đối nội, đối ngoại của Đảng và Nhà nước, đặc biệt nguy hiểm là
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở những cán bộ cấp cao giữ vai trò “cầm lái
con thuyền đất nước”. Sự tan rã của Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô
Viết gắn liền với tên tuổi của Gorbachev (nguyên Tổng Bí thư Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, Tổng thống Liên Xô), hay Enxin
(nguyên Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Cộng sản Liên Xô, Bí thư Thành ủy Moskva) và một số Ủy viên Bộ Chính trị,
Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, đứng đầu cơ quan Đảng Cộng
sản, chính quyền ở các nước Cộng hòa thuộc Liên Xô hoặc giữ chức Bộ
trưởng, Thứ trưởng trong Chính phủ Liên Xô. Có thể nói, đó là những đảng
viên Cộng sản cấp cao “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và trở thành kẻ phản


bội lại Đảng Cộng sản Liên Xô, chế độ Xô viết và Phong trào Cộng sản trên
toàn thế giới.
“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” không phải là “diễn biến hòa bình”.
“Diễn biến hòa bình” là Chiến lược của Chủ nghĩa đế quốc nhằm xóa bỏ chế
độ Xã hội chủ nghĩa, tác động chuyển hóa các nước xã hội chủ nghĩa đi theo
quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản. Mặc dù không phải là một, song “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” có mối quan hệ tương hỗ, tác động qua lại với “diễn biến hòa
bình”. “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là hệ quả nảy sinh từ phương thức,
thủ đoạn “diễn biến hòa bình”. “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” thúc đẩy

“diễn biến hòa bình”, thúc đẩy cái gọi là “cách mạng màu” ở trong các nước
xã hội chủ nghĩa cũng như các nước đối lập, đối đầu với Mỹ và đồng minh.
“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về nhận thức sớm muộn cũng sẽ dẫn
đến sự thay đổi hành vi, hành động chống đối về chính trị của một cá nhân
hay một tổ chức. Phản bác, phủ định Chủ nghĩa xã hội có thể dẫn tới có âm
mưu, hoạt động chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa dưới hình thức này hay
hình thức khác. Ca ngợi chủ nghĩa tư bản rồi cũng đến lúc tin theo chế độ tư
bản chủ nghĩa. Đó là vấn đề có tính quy luật. Do vậy, cần phải hết sức cảnh
giác và không thể coi thường, hơn thế nữa phải thấy được tính chất nguy hại
của vấn đề “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
1.2. Thực chất của hiện tượng “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa”
“Tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” là các khái niệm đang được sử dụng
rộng rãi trên sách báo chính trị và xã hội ở nước ta với hàm nghĩa tiêu cực.
Theo nghĩa thông thường thì “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” là quá trình sự
vật tự thay đổi về chất và về lượng. Nhưng các khái niệm “tự diễn biến” và
“tự chuyển hóa” được sử dụng trong văn kiện của Đảng và trên sách báo
chính trị - xã hội ở nước ta không theo nghĩa như vậy. Văn kiện Đại hội Đảng
Cộng sản Việt Nam lần thứ XI viết: “Chủ động phòng ngừa, đấu tranh phê
phán những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta; khắc
phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận


không nhỏ cán bộ, đảng viên”(1). Ở đây, “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa”
được hiểu là sự tự suy thoái của cán bộ và đảng viên về tư tưởng chính trị.
Suy thoái về tư tưởng chính trị là sự xa rời hoặc từ bỏ tư tưởng chính trị của
Đảng(2).
“Tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” là quá trình tự thay đổi về tư tưởng
chính trị của cán bộ, đảng viên theo hướng tiêu cực. Cụ thể ở đây, đó là quá
trình tự biến đổi trong tư tưởng chính trị theo hướng xa rời hệ tư tưởng chính
trị của Đảng. Khi “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” thì chủ thể (cán bộ, đảng

viên) đánh mất vai trò tiên phong, gương mẫu, bị biến chất, thậm chí trở thành
kẻ chống lại Đảng. Nền tảng tư tưởng chính trị của Đảng ta là Chủ nghĩa Mác
- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. “Tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” sẽ đưa
tới những hành động chống lại chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Vị trí của cán bộ, đảng viên càng cao thì hậu quả tiêu cực của “tự diễn biến”
và “tự chuyển hóa” càng lớn. Hiện tượng “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” là
một thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam.
“Tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” ở Việt Nam hiện nay đang diễn ra
hết sức phức tạp với nhiều mức độ khác nhau. Nhận định về mức độ của “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên ở nước ta hiện
nay, Văn kiện Đại hội Đảng XI viết: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số
cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những
biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích
kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ,
tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc”(3). Trên thực tế, không ít cán
bộ, đảng viên đã bộc lộ quan điểm thiếu niềm tin, hoài nghi, thậm chí phủ
nhận vai trò lãnh đạo của Đảng; phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh. Đó là những cán bộ, đảng viên luôn thể hiện thái độ bất mãn;
luôn nói xấu, bôi nhọ, xuyên tạc về các đồng chí lãnh đạo của Đảng, Nhà
nước. Họ lợi dụng những chuyện tiêu cực trong cuộc sống để phê phán mang
tính chủ quan, áp đặt về tình hình đất nước; lợi dụng những khó khăn của nền


kinh tế xã hội Việt Nam để tán dương, ca ngợi thái quá về thành tựu của các
nước tư bản chủ nghĩa. Đặc biệt, có một số cán bộ, đảng viên đã về hưu công
khai phê phán một cách cực đoan, thiếu căn cứ về vai trò lãnh đạo của Đảng,
sự quản lý, điều hành của Chính phủ. Nhìn chung, tình trạng “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên đang diễn ra khá phức tạp và

đang có chiều hướng ngày một gia tăng.(3)
Những người “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” thường có những dấu
hiệu biểu hiện như sau: có quan điểm phủ định “sạch trơn” học thuyết Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; có thái độ hoài nghi về vai trò lãnh đạo
của Đảng, tương lai của dân tộc; ủng hộ chế độ “đa đảng đối lập, đa nguyên
chính trị”; ca ngợi thái quá thành tựu của chủ nghĩa tư bản; có thái độ “ba
phải”, hoặc né tránh đối với những tư tưởng chính trị sai lầm; đề cao ý thức
hệ tư tưởng tư sản với phương châm thay đạo đức lối sống xã hội chủ nghĩa
bằng đạo đức lối sống tư bản chủ nghĩa; đòi “phi chính trị hóa” lực lượng vũ
trang, gạt bỏ sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng công an và quân đội; có
tư tưởng “sám hối”, “bới lông tìm vết”, lẫn lộn trắng đen, phủ nhận lịch sử,
phê phán hiện thực một cách thái quá mang đậm dấu ấn chủ quan và cái tôi.
Bên cạnh đó, những người “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” còn có biểu
hiện: phai nhạt lý tưởng cách mạng, sa sút ý chí chiến đấu; thấy đúng không
bảo vệ, thấy sai không đấu tranh, có quan điểm lệch lạc; không làm tròn bổn
phận, chức trách được giao; không thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức,
sinh hoạt Đảng, vô nguyên tắc, xem thường pháp luật…
Thông thường, quá trình “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” diễn ra với
ba giai đoạn, ứng với ba mức độ. Ở giai đoạn thứ nhất, những người “tự diễn
biến” và “tự chuyển hóa” thể hiện sự hoang mang, dao động, hoài nghi về tư
tưởng chính trị của Đảng. Ở giai đoạn thứ hai, họ bắt đầu chủ động hơn trong
tiếp nhận những thông tin trái chiều, thu thập tổng hợp thông tin và phát tán
những thông tin này. Ở giai đoạn thứ ba, họ có tư tưởng, hành động cực đoan,
phản động, chống đối Đảng và Nhà nước. Khi đã đến giai đoạn thứ ba, họ đã
thể hiện rõ tư tưởng chính trị phản động, bất chấp mọi nguyên tắc hoạt động


của tổ chức và pháp luật của Nhà nước. Từ sự suy thoái về tư tưởng chính trị
họ có thể có sự suy thoái về đạo đức và lối sống.
“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” diễn ra trong một quá trình và thường

biểu hiện qua những dấu hiệu sau:
- Nói và làm không theo và thậm chí ngược lại với chủ trương, đường
lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước;
- Thể hiện thái độ hoang mang, dao động, đồng tình với quan điểm “đa
nguyên chính trị, đa đảng đối lập” và hơn thế nữa đòi thực hiện chế độ đa
đảng, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam;
- Phản bác, phủ định Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa
chọn;
- Phủ nhận mọi thành tựu mà Đảng đã lãnh đạo nhân dân giành được
trong cuộc đấu tranh cách mạng giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước
trước đây cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa ngày nay;
- Xuyên tạc, bịa đặt, vu cáo, đả kích, bôi nhọ, phủ nhận công lao to lớn
nhằm hạ uy tín lãnh đạo Đảng, Nhà nước, thậm chí cả Chủ tịch Hồ Chí Minh,
lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam và của phong trào Cộng sản, công nhân
và nhân dân lao động trên thế giới;
- Truyền bá học thuyết, văn hóa, lối sống tư sản cũng như các quan
điểm tư tưởng phi mác-xít, phi xã hội chủ nghĩa, đối lập thù địch với chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh;
- Phá hoại nội bộ cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ qua các
hành vi gây bè phái, chia rẽ làm mất đoàn kết nội bộ, kích động tư tưởng bất
mãn, bất bình, chống đối trong nội bộ các tổ chức đảng, cơ quan nhà nước,
đoàn thể xã hội thuộc hệ thống chính trị của chế độ Nhà nước xã hội chủ
nghĩa Việt Nam;
- Móc nối, câu kết, phối hợp với các thế lực thù địch bên ngoài và các
phần tử chống đối ở trong nội bộ và ngoài xã hội chống lại Đảng, chính quyền
Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam;



- Bảo vệ quan điểm, tư tưởng, hành động sai trái của các phần tử
chống đối ở trong nội bộ và ngoài xã hội nước ta. Thậm chí ca ngợi chúng
như những nhân vật “anh hùng” đấu tranh cho “dân chủ”, “nhân quyền”…
Nhận biết “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở một con người hay trong một tổ
chức không đơn giản chỉ là căn cứ vào một vài biểu hiện bề ngoài. Bởi vì,
hiện tượng bề ngoài không phải lúc nào cũng phản ánh bản chất bên trong.
Thực tế có những trường hợp vì bức xúc, bất bình về vấn đề gì đó mà nhất
thời có những lời nói, hành động thể hiện thái độ bất mãn thì cũng không nên
vội vã cho là “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” mà cần làm rõ nguyên nhân, bản
chất sự việc, hiện tượng.
Việc đánh giá, kết luận một trường hợp nào đó có vấn đề “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” cần phải hết sức thận trọng, khách quan, phải trên cơ
sở phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa các dấu hiệu hành vi có liên quan diễn ra
trong một quá trình, trong đó mấu chốt của vấn đề “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” là sự thay đổi quan điểm, lập trường tư tưởng - chính trị theo hướng đối
lập, thù địch với Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Chủ nghĩa
xã hội.
.“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đang thực sự trở thành một trong
những nguy cơ hàng đầu đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, với chế độ Nhà
nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Do vậy, phòng, chống “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ vừa là yêu cầu vừa là nhiệm vụ cấp bách của toàn
Đảng, toàn dân và toàn quân ta hiện nay. Nghị quyết Trung ương 4 số 12NQ/TW (khóa XI) ngày 16-01-2012 ghi rõ: “kiên quyết đấu tranh ngăn chặn,
đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các
cấp để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin
của đảng viên và của nhân dân đối với Đảng”
1.2. Nguyên nhân của hiện tượng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
Quá trình “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” có nhiều nguyên nhân.
Trong đó có các nguyên nhân cơ bản là: sự tác động của các thế lực thù địch



trên các lĩnh vực tư tưởng, kinh tế, chính trị, văn hóa (sự tác động của các thế
lực thù địch với nhiều phương thức, thủ đoạn thâm độc như: mua chuộc, dụ
dỗ, lôi kéo, gây chia rẽ, khoét sâu mâu thuẫn nội bộ… nhằm làm suy thoái,
biến chất đội ngũ cán bộ, đảng viên cả về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống; tạo ra sự rối loạn và mục ruỗng, bên trong); sự diễn biến phức tạp của
tình hình thế giới (sụp đổ Chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu,
các cuộc “Cách mạng màu”, “Mùa xuân Ảrập”...); sự tác động từ mặt trái của
cơ chế thị trường, hội nhập quốc tế; sự khó khăn trong đời sống của không ít
đội ngũ cán bộ, đảng viên; sự hạn chế và yếu kém về nội dung và phương
thức lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước; sự buông lỏng công tác giáo
dục chính trị và đạo đức; tình trạng tham nhũng trong bộ máy chính quyền
các cấp; sự thiếu rèn luyện, tu dưỡng của một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên...
Trong các nguyên nhân này, nguyên nhân chính là sự buông lỏng, yếu
kém trong nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà
nước; sự thiếu gương mẫu, tiên phong về tinh thần cách mạng của không ít
những người đứng đầu cơ quan, đơn vị ở các cấp, các ngành, các địa phương.
Điều này đã dẫn đến nhiều khe hở để một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên tham nhũng, lãng phí, bè phái; từ đó làm cho một bộ phận không nhỏ cán
bộ, đảng viên dao động, hoài nghi, giảm niềm tin vào vai trò lãnh đạo của
Đảng và con đường xã hội chủ nghĩa.


Chương 2.
Giải pháp phòng chống “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa”
Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh tình hình thế giới
diễn biến rất phức tạp. Trong bối cảnh này càng cần phải bảo đảm sự ổn định
chính trị, trật tự và an toàn xã hội; phải tăng cường công tác xây dựng Đảng
cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức; thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn;

kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính
trị và đạo đức lối sống trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Việc phòng, chống
“tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” phải được xác định là nhiệm vụ then chốt
của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay. Nhằm phòng, chống “tự
diễn biến” và “tự chuyển hóa” cần thực hiện nhiều giải pháp, trong đó theo
chúng tôi có các giải pháp sau:
Thứ nhất, các cấp ủy Đảng từ Trung ương đến cơ sở cần thường xuyên
quán triệt và thực hiện nghiêm túc các chủ trương, giải pháp, biện pháp về
xây dựng Đảng được đưa ra trong Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI). Đặc
biệt, các cấp ủy, tổ chức Đảng và từng cán bộ, đảng viên phải nhìn thẳng vào
sự thật, nói đúng sự thật và đánh giá đúng sự thật về tình hình suy thoái tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong đội ngũ cán bộ, đảng viên ở chi bộ,
đảng bộ và ở địa phương, cơ quan, đơn vị mình; xác định cho được “một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái”; chỉ rõ nguyên nhân chủ quan,
khách quan và đề ra biện pháp cụ thể để giáo dục, giúp đỡ, phòng ngừa hoặc
sửa chữa, khắc phục khuyết điểm cho phù hợp với từng đối tượng.
Thứ hai, cần tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền kịp thời có
định hướng đúng đắn nhằm cung cấp thông tin chính xác cho đội ngũ cán bộ,
đảng viên và nhân dân về những phức tạp của tình hình thế giới, về bản chất
của các thế lực phản động, về bản chất của chủ nghĩa tư bản, về những mâu
thuẫn không thể giải quyết được trong xã hội tư bản, về sự điều chỉnh, thích
nghi để tạm thời tồn tại của chủ nghĩa tư bản và cả những thành tựu đạt được
của chủ nghĩa tư bản trong phát triển lực lượng sản xuất, khoa học kỹ thuật,


công nghệ, trong khoa học tổ chức, quản lý... Điều đó giúp mọi người có cái
nhìn đúng đắn nhất về chủ nghĩa tư bản hiện nay.
Thứ ba, cần tăng cường năng lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên mọi
lĩnh vực. Cụ thể là, cần xây dựng và hoàn thiện một hệ thống pháp luật đảm
bảo về tính thống nhất nội tại, rõ ràng về thứ bậc, chính xác, minh bạch, dễ

hiểu, có tính khả thi và phù hợp với thực tiễn cuộc sống; xây dựng và hoàn
thiện cơ chế, chính sách quản lý kinh tế - xã hội một cách khoa học, có tính
chiến lược lâu dài. Riêng đối với lĩnh vực kinh tế, cần tập trung hoàn thiện
chế độ pháp lý về sở hữu nhằm thể chế hóa đường lối phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đa thành phần, đa sở hữu; giải quyết
triệt để một số điểm lớn liên quan đến khiếu nại, tố cáo; giải quyết dứt điểm
các vụ việc tồn đọng, bức xúc kéo dài trong xã hội ở mọi lĩnh vực, các vụ án
lớn liên quan đến đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Thứ tư, cần phát huy hơn nữa vai trò của nhân dân, các đoàn thể chính
trị xã hội, báo chí và dư luận xã hội trong việc đấu tranh phòng, chống “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Đó là: phát huy vai trò giám sát, phản biện xã
hội của nhân dân, nhất là với các chủ trương, chính sách có liên quan, tác
động đến đông đảo nhân dân; đẩy mạnh phát huy vai trò của dư luận xã hội,
vận dụng dư luận xã hội để phát huy các chức năng đánh giá, điều chỉnh các
quan hệ xã hội, giáo dục, giám sát tư vấn - phản biện và giải tỏa tâm lý xã hội
trong cuộc đấu tranh phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống trong đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Thứ năm, cần đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ trong Đảng, trong các
cơ quan nhà nước. Cần phải tích cực, quyết tâm, dũng cảm khi thực hiện đổi
mới phương thức lãnh đạo, phong cách, lề lối làm việc; thực sự phát huy
quyền làm chủ của quần chúng nhân dân; nói đi đôi với làm; hứa ít làm nhiều;
hứa thì phải làm; đổi mới phương thức tuyển dụng, đề bạt cán bộ và phương
thức bầu cử, tranh cử trong Đảng, trong hệ thống dân cử; thực hiện “văn hóa
từ chức” (Trung ương nên làm gương trước, vì vị trí càng cao sự lan tỏa càng
rộng ); thực hiện tốt sự giám sát của các đoàn thể và nhân dân đối với đội ngũ


cán bộ, đảng viên, nhất là với những người lãnh đạo chủ chốt các cấp, các
ngành và tổ chức cấp trên.
Thứ sáu, mỗi cán bộ, đảng viên (nhất là những người nắm giữ các vị trí

lãnh đạo, quản lý ở mọi cấp, mọi ngành, mọi đơn vị, mọi địa phương) phải
thực sự tự giác, trung thực, thành khẩn và cầu thị; nghiêm túc nhìn nhận, soi
xét lại chính bản thân mình để tiếp tục phát huy ưu điểm, kịp thời khắc phục
hạn chế khuyết điểm và sự suy thoái (nếu có). Tuy nhiên, đây là “một cuộc
đấu tranh gay go, gian khổ diễn ra trong mỗi con người”, do đó, bên cạnh việc
đòi hỏi tự giác của mỗi cá nhân thì cần phải tăng cường công tác kiểm tra của
Đảng, thanh tra của cơ quan nhà nước; cần phát huy vai trò giám sát của nhân
dân, của báo chí và công luận đối với mỗi tổ chức và cá nhân trong bộ máy
của Đảng và Nhà nước ở mọi cấp, mọi nơi.
Thứ bảy, đổi mới công tác tuyên truyền vận động nhân dân. Hiện nay
do tiếp cận được với nhiều nguồn thông tin nên nhân dân ta có điều kiện so
sánh lý luận phát triển đất nước của Đảng với thực tiễn cuộc sống, so sánh
con đường phát triển của nước ta với con đường phát triển của các nước khác.
Vì vậy, để làm cho nhân dân tin tưởng vào con đường phát triển nước ta do
Đảng ta lựa chọn, qua đó tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, thì công tác
tuyên truyền vận động nhân dân của Đảng phải đổi mới hơn nữa. Lý luận
tuyên truyền phải rõ ràng, có căn cứ, có tính thuyết phục. Chủ nghĩa xã hội có
những đặc trưng gì và vì sao chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và một số nước khác
sụp đổ? Những câu hỏi đó vẫn chưa có sự giải đáp hoàn toàn rõ ràng. Về điều
này, Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI nhận xét: “Công tác nghiên cứu lý
luận, tổng kết thực tiễn chưa làm sáng tỏ được một số vấn đề về đảng cầm
quyền, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta”(4). Việc giải đáp rõ ràng những vấn đề lý luận như trên để làm cho nhân
dân thật sự tin tưởng vào con đường phát triển nước ta do Đảng ta lựa chọn.


KẾT LUẬN
Gần ba mươi năm đổi mới vừa qua, Việt Nam đã có những chuyển biến
mạnh mẽ đạt được nhiều thành tựu to lớn trên mọi lĩnh vực. Từ một nước
thiếu lương thực giờ đây Việt Nam đã vươn lên trở thành “cường quốc” xuất

khẩu gạo của thế giới; từ một quốc gia nằm trong nhóm nước nghèo nhất, giờ
đây Việt Nam đã là quốc gia có mức thu nhập trung bình của thế giới; từ một
quốc gia bị bao vây cấm vận, giờ đây Việt Nam đã mở rộng quan hệ, hợp tác
với hầu hết các quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới... Tuy nhiên, Việt Nam
hiện nay vẫn đứng trước nhiều thách thức, khó khăn. Nguy cơ tụt hậu xa hơn
về kinh tế vẫn hiện hữu; năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn yếu; bộ máy
hành chính cồng kềnh, kém hiệu quả; các lĩnh vực giáo dục, y tế, việc làm có
nhiều bất cập; tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống
diễn ra ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Hiện tượng “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên đang diễn ra ngày
càng trầm trọng. Đây là những điều kiện để các thế lực hiếu chiến thù địch
thông qua chiến lược “diễn biến hòa bình” âm mưu lợi dụng hòng làm thay
đổi chế độ chính trị ở nước ta. “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đang đe dọa
đến vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ ở Việt Nam hiện
nay. Phòng chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là vấn đề có tính nguyên
tắc, phải được tiến hành thường xuyên, toàn diện, liên tục, kiên quyết nhằm
góp phần đẩy lùi các nguy cơ trong Đảng, bảo đảm cho Đảng vững mạnh cả
về tư tưởng, chính trị và tổ chức. Chúng ta cần nhìn thẳng vào bản chất của
hiện tượng để từ đó xây dựng và thực thi một hệ thống các giải pháp đấu
tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” một cách thực chất, hiệu
quả .


Tài liệu tham khảo
1.

Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2.


Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư

Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3.

Vũ Văn Phúc (chủ biên) (2013), Phòng chống “tự diễn biến”, “tự

chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
4.

Tô Huy Rứa, Trần Khắc Việt (đồng chủ biên) (2004), Làm người

cộng sản trong giai đoạn hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5.

Dương Thông (chủ biên) (1995), Một số vấn đề về “Diễn biến hòa

bình” và chống “Diễn biến hòa bình” ở nước ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
6.

Lê Hồng Liêm (chủ biên) (2014), Nghiên cứu mối quan hệ không

bình thường giữa một bộ phận cán bộ, đảng viên có chức, có quyền với các
doanh nghiệp để trục lợi, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7.

Phạm Ngọc Hiền (2010), Phòng chống “Diễn biến hòa bình” và


“Cách mạng màu” ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.



×