Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

C1 ĐẠI CƯƠNG VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.26 KB, 11 trang )

==============================Chương I: Đại cương về Nhà nước và Pháp luật

CHƯƠNG I
ĐẠI CƯƠNG VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
I. ĐẠI CƯƠNG VỀ NHÀ NƯỚC
1. Nguồn gốc và sự ra đời của Nhà nước
1.1. Chế độ cộng sản nguyên thủy - Tổ chức Thị tộc, Bào tộc, Bộ lạc

Cơ sở kinh tế đặc trưng cho xã hội cộng sản nguyên thủy là chế độ sở
hữu chung về tư kiệu sản xuất, lực lượng sản xuất thấp kém, công cụ sản xuất thô sơ,
năng suất lao động thấp, xã hội chưa phân chia giai cấp và không có đấu tranh giai
cấp.

Tế bào của xã hội không phải là gia đình mà là thị tộc được tổ chức theo
huyết thống. Ở giai đoạn đầu, do điều kiện kinh tế - xã hội – hôn nhân, thì tộc được tổ
chức theo chế độ mâu hệ, dần dần sự thay đổi kinh tế làm thay đổi quan hệ trong hôn
nhân, chế độ mẫu hệ chuyển thành chế độ phụ hệ.
1.2. Quyền lực xã hội và quy phạm xã hội trong chế độ cộng sản nguyên thủy
a) Quyền lực xã hội
Thị tộc cần đến quyền lực để duy trì trật tự, quyết định sự tồn vong của xã hội.
Thị tộc cũng cần một hệ thống tổ chức để thực hiện quyền lực. Hệ thống đó bao gồm:
 Hội đồng Thị tộc: là tổ chức quyền lực cao nhất của Thị tộc, bao gồm tất cả
thành viên đã trưởng thành của Thị tộc, không phân biệt là đàn ông hay đàn bà đều là
thành viên của hội đồng  quyết định tập thể về những vấn đề liên quan đến Thị tộc
như chiến tranh, hòa bình, nghi lễ tôn giáo, giải quyết tranh chấp nội bộ  nên về cơ
bản, được mọi thành viên của Thị tộc tự giác thực hiện, nếu có một thành viên nào đó
không tự giác chấp hành, phải chịu quyết định cưỡng chế của tập thể Thị tộc.
 Tù trưởng: là người đứng đầu Thị tộc do Hội đồng thị tộc bầu ra trong số
người cao tuổi. Khi nào xảy ra chiến tranh Thị tộc bầu ra thủ lĩnh quân sự. Tù trưởng,
thủ lĩnh quân sự không có đặc quyền so với thành viên khác, nhưng có quyền lực rất
lớn, bởi uy tín và sự ủng hộ của mọi thành viên trong Thị tộc.


Trong xã hội Cộng sản nguyên thủy quyền lực đã tồn tại, có hiệu lực thực tế rất
cao, tính cưỡng chế mạnh, nhưng đó là quyền lực xã hội. Quyền lực ấy có đặc điểm:
♦ Không tách rời khỏi xã hội, hòa nhập và thuộc về xã hội, do toàn thể thành
viên xã hội tổ chức ra;
♦ Phục vụ lợi ích cả cộng đồng;
♦ Không có bộ máy cưỡng chế riêng để thực hiện sự cưỡng chế.
Bào tộc là tổ chức cao hơn Thị tộc, do một số Thị tộc có quan hệ hôn nhân với
nhau hợp thành. Bào tộc hình thành vào giai đoạn xã hội có một trình độ phát triển
nhất định. Bào tộc là một liên minh bao gồm nhiều Thị tộc hợp lại. Tổ chức quyền lực
cũng tương tự như trong Thị tộc nhưng mức độ tập trung cao hơn. Hội Đồng Bào Tộc
bao gồm các Tù trưởng và Thủ lĩnh quân sự của các Thị tộc. Hội đồng quyết định
những vấn đề quan trọng của Bào Tộc.

====================================================================

1


==============================Chương I: Đại cương về Nhà nước và Pháp luật

Bộ lạc bao gồm nhiều Bào tộc liên minh lại. Tổ chức quyền lực cũng tương tự
như trong Thị tộc và Bào tộc nhưng ở mức độ tập trung cao hơn. Dù vậy, quyền lực
vẫn mang tính xã hội, phục vụ lợi ích chung của mọi thành viên trong Bộ lạc.
b) Quy phạm xã hội
Xã hội cần có một trật tự, các thành viên xã hội phải tuân theo chuẩn mực
chung thống nhất, phù hợp với điều kiện xã hội và lợi ích tập thể  các tập quán dần
dần được hình thành  được xã hội chấp nhận, trở thành quy tắc xử sự chung mang
tính đạo đức cao  quy phạm xã hội.
1.3. Sự tan rã của chế độ Cộng sản nguyên thủy và sự xuất hiện Nhà nước
Công cụ lao động cải tiến, con người phát triển cả về thể lực và trí lực, lực

lượng sản xuất không ngừng phát triển  xã hội Cộng sản nguyên thủy đã lần lượt
trải qua ba lần phân công lao động lớn:
♦ Lần phân công lao động thứ nhất ngành chăn nuôi tách khỏi ngành trồng trọt
(thuần dưỡng động vật  tích lũy);
♦ Lần phân công lao động thứ hai, thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp (tìm
được kim loại mới: sắt);
♦ Lần phân công thứ ba thương nghiệp ra đời (trao đổi hàng hóa phát triển, xuất
hiện tiền, cho vay…)
Sau lần phân công lao động đầu tiên, chế độ tư hữu đã xuất hiện, xã hội đã có
sự phân chia thành kẻ giàu, người nghèo. Chế độ tư hữu làm xuất hiện chế độ hôn
nhân từ quần hôn đến chế độ một vợ một chồng, là điều kiện để các gia đình nhỏ được
hình thành và trở thành những đơn vị kinh tế độc lập, tự quyết định sản xuất và định
đoạt sản phẩm do kết quả sản xuất của mình tạo ra. Gia đình xuất hiện đe dọa đời sống
cộng đồng thị tộc. Trong quá trình lao động, nhờ tích lũy được kinh nghiệm, có cơ
hội, một số người trở lên giàu có, trong lúc một số khác lại rất nghèo khó.
Cùng với hiện tượng phân hóa trên, các Tù trưởng, Thủ lĩnh quân sự lợi dụng
quyền lực của Thị tộc trước đây giao cho để phục vụ lợi ích riêng và trở thành giai
cấp bóc lột. Trong lúc đó một bộ phận khác là đa số dân cư không còn tư liệu sản
xuất, lâm vào tình cảnh khốn khổ, cùng với tù binh chiến tranh được giữ lại thay vì bị
giết hợp thành giai cấp nô lệ - giai cấp bị bóc lột.
Xã hội xuất hiện giai cấp và mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa. Cuộc đấu
tranh một mất một còn giữa hai giai cấp, giai cấp thống trị và giai cấp bị trị, là điều
không tránh khỏi. Xã hội có nguy cơ diệt vong.
Trước tình hình xã hội như vậy, quyền lực công cộng của Thị tộc và hệ thống
quản lý của nó chỉ phù hợp với một xã hội không có mâu thuẫn nội tại, nay không còn
phù hợp nữa, đòi hỏi phải có một tổ chức mới. Tổ chức đó phải dập tắt xung đột công
khai giữa các giai cấp, giữ cho công chúng ở trong vòng trật tự ổn định, bảo vệ quyền
lợi của giai cấp nắm kinh tế, giai cấp thống trị. Tổ chức đó là Nhà nước.
Tiền đề kinh tế của sự ra đời của Nhà nước là chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất.
Tiền đề kinh tế là cơ sở vật chất chủ yếu tạo ra tiền đề xã hội cho sự ra đời Nhà nước,

đó là sự phân chia xã hội thành giai cấp và sự đối kháng giai cấp không thể điều hòa.
2. Bản chất và đặc điểm của Nhà nước
====================================================================

2


==============================Chương I: Đại cương về Nhà nước và Pháp luật

Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, có một bộ máy
chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện chức năng quản lý đặc biệt, nhằm
duy trì trật tự xã hội, thực hiện mục đích bảo vệ địa vị của giai cấp thống trị trong
xã hội có giai cấp.
Làm rõ bản chất Nhà nước tức là xác định Nhà nước của ai, là công cụ của giai
cấp nào, phục vụ chủ yếu cho giai cấp nào trong xã hội.
Từ sự phân tích nguồn gốc của nhà nước, xét về bản chất, Nhà nước trước hết là
bộ máy trấn áp đặc biệt của giai cấp này đối với giai cấp khác trong xã hội, là bộ máy
để duy trì sự thống trị của giai cấp. Trong xã hội có giai cấp đối kháng, sự thống trị
của giai cấp này đối với giai cấp khác thể hiện trên mọi lĩnh vực: kinh tế, chính trị, tư
tưởng...
Nói bản chất của Nhà nước là tính giai cấp không có nghĩa là phủ định hoàn toàn
vai trò xã hội của Nhà nước, dù đó là Nhà nước của giai cấp bóc lột. Một Nhà nước sẽ
khó tồn tại nếu chỉ phục vụ lợi ích đơn thuần của giai cấp thống trị mà không tính đến
lợi ích, nguyện vọng tối thiểu của các giai tầng khác trong xã hội. Trong một chừng
mực nào đó, Nhà nước phải thực hiện đầy đủ mọi chức năng xã hội của mình như vấn
đề an toàn và an ninh quốc gia, vấn đề thiên tại, địch họa...
Học thuyết Mác-Lênin về Nhà nước chỉ rõ Nhà nước có những đặc điểm sau:
1) Nhà nước thiết lập một quyền lực công cộng đặc biệt, hầu như tách khỏi xã hội
không còn hòa nhập vào dân cư như trong chế độ Thị tộc;
2) Nhà nước phân chia dân cư theo lãnh thổ thành đơn vị hành chính không phụ thuộc

chính kiến, huyết thống, nghề nghiệp hoặc giới tính;
3) Nhà nước có chủ quyền quốc gia;
4) Nhà nước nước ban hành pháp luật có tính bắt buộc chung và mọi người đều phải
thực hiện
5) Nhà nước quy định và thực hiện việc thu các loại thuế dưới hình thức bắt buộc.
3. Chức năng của Nhà nước
Chức năng nhà nước là những phương diện hoạt động của Nhà nước nhằm
thực hiện những nhiệm vụ đặt ra trước Nhà nước. Chức năng nhà nước được xác
định xuất phát từ bản chất nhà nước, do cơ sở kinh tế và cơ cấu giai cấp của xã hội
quyết định, phản ánh tập trung và đầy đủ bản chất của Nhà nước. Chức năng nhà nước
luôn gắn liền với từng giai đoạn phát triển của chính bản thân Nhà nước, phụ thuộc
vào mục đích và yêu cầu hoạt động của Nhà nước trong từng giai đoạn phát triển xã
hội và chi phối nhiệm vụ cụ thể của Nhà nước.
Căn cứ vào phạm vi hoạt động của Nhà nước, chức năng của Nhà nước được
phân biệt thành chức năng đối nội và chức năng đối ngoại. Hai chức năng này có mối
quan hệ mật thiết, tác động qua lại và thống nhất với nhau, thể hiện bản chất nhà nước
và mục đích của mỗi nhà nước trong mỗi thời kỳ phát triển nhất định.
 Chức năng đối nội là hoạt động của Nhà nước trong nội bộ đất nuớc với hai
nội dung chính: 1)Trấn áp và bảo vệ, 2) Tổ chức và xây dựng.
 Chức năng đối ngoại thể hiện vai trò của Nhà nước trong mối quan hệ với
các quốc gia, dân tộc khác và các tổ chức quốc tế. Nội dung chủ yếu là hợp tác hữu
====================================================================

3


==============================Chương I: Đại cương về Nhà nước và Pháp luật

nghị với các dân tộc, các quốc gia và bảo vệ đất nước trước khả năng xâm lược của kẻ
thù bên ngoài.

Các hình thức thực hiện chức năng đối nội và đối ngoại: 3 hình thức chủ yếu
là xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện và bảo vệ pháp luật. Nội dung của các hình
thức đó tùy thuộc vào bản chất của Nhà nước, tùy thuộc vào trình độ phát triển kinh
tế-xã hội và tương quan lực lượng giai cấp trong từng giai đoạn phát triển của Nhà
nước.
Phương pháp thực hiện các chức năng nhà nước, có sự khác nhau giữa các
kiểu nhà nước. Nhìn chung, có hai phương pháp chủ yếu là thuyết phục và cưỡng chế.
Đối với các Nhà nước của giai cấp bóc lột thì phương pháp cưỡng chế là chủ yếu, còn
với Nhà nước xã hội chủ nghĩa thì lại coi trọng công tác thuyết phục, động viên.
Chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước là hai khái niệm rất gần gũi với nhau
nhưng không đồng nhất. Chức năng là phương diện hoạt động mang tính định hướng.
Để thực hiện chức năng của mình, Nhà nước có thể xác định các nhiệm vụ trong mỗi
giai đoạn phát triển với hoàn cảnh cụ thể. Nhiệm vụ của Nhà nước là bước cụ thể hóa
chức năng nhà nước, thể hiện cụ thể bản chất nhà nước.
4. Kiểu nhà nước và Hình thức nhà nước
4.1. Khái niệm kiểu nhà nước
Kiểu nhà nước là tổng thể các dấu hiệu cơ bản đặc thù của nhà nước, thể
hiện bản chất giai cấp và những điều kiện tồn tại, phát triển của nhà nước trong
một hình thái kinh tế-xã hội nhất định.
Trong lịch sử xã hội đã tồn tại các hình thái kinh tế-xã hội cơ bản, tương ứng
với đó là bốn kiểu nhà nước:
+ Hình thái kinh tế-xã hội Cộng sản nguyên thủy, nhà nước chưa xuất hiện,
+ Hình thái kinh tế-xã hội chiếm hữu nô lệ có kiểu nhà nước chủ nô;
+ Hình thái kinh tế-xã hội phong kiến có kiểu nhà nước phong kiến;
+ Hình thái kinh tế-xã hội tư bản chủ nghĩa có kiểu nhà nước tư sản;
+ Hình thái kinh tế-xã hội xã hội chủ nghĩa có kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Mỗi kiểu nhà nước có tính đặc thù của nó. Những nét đặc thù đó biểu hiện ở
việc nhà nước đó là của giai cấp nào và bảo vệ giai cấp nào, giai cấp nào là giai cấp
thống trị, giai cấp lực lượng nào bị thống trị.
Sự thay thế một kiểu nhà nước này bằng một kiểu nhà nước khác tiến bộ hơn là

một quy luật tất yếu, quy luật về sự thay đổi kiểu nhà nước phù hợp với quy luật về sự
phát triển và thay thế giữa các hình thái kinh tế-xã hội. Kiểu nhà nước cũ được thay
thế bằng kiểu nhà nước mới thông qua một cuộc cách mạng xã hội.
4.2. Khái niệm Hình thức nhà nước
Hình thức nhà nước là cách thức tổ chức nhà nước và phương pháp thực
hiện quyền lực Nhà nước. Hình thức nhà nước chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố,
quan trọng nhất là tương quan lực lượng các giai cấp trong xã hội. Đấu tranh giai cấp
trong xã hội có vai trò quyết định trong việc hình thành và xác định hình thức nhà
nước. Các yếu tố như truyền thống dân tộc, tập quán lịch sử, tình hình chính trị khu
====================================================================

4


==============================Chương I: Đại cương về Nhà nước và Pháp luật

vực và thế giới... cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến việc hình thành hình thức của
một nhà nước cụ thể.
Hình thức nhà nước là một khái niệm tổng quát được hình thành từ ba khái niệm:
hình thức chính thể; hình thức cấu trúc và chế độ chính trị.
a) Hình thức chính thể là cách thức và trình tự lập ra cơ quan tối cao của
nhà nước và xác lập quan hệ cơ bản của các cơ quan đó.
Trong lịch sử phát triển xã hội, tồn tại hai hình thức chính thể cơ bản: Chính thể
quân chủ và chính thể cộng hòa.
Chính thể quân chủ là hình thức mà trong đó quyền lực tối cao của nhà nước
tập trung vào một người (Vua, Hoàng đế..) và theo nguyên tắc thừa kế, cha truyền con
nối. Hình thức chính thể quân chủ gồm hai loại: chỉnh thể quân chủ tuyệt đối và chính
thể quân chủ lập hiến.
 Chính thể quân chủ tuyệt đối, là chính thể mà trong đó toàn bộ quyền lực
nhà nước thuộc về Nhà vua, nhà nước không có Hiến pháp.

 Hình thức quân chủ lập hiến là chính thể mà trong đó tồn tại Vua, nhưng
đồng thời có Nghị viện được lập ra theo Hiến pháp nhằm hạn chế quyền lực nhà vua
và giai cấp phong kiến. Tùy thuộc vào mức độ hạn chế quyền lực của nhà vua và sự
phân quyền giữa nhà vua và nghị viện mà hình thức chính thể quân chủ lập hiến còn
phân biệt thành hình thức quân chủ nhị nguyên và quân chủ đại nghị.

Quân chủ nhị nguyên là chính thể phân chia quyền lực song phương
giữa Nhà vua và Nghị viện, trong đó Nghị viện nắm quyền lập pháp và Nhà
vua nắm quyền hành pháp. Chính thể này đã từng tồn tại ở Nhật, Đức...vào
cuối thể kỷ XIX, hiện không còn nữa.

Quân chủ đại nghị là chính thể, mà trong đó, quyền lực thực tế của
Nhà vua không còn tác động đến lập pháp và cũng rất hạn chế đến lĩnh vực
hành pháp và tư pháp. Loại chính thể này hiện còn tồn tại ở nhiều nhà nước tư
sản như Anh, Bỉ, Hà Lan, Na Uy, Đan Mạch, Nhật Bản,.... Ở các nước đó,
Nhà vua hầu như không có quyền lực cũng như không có trách nhiệm gì đáng
kể trong hệ thống chính trị.
Chính thể Cộng hòa là chính thể, trong đó quyền lực tối cao của nhà nước
thuộc về một tập thể được bầu ra theo nhiệm kỳ, theo quy định của Hiến pháp của nhà
nước. Hình thức chính thể cộng hòa có hai hình thức: Cộng hòa dân chủ và Cộng hòa
quý tộc.

Trong chính thể cộng hòa dân chủ, các tầng lớp dân cư được tham gia
bầu cử để lập ra cơ quan đại diện nhà nước như Quốc hội hoặc Nghị viện. Trong loại
này ở các nước tư bản còn phân biệt thành Cộng hòa Tổng thống và Cộng hòa Đại
nghị.

Trong cộng hòa quý tộc, pháp luật chỉ ghi nhận quyền bầu cử tối riêng
các tầng lớp quý tộc giàu có (phổ biến trong kiểu nhà nước chủ nô và nhà nước phong
kiến)


====================================================================

5


==============================Chương I: Đại cương về Nhà nước và Pháp luật

b) Hình thức cấu trúc là sự cấu tạo nhà nước thành các đơn vị lãnh thổ và
xác lập các mối quan hệ qua lại giữa các cơ quan nhà nước, giữa trung ương và
địa phương. Có hai hình thức: nhà nước đơn nhất và nhà nước liên bang.
 Nhà nước đơn nhất là nhà nước có lãnh thổ toàn vẹn, có chủ quyền chung,
có hệ thống cơ quan quyền lực và quản lý thống nhất từ trung ương tới địa phương và
các đơn vị hành chính lãnh thổ như: tỉnh, huyện, xã... Trong nhà nước đơn nhất chỉ có
một Hiến pháp và một hệ thống pháp luật thống nhất.
 Nhà nước liên bang là nhà nước có hai hoặc nhiều bang thành viên hợp lại
với nhau. Trong nhà nước liên bang có hai hệ thống cơ quan quyền lực và cơ quan
quản lý nhà nước. Một hệ thống chung cho toàn liên bang và một hệ thống riêng cho
mỗi tiểu bang thành viên, vừa có chủ quyền quốc gia chung vừa có chủ quyền mỗi
tiểu bang. Cùng tồn tại với Hiến pháp và hệ thống pháp luật chung của liên bang có hệ
thống pháp luật riêng của mỗi bang thành viên.
c) Chế độ chính trị của nhà nước là tổng thể các phương pháp, thủ đoạn mà
Nhà nước sử dụng để thực hiện quyền lực nhà nước. Thông qua nghiên cứu chế độ
chính trị của một nhà nước, chúng ta thấy rõ ai thực hiện quyền lực, bằng cách nào, ai
có quyền quyết định tối cao về mặt nhà nước. Có thể chia thành hai loại: Phương pháp
dân chủ và phương pháp phản dân chủ (độc tài).
 Phương pháp dân chủ cũng có nhiều loại: dân chủ chân thực và dân chủ giả
hiệu; dân chủ rộng rãi và dân chủ hạn chế; dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp.
 Phương pháp phản dân chủ thể hiện tính độc tài, độc đoán, cũng có nhiều
loại: hợp pháp, bất hợp pháp.

II. ĐẠI CƯƠNG VỀ PHÁP LUẬT
1. Khái niệm, bản chất của Pháp luật
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung, do nhà nước
ban hành và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí giai cấp thống trị trong xã hội, là
nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Bản chất: pháp luật mang tính giai cấp và tính xã hội sâu sắc.
Tính giai cấp: thể hiện ý chí, bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị, trấn áp sự
phản kháng của giai cấp khác; là công cụ điều chỉnh các quan hệ xã hội theo ý chí của
giai cấp thống trị
Tính xã hội: pháp luật là sản phẩm của sự phát triển xã hội; là quy tắc xử sự
giữa người và người; là công cụ để điều chỉnh và duy trì trật tự xã hội.
Nhà nước ban hành pháp luật để quản lý xã hội, song không phải nhà nước
đứng trên pháp luật. Nhà nước và pháp luật là hai hiện tượng xã hội xuất hiện khi xã
hội phát triển đến một giai đoạn nhất định, có mối quan hệ mật thiết với nhau, đều là
sản phẩm của đấu tranh giai cấp và mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa.
Mác và Ăngghen đã chứng minh rằng, pháp luật chỉ phát sinh, tồn tại và phát
triển trong xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp. Pháp luật là một bộ phận thuộc
thượng tầng kiến trúc của xã hội có giai cấp. Pháp luật luôn biểu hiện ý chí của giai
cấp thống trị, ý chí đó phản ánh lợi ích chung của toàn bộ giai cấp.
====================================================================

6


==============================Chương I: Đại cương về Nhà nước và Pháp luật

Bên cạnh bản chất giai cấp, pháp luật còn thể hiện tính xã hội, xuất phát từ vai
trò xã hội của nhà nước. Không có kiểu pháp luật nào chỉ thể hiện duy nhất bản chất
giai cấp và ngược lại cũng không có kiểu pháp luật nào chỉ thể hiện riêng tính xã hội.
Bản chất giai cấp và tính xã hội luôn có quan hệ mật thiết với nhau, gắn bó với nhau

thành một chỉnh thể và mang lại sự bền vững cho pháp luật.
2. Những đặc trưng cơ bản của Pháp luật
Pháp luật mang tính ý chí, là ý chí của giai cấp thống trị, cùng với nhà nước,
pháp luật ra đời từ nhu cầu bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, thể hiện ý chí của giai
cấp đó. Ý chí của giai cấp thống trị thể hiện trong pháp luật thể hiện ở mục đích xây
dựng pháp luật, nội dung xây dựng pháp luật và dự kiến hiệu ứng thực tế của pháp
luật khi triển khai vào đời sống thực tế của xã hội.
Pháp luật mang tính quy phạm
Quy phạm: quy= fép tắc, phạm= khuôn mẫu. Khi có quan hệ với nhau, con
người phải dựa vào quy tắc đó để xem xét hành vi của mình, được làm gì, phải làm gì
và không được làm gì. Pháp luật chỉ ra các giới hạn cần thiết mà nhà nước quy định
để mọi cá nhân, tổ chức có thể xử sự một cách tự do trong khuôn khổ cho phép, vượt
quá giới hạn đó là trái pháp luật.
Quy tắc xử sự của pháp luật là bắt buộc chung. Đã là quy tắc pháp luật đề ra, thì
dù muốn hay không, mọi người cũng phải có các hành vi phù hợp với pháp luật. Tính
bắt buộc chung này còn được gọi là tính cưỡng chế của pháp luật.
Pháp luật mang tính cưỡng chế nhà nước
Tính cưỡng chế nhà nước là một đặc điểm chỉ riêng pháp luật mới có. Nhà nước
không những đặt ra pháp luật làm quy tắc xử sự của hành vi, mà còn có một hệ thống
cơ quan nhà nước đảm bảo cho những quy tắc ấy được thực hiện trong thực tế, như
tòa án, cảnh sát, nhà tù... để thực hiện sự cưỡng chế.
Trong đời sống xã hội, hành vi con người còn được điều chỉnh bởi các chuẩn
mực quy tắc xử sự khác như đạo đức, tôn giáo, phong tục tập quán... nhưng chỉ có
pháp luật được đảm bảo thực hiện bởi sức mạnh cưỡng chế của nhà nước. Các quy tắc
xử sự của đạo đức, tập quán, tổ chức xã hội... được mọi người tuân thủ chủ yếu nhờ
vào sự tự giác, lòng tin và được đảm bảo bởi dư luận xã hội, sự cưỡng chế bởi lương
tâm của con người;
Pháp luật mang tính ổn định tương đối, là một nhân tố điều chỉnh các quan hệ
xã hội cũng như góp phần tạo lập các quan hệ xã hội mới, pháp luật phải ổn định trong
một thời gian nhất định. Tính ổn định của cơ sở hạ tầng quyết định tính ổn định của

pháp luật. Chỉ khi nào lợi ích của giai cấp thống trị thực sự bị đụng chạm, hết sức cần
thiết, nhà nước mới thay đổi pháp luật để duy trì một sự ổn định mới.
3. Mối quan hệ giữa Pháp luật và các hiện tượng xã hội khác
3.1. Mối quan hệ giữa Pháp luật và Kinh tế
Kinh tế là phạm trù thuộc cơ sở hạ tầng của xã hội, pháp luật là phạm trù thuộc
kiến trúc thượng tầng. Trong mối quan hệ với kinh tế, pháp luật có tính độc lập tương
đối, một mặt pháp luật phụ thuộc vào kinh tế, mặt khác pháp luật lại có tác động
mạnh trở lại đối với kinh tế, là mối quan hệ giữa hạ tầng cơ sở và thượng tầng kiến
====================================================================

7


==============================Chương I: Đại cương về Nhà nước và Pháp luật

trúc. Pháp luật là một bộ phận của thượng tầng kiến trúc, phát sinh, phát triển trên cơ
sở một hạ tầng kinh tế nhất định. Nội dung của pháp luật do các quan hệ kinh tế-xã
hội quyết định, chế độ kinh tế là cơ sở của pháp luật. Sự thay đổi của chế độ kinh tếxã hội sớm hay muộn cũng dẫn đến sự thay đổi của pháp luật, và pháp luật không thể
cao hơn hoặc thấp hơn sự phát triển của kinh tế. Mặt khác, pháp luật có sự tác động
trở lại, có thể là tích cực hoặc tiêu cực, đối với sự phát triển kinh tế. Điều đó phụ
thuộc vào sự tiến bộ hay lạc hậu của pháp luật. Thậm chí, pháp luật còn định hướng và
thúc đẩy sự phát triển của kinh tế.
3.2. Mối quan hệ giữa Pháp luật và Chính trị
Chính trị là phạm trù phản ánh mối quan hệ giữa các giai cấp, các lực lượng
khác nhau trong xã hội trên tất cả các lĩnh vực, phản ánh đối sánh giai cấp và đấu
tranh giai cấp.
Trong mối quan hệ với chính trị, pháp luật là hình thức biểu hiện cụ thể của
chính trị. Đường lối chính sách của giai cấp thống trị luôn giữ vai trò chủ đạo đối với
pháp luật.
Chính trị và pháp luật là hai hiện tượng thuộc thượng tầng kiến trúc, chúng đều

bị chi phối và quy định bởi hạ tầng cơ sở. Đây là mối quan hệ tương hỗ, ngang bằng
nhau.
Chính trị là biểu hiên tập trung của kinh tế, đường lối chính trị thể hiện trước
hết ở các chính sách kinh tế. Các chính sách đó được cụ thể hóa trong pháp luật thành
những quy định chung thống nhất trong toàn xã hội.
3.3. Mối quan hệ giữa Pháp luật và Nhà nước
Trong mối quan hệ với nhà nước, pháp luật là cơ sở để nhà nước triển khai thực
hiện và phát huy hiệu lực của quyền lực chính trị.
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành, luôn phản ánh
những quan điểm, đường lối chính sách của lực lượng nắm quyền lực nhà nước và bảo
đảm cho quyền lực đó được triển khai nhanh, rộng trên quy mô toàn xã hội.
Ngược lại, pháp luật chỉ tồn tại và có hiệu lực dựa trên sức mạnh của quyền lực
nhà nước. Pháp luật dù do nhà nước ban hành, nhưng khi pháp luật được công bố thì
trở thành một hiện tượng có sức mạnh công khai, bắt buộc đối với mọi chủ thể, trong
đó có cả nhà nước. Nhà nước nói chung, cơ quan nhà nước nói riêng đều phải tôn
trọng và thực hiện pháp luật nghiêm chỉnh và triệt để. Đồng thời, nhà nước không thể
ban hành pháp luật một cách chủ quan, duy ý chí, không tính đến nhu cầu khách quan,
phổ biến của các mối quan hệ xã hội, đến tâm lý xã hội. Khi pháp luật có các bộ phận
không còn phù hợp với thực tiễn, nhà nước phải tiến hành sửa đổi, bổ sung hoặc hủy
bỏ để ban hành quy định phù hợp hơn với điều kiện thực tế và sự phát triển của các
quan hệ xã hội.
3.4. Mối quan hệ giữa Pháp luật và Đạo đức
Đạo đức là tổng thể những quan niệm, quan điểm của con người về chân, thiện,
mỹ; là niềm tin nội tâm về thiện và ác, về sự công bằng, nghĩa vụ, trách nhiệm và
danh dự giữa những con người trong một cộng đồng.
====================================================================

8



==============================Chương I: Đại cương về Nhà nước và Pháp luật

Lực lượng thống trị do có ưu thế đặc biệt về chính trị nên có điều kiện để thể
hiện quan điểm đạo đức của mình thành pháp luật, tuy nhiên pháp luật không thể
không chịu ảnh hưởng bởi đạo đức của các lực lượng, các giai cấp khác và phải phản
ánh quan điểm, quan niệm, lợi ích của các lực lượng khác nhau trong xã hội để thích
ứng và tựa hồ như thể hiện ý chí của mọi tầng lớp trong xã hội. Trong xã hội xã hội
chủ nghĩa, pháp luật lấy đạo đức làm cơ sở, pháp luật không thể đưa ra những quy
phạm trái đạo đức.(tính xã hội)
Với tính chất là những nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội, đạo đức và pháp
luật có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Chúng đều là những hiện tượng thuộc thượng
tầng kiến trúc có mối quan hệ tương hỗ, bình đẳng với nhau. Giữa pháp luật và đạo
đức có sự tương đồng: đều mang tính giai cấp sâu sắc.
Giữa pháp luật và đạo đức cũng có những điểm khác nhau: pháp luật là hệ thống
các quy tắc xử sự do nhà nước đặt ra, biểu hiện ý chí của giai cấp thống trị. Trong lúc
đó cùng một xã hội lại tồn tại những đạo đức khác nhau, đạo đức của giai cấp thống
trị, của giai cấp bị trị, của những nghề nghiệp khác nhau... Đạo đức không chỉ ra cụ
thể tỉ mỉ cho mọi người các hành vi tốt mà chỉ yêu cầu mọi người có hành động trung
thực, đúng đạo lý. Còn pháp luật quy định rõ hành vi nào phải thực hiện, hành vi nào
không được làm. Ưu thế của pháp luật là nó hướng dẫn cụ thể xử sự của con người.
4. Kiểu pháp luật và Hình thức pháp luật
4.1. Khái niệm Kiểu pháp luật
Kiểu pháp luật là tổng thể các dấu hiệu cơ bản đặc thù của pháp luật, thể
hiện bản chất giai cấp và những điều kiện tồn tại, phát triển của pháp luật trong
một hình thái kinh tế-xã hội nhất định.
Mỗi một kiểu nhà nước có một kiểu pháp luật và do hình thái kinh tế-xã hội quy
định. Trong lịch sử xã hội đã tồn tại các kiểu pháp luật tương ứng với các hình thái
kinh tế-xã hội sau đây:
♦ Kiểu pháp luật chủ nô tương ứng với hình thái kinh tế-xã hội chiếm hữu nô lệ
♦ Kiểu pháp luật phong kiến tương ứng hình thái kinh tế-xã hội phong kiến

♦ Kiểu pháp luật tư sản tương ứng với hình thái kinh tế-xã hội tư bản
♦ Kiểu pháp luật xã hội chủ nghĩa tương ứng với hình thái kinh tế-xã hội XHCN.
Mỗi kiểu pháp luật trên đây đều có những nét đặc trưng của nó. Kiểu pháp luật
chủ nô có đặc điểm nổi bật là củng cố và bảo vệ quyền chiếm hữu tuyệt đối của chủ
nô đối với tư liệu sản xuất, thành quả lao động và chính bản thân người lao động.
Pháp luật phong kiến thì công khai xác nhận và bảo đảm thực hiện những đặc quyền,
đặc lợi của giai cấp địa chủ và tầng lớp quý tộc; duy trì tình trạng lệ thuộc nửa tự do
của tá điền, họ bị cột chặt vào ruộng đất của địa chủ. Kiểu pháp luật tư sản thì công
khai ghi nhận các quyền “tự do, bình đẳng” của con người, nhưng thực chất chỉ là
hình thức. Sự thừa nhận pháp lý về quyền tự do chiếm hữu tư nhân về của cải vật chất,
chủ yếu là quyền bất khả xâm phạm đối với tư liệu sản xuất, thực chất là bảo vệ vững
chắc quyền lợi của giai cấp tư sản khi họ đã chiếm đại bộ phận tư liệu sản xuất, của
cải vật chất trong xã hội.
====================================================================

9


==============================Chương I: Đại cương về Nhà nước và Pháp luật

Các kiểu pháp luật chủ nô, phong kiến và tư sản là ba kiểu pháp luật khác nhau
nhưng chúng đều có bản chất chung là thể hiện ý chí giai cấp bóc lột trong xã hội,
bảo đảm về mặt pháp lý sự bóc lột của giai cấp thống trị đối với nhân dân lao động.
Khác về bản chất, kiểu pháp luật xã hội chủ nghĩa xây dựng trên một cơ sở kinh tế-xã
hội mới, chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, thể hiện ý chí của giai cấp công nhân,
bảo vệ quyền và lợi ích của đại đa số nhân dân lao động.
4.2. Khái niệm Hình thức pháp luật
Hình thức pháp luật là cách thức mà giai cấp thống trị sử dụng để thể hiện ý
chí của giai cấp mình thành pháp luật. Lịch sử phát triển của pháp luật đã ghi nhận
ba hình thức pháp luật phổ biến được sử dụng bao gồm Tập quán pháp, Tiền lệ pháp

và Văn bản quy phạm pháp luật.
a) Tập quán pháp: là hình thức pháp luật trong đó nhà nước thừa nhận một số
tập quán đã lưu truyền trong xã hội, phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị, nâng
chúng lên thành những quy tắc xử sự chung được Nhà nước đảm bảo thực hiện.
Những quy tắc xử sự được hình thành trong đời sống thực tế, lưu truyền từ thế
hệ này qua thể hệ khác, thành thói quen, tập quán, khi nó phù hợp với lợi ích của giai
cấp cầm quyền, được nhà nước thừa nhận và bảo vệ, coi đó là những quy tắc xử sự
của pháp luật. Loại hình thức pháp luật này được sử dụng nhiều trong nhà nước chiếm
hữu nô lệ và phong kiến. Ở một số nước tư bản hiện đại với chính thể quân chủ lập
hiến vẫn còn sử dụng hình thức pháp luật này.
b)Tiền lệ pháp: Tiền lệ pháp là hình thức Nhà nước thừa nhận trong các
quyết định của cơ quan hành chính hay cơ quan xét xử khi giải quyết một vụ việc cụ
thể làm chuẩn mực cho việc giải quyết những vụ việc tương tự về sau.
Như vậy, trong hệ thống pháp luật, có những lĩnh vực pháp luật không được
hình thành thông qua hoạt động của cơ quan lập pháp.
Trong các nhà nước tổ chức theo nguyên tắc phân quyền như Anh, Mỹ..., Tòa
án có vị trí độc lập, có vai trò và uy tín lớn đối với việc giải quyết các xung đột xã hội,
thì tiền lệ pháp được hình thành chủ yếu thông qua hoạt động xét xử (trường hợp này
bản án mẫu của tòa án được goi là án lệ). Án lệ với tư cách là một hình thức pháp luật
có ý nghĩa bắt buộc theo hai chiều, theo chiều dọc, bản án, quyết định của tòa án cấp
trên có giá trị bắt buộc đối với tòa án cấp dưới; theo chiều ngang, quyết định, bản án
của một tòa án đã tuyên có giá trị bắt buộc ngay chính tòa án này trong việc giải quyết
các vụ việc tương tự sau đó.
Hình thức pháp luật này xuất hiện trong nhà nước chiếm hữu nô lệ và áp dụng
rộng rãi trong nhà nước phong kiến và hiện còn có vị trí quan trọng trong pháp luật
của nhà nước tư sản, đặc biệt là trong dân luật. Tuy nhiên, hình thức này có một yếu
điểm là: thiếu tính khái quát, việc áp dụng án lệ dễ tạo ra sự tùy tiện vì nó phụ thuộc
vào sự giải thích và vận dụng của thẩm phán. Trên thực tế, khó có sự việc, sự kiện
giống hệt nhau khi chúng diễn ra trong những thời gian khác nhau, liên quan đến các
chủ thể khác nhau.

Trong các nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, tiền lệ pháp cũng như tập quán
pháp, về nguyên tắc không được sử dụng. Tuy nhiên, phong tục tập quán cũng như
==================================================================== 10


==============================Chương I: Đại cương về Nhà nước và Pháp luật

thực tiễn xét xử có ý nghĩa lớn đối với công tác ban hành pháp luật, việc tổng kết thực
tiễn xét xử và chỉ đạo hướng dẫn công tác xét xử có vai trò quan trọng trong đời sống
pháp luật của nước ta.
c)Văn bản quy phạm pháp luật: là văn bản do cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền ban hành trong đó có chứa đựng các quy tắc xử sự chung được áp dụng nhiều
lần trong đời sống.
Văn bản quy phạm pháp luật là hình thức pháp luật ra đời từ rất sớm, có ngay
trong nhà nước nô lệ và phong kiến. Mặc dù vậy, bên cạnh hình thức pháp luật này,
ngay cả trong các nhà nước tư sản hiện đại như Anh, Mỹ... các hình thức tập quán
pháp và tiền lệ pháp vẫn cùng tồn tại.
Ở Việt Nam, văn bản quy phạm pháp luật là hình thức pháp luật chủ yếu và
quan trọng nhất được áp dụng. Các văn bản quy phạm pháp luật là yếu tố quyết định
trong việc hiện thực hóa đường lối, chủ trương của Đảng, đảm bảo cho sự lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước và xã hội.

==================================================================== 11



×