Tải bản đầy đủ (.docx) (85 trang)

Xây dựng mô hình hỗ trợ việc làm cho sinh viên ngành quản lý công nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (540.71 KB, 85 trang )

NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN

Họ và tên sinh viên: ...................................................Lớp.....................................
Đề tài: .....................................................................................................................
1. TIẾN ĐỘ THỰC HIỆN CỦA SINH VIÊN:

- Mức độ liên hệ với giáo viên: ..............................................................................
- Tiến độ thực hiện: .................................................................................................
2. NỘI DUNG BÁO CÁO:

- Thực hiện các nội dung khóa luận: ......................................................................
- Thu thập và xử lý số liệu: .....................................................................................
- Khả năng hiểu biết thực tế và lý thuyết: ...............................................................
- Tính hợp lý và hiệu quả của các giải pháp đề xuất...............................................
.................................................................................................................................
3. HÌNH THỨC TRÌNH BÀY:

.................................................................................................................................
4. MỘT SỐ Ý KIẾN KHÁC
.................................................................................................................................
1.

ĐÁNH GIÁ CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN (Đồng ý cho bảo vệ hay không?)

.................................................................................................................................
CHẤT LƯỢNG BÁO CÁO:

(tốt - khá - trung bình)....
Thái nguyên, ngày ... tháng .. năm 20…
Giáo viên hướng dẫn



NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN PHẢN BIỆN

Họ và tên sinh viên: ...................................................Lớp.....................................
Tên đề tài: ...............................................................................................................
1. NỘI DUNG BÁO CÁO:

- Thực hiện các nội dung Khóa luận: .....................................................................
- Thu thập và xử lý số liệu: .....................................................................................
- Khả năng hiểu biết thực tế và lý thuyết: ...............................................................
- Tính hợp lý và hiệu quả của các giải pháp đề xuất...............................................
.................................................................................................................................
2. HÌNH THỨC TRÌNH BÀY:

.................................................................................................................................
3. MỘT SỐ Ý KIẾN KHÁC
.................................................................................................................................
4. ĐÁNH GIÁ CỦA GIÁO VIÊN PHẢN BIỆN

.................................................................................................................................
CHẤT LƯỢNG BÁO CÁO:

(tốt - khá - trung bình)....

Thái nguyên, ngày ... tháng .. năm 20…
Giáo viên phản biện


LỜI CAM ĐOAN
Em tên là Đặng Thị Hoài, sinh viên lớp K48QLCO1, chuyên ngành Quản lý

công nghiệp, khoá 2012-2016. Em xin cam đoan: Khóa luận tốt nghiệp đề tài “Xây
dựng mô hình hỗ trợ việc làm cho sinh viên ngành Quản lý công nghiệp” là do bản
thân tự thực hiện, không sao chép hay nhờ người khác làm hộ. Bài khóa luận được
thực hiện dựa trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết, khảo sát thực tiễn và dưới sự hướng dẫn
của cô giáo Nguyễn Thị Hồng Nhung.
Các số liệu trong khóa luận tốt nghiệp được sử dụng trung thực, chưa từng được
công bố trong bất cứ đề tài nào.
Một lần nữa, em xin khẳng định về sự trung thực của lời cam đoan trên.

Thái nguyên, ngày

tháng 6 năm 2016
Sinh viên

Đặng Thị Hoài


LỜI CẢM ƠN
Để có thể hoàn thành khóa luận của mình, bên cạnh sự nỗ lực của bản thân là sự
quan tâm của các thầy cô giáo; sự động viên và ủng hộ của gia đình, bạn bè trong suốt
thời gian học tập nghiên cứu đề tài.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn đến cô Nguyễn Thị Hồng Nhung, người đã hết lòng
giúp đỡ và tạo điều kiện tốt nhất cho em hoàn thành đề tài này. Xin gửi lời tri ân của
em đối với những điều mà cô đã dành cho em.
Xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến toàn thể quý thầy cô trong
khoa Kinh tế công nghiệp – Trường đại học kỹ thuật công nghiệp Thái Nguyên, đã tận
tình truyền đạt những kiến thức quý báu, cũng như tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất
cho em trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành khóa luận.
Đề tài được thực hiện trong thời gian 2 tháng, do sự hạn chế về thời gian, kiến
thức và kinh nghiệm của bản thân, việc xảy ra những thiếu sót là không tránh khỏi. Vì

vậy em rất mong nhận được ý kiến đóng góp quý báu của thầy cô để kiến thức của em
trong lĩnh vực này được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

Thái nguyên, ngày

tháng năm 2016

Sinh viên

Đặng Thị Hoài


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

STT

Nội dung viết tắt

Ký hiệu

1

Quản lý công nghiệp

QLCN

2

Bảo hiểm xã hội


BHXH

3

Bảo hiểm y tế

BHYT

4

Đại học Thái Nguyên

DHTN

5

Lao động- thương binh- Xã hội

LD- TB - XH

6

Giáo dục đào tạo

GDĐT

7

Dịch vụ việc làm


DVVL

8

Nhà xuất bản

NXB


DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ

MỤC LỤC




LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần, từ sau khi đổi mới
nền kinh tế đã mang lại nhiều thay đổi tích cực. Mặc dù vậy với việc ảnh hưởng nặng
nề xu hướng khủng hoảng kinh tế chung của toàn cầu, khả năng ứng phó kém hiệu quả
của các doanh nghiệp đang hoạt động trong nước đã khiến cho chính các doanh nghiệp
này gặp khó trong việc duy trì hoạt động và phát triển, dẫn tới một nguyên nhân lớn là
tình trạng thất nghiệp của người lao động hiện nay. Trong số các lực lượng lao động ấy
thì một lượng lớn tình trạng sinh viên ra trường thất nghiệp ngày càng tăng. Đây là
một trong những vấn đề quan trọng cần được nghiên cứu một cách kĩ lưỡng để có thể
rút ra được những giải pháp đúng đắn giải quyết triệt để tình trạng trên, đưa đất nước
phát triển vững mạnh. Đất nước muốn phát triển ổn định và lâu dài thì ngoài các chính
sách định hướng phát triển hợp lí thì còn cần có lực lượng lao động có chất lượng, mà

sinh viên là lực lượng lao động trẻ, năng động, dồi dào và được đào tạo có thể đáp ứng
được những yêu cầu trong đổi mới nền kinh tế, nắm bắt và sử dụng hiệu quả công
nghệ tiên tiến. Vì vậy đây là nguồn nhân lực rất quan trọng cần được đào tạo và sử
dụng một cách hợp lý hiệu quả. Tình trạng sinh viên thất nghiệp sẽ ảnh hưởng rất
nhiều đến tình hình phát triển nền kinh tế, xã hội của đất nước. Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ IX đã xác định: "Giải quyết việc làm là yếu tố quyết định để phát huy
nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng
nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân"[5, tr.216].
Việc làm không chỉ là sự sống còn của mỗi cá nhân mà nó còn thể hiện tầm
chiến lược của mỗi quốc gia. Việc làm liên quan đến kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội
và các vấn đề về nghèo đói…Trong chiến lược phát triển của mỗi quốc gia, việc làm là
một trong những yếu tố hàng đầu, tại các hội nghị mang tính chất toàn cầu, việc làm
cũng gây được sự chú ý của nhiều đất nước khác nhau. Việc làm không chỉ là nhu cầu
của con người mà còn là nguồn gốc tạo ra của cải, vật chất trong xã hội. Trong xu thế
toàn cầu hóa, vấn đề việc làm có sự liên quan nhất định đến an ninh quốc gia, trật tự xã
hội từ đó sẽ tạo điều kiện hòa nhập với thế giới dễ dàng hơn. Việc làm ảnh hưởng lớn
đến chất lượng cuộc sống của các thành viên trong xã hội, vấn đề việc làm có thể làm
tăng hoặc hạn chế các yếu tố ngoại lai trong quá trình hội nhập.
Cũng như vậy, việc làm cho sinh viên khi ra trường có tầm ý nghĩa quan trọng
đối với sự phát triển xã hội khi các tri thức trẻ có trình độ cao, đầy nhiệt huyết tham
gia vào các hoạt động của xã hội, tránh lãng phí trong đào tạo. Tương tự như nhiều lực
lượng lao động khác, sinh viên sau khi tốt nghiệp đại học đều thiết tha được làm việc
9


tại những nơi có điều kiện phát triển thuận lợi. Điều này hoàn toàn mang tính khách
quan, phản ánh thực tế nhu cầu tâm lý và nhu cầu xã hội của cá nhân.
Có một thực tế đang tồn tại ở nước ta hiện nay đó là tình trạng sinh viên được
đào tạo chính quy nhưng sau khi tốt nghiệp vẫn phải rất vất vả mới có được công việc
ổn định. Việc đa dạng hoá ngành nghề đào tạo vừa mở ra cho sinh viên Việt Nam cơ

hội tiếp cận với khoa học tiến tiến của thế giới, đồng thời đó cũng là những khó khăn,
thách thức đối với mỗi sinh viên. Theo thống kê riêng của chương trình việc làm Báo
Người lao động, bình quân cứ 100 lao động đại học đến đăng ký tìm việc thì có
khoảng 80% trong số này không tìm được việc làm trong 3 tháng đầu sau khi ra
trường; 50% thất nghiệp trong thời gian 6 tháng và sau 1 năm giảm xuống còn 30%.
Trong khi đó bên phía doanh nghiệp nhu cầu về lao động rất lớn nhưng lại không thể
tuyển dụng đúng được vị trí mà mình mong muốn. Nhiều nhà tuyển dụng cho rằng
sinh viên còn quá mơ hồ trong việc định hướng nghề nghiệp tương lai.
Một thương hiệu trong lĩnh vực đào tạo có một thước đo duy nhất để đánh giá
đó là chất lượng đầu ra của người học. Để đáp ứng được nhu cầu cũng như yêu cầu
tuyển dụng của doanh nghiệp hiện nay và giải đáp bài toán về chất lượng đào tạo, bắt
buộc nhà trường không những theo quy củ của chương trình đào tạo mà còn phải nâng
cao năng lực đáp ứng những gì doanh nghiệp đang cần, ngoài cái nhà trường đang có.
Do đó nhà trường cần tập trung phát triển cơ cấu ngành nghề đào tạo, gắn liền với nhu
cầu nguồn nhân lực của doanh nghiệp, mở rộng quan hệ với doanh nghiệp trong và
ngoài nước để tạo cơ hội việc làm bán thời gian cho Học sinh – Sinh viên ngay từ khi
nhập học cũng như việc làm đúng ngành nghề và ổn định sau khi Học sinh – Sinh viên
tốt nghiệp ra trường. Với mục tiêu cung cấp nguồn nhân lực chất lượng đáp ứng nhu
cầu xã hội. Hàng năm, Khoa kinh tế công nghiệp – trường đại học kỹ thuật công
nghiệp đào tạo một lượng lớn cử nhân ra trường. Khoa kinh tế công nghiệp luôn mong
muốn sẽ chủ động trong việc cung cấp nguồn lao động ổn định và có trình độ cao theo
đúng đơn hàng của doanh nghiệp, khắc phục tình trạng "khủng hoảng" thiếu thợ dư
thầy hiện nay, đồng thời nâng cao chất lượng đào tạo.
Đối với thế giới, Quản lý công nghiệp không còn là một ngành mới mẻ, còn ở
Việt Nam, mặc dù đã có mặt trên 20 năm nhưng sự nhận thức của xã hội về vai trò và
tầm quan trọng của ngành Quản lý công nghiệp cũng chưa thực sự đầy đủ và rõ ràng,
nhu cầu của xã hội đối với ngành này cũng không cao…Những yếu tố này đã tạo ra
nhiều khó khăn cho sinh viên ngành Quản lý công nghiệp tìm kiếm việc làm sau khi
tốt nghiệp. Bởi vậy, có thể thấy định hướng đào tạo và đào tạo là rất cần thiết. Đào tạo
thành công không chỉ chú ý đến việc cung cấp cử nhân kinh tế cho xã hội mà còn phải

làm sao cho xã hội hiểu biết nhiều về ngành, về tính chất, vai trò của Quản lý công
nghiệp, từ đó sẽ “kích cầu”, tạo ta cho xã hội có nhu cầu về ngành học nói chung.
10


Đó là những cơ sở cho em hướng nghiên cứu đề tài: “Xây dựng mô hình hỗ
trợ việc làm cho sinh viên ngành Quản lý công nghiệp”. Em hy vọng đây sẽ là một
giải pháp tích cực giúp cho sinh viên có đủ hành trang và tri thức để lựa chọn được
nghề nghiệp phù hợp trong tương lai, đồng thời hỗ trợ cho các doanh nghiệp bố trí hợp
lý nhân lực trong lĩnh vực này. Và có những ý kiến đóng góp trên những khía cạnh cụ
thể để công tác đào tạo của khoa Kinh tế công nghiệp, trường Đại học Kỹ thuật công
nghiệp - Đại học Thái Nguyên đạt hiệu quả cao hơn.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1 Mục đích nghiên cứu

Tìm hiểu thực trạng việc làm của sinh viên ngành Quản lý công nghiệp sau khi
tốt nghiệp trong thời gian gần đây, những yếu tố ảnh hưởng đến cơ hội tìm kiếm việc
làm và đưa ra giải pháp xây dựng mô hình hỗ trợ việc làm cho sinh viên nhằm giúp
sinh viên có thể tìm được công việc tốt sau khi ra trường.
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu

- Đánh giá thực trạng việc làm của sinh viên ngành Quản lý công nghiệp sau khi tốt
nghiệp.
- Phân tích những yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến việc chọn việc làm của sinh viên.
- Thông qua kết quả nghiên cứu, đề xuất giải pháp “ Xây dựng mô hình hỗ trợ việc làm
cho sinh viên ngành quản lý công nghiệp” kiến nghị đối với khoa Kinh tế công nghiệp
Trường Đại học Kỹ thuật công nghiệp - Đại học Thái Nguyên nhằm giúp cho vấn đề tìm
việc làm của sinh viên ngành Quản lý công nghiệp sau khi tốt nghiệp đạt hiệu quả cao
nhất, vận dụng những kiến thức đã được học góp phần vào công cuộc xây dựng đất nước.
3. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu

3.1 Đối tượng nghiên cứu

Thực trạng việc làm của sinh viên ngành Quản lý công nghiệp khoa Kinh tế
công nghiệp - trường Đại học Kỹ thuật công nghiệp Thái Nguyên sau khi tốt nghiệp.
3.2 Khách thể nghiên cứu

Sinh viên tốt nghiệp hệ chính quy học ngành Quản lý công nghiệp khoa Kinh tế
công nghiệp, trường Đại học Kỹ thuật công nghiệp Thái nguyên từ khoá 43 đến khoá 47.
3.3 Phạm vi nghiên cứu

Do tính phức tạp và rộng lớn của vấn đề nghiên cứu cùng những hạn chế khác
trong quá trình nghiên cứu nên em tập trung vào phân tích một số vấn đề cơ bản về
11


thực trạng việc làm của sinh viên ngành Quản lý công nghiệp khoa Kinh tế công
nghiệp, trường Đại học Kỹ thuật công nghiệp Thái nguyên.
Thời gian thực hiện khóa luận: Từ 2/ 2/ 2016 đến 10/ 6/ 2016.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1 Phương pháp phân tích tài liệu

Phương pháp phân tích tài liệu được sử dụng nhằm bổ sung thông tin đề tài
khóa luận. Đề tài sử dụng những tài liệu, sách báo, công trình nghiên cứu có nội dung
liên quan tới vấn đề nghiên cứu để có thể đưa ra những so sánh giữa những kết quả
nghiên cứu đã có và kết quả nghiên cứu của khóa luận.
4.2 Phương pháp trưng cầu ý kiến

Cuộc nghiên cứu được tiến hành chọn mẫu với số lượng là 120 cựu sinh viên
ngành Quản lý công nghiệp gồm các khóa : K43, K44, K45, K46, K47.
Nội dung phiếu trưng cầu ý kiến bao gồm thông tin về thực trạng việc làm,

những kỹ năng cơ bản cần có của sinh viên theo yêu cầu của nhà tuyển dụng, những
gợi ý nhằm nâng cao kỹ năng cơ bản cho sinh viên và một số thông tin cá nhân.
Cách thức chọn mẫu trong điều tra bảng hỏi: Căn cứ vào điều kiện thực tiễn của
địa bàn nghiên cứu là đơn vị đào tạo đại học được chia ra các ngành theo đặc thù
riêng; tiếp đến có sự cân nhắc các yếu tố tỉ lệ giới tính,học lực, thời gian tốt nghiệp…
mà em lựa chọn phương pháp chọn mẫu phân tầng ngẫu nhiên. Theo đó tổng thể mẫu
được chia ra theo từng khóa đào tạo. Cách thức chọn mẫu này cho phép người nghiên
cứu lựa chọn được số lượng đơn vị nghiên cứu cần thiết để các phép tính thống kê có ý
nghĩa hơn.

12


Bảng 1.1. Cơ cấu mẫu khảo sát

Tiêu chí

Số lượng
(người)

Tỷ lệ (%)

1

Giới tính

120

100,0


1.1

Nam

26

21,6

1.2

Nữ

94

78,4

2

Khóa

120

100,0

2.1

Khóa 43

12


10

2.2

Khóa 44

15

12,5

2.3

Khóa 45

24

20

2.4

Khóa 46

32

26,7

2.5

Khóa 47


STT

37

30,8
(Nguồn: Kết quả xử lý phiếu điều tra)

5. Nguồn dữ liệu
Nguồn dữ liệu thứ cấp: Đề tài sử dụng nguồn dữ liệu thu thập từ các tài liệu,
thông tin của khoa Kinh tế công nghiệp - Trường đại học kỹ thuật công nghiệp Thái
Nguyên; Giáo trình Quản trị nhân lực - Trường đại học kinh tế quốc dân; Các tạp
chí Lao động và xã hội; Cuốn sách “Lao động, việc làm và nguồn nhân lực ở Việt Nam
sau 15 năm đổi mới”, của tác giả Nowel Heraff – Yean Yves Martin, NXB Thế giới
mới, Hà Nội, 2001… Các nguồn dữ liệu này được trích dẫn trực tiếp trong đề tài và
được ghi chú chi tiết trong phần tài liệu tham khảo.
Nguồn dữ liệu sơ cấp: Đề tài sử dụng các phương pháp chủ yếu là phương
pháp phỏng vấn trực tiếp và sử dụng phương pháp điều tra dựa trên các bảng câu hỏi;
phương pháp phân tích, tổng hợp từ tài liệu và phương pháp quan sát. Đối tượng được
hỏi là sinh viên chuyên ngành Quản lý công nghiệp đã tốt nghiệp.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Trên phương diện lý luận: Đưa ra cơ sở lý luận về việc xây dựng mô hình hỗ trợ
việc làm cho sinh viên chuyên ngành Quản lý công nghiệp.
13


Trên phương diện thực tiễn: Thất nghiệp là quy luật tất yếu của cung – cầu lao
động trên thị trường. Vấn đề đặt ra ở đây là sinh viên đại học ra trường thiếu hẳn hoạt
động hỗ trợ nghề nghiệp, việc làm từ phía nhà trường. Từ khi Bộ GD-ĐT có chủ
trương khuyến khích mỗi trường nên thành lập một bộ phận tư vấn nghề nghiệp đến
nay, hầu hết các trường chưa chú trọng việc hình thành bộ phận này. Các hoạt động tư

vấn nghề nghiệp, việc làm nếu có thì các trường đặt vào trung tâm hỗ trợ sinh viên,
phòng công tác chính trị và làm chiếu lệ, theo kiểu phong trào. Trong khi đó trên thực
tế việc lấp dần khoảng cách đào tạo – sử dụng lao động hiện nay không thể bỏ quên
công tác tư vấn, định hướng nghề nghiệp cho sinh viên. Do đó việc xây dựng mô hình
hỗ trợ nghề nghiệp, việc làm là rất thiết thực. Bên cạnh ý nghĩa lý luận, đề tài nghiên
cứu còn mang một ý nghĩa thực tiễn, đó là đề tài nghiên cứu không chỉ làm sáng tỏ
thực trạng việc làm của sinh viên ngành Quản lý công nghiệp sau khi tốt nghiệp thông
qua việc xây dựng mô hình hỗ trợ việc làm cho sinh viên. Mặt khác, giúp cho sinh
viên có được nhận thức đầy đủ hơn về chuyên ngành mình đang theo học, đồng thời
đánh giá đúng vị trí và vai trò của ngành trong nền kinh tế hiện nay.
Việc xây dựng mô hình sẽ tạo cơ sở để sinh viên có thể phát triển các kỹ năng
một cách toàn diện hơn, tạo mối quan hệ gắn kết chặt chẽ giữa sinh viên và doanh
nghiệp, giúp cho sinh viên dễ dàng nắm bắt được thông tin doanh nghiệp, lựa chọn
việc làm tốt hơn. Ngoài ra, doanh nghiệp cũng dễ dàng tìm kiếm được nguồn nhân lực
phù hợp với yêu cầu tuyển dụng.
7. Câu hỏi nghiên cứu
1. Sinh viên chuyên ngành Quản lý công nghiệp sau khi ra trường đã có việc làm hay
chưa và phạm vi làm việc của họ như thế nào?
2. Tri thức đã đào tạo có đáp ứng được yêu cầu của nhà tuyển dụng hiện nay?
3. Những yếu tố ảnh hưởng đến cơ hội tìm kiếm việc làm của sinh viên ngành Quản lý công
nghiệp sau khi tốt nghiệp?
4. Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tìm kiếm việc làm cho sinh viên mới ra trường là
gì?
8. Giả thuyết nghiên cứu
Hiện nay, hầu hết sinh viên chuyên ngành Quản lý công nghiệp tốt nghiệp hệ
chính quy trường Đại học Kỹ thuật công nghiệp Thái nguyên, Đại học Thái nguyên (từ
khoá 43 đến khoá 47) ra trường đã có việc làm và phạm vi việc làm của người tốt
nghiệp đại học là khá phân tán, trải rộng trên nhiều lĩnh vực ngành nghề khác nhau.
14



Có một khoảng cách nhất định giữa ngành nghề, kỹ năng được đào tạo và
yêu cầu thực tế của việc làm đòi hỏi sinh viên phải biết, thích nghi và đáp ứng ở
mức độ cao.
Nguồn hỗ trợ thông tin từ bố mẹ, người thân trong gia đình cũng như việc thiếu
các mối quan hệ xã hội và các kỹ năng cần thiết là những nhân tố chính ảnh hưởng tới
quá trình tìm việc của sinh viên sau khi tốt nghiệp.
9. Kết cấu của đề tài bao gồm ba chương
Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài
Chương II: Phân tích thực trạng việc làm của sinh viên chuyên ngành Quản lý công
nghiệp - Đại học kỹ thuật công nghiệp Thái Nguyên sau khi tốt nghiệp.
Chương III: Giới thiệu về mô hình hỗ trợ việc làm cho sinh viên chuyên ngành Quản
lý công nghiệp - Đại học kỹ thuật công nghiệp Thái Nguyên.

15


CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1 Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Nghề nghiệp - việc làm là vấn đề được nhiều ngành khoa học quan tâm nghiên
cứu trước hết không chỉ bởi nó là vấn đề quan trọng và cấp thiết đối với các tầng lớp
nhân dân lao động, đặc biệt là tầng lớp sinh viên mà đó còn là vấn đề chiến lược
trong chương trình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Trong một nghiên cứu do
Viện thanh niên tiến hành tháng 3/2015 cho thấy, trong số 1542 người được hỏi có
72% khẳng định việc làm là mối quan tâm hàng đầu của thanh niên hiện nay; 49%
quan tâm tới học tập và phát triển tài năng; tình yêu và hôn nhân gia đình là mối
quan tâm thứ ba với 37% số sinh viên lựa chọn. Nhưng điều đáng chú ý là, phần
đông họ vẫn chưa hài lòng với công việc đang làm, chỉ có 24,5% số thanh niên được
hỏi là hài lòng với công việc họ đang làm mà thôi. [3, tr. 17].

Trước đây, vấn đề việc làm nói chung và việc làm cho sinh viên sau tốt nghiệp
nói riêng đã trở thành vấn đề nghiên cứu của nhiều đề tài cũng như các cuộc hội thảo
trong nước và đã nhận được sự quan tâm lớn của xã hội. Ví dụ như: “Giải quyết giải
quyết vấn đề lao động và việc làm trong quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa nông
nghiệp, nông thôn”. (Tạp chí Lao động – Xã hội, số 247, đăng từ 16 – 30/9/2004) của
tác giả Nguyễn Hữu Dũng. Trong nghiên cứu đó tác giả có bàn đến thực trạng chất
lượng lao động và việc làm ở nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa,
khi mà lực lượng lao động ngày càng dôi dư, khi mà đất canh tác mất dần…Bên cạnh
đó chất lượng lao động ở khu vực này khó có thể đảm bảo khi tham gia vào các nhà
máy…Trong nghiên cứu tác giả cũng đưa ra những phương hướng và giải pháp cơ
bản để giải quyết việc làm cho đối tượng này ở nông thôn.
Trong bài viết:“Thực trạng lao động việc làm qua kết quả điều tra 1/7/2009”
(Tạp chí Lao động – Xã hội, số 251, từ 7 – 10/11/2009) tác giả Trương Văn Phúc đã đề
cập đến tình trạng lao động và việc làm của lực lượng lao động của các tỉnh, thành phố
cũng như vùng kinh tế trọng điểm. Trong loạt bài viết trên tác giả đã đánh giá một
cách khái quát những kết quả đạt được về giải quyết việc làm cho lực lượng lao động.
Trong cuốn: “Đào tạo nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại
hóa trong điều kiện kinh tế thị trường, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế” (NXB Đại
học Thái nguyên, Nguyễn Minh Đường, Phan Văn Kha, đề tài KX – 05 – 10). Hai
tác giả đã đề cập đến việc đào tạo phát triển nguồn nhân lực, mối quan hệ giữa nguồn
nhân lực với quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Trong đề tài cũng
làm rõ thực trạng lao động và chính sách sử dụng lao động ở nước ta hiện nay còn
nhiều bất cập và mất cân đối. Chất lượng của lao động cũng là một trong những vấn
16


đề được tác giả quan tâm, chất lượng lao động có liên quan đến khả năng cạnh tranh
trong tiến trình hội nhập quốc tế và khu vực. Đề tài còn bàn về nguồn nhân lực được
đào tạo nhưng không có việc làm, thậm chí việc làm không phù hợp với chuyên môn
được đào tạo gây lãng phí về thời gian, tiền của và chất xám…Chính sách sử dụng

lao động còn nhiều quan liêu. Hai tác giả đã kết luận rằng trong nền kinh tế nhiều
thành phần, người lao động phải được đối xử công bằng, cần có những chính sách
phù hợp để sử dụng nguồn lao động một cách hiệu quả nhất, tạo điều kiện cho người
lao động phát huy hết khả năng của bản thân.
Vấn đề trên được nhiều nhà nghiên cứu cũng như hoạch định chính sách quan
tâm với những nghiên cứu, bài viết đăng thường xuyên trên các báo và sách chuyên
khảo. Các đề tài chủ yếu tập trung vào tìm hiểu thực trạng việc làm của sinh viên sau
khi tốt nghiệp, các công trình nghiên cứu và bài viết đã mô tả khá rõ nét và khoa học
về việc làm của nhóm đối tượng này. Đồng thời cũng phản ánh thực trạng mất cân đối
về cơ cấu lao động giữa các khu vực và ngành nghề.
Đề tài: “Việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp hiện nay” của tác giả Lê Văn
Toàn (Học viện Báo chí và Tuyên truyền), trong phạm vi của nghiên cứu tác giả đã cho
thấy giới tính khác nhau, ngành nghề khác nhau thì định hướng giá trị cũng khác nhau.
Còn với đề tài: “Sự bất bình đằng trong cơ hội tìm kiếm việc làm” của tác giả
Nguyễn Mai Anh cũng có đề cập những yếu tố ảnh hưởng đến cơ hội việc làm như:
những đặc điểm xã hội của cá nhân và gia đình, giới tính, ngành học, quê quán…
Tác giả Nguyễn Thị Thơm với: “Thị trường lao động Việt Nam thực trạng và
giải pháp” (NXB Chính trị Quốc gia, HN 2006) vấn đề việc làm và chính sách việc
làm cho người lao động là nội dung chủ yếu của cuốn sách này. Tác giả cũng đưa ra
một nhận định đó là cần phải tôn trọng bản chất thực sự của thị trường lao động. Vai
trò của các cơ sở giáo dục - đào tạo, đánh giá khách quan về vai trò của mô hình xã hội
hóa giáo dục, trong đó có các cơ sở đào tạo ngoài công lập. Cuối cùng tác giả khẳng
định cần đẩy mạnh các hoạt động để chắp nối cung - cầu lao động, tạo cơ sở bình đẳng
cho người lao động tiếp cận với các cơ hội việc làm.
Việc làm cho sinh viên sau tốt nghiệp nhận được mối quan tâm lớn của mọi
tầng lớp xã hội, của các nhà nghiên cứu, các nhà hoạch định chính sách. Nhiều đề tài
nghiên cứu đã đi sâu phân tích thực trạng và những nguyên nhân ảnh hưởng đến hoạt
động tìm kiếm việc làm của sinh viên.
“Quản lý và phát triển nguồn nhân lực xã hội” là tiêu đề cuốn sách của tác giả
Bùi Văn Nhơn (NXB Tư pháp, HN 2006) tác giả đã đánh giá cao vai trò của phát triển

nguồn nhân lực phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa, trong đó có vai
trò của các cơ sở giáo dục – đào tạo, kể cả các cơ sở đào tạo ngoài công lập là chủ yếu.
Sử dụng sao cho hiệu quả nguồn nhân lực xã hội của các loại hình đào tạo này cũng là
17


vấn đề chính được tác giả Bùi Văn Nhơn bàn đến và theo tác giả, đây là nhân tố quyết
định sự phát triển kinh tế - xã hội. Trong “Quản lý và phát triển nguồn nhân lực xã
hội” đã đưa ra một số yếu tố ảnh hưởng đến vấn đề đào tạo việc làm cho người lao
động, tình trạng thiếu việc làm nghiêm trọng còn do chậm đổi mới tư duy trong giải
quyết việc làm như những vấn đề về quan niệm… Trong điều kiện kinh tế - xã hội của
nước ta hiện nay theo tác giả tạo việc làm cho người lao động với quan điểm sử dụng
tối đa tiềm năng lao động xã hội, có quan niệm đúng đắn về việc làm và tự tạo việc
làm là những hình thức hiệu quả hơn cả.
Tác giả Vũ Thị Mai “Tạo việc làm cho người lao động bị ảnh hưởng trong quá
trình đô thị hóa Hà Nội” (NXB Chính trị Quốc gia, HN 2007) tác giả nêu thực trạng
việc làm của người lao động bị ảnh hưởng trong quá trình đô thị hóa và các giải pháp
tạo việc làm cũng như kinh nghiệm của các nước trong khu vực về tạo việc làm cho
người lao động. Theo tác giả, người lao động muốn có việc làm phù hợp, có thu nhập
cao thì đương nhiên phải có kế hoạch thực hiện và đầu tư cho sức lao động của mình,
tức là phải tự mình hoặc dựa vào các nguồn tài trợ từ gia đình, các tổ chức xã hội để
được đào tạo, trau dồi kiến thức, phát triển và nắm vững một nghề nghiệp nhất định -đây
là điều kiện cần thiết cho người lao động khi tham gia vào thị trường lao động.
Tác giả Nguyễn Văn Buồm trong: “Nghề nghiệp và việc làm của sinh viên hiện
nay” cũng đã đề cập đến ba vấn đề: Thứ nhất là việc chọn nghề của sinh viên. Thứ hai là
việc kiếm sống của sinh viên. Thứ ba là việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp.
Về vấn đề đào tạo nghề, có rất nhiều công trình nghiên cứu như luận án tiến sĩ:
“Hoạt động đào tạo nghề cho thanh niên trong điều kiện công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước” của tác giả Nguyễn Thị Vân Hạnh (2008); luận văn thạc sĩ: “Những
giải pháp nâng cao hiệu quả công tác đào tạo nghề cho thanh niên nhằm đáp ứng yêu

cầu của người sử dụng lao động ở tỉnh Vĩnh Phúc” của tác giả Nguyễn Trung Hưng
(2006)… các công trình này đã phân tích tầm quan trọng của đào tạo nghề, nhu cầu
đào tạo nghề của thanh niên trong giai đoạn hiện nay, chỉ ra những mặt mạnh, yếu của
hệ thống này cũng như đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả
của công tác đào tạo nghề trong thời gian tới.
Thực tế những bài báo và công trình nghiên cứu đó đã cho thấy cơ cấu lao
động và việc làm, sự biến đổi các cơ cấu đó trong các thời kỳ khác nhau. Cũng qua đó
các tác giả đã đưa ra những nhận định có sự thay đổi nhất định về nhận thức trong việc
làm và lao động, điều đó cũng tương đồng với chủ trương của Đảng đó là xu hướng tự
tạo việc làm cho bản thân. Tuy vậy quan niệm làm việc trong các cơ quan nhà nước
vẫn còn in sâu trong nhận thức của nhiều lao động hiện nay. Bằng mọi cách sinh viên
sau khi tốt nghiệp tha thiết được làm việc trong môi trường ổn định, thậm chí nhiều lao
18


động sau bao năm làm việc trong môi trường bên ngoài, vẫn có xu hướng vào cơ quan
nhà nước làm việc cho dù phải bỏ ra chi phí không nhỏ và chờ cơ hội khá lâu.
Vấn đề việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp điều cốt lõi là người sinh viên
phải xây dựng được những giá trị năng lực hành nghề chính là xây dựng ý chí, quyết
tâm để có hoài bão và không ngừng học tập. Việc học ở nhà trường chỉ là giai đoạn đầu
của quá trình học tập suốt đời trong một xã hội hiện đại. Người sinh viên sau khi tốt
nghiệp để phát triển nghề nghiệp phải có ý thức mở rộng kiến thức nghề nghiệp, nâng
cao năng lực, tư duy khoa học, độc lập, lao động sáng tạo, phát huy sáng kiến, cải tiến
kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới để không ngừng phát triển kỹ năng nghề nghiệp.
Nhìn chung, các nghiên cứu về đề tài việc làm - nghề nghiệp của sinh viên khá
phong phú điều đó đã cho thấy một bức tranh toàn cảnh về thực trạng lao động - việc
làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp cũng như tầm quan trọng của quan hệ đào tạo việc làm. Trên thế giới đã có nhiều mô hình tổ chức xã hội nhằm hướng đến mục tiêu
kết nối hai lĩnh vực việc làm và đào tạo như mô hình “việc làm căn cứ theo đào tạo”
lấy đào tạo làm nền tảng của Pháp, “đào tạo song song” trong doanh nghiệp hay trên
giảng đường của Đức hoặc mô hình đào tạo thông qua việc làm của khối Anh - Mỹ.

Trong một báo cáo của Ngân hàng Châu Á (Asia Development Bank) cũng đã nhấn
mạnh: “Việc phát triển các hoạt động có giá trị thặng dư cao đòi hỏi phải tăng cường
tiềm năng công nghệ của các nguồn lao động - cái mà khu vực Đông Nam Á hiện nay
đang cần chính là nguồn lao động có khả năng thích ứng mềm dẻo và có tính chuyên
môn cao”. Theo báo cáo này, cần phải hội tụ đủ cả hai yếu tố đó, tức là khả năng thích
ứng (đặt trước) và trình độ đào tạo (đặt sau) mới có thể cạnh tranh và thành công được.
Như vậy, nhiệm vụ đặt ra cho đất nước ta hiện nay đó là làm thế nào để tăng cường
mối liên hệ chặt chẽ giữa đào tạo và việc làm, đáp ứng được những nhu cầu, đòi hỏi
ngày càng cao của xã hội hiện đại.
Trên đây là những cơ sở để xây dựng mô hình hỗ trợ việc làm cho sinh viên
nhằm giải quyết vấn đề việc làm của sinh viên ngành quản lý công nghiệp. Kết quả của
đề tài sẽ cho thấy thực trạng của sinh viên ngành quản lý công nghiệp sau khi tốt
nghiệp, đồng thời cũng gợi mở về giải pháp xây dựng mô hình hỗ trợ việc làm cho
sinh viên đối với ngành quản lý công nghiệp nói riêng và trường Đại học Kỹ thuật
công nghiệp nói chung nhằm phát huy những kết quả đã đạt được và góp phần thúc
đẩy công tác đào tạo có hiệu quả nhất.

19


1.2 Khái niệm về lao động
1.2.1 Khái niệm lao động

Theo giáo trình tổ chức lao động khoa học: “Lao động là hoạt động có mục đích
của con người, nhằm thỏa mãn những nhu cầu về đời sống của mình, là điều kiện tất
yếu để tồn tại và phát triển của xã hội loài người”. [1, tr. 17].
Quá trình lao động đồng thời là quá trình sử dụng sức lao động, sức lao động là
năng lực của con người nó bao gồm cả thể lực và trí lực, nó là yếu tố tích cực đóng vai
trò trung tâm trong suốt quá trình lao động, là yếu tố khởi đầu, quyết định trong quá
trình sản xuất, sản phẩm hàng hoá có thể được ra đời hay không thì nó phải phụ thuộc

vào quá trình sử dụng sức lao động.
Bản thân cá nhân mỗi con người trong nền sản xuất xã hội đều chiếm những
vị trí nhất định, mỗi vị trí mà người lao động chiếm giữ trong hệ thống sản xuất xã
hội với tư cách là một sự kết hợp của các yếu tố khác trong quá trình sản xuất được
gọi là chỗ làm hay việc làm.
Như vậy việc làm là một phạm trù tồn tại khách quan trong nền sản xuất xã
hội, phụ thuộc vào các điều kiện hiện có của nền sản xuất. Người lao động được coi
là có việc làm khi chiếm giữ một vị trí nhất định trong hệ thống sản xuất của xã
hội. Nhờ có việc làm mà người lao động mới thực hiện được quá trình lao động tạo
ra sản phẩm cho xã hội, cho bản thân.
1.2.2 Khái niệm nguồn lao động

-

Nguồn lao động bao gồm những người đủ 15 tuổi trở lên có việc làm và
những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động nhưng đang thất nghiệp,
những người đang đi học đang làm nội trợ trong gia đình, hoặc không có nhu cầu
làm việc và những người thuộc tình trạng khác (người nghỉ hưu trước tuổi theo quy
định của Bộ luật lao động).
Quy mô của nguồn lao động phụ thuộc vào 3 yếu tố sau:
Quy mô phát triển dân số: Quy mô dân số càng lớn tốc độ tăng dân số càng
cao thì dẫn đến quy mô và tốc độ tăng nguồn nhân lực càng lớn và ngược lại.
Tỷ lệ nguồn lao động trong dân số
Điều kiện kinh tế xã hội của từng nước: Dân số và nguồn lao động là hai phạm
trù tương đối độc lập với nhau. Quy mô và cơ cấu dân số quyết định đến quy mô và
cơ cấu của nguồn lao động, dân số đông tỷ lệ nguồn lao động trong dân số lớn và
ngược lại. Nguồn lao động nằm trong dân số bao gồm toàn bộ những người nằm
trong độ tuổi lao động không kể đến tình trạng có việc làm hoặc không có việc làm.
Có nghĩa là tất cả những người có khả năng lao động trong dân số, tính theo tuổi
lao động đều thuộc nguồn lao động.

20


Tùy theo đặc điểm dân số từng nước mà tỷ lệ nguồn lao động trong dân số khác
nhau, nhưng nhìn chung tỷ lệ này thường lớn hơn 50% dân số (xấp xỉ 52%). Xuất phát
từ đặc điểm dân số từng nước như vậy mà số người trong độ tuổi lao động của mỗi
nước cũng khác. Các nước có nền kinh tế chậm phát triển tỷ lệ nguồn lao động thấp
(khoảng 55- 57%) so với các nước công nghiệp phát triển (khoảng 64-66%) chính vì
thế mà gánh nặng về số người không lao động ở các nước nghèo nặng hơn.
Để xác định khả năng lao động của xã hội, người ta quy định ra loại lao động
chính theo tỷ lệ 1:3 đối với người dưới tuổi và 1:2 đối với người trên tuổi lao động.
Tiềm năng nguồn lao động và việc sử dụng hợp lý nguồn lao động ở mỗi quốc
gia, mỗi hình thái kinh tế xã hội khác nhau thì có quan điểm khác về lao động từ đó
xây dựng tiềm năng về nguồn lao động là toàn bộ những người trong độ tuổi lao động
đã được giới hạn độ tuổi trong dân số tuỳ theo từng nước mà nó được bao gồm nguồn
lao động đang tham gia vào hoạt động kinh tế và nguồn lao động có khả năng lao động
nhưng vì nhiều lý do khác nhau chưa tham gia vào hoạt động kinh tế.
1.3 Các lý thuyết về việc làm
1.3.1 Khái niệm việc làm

-

Việc làm là một phạm trù tổng hợp liên kết các quá trình kinh tế, xã hội và nhân
khẩu, là một trong những vấn đề chủ yếu nhất của toàn bộ xã hội. Khái niệm việc làm
và khái niệm lao động không giống nhau nhưng có quan hệ chặt chẽ với nhau. Việc
làm thể hiện mối quan hệ của con người với những chỗ làm việc cụ thể, là những giới
hạn xã hội cần thiết trong đó lao động diễn ra, đồng thời nó là điều kiện cần thiết để
thỏa mãn nhu cầu xã hội về lao động, là nội dung chính của hoạt động con người.
Trên cơ sở vận dụng khái niệm việc làm của ILO vào điều kiện cụ thể của nước
ta, bộ luật Lao động Việt Nam tại điều 13 chương II (luật sửa đổi, bổ sung năm 2002)

quy định: “Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều
được thừa nhận là việc làm”. Như vậy, theo bộ luật Lao động Việt Nam, hoạt động lao
động được coi là việc làm phải đảm bảo hai điều kiện: một là, hoạt động đó phải tạo ra
thu nhập - đây được coi là điều kiện cần; hai là, hoạt động đó phải đảm bảo tính pháp
lý, nghĩa là hoạt động đó được pháp luật cho phép hoặc không cấm - đây được coi là
điều kiện đủ để hoạt động lao động đó trở thành việc làm.
Tuỳ từng cách phân loại mà ta có các hình thức việc làm ở đây ta chỉ tiếp cận
hai hình thức sau:
Việc làm chính: là công việc mà người thực hiện giành nhiều thời gian
nhất hoặc có thu nhập cao hơn so với công việc khác.
Việc làm phụ: là công việc mà người thực hiện giành nhiều thời gian nhất
sau công việc chính.
21


Với việc nghiên cứu đặc điểm, khái niệm và phân loại việc làm giúp cho ta hiểu
rõ hơn về việc làm từ đó đưa ra những tiêu chí đánh giá một cách sâu hơn nhằm xác
định được các mục tiêu và giải pháp trong việc lập kế hoạch việc làm.
1.3.2 Vai trò và ý nghĩa của việc làm

Việc làm có vai trò, ý nghĩa quan trọng trong đời sống xã hội, nó không thể
thiếu đối với từng cá nhân và toàn bộ nền kinh tế, là vấn đề cốt lõi và xuyên suốt trong
các hoạt động kinh tế, có mối quan hệ mật thiết với kinh tế và xã hội, nó chi phối toàn
bộ mọi hoạt động của cá nhân và xã hội.
Đối với từng cá nhân thì có việc làm đi đôi với có thu nhập để nuôi sống
bản thân mình, vì vậy nó ảnh hưởng trực tiếp và chi phối toàn bộ đời sống của cá
nhân. Việc làm ngày nay gắn chặt với trình độ học vấn, trình độ tay nghề của từng
cá nhân, thực tế cho thấy những người không có việc làm thường tập trung vào
những vùng nhất định (vùng đông dân cư khó khăn về điều kiện tự nhiên, cơ sở hạ
tầng,..), vào những nhóm người nhất định (lao động không có trình độ tay nghề,

trình độ văn hoá thấp,..).
Đối với kinh tế thì lao động là một trong những nguồn lực quan trọng, là đầu
vào không thể thay thế đối với một số ngành, vì vậy nó là nhân tố tạo nên tăng trưởng
kinh tế và thu nhập quốc dân, nền kinh tế luôn phải đảm bảo tạo cầu và việc làm cho
từng cá nhân sẽ giúp cho việc duy trì mối quan hệ hài hoà giữa việc làm và kinh tế, tức
là luôn bảo đảm cho nền kinh tế có xu hướng phát triển bền vững, ngược lại nó cũng
duy trì lợi ích và phát huy tiềm năng của người lao động.
Đối với xã hội thì mỗi một cá nhân, gia đình là một yếu tố cấu thành nên xã hội,
vì vậy việc làm cũng tác động trực tiếp đến xã hội, một mặt nó tác động tích cực, mặt
khác nó tác động tiêu cực. Khi mọi cá nhân trong xã hội có việc làm thì xã hội đó được
duy trì và phát triển do không có mâu thuẫn nội sinh trong xã hội , không tạo ra các
tiêu cực, tệ nạn trong xã hội, con người được dần hoàn thiện về nhân cách và trí tuệ…
Ngược lại khi nền kinh tế không đảm bảo đáp ứng về việc làm cho người lao động có
thể dẫn đến nhiều tiêu cực trong đời sống xã hội và ảnh hưởng xấu đến sự phát triển
nhân cách con người. Con người có nhu cầu lao động ngoài việc đảm bảo nhu cầu đời
sống còn đảm bảo các nhu cầu về phát triển và tự hoàn thiện, vì vậy trong nhiều
trường hợp khi không có việc làm sẽ ảnh hưởng đến lòng tự tin của con người, sự xa
lánh cộng đồng và là nguyên nhân của các tệ nạn xã hội.
Ngoài ra khi không có vệc làm trong xã hội sẽ tạo ra các hố ngăn cách giàu
nghèo là nguyên nhân nảy sinh ra các mâu thuẫn và nó ảnh hưởng đến tình hình chính
trị. Vai trò việc làm đối với từng cá nhân, kinh tế, xã hội là rất quan trọng, vì vậy để

22


đáp ứng được nhu cầu việc làm của toàn xã hội đòi hỏi nhà nước phải có những chiến
lược, kế hoạch cụ thể đáp ứng được nhu cầu này.
1.4 Khái niệm, phân loại thất nghiệp
1.4.1 Khái niệm, phân loại


Thất nghiệp là hiện tượng thiếu việc làm so với những mong muốn của người
lao động được làm việc. Thất nghiệp gắn liền với việc không có thu nhập để đảm bảo
cuộc sống của bản thân và gia đình.
Theo tổ chức Lao động quốc tế (ILO), “Thất nghiệp là tình trạng tồn tại một số
người trong lực lượng lao động muốn làm việc nhưng không thể tìm được việc làm ở
mức lương thịnh hành”. [4, tr. 18].
Hội nghị Thống kê Lao động Quốc tế lần thứ tám năm 1954 tại Giơnevơ đưa ra
định nghĩa: “Thất nghiệp là người đã qua một độ tuổi xác định mà trong một ngành
hoặc một lĩnh vực xác định thuộc những loại sau đây:
-

Người lao động có thể đi làm nhưng hết hạn hợp đồng hoặc bị tạm ngừng hợp đồng,
đang không có việc làm và đang tìm việc làm.
- Người lao động có thể đi làm trong một thời gian xác định và đang tìm việc làm có
lương mà trước đó chưa hề có việc làm, hoặc vị trí hành nghề cuối cùng trước đó
không phải là người làm công ăn lương
- Người không có việc làm và có thể đi làm ngay và đã có sự chuẩn bị cuối cùng để làm
một công việc mới vào một ngày nhất định sau một thời kỳ đã được xác định.
- Người phải nghỉ việc tạm thời hoặc không thời hạn mà không có lương.
Các định nghĩa tuy có khác nhau về mức độ, giới hạn (tuổi, thời gian mất việc) nhưng
đều thống nhất người thất nghiệp ít nhất phải có 3 đặc trưng:
• Có khả năng lao động
• Đang không có việc làm
• Đang đi tìm việc làm.
Khái niệm thất nghiệp ở Việt nam: “Thất nghiệp là những người trong độ tuổi
lao động và có khả năng lao động, có nhu cầu việc làm nhưng đang không có việc làm
hoặc đang đi tìm việc làm”.
Thất nghiêp, đó là vấn đề cả thế giới cần quan tâm. Bất kỳ một quốc gia nào dù
nền kinh tế có phát triển đến đâu đi chăng nữa thì vẫn tồn tại vấn đề thất nghiệp đó là
vấn đề không tránh khỏi chỉ có điều ở mức độ cao hay thấp mà thôi.

Phân loại thất nghiệp
 Phân theo loại hình thất nghiệp:
- Thất nghiệp chia theo giới tính (nam, nữ).
- Thất nghiệp chia theo lứa tuổi (tuổi, nghề).
- Thất nghiệp chia theo vùng lãnh thổ (thành thị, nông thôn).
23



-

Thất nghiệp chia theo ngành nghề ( ngành kinh tế, nông nghiệp…).
Thất nghiệp chia theo dân tộc chủng tộc.
Phân loại theo lý do thất nghiệp:
Do bỏ việc: Tự ý xin thôi việc vì những lý do khác nhau như cho rằng lương thấp,
không hợp nghề, hợp vùng…
- Do mất việc: Các công ty cho thôi việc do gặp khó khăn trong kinh doanh
- Do mới vào: Lần đầu bổ sung vào lực lượng lao động nhưng chưa tìm được việc làm
( thanh niên đến tuổi lao động đang tìm kiếm việc làm, sinh viên tốt nghiệp đang chờ
công tác...)
- Quay lại: Những người đã rời khỏi lực lượng lao động nay muốn quay lại làm việc
nhưng chưa tìm được việc làm.
Như vậy thất nghiệp là con số mang tính thời điểm nó luôn biến đổi không ngừng theo
thời gian. Thất nghiệp kéo dài thường xảy ra trong nền kinh tế trì trệ kém phát triển và
khủng hoảng.
 Phân loại theo nguồn gốc thất nghiệp:
- Thất nghiệp tạm thời: Thất nghiệp tạm thời xảy ra khi có một số người lao động trong
thời gian tìm kiếm công việc hoặc nơi làm việc tốt hơn, phù hợp với ý muốn riêng
( lương cao hơn, gấn nhà hơn…)
- Thất nghiệp cơ cấu: Thất nghiệp cơ cấu xảy ra khi có sự mất cân đối cung cầu giữa các

thị trường lao động (giữa các ngành nghề, khu vực…) loại này gắn liền với sự biến
động cơ cấu kinh tế và khả năng điều chỉnh cung của các thị trường lao động
- Thất nghiệp do thiếu cầu: Do sự suy giảm tổng cầu. Loại này còn được gọi là thất
nghiệp chu kỳ bởi ở các nền kinh tế thị trường nó gắn liền với thời kỳ suy thoái của
chu kỳ kinh doanh, xảy ra ở khắp mọi nơi, mọi nền kinh tế.
- Thất nghiệp do yếu tố ngoài thị trường: Nó xảy ra khi tiền lương được ấn định không bởi
các lực lượng thị trường và cao hơn mức cân bằng thực tế của thị trường lao động.
1.4.2 Các nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng thất nghiệp

Một là, nước ta có điểm xuất phát kinh tế thấp, thiếu những điều kiện vật chất
cần thiết để thay đổi nhanh chóng cơ cấu kinh tế. Về trình độ dân trí còn thấp, dân số
lại tăng nhanh dẫn đến lượng người tham gia lực lượng lao động mỗi năm tăng nhanh,
lao động trình độ cao ít.
Hai là, trong cơ chế cũ, chúng ta đã khuyến khích người lao động tìm việc trong
khu vực quốc doanh và thực hiện chính sách bao cấp nặng nề làm triệt tiêu động lực cố
gắng của người lao động trong việc tự nâng cao trình độ của mình.
Ba là, hệ thống chính sách giải quyết việc làm còn nhiều bất cập, mạng lưới
dịch vụ việc làm chưa hoạt động rộng rãi.
Bốn là, số doanh nghiệp trên đầu dân số còn thấp; do kinh tế khó khăn đang bị
phá sản hàng loạt nên khả năng tạo việc làm và thu hút lao động rất hạn chế. Chính
24


sách tiền lương, thu nhập chưa động viên được người lao động gắn bó với công việc.
Quản lý nhà nước với thị trường lao động, việc làm chưa chặt chẽ, những tranh chấp
lao động diễn ra phức tạp; cơ cấu lao động chưa phù hợp với sự chuyển đổi cơ cấu
kinh tế.
Năm là, tỷ lệ lao động qua đào tạo và đào tạo nghề thấp, kỹ năng tay nghề, thể
lực còn yếu, kỷ luật lao động, tác phong làm việc công nghiệp chưa cao. Người lao
động thất nghiệp, thiếu việc làm, nhất là trong nông nghiệp còn đông. Chất lượng

nguồn lực lao động nước ta còn thấp; di chuyển lao động tự phát từ nông thôn ra thành
thị, vào các khu công nghiệp tập trung và ra nước ngoài kéo theo nhiều vấn đề xã hội
như “chảy máu chất xám”, buôn bán phụ nữ, trẻ em..
Sáu là, cơ cấu ngành nghề đào tạo chuyên môn kỹ thuật chưa đáp ứng yêu cầu
của nền kinh tế. Hệ thống giao dịch trên thị trường lao động yếu kém, chưa phát triển.
Năng lực cạnh tranh sản phẩm, cạnh tranh doanh nghiệp, cạnh tranh kinh tế quốc tế
của Việt Nam còn yếu.
1.5 Chính sách tạo việc làm
1.5.1 Khái niệm

Chính sách việc làm là một trong những chính sách xã hội cơ bản nhất của
quốc gia, góp phần bảo đảm an toàn, trật tự xã hội. Chính sách việc làm được thể
chế bằng văn bản Pháp luật của Nhà nước thể hiện một hệ thống các quan điểm,
chủ trương, phương hướng và biện pháp để giải quyết việc làm cho người lao động
giúp ổn định và phát triển xã hội.
Đối tượng của chính sách việc làm là những người lao động chưa có việc
làm, thất nghiệp, hoặc thiếu việc làm.
Lao động là nguồn lực quan trọng để phát triển đất nước. Giải quyết việc làm
cho người lao động vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển. Đảng và Nhà nước
ta luôn luôn quan tâm đến vấn đề việc làm cho người lao động. Đảng và Nhà nước
ta đã khẳng định việc giải quyết việc làm cho người lao động "Giải quyết việc làm
và đảm bảo cho mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm là trách
nhiệm của Nhà nước, các doanh nghiệp và toàn xã hội". Đại hội toàn quốc lần thứ
XII của Đảng đã đề ra mục tiêu: "Giải quyết việc làm cho 8 triệu lao động... Tỷ lệ
hộ nghèo giảm bình quân 2%/năm, tỉ lệ lao động qua đào tạo đạt 55%... Phát triển
đa dạng các ngành, nghề để tạo nhiều việc làm và thu nhập; khuyến khích tạo thuận
lợi để người lao động học tập nâng cao trình độ lao động, tay nghề; đồng thời có cơ
chế chính sách phát triển, trọng dụng nhân tài”. Nhà nước hàng năm đang nỗ lực
tạo những điều kiện cần thiết, hỗ trợ tài chính, cho vay vốn hoặc miễn, giảm thuế
và áp dụng các biện pháp khuyến khích để người lao động có khả năng tự giải

25


×