z
Chuyên đề thực tập
Luận văn
Đề tài: Công tác giải quyết khiếu nại, tố
cáo trên địa bàn huyện Xuyên Mộc
Chuyên đề thực tập
MỤC LỤC
NỘI DUNG..........................................................................................................................................5
Chương 1: Cơ sỞ lý luẬn vỀ phát triỂn du lỊch sinh thái và du lỊch bỀn vỮng
................................................................................................................................... 5
THỰC trẠng phát triỂn du lỊch sinh thái Ở Cát Bà..........................................19
2.3.3. Thực trạng về các yếu tố cấu thành sản phẩm du lịch sinh thái..............28
2.3.4.Thị trường khách du lịch.............................................................................33
2.4. Phân tích điểm mạnh, điểm yếu của du lịch sinh thái Cát Bà.....................34
Chương 3................................................................................................................37
MỘt sỐ giẢi pháp phát triỂn du lỊch sinh thái theo hưỚng phát triỂn du lỊch
bỀn vỮng tẠi Cát Bà.............................................................................................37
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................................................53
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN...................................................54
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN PHẢN BIỆN.....................................................55
Chuyên đề thực tập
MỞ ĐẦU
Những năm gần đây, đã có nhiều bước phát triển trong lĩnh vực du lịch, du
lịch sinh thái và bảo tồn trên thế giới. Quan trọng nhất là việc du lịch sinh thái
không chỉ tồn tại như một khái niệm hay một đề tài để suy ngẫm. Ngược lại, nó
đã trở thành một thực tế trên toàn cầu. Ở một số quốc gia, nó không được quan tâm
phát triển. Song ở nhiều nước khác, thì vấn đề phát triển du lịch sinh thái lại rất
được chính phủ quan tâm, thường xuất hiện trên các bản tin chính hay các quảng
cáo thương mại công cộng. Du lịch sinh thái mang lại nhiều lợi ích cụ thể trong
lĩnh vực bảo tồn và phát triển bền vững. Ở Costa Rica và Velezuela, một số chủ
trang trại chăn nuôi đã bảo vệ nhiều diện tích rừng nhiệt đới quan trọng, và do bảo
vệ rừng mà họ đã biến những nơi đó thành điểm du lịch sinh thái hoạt động tốt,
giúp bảo vệ các hệ sinh thái tự nhiên đồng thời tạo ra công ăn việc làm mới cho
dân địa phương. Tại Nam Phi, du lịch sinh thái trở thành một biện pháp hiệu quả
để nâng cao mức sống của người da đen ở nông thôn, những người da đen này
ngày càng tham gia nhiều vào các hoạt động du lịch sinh thái. Chính phủ Ba Lan
cũng tích cực khuyến khích du lịch sinh thái và gần đây đó thiết lập một số vùng
Thiên nhiên và Du lịch của quốc gia để tăng cường công tác bảo vệ thiên nhiên và
phát triển du lịch quốc gia.
Nằm ở khu vực Đông Nam Á, nơi có các hoạt động du lịch sôi nổi. Việt
Nam có những lợi thế về vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên phong phú, kinh tế và
giao lưu quốc tế giúp cho sự phát triển du lịch phù hợp với xu thế của thế giới và
khu vực. Tại Việt Nam, du lịch đang dần dần trở thành ngành kinh tế quan trọng và
trong tương lai gần hoạt động du lịch được coi là con đường hiệu quả nhất để thu
ngoại tệ và tăng thu nhập cho đất nước. Cát Bà - Hải Phòng, còn gọi là đảo ngọc,
được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới. Cát Bà được thiên nhiên
ban tặng với rừng nguyên sinh nhiệt đới có nhiều động thực vật quý hiếm, nhiều hang
động, bãi tắm đẹp…Thiên nhiên Cát Bà vẫn còn giữ được nét hoang sơ rất có tiềm
năng phát triển du lịch sinh thái.
Do vậy, em đã chọn đề tài:” Phát triển du lịch sinh thái ở Cát Bà theo hướng
phát triển du lịch bền vững” , với mong muốn có thể hiểu về du lịch sinh thái, và
nghiên cứu về tình hình phát triển du lịch sinh thái tại Cát Bà, từ đó đưa ra một số
Chuyên đề thực tập
kiến nghị những giải pháp nhằm phát triển du lịch sinh thái tại Cát Bà theo hướng
phát triển bền vững.
Mục tiêu của đề tài
-
Nghiên cứu tổng quan về du lịch sinh thái, mối quan hệ giữa du lịch sinh
thái và phát triển du lịch bền vững.
-
Đánh giá thực trạng phát triển du lịch sinh thái tại Cát Bà.
-
Đưa ra những giải phát nhằm phát triển du lịch sinh thái tại Cát Bà theo
hướng phát triển bền vững.
Nhiệm vụ của đề tài
-
Tìm kiếm và thu thập thông tin chính xác và đầy đủ để phục vụ cho việc
trình bày và làm sáng tỏ đề tài.
-
Sau khi thu thập thông tin đầy đủ, sẽ tiến hành tổng hợp và phân tích tài
liệu để hoàn thành đề tài.
Đối tượng nghiên cứu
-
Điều kiện tự nhiên và điều kiện kinh tế-xã hội của Cát Bà.
-
Các tiềm năng phát triển du lịch sinh thái tại Cát Bà, từ đó để khai thác hợp
lý và ứng dụng vào việc phát triển du lịch sinh thái ở đây.
Phạm vi nghiên cứu
Khu du lịch Cát Bà- Cát Hải- Hải Phòng.
Phương pháp nghiên cứu
-
Thu thập thông tin, tài liệu thứ cấp về điều kiện tự nhiên, kinh tế-xã hội,
đặc biệt là nét đặc trưng của khu du lịch sinh thái Cát Bà qua sách, báo,
internet…
-
Phương pháp nhiên cứu phân tích,tổng hợp.
-
Phương pháp thực địa.
Chuyên đề thực tập
NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH THÁI
VÀ DU LỊCH BỀN VỮNG
1.1. Du lịch sinh thái
1.1.1. Khái niệm về du lịch sinh thái
Du lịch sinh thái xuất hiện như một khái niệm vào cuối thập niên 1960. Sau
này có rất nhiều định nghĩa về du lịch sinh thái.
Du lịch sinh thái là du lịch mà chủ yếu là đi đến những vùng thiên nhiên tương
đối chưa ai đụng tới hay chưa bị ô nhiễm với mục đích cụ thể là nghiên cứu, ngưỡng
mộ, và thưởng thức phong cảnh cùng với các loại thực vật và động vật hoang dã của
nó, cũng như bất cứ biểu hiện về văn hóa nào (cả quá khứ lẫn hiện tại) được tìm
thấy trong các vùng này…Điểm chính yếu là người đi du lịch sinh thái có cơ hội
đắm mình vào thiên nhiên theo một cách thức thường không có sẵn trong môi
trường đô thị.
Du lịch sinh thái là một cuộc du lịch có trách nhiệm đến những vùng thiên
nhiên mà bảo tồn môi trường và duy trì bền vững phúc lợi của nhân dân địa phương
(Hội Du lịch Sinh thái)
Du lịch sinh thái là một trải nghiệm du lịch thiên nhiên mang lại thông tin bổ
ích mà góp phần vào việc bảo tồn hệ thống sinh thái, trong khi đó tôn trọng tình
trạng nguyên vẹn của các cộng đồng chủ nhà (Hội đồng Tư vấn Môi trường
Canada).
Du lịch sinh thái là đi du lịch đến những vùng hoang sơ, dễ bị hư hại và
thường được bảo vệ mà cố gắng gây ra tác động rất thấp và (thường) có qui mô nhỏ.
Nó giúp giáo dục người đi du lịch; cung cấp nguồn quỹ cho việc bảo tồn; trực tiếp
làm lợi cho việc phát triển kinh tế và việc trao quyền về chính trị của các cộng đồng
địa phương; và thúc đẩy sự tôn trọng đối với các nền văn hóa khác nhau và các
quyền của con người (Martha Honey – giám đốc Chương trình An ninh và Hòa bình
tại Viện Nghiên cứu về Chính sách)
1.1.2.
Các đặc trưng của du lịch sinh thái
Chuyên đề thực tập
-
-
-
-
-
-
1.1.2.1. Tài nguyên tự nhiên trong du lịch sinh thái là những tài nguyên còn
tương đối nguyên sơ
Môi trường tự nhiên trong du lịch sing thái còn tương đối nguyên sơ, chưa
chịu hoặc ít bị xâm hại bởi bàn tay con người
Văn hoá bản địa : là các di tích kiển trúc, các giá trị văn hoá tồn tại dướ dạng
vật thể, phi vật thể được tạo ra bởi chính điều kiện tự nhiên và lịch sử phát
triển của nơi điểm đến.
Mỗi khu vực bảo tồn tự nhiên phải đảm bảo tính đa dạng sinh học,có tính đặc
thù để mỗi điểm đến tham quan có sự hấp dẫn riêng đối với khách du lịch.
1.1.2.2. Các sản phẩm du lịch sinh thái hướng tới bảo tồn giá trị tự nhiên, văn
hoá, xã họi nơi điểm đến
Bảo tồn các giá trị tự nhiên của hệ sinh thái vốn có: mục đích của du lịch sinh
thái là giúp khách du lịch hiểu biết về thiên nhiên, về hệ sinh thái tự nhiên. Từ
đó đánh giá lại những hành động của mình đối với thiên nhiên,tìm cách sống
hoà hợp với thiên nhiên
Bảo tồn các giá trị văn hoá của cộng đồng dân cư địa phương
Bảo tồn và nâng cao các giá trị xã hội của dân cư địa phương
1.1.2.3. Du lịch sinh thái trực tiếp mang lại phúc lợi cho cộng đồng dân cư
địa phương
Đóng góp về vật chất: xoá đối giảm nghèo, tạo công ăn việc làm cho dân cư
địa phương, giúp tăng thu nhập.
Đóng góp về tinh thần: người dân địa phương được tôn trọng không bị phân
biệt về văn hoá địa phương, giọng nói ngôn ngữ , phong tục tập quán…, được
thừa nhận làm chủ đối với thiên nhiên.
Đóng góp nâng cao về mặt nhận thức: dân cư địa phương thấy được tầm quan
trọng của du lịch sinh thái từ đó có ý thức bảo vệ tài nguyên tự nhiên và giữ
gìn bản sắc văn hoá của địa phương.
1.1.3. Các yêu cầu cơ bản để phát triển du lịch sinh thái
Yêu cầu đầu tiên để có thể tổ chức được du lịch sinh thái là sự tồn tại của
các hệ sinh thái tự nhiên điển hình với tính đa dạng sinh thái cao. Sinh thái tự
nhiên được hiểu là sự cộng sinh của các điều kiện địa lý, khí hậu và động vậ t
và thực vật, bao gồm: sinh thái tự nhiên (natural ecology), sinh thái động vật
(animal ecology), sinh thái thực vật (plant ecology), sinh thái nông nghiệp (agricultural ecology), sinh thái khí hậu (ecoclimate) và sinh thái nhân văn (human
ecology).
Đa dạng sinh thái là một bộ phận và là một dạng thứ cấp của đa dạng sinh
học, ngoài thứ cấp của đa dạng di truyền và đa dạng loài. Đa dạng sinh thái thể
Chuyên đề thực tập
hiện ở sự khác nhau của các kiểu cộng sinh tạo nên các cơ thể sống, mối liên hệ
giữa chúng với nhau và với các yếu tố vô sinh có ảnh hưởng trực tiếp hay gián
tiếp lên sự sống như : đất, nước, địa hình, khí hậu... đó là các hệ sinh thái (ecosystems) và các nơi trú ngụ, sinh sống của một hoặc nhiều loài sinh vật (habitats)
(Theo công ước đa dạng sinh học được thông qua tại Hộ nghị thượng đỉnh Rio
de Jannero về môi trường).
Như vậy có thể nói du lịch sinh thái là một loại hình du lịch dựa vào thiên
nhiên (natural - based tourism) (gọi tắt là du lịch thiên nhiên), chỉ có thể tồn tại và
phát triển ở những nơi có các hệ sinh thái điển hình với tính đa dạng sinh thái cao
nói riêng và tính đa dạng sinh học cao nói chung. Điều này giải thích vì sao hoạt
động du lịch sinh thái thường chỉ phát triển ở các khu bảo tồn thiên nhiên, đặc
biệt ở các vườn quốc gia, nơi còn tồn tại những khu rừng với tính đa dạng sinh
học cao và cuộc sống hoang dã. Tuy nhiên điều này không phủ nhận sự tồn tại
của một số loại hình du lịch sinh thái phát triển ở những vùng nông thôn hoặc các
trang trại điển hình.
Yêu cầu thứ hai có liên quan đến những nguyên tắc cơ bản của du lịch sinh
thái ở 2 điểm:
- Để đảm bảo tính giáo dục, nâng cao được sự hiểu biết cho khách du lịch
sinh thái, người hướng dẫn ngoài kiến thức ngoại ngữ tốt còn phải là người am
hiểu cá c đặc điểm sinh thái tự nhiên và văn hoá cộng đồng địa phương. Điều
này rất quan trọng và có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của hoạt động du lịch
sinh thái, khác với những loại hình du lịch tự nhiên khác khi du khách có thể tự
mình tìm hiểu hoặc yêu cầu không cao về sự hiểu biết này ở người hướng dẫn
viên.Trong nhiều trường hợp, cần thiết phải cộng tác với người dân địa phương
để có được những hiểu biết tốt nhất, lúc đó người hướng dẫn viên chỉ đóng vai
trò là một người phiên dịch.
- Hoạt động du lịch sinh thái đòi hỏi phải có được người điều hành nguyên
tắc. Các nhà điều hành du lịch truyền thống thường chỉ quan tâm đến lợi nhuận
và không có cam kết gì đối với việc bảo tồn hoặc quản lý các khu tự nhiên, họ chỉ
đơn giản tạo cho khách du lịch một cơ hội để biết được những giá trị tự nhiên và
văn hoá trước khi những cơ hội này thay đổi hoặc mất đi. Ngược lại, các nhà điều
hành du lịch sinh thái phải có được sự cộng tác với các nhà quản lý các khu bảo
tồn thiên nhiên và cộng đồng địa phương nhằm mục đích đóng góp vào việc bảo
vệ một cách lâu dài các giá trị tự nhiên và văn hoá khu vực, cải thiện cuộc sống,
Chuyên đề thực tập
nâng cao sự hiểu biết chung giữa người dân địa phương và du khách.
Yêu cầu thứ ba nhằm hạn chế tới mức tối đa các tác động có thể của hoạt
động du lịch sinh thái đến tự nhiên và môi trường, theo đó du lịch sinh thái cần
được tổ chức với sự tuân thủ chặt chẽ các quy định về “sức chứa”. Khái niệm “
sức chứa” được hiểu từ bốn khía cạnh: vật lý, sinh học, tâm lý và xã hội. Tất cả
những khía cạnh này có liên quan tới lượng khách đến một địa điểm vào cùng một
thời điểm.
Đứng trên góc độ vật lý, sức chứa ở đây được hiểu là số lượng tối đa
khách du lịch mà khu vực có thể tiếp nhận. Điều này liên quan đến những tiêu
chuẩn về không gian đối với mỗi du khách cũng như nhu cầu sinh hoạt của họ.
Đứng ở góc độ xã hội, sức chứa là giới hạn về lượng du khách mà tại đó
bắt đầu xuất hiện những tác động tiêu cực của các hoạt động du lịch đến đời
sống, văn hoá, kinh tế-xã hội của khu vực. Cuộc sống bình thường của cộng đồng
địa phương có cảm giác bị phá vỡ, xâm nhập.
Đứng ở góc độ quản lý, sức chứa được hiểu là lượng khách tối đa mà khu
du lịch có khả năng phục vụ. Nếu lượng khách vượt quá giới hạn này thì năng lực
quản lý của khu du lịch sẽ không đáp ứng được yêu cầu của khách, làm mất khả
năng quản lý và kiểm soát hoạt động của khách, kết quả là sẽ làm ảnh hưởng
đến môi trường và xã hội.
Do khái niệm sức chứa bao gồm cả định tính và định lượng, như vậy khó có
thể xác định một con số chính xác cho mỗi khu vực. Mặt khác, mỗi khu vực
khác nhau sẽ có chỉ số sức chứa khác nhau. Các chỉ số này chỉ có thể xác định một
cách tương đối bằng phương pháp thực nghiệm.
Một điểm cần phải lưu ý trong quá trình xác định sức chứa là “quan niệm”
về sự đông đúc của các nhà nghiên cứu có sự khác nhau, đặc biệt trong những
điều kiện phát triển xã hội khác nhau. Rõ ràng để đáp ứng yêu cầu này, cần phải
tiến hành nghiên cứu sức chứa của các địa điểm cụ thể để căn cứ vào đó mà có
các quyết định về quản lý. Điều này cần được tiến hành đối với các nhóm đối
tượng khách/thị trường khác nhau, phù hợp tâm lý và quan niệm của họ. Du lịch
sinh thái không thể đáp ứng được các nhu cầu của tất cả cũng như mọi loại khách.
Yêu cầu thứ tư là thoả mãn nhu cầu nâng cao kiến thức và hiểu biết của khách
du lịch. Việc thoả mãn mong muốn này của khách du lịch sinh thái về những kinh
nghiệm, hiểu biết mới đối với tự nhiên, văn hoá bản địa thường là rất khó khăn,
Chuyên đề thực tập
song lại là yêu cầu cần thiết đối với sự tồn tại lâu dài của ngành du lịch sinh thái.
Vì vậy, những dịch vụ để làm hài lòng du khách có vị trí quan trọng chỉ đứng
sau công tác bảo tồn những gì mà họ quan tâm.
Du lịch sinh thái bền vững đóng góp tích cực cho sự phát triển bền vững.
Điều đó không có nghĩa là luôn có sự tăng trưởng liên tục về du lịch. Đây là
điểm khác biệt cần nhấn mạnh trong thời điểm mà Việt nam bắt đầu lo lắng về tốc
độ tăng trưởng của du lịch .
Từ những yêu cầu trên đây của du lịch sinh thái ta rút ra những nguyên tắc
cơ bản để phát triển du lịch sinh thái:
- Phải phù hợp với những nguyên tắc tích cực về môi trường, tăng cường
và khuyến khích trách nhiêm đạo đức đối với môi trường tự nhiên.
- Không được làm tổn hại đến tài nguyên, môi trường, những nguyên tắc về
môi trường không những chỉ áp dụng cho những nguồn tài nguyên bên
ngoài (tự nhiên và văn hoá) nhằm thu hút khách mà còn bên trong của nó.
- Tập trung vào các giá trị bên trong hơn là các giá trị bên ngoài và thúc đẩy
sự công nhận các giá trị này .
- Các nguyên tắc về môi trường và sinh thái cần phải đặt lên hàng đầu do đó
mỗi người khách du lịch sinh thái sẽ phải chấp nhận tự nhiên theo đúng
nghĩa của nó và chấp nhận sự hạn chế của nó hơn là làm biến đổi môi
trường cho sự thuận tiện cá nhân.
- Phải đảm bảo lợi ích lâu dài đối với tài nguyên, đối với địa phương và
đối với ngành (lợi ích về bảo tồn hoặc lợi ích về kinh tế, văn hoá, xã hội hay
khoa học).
- Phải đưa ra những kinh nghiệm khi tiếp xúc với môi trường tự nhiên, đó là
những kinh nghiệm được hoà đồng làm tăng sự hiểu biết hơn là đi tìm cái lạ
cảm giác mạnh hay mục đích tăng cường thể trạng cơ thể.
- Ở đây những kinh nghiệm có tác động lớn và có nhận thức cao nên
đòi hỏi sự chuẩn bị kỹ càng của cả người hướng dẫn và các thành viên tham
gia .
- Cần có sự đào tạo đối với tất cả các ban nghành chức năng: địa phương,
chính quyền, tổ chức đoàn thể, hãng lữ hành và các khách du lịch (trước,
trong và sau chuyến đi).
Chuyên đề thực tập
- Thành công đó phải dựa vào sự tham gia của địa phương, tăng cường sự
hiểu biết và sự phối hợp với các ban ngành chức năng.
- Các nguyên tắc về đạo đức, cách ứng sử và nguyên tắc thực hiện là rất quan
trọng. Nó đòi hỏi cơ quan giám sát của ngành phải đưa ra các nguyên tắc và
các tiêu chuẩn được chấp nhận và giám sát toàn bộ các hoạt động.
- Là một hoạt động mang tính chất quốc tế, cần phải thiết lập một khuôn khổ
quốc tế cho ngành.
1.2. Mối quan hệ giữa du lịch sinh thái và các loại hình du lịch khác
1.2.1. Du lịch dựa vào thiên nhiên
Du lịch dựa vào thiên nhiên là loại hình du lịch là loại hình du lịch sử dụng tài
nguyên thiên nhiên, với động cơ chính của khách du lịch là quan sát và cảm thụ
thiên nhiên. Như vậy, du lịch dựa vào thiên nhiên mang một ý nghĩa rộng bao chùm
cả du lịch sinh thái và các loại hình du lịch khác.
Du lịch dựa vào thiên nhiên không mang tính trách nhiệm cao đối với môi
trường và cộng đồng cư dân địa phương. Nhưng du lịch sinh thái đòi hỏi tính trách
nhiệm cao đối với môi trường và cộng đồng dân cư địa phương.
Du lịch dựa vào thiên nhiên có các loại hình du lịch như: du lịch nghỉ dưỡng,
tham quan, mạo hiểm.
Du lịch mạo hiểm (theo tổ chức du lịch mạo hiểm tỉnh Quebec Canada): là
hoạt động thể chất ngoài trởi hoặc các hoạt động kết hợp diễn ra tại một khu vực
thiên nhiên nhất định mà nó yêu cầu những phương tiện vận tải khác với truyền
thống, có thể là động cư hay không phải động cơ. Những hoạt động này mang tính
mạo hiểm mức độ rủ ro thì tuỳ thuộc vào điều kiện môi trường, bản chất của hoạt
động và các phương tiện vận tải được sử dụng.
Du lịch mạo hiểm không chú ý đến việc tìm hiểu về thiên nhiên, hệ sinh thái mà
khai thác tài nguyên tự nhiên nhằm mục đích mạo hiểm,chứng tỏ khả năng chinh
phục thiên nhiên của con người. Còn du lịch sinh thái đi tìm sự thoả thuận cùng
chung sống hài hoà với thiên nhiên.
1.2.2.
Du lịch dựa vào văn hóa
Du lịch văn hoá là loại hình du lịch rất phổ biến, tập trung mối quan tâm tới
một quốc gia hay một vùng đất chủ yếu dưới góc độ văn hoá. Du lịch văn hoá bao
gồm các tuyến du lịch đến những nơi có bề dày lịch sử hoặc những nơi có các công
Chuyên đề thực tập
trình văn hoá như các viện bảo tàng, nhà hát…Ngoài ra cũng có hình thức đưa
khách đến các vùng hẻo lánh để dự các lễ hội ngoài trời, đi thăm các nơi ở của
những doanh nhân văn hoá, những công trình kiến trúc hay những thắng cảnh thiên
nhiên được biết đến và ca ngợi qua văn chương hội hoạ.
Du lịch văn hoá và du lịch sinh thái đều có mục đích chiêm ngưỡng tìm hiểu,
nghiên cứu các nền văn hoá bản địa độc đáo từ đó làm khơi daỵ tình yêu và trách
nhiệm để bảo tồn, giữu gìn và phát huy giá trị bản sắc văn hoá do con người sáng
tạo ra.
1.2.3.
Du lịch công vụ
Du lịch công vụ là loại hình du lịch mà khách du lịch kết hợp hai mục đích là
công việc và đi du lịch. Mục đích của khách du lịch trong du lịch công vụ chỉ là
chiêm ngưỡng, tìm hiểu tài nguyên thiên nhiên, không mang tính trách nhiệm bảo
vệ tài nguyên thiên nhiên, bản sắc văn hoá bản địa như du lịch sinh thái.
1.2.4. Mối quan hệ giữa du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng và du lịch
bền vững
Chúng ta thấy rằng giữa du lịch sinh thái và du lịch bền vững cũng như du
lịch cộng đồng có những điểm tương đồng về điều kiện, nguyên tắc cũng như mục
tiêu.
Du lịch sinh thái là một loại hình du lịch tham quan, thám hiểm của khách du
lịch đến các vùng thiên nhiên còn hoang dã đặc sắc để chiêm ngưỡng, tìm hiểu,
nghiên cứu các hệ sinh thái, các nền văn hoá bản địa độc đáo từ đó làm khơi dạy
tình yêu và trách nhiệm để bảo tồn, giữ gìn và phát triển môi trường tự nhiên và
cộng đồng dân cư địa phương trong mỗi du khách. Du lịch sinh thái nhấn mạnh và
đề cao các yếu tố giáo dục, nâng cao ý thức con người trong vấn đề bảo vệ, bảo
tồn thiên nhiên, giữ gìn và phát huy giá trị bản sắc văn hoá do con người sáng tạo.
Trong loại hình du lịch sinh thái không nhất thiết phải có sự tham gia của cộng
đồng và dân cư địa phương.
Du lịch bền vững là hoạt động du lịch đáp ứng nhu cầu hiện tại của khách du
lịch và của chính khu du lịch đồng thời bảo vệ thúc đẩy cơ hội phát triển cho
tương lai. Du lịch bền vững hướng đến việc quản lý các nguồn tài nguyên sao cho
các nhu cầu kinh tế-xã hội đều được thoả mãn trong khi vẫn duy trì được bản sắc
văn hoá, các đặc điểm sinh thái, sự đa dạng sinh học và hệ thống các giải pháp hỗ
trợ. Du lịch bền vững xác định vai trò trung tâm của cộng đồng trong việc lập kế
Chuyên đề thực tập
hoạch và ra quyết định phát triển du lịch. Du lịch bền vững là phục vụ cho mục
đích phát triển con người, cho nên du lịch bền vững không chỉ tập trung vào mục
đích kinh tế mà còn nhằm phát triển xã hội bao gồm giáo dục, y tế, môi trường và
các vấn đề văn hoá và tôn giáo.
Du lịch cộng đồng là một phương thức phát triển du lịch bền vững trong đó
cộng đồng dân cư được tham gia trực tiếp bàn về sự phát triển du lịch và tổ chức
cung cấp các dịch vụ cho du khách trên cơ sở điều kiện tự nhiên văn hoá bản địa
và môi trường, thông qua đó cộng đồng được hưởng về mặt vật chất và tinh thần
từ phát triển du lịch.
Như vậy, ta thấy du lịch sinh thái, du lịch bền vững và du lịch cộng đồng đều
coi trọng yếu tố tự nhiên, môi trường. Nhưng trong du lịch sinh thái không nhất
thiết phải có sự tham gia của cộng đồng dân cư địa phương, còn trong du lịch bền
vững và du lịch cộng đồng thì coi trọng yếu tố con người.
1.3. Các điều kiện để phát triển du lịch sinh thái
1.3.1. Tài nguyên tự nhiên, văn hoá bản địa phong phú còn tương đối
nguyên sơ có tính đặc thù cao của hệ sinh thái.
Tài nguyên tự nhiên trong du lịch sinh thái phải là những tài nguyên còn tương
đối nguyên sơ, chưa bị con người can thiệp hoặc thay đổi. trong một số giới hạn thì
những thay đổi do con người gây ra đối với tự nhiên phải là những thay đổi chấp
nhận được với khả năng tái tạo cao.
Như vậy du lịch sinh thái không cho phép con người can thiệp vào các hệ sin
thái tự nhiên, cho dù đó là những can thiệp mang lợi ích kinh tế-xã hội cho con
người và dù con chấp nhận đề bù bằng vật chất cho những thiệt hại mà họ định gây
ra với thiên nhiên.
Như chúng ta đã biết, những vùng có vị trí tương tự trên bản đồ thế giới
thường có những đặc điểm chung về khí hậu, nguồn nước, đất đai và các loài động
thực vật, thậm chí là con người đang cư trú tại đó. Sản phẩm du lịch sinh thái cũng
như các sản phẩm thông thường khác, được đưa ra để thu hút sự tò mò tìm hiểu của
các khách du lịch. Như vâỵ, những người làm du lịch đứng ở góc độ kinh doanh
cũng phải đưa những sản phẩm du lịch sinh thái đặc trưng, có tính đặc thù để phân
biệt với sản phẩm du lịch sinh thái ở các địa bàn khác.
Thế mạnh trong mỗi tài nguyên ở mỗi vùng, mỗi khu vực trong phục vụ hoạt
động du lịch sinh thái chính là ở chỗ đưa ra được tính đặc thù về mỗi loài động vật,
Chuyên đề thực tập
thực vật, nguồn nước, đất đai hay khí hậu tại đó. Những thế mạnh này cần được thể
hiện bên cạnh tính đa dạng sinh học của tất cả các khu vực, vùng và quốc gia có tài
nguyên để phục vụ du lịch sinh thái.
1.3.2. Sự tham gia tích cực của cộng đồng dân cư địa phương trong việc
phát triển du lịch bền vững
Du lịch sinh thái chỉ hấp dẫn và càng trở nên hấp dẫn hơn khi có sự tham gia
của người dân địa phương.
Thứ nhất, người dân địa phương có được những kinh nghiệm truyền thống rất
quý báu về thiên nhiên. kiến thức về thiên nhiên của người dân địa phương có lợi và
mang lại nhiêu thông tin bổ ích cho các hướng dẫn viên làm việc trong các công ty
lữ hành, các cá nhân triển khai các dự án kinh tế nói chung và u lịch nói riêng tại
một địa bàn nhất định.
Thứ hai, khi người dân bản địa được hưởng lợi ích trực tiếp ừ các di sản do
thiên nhiên ban cho va tổ tiên để lại athì họ không coi đó là di sản mà là tài sản.
Chính vì vậy, họ sẽ tích cực chia sẻ, tham gia đóng góp vào các dự án kinh tế, du
lịch liên squan đến cộng đồng địa phương họ.
1.3.3. Sự cam kết lâu dài và thiết lập hệ thống các nguyên tắc, giá trị đạo
đức trong kinh doanh của các chủ thể quản lý Nhà nước và quản trị
kinh doanh.
Sự cam kết lâu dài
Chính quyền địa phương là cơ quan quản lý hành chính tại địa phương, và là
cơ quan đại diện, bảo vệ quyền lợi của người dân về kinh tế, văn hoá-xã hội và sinh
thái tại mỗi địa phương nhất định.Chính quyền địa phương là cơ quan đưa ra chính
sách, chủ trương tầm vĩ mô nhằm mục đính ngày càng phát triển địa phương mình.
Các cơ quan quản lý về du lịch tương tự như vậy, cũng là các cơ quan quản lý
hành chính nhưng đứng trên góc độ làm du lịch. Ở nhiều nước trên thế giới cũng
như ở Việt Nam, hai cơ quan nói trên cùng phối hợp, hành động để hoạt động du
lịch tại mỗi địa phương đạt hiệu quả cao nhất.
Thiết lập hệ thống các nguyên tắc và giá trị đạo đức
Hệ thống các nguyên tắc và giá trị đạo đức trong kinh doanh sản phẩm du lịch
sinh thái được thiết lập trên cơ sở trao đổi, bàn bạc và thống nhất cách thực hiện,
kiểm soát DLST giữa các cá nhân và tổ chức có liên quan trong hoạt động du lịch
này.Họ là: Chính quyền địa phương, cơ quan quản lý về du lịch, các nhà kinh doanh
Chuyên đề thực tập
du lịch, người dân địa phương, các nhà tổ chức phi chính phủ vì môi trường.Những
hệ thống này cũng là cơ sở để đánh giá chất lượng và mức độ phù hợp của những tổ
chức, cá nhân tham gia, tiến hành hoạt động kinh doanh DLST.Tất nhiên, tuỳ thuộc
vào đặc trưng từng địa phương, từng vùng và khu vực mà chi tiết cụ thể trong mỗi
hệ thống các nguyên tắc và giá trị đạo đức nêu trên các phần khác nhau giữa các
lãnh thổ nhưng phải thừa nhận là có cùng triết lý và nguyên tắc thực hiện chung.Các
tổ chức, cá nhân tham gia thực hiện du lịch sinh thái đều chịu sự chi phối của hệ
thống các nguyên tắc đó.
1.3.4. Có sự cố vấn giám sát từ các tổ chức môi trường phi chính phủ
Các tổ chức phi chính phủ quan tâm tới công tác bảo tồn các di sản văn hoá và
thiên nhiên. Các tổ chức phi chính phủ hoạt động vì mục đính phi lợi nhuận, sẵn
sang hỗ trợ, giúp đỡ phát triển hoạt động du lịch sinh thái vì nó mang lại những lợi
ích thực tiễn bền vững. Họ tìm kiếm các hoạt động để hỗ trợ như:
Bảo vệ môi trường thông qua ngăn ngừa, cải thiện, sửa chữa và hồi phục
những tài nguyên bị phá huỷ
Thúc đẩy các cá nhân và tổ chức liên quan đến du lịch sinh thái nhận thức tốt
hơn và bởi vậy quan tâm hơn thay vì cố gắng triệt để các tài nguyên.
1.3.5. Nguồn khách du lịch sinh thái có đặc điểm tiêu dùng tương thích
với sản phẩm du lịch sinh thái
Khách du lịch sinh thái là người tiêu dung du lịch với mục đích chính tham
quan nghiên cứu tài nguyên du lich, có ý thức và trách nhiệm bảo tồn và phát triển
thiên nhiên, có trách nhiệm đối với cộng đồng dân cư bản địa. Khách du lịch sinh
thái có các đặc trưng:
Thứ nhất, yêu thiên nhiên, thích tìm hiểu hệ sinh thái đa dạng và khám phá
những điều bí ẩn của tự nhiên và văn hoá bản địa.
Thứ hai, thích lưu trú trong điều kiện tự nhiên, thích di chuyển bằng các
phương tiện không gây ô nhiễm môi trường.
Thứ ba, đặc biệt ưu thích các món ăn được coi là đặc sản có giá trị văn hoá ẩm
thực.
Thứ tư, thích tham gia vào các hoạt động đời thường, văn hoá dân gian của cư
dân bản địa.
Chuyên đề thực tập
Sản phẩm du lịch sinh thái có tính hấp dẫn cao bởi ba thành phần cốt lõi tạo ra
hình ảnh thương hiệu của điểm du lịch sinh thái: hệ động vật, thực vật đa dạng
phong phú và văn hoá dân gian độc đáo.
Điều quan trọng là số lượng và loại khách du lịch sinh thái phải phù hợp với
đặc điểm của điểm đến. Điều này đòi hỏi phải có sự giám sát về các du khách. Sự
hiểu biết về các nhóm khách, động cơ và đặc tính của họ là điều cần thiết để đẩy
mạnh thị trường và lập kế hoạch cung cấp các trang thiết bị và dịch vụ. Vì vậy việc
thu thập số lượng thị trường nếu không đầy đủ thoả đáng thì sẽ khiến các nhà ra
quyết định tạo ra một sản phẩm du lịch không có thị trường.
1.4. Phát triển du lịch bền vững
1.4.1. Khái niệm phát triển du lịch bền vững
“ Phát triển bền vững là sự phát triển sử dụng tài nguyên, điều kiện môi
trường hiện có để thoả mãn nhu cầu của các thế hệ đang sống nhưng lại phải đảm
bảo cho các thế hệ tương lai những điều kiện tài nguyên môi trường cần thiết để họ
có thể sống tốt hơn ngày nay ”.
Theo định nghĩa ở trên ta có thể thấy phát triển bền vững không chỉ bao gồm
sự phát triển bền vững về mặt kinh tế mà nó còn phải dựa vào sự bền vững về mặt
xã hội và môi trường. Như vậy phát triển bền vững đem lại cho con người cuộc
sống tốt đẹp về mọi mặt. Chính vì thế mà phát triển bền vững đã trở thành xu thế
của thời đại ngày nay. Nó được áp dụng trong mọi ngành, đặc biệt vấn đề này đối
với du lịch lại càng cần thiết hơn cả. Bởi vì du lịch là dựa vào tài nguyên thiên
nhiên, nhân văn để hoạt động. Có khai thác hiệu quả và hợp lý nó thì du lịch mới
phát triển lâu bền được. Từ khái niệm phát triển bền vững chung cho mọi ngành ta
có thể suy ra được khái niệm phát triển du lịch bền vững.
“ Phát triển du lịch bền vững là hoạt động khai thác có quản lý các giá trị tự
nhiên và nhân văn nhằm đáp ứng được nhu cầu hiện tại của khách du lịch, ngành du
lịch và cộng đồng địa phương nhưng không ảnh hưởng tới khả năng đáp ứng của thế
hệ mai sau ”. (Theo định nghĩa của Antonio Machiado)
Như vậy phát triển du lịch bền vững là việc phát triển về mặt kinh tế nhưng
vẫn phải đảm bảo việc duy trì được sự toàn vẹn về môi trường tự nhiên và văn hoá.
1.4.2.
Nguyên tắc phát triển du lịch bền vững
Theo định nghĩa ở trên thì muốn phát triển du lịch bền vững về 3 mặt: kinh tế,
xã hội và môi trường.
Chuyên đề thực tập
1.4.2.1. Bền vững về kinh tế
Đây là một trong ba yều cầu đối với phát triển bền vững. Nó có ý nghĩa quan
trọng đối với các doanh nghiệp kinh doanh du lịch.
Thứ nhất nó phải bảo đảm sự tăng trưởng, phát triển ổn định và lâu dài, tạo ra
được nhiều lợi nhuận cho doanh nghiệp. Muốn được như vậy doanh nghiệp kinh
doanh du lịch và sở du lịch của địa phương phải thoả mãn được những điều kiện
sau: công tác tuyên truyền quảng bá phải được thực hiện nghiêm chỉnh, trong phạm
vi rộng; sản phẩm du lịch phải thật đặc biệt để thu hút được nhiều khách du lịch
trong và ngoài nước. Bên cạnh đó chất lượng của các sản phẩm du lịch cũng cần
phải được đảm bảo, đội ngũ nhân lực cũng cần được đào tạo bài bản có chất lượng
cao. Thêm vào đó cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch ở đó phải có chất lượng và thuận
tiện cho khách như: tình trạng buồng phòng luôn đáp ứng được cho khách du lịch kể
cả vào thời điểm đông nhất trong năm, giao thông đi lại phải thuận tiện…Làm được
nhu vậy sẽ giữ chân khách ở khu du lich lâu hơn, khách tiêu dùng nhiều hơn. Đó là
yếu tố mà một doanh nghiệp kinh doanh nào cũng muốn đạt được.
Nội dung thứ hai mà yêu cầu bền vững về mặt kinh tế cần có là: kinh doanh du
lịch phải góp phần tích cực vào phát triển của cộng đồng địa phương. Nó thể hiện ở
chỗ có sự phát triển cân đối giữa các ngành nghề, không để có sự chênh lệch quá
lớn. Vì như vậy rất dễ dẫn đến sự mất cân bằng trong nền kinh tế địa phương. Các
ngành nghề không nên phát triển riêng biệt mà cần có sự liên kết chặt chẽ giữa kinh
doanh du lịch với các ngành nghề khác, cùng hỗ trợ nhau phát triển. Chính quyền và
doanh nghiệp kinh doanh du lịch cần nghiên cứu và khai thác tốt những khía cạnh
của những ngành nghề khác để phục vụ cho du lịch. Làm như vậy loại hình du lịch
sẽ trở nên phong phú, đa dạng và hấp dẫn hơn mà các ngành nghề khác cũng có cơ
hội phát huy khả năng của mình. Nếu như các ngành nghề của địa phương đều phát
triển cộng thêm với việc khuyến khích người dân tham gia vào kinh doanh du lịch
thì chắc chắn sẽ tạo ra rất nhiều công ăn việc làm cho người dân địa phương. Từ đó
giúp họ tăng thu nhập và nâng cao chất lượng cuộc sống.
1.4.2.2. Bền vững về xã hội
Du lịch biển phải có sự đóng góp cụ thể cho phát triển xã hội, đảm bảo sự
công bằng trong phát triển. Khách du lịch đến từ rất nhiều nơi khác nhau mang theo
nhiều nền văn hoá khác nhau đến địa phương. Mặt tích cực của nó là người dân địa
phương có thể hiều hơn về nền văn hoá khác từ đó có thể tiếp thu được những tinh
hoa văn hoá. Nhưng mặt hạn chế là nếu để các nền văn hoá đó du nhập một cách tự
Chuyên đề thực tập
do thì người dân có thể tiếp thu phải những yếu tố xấu, mất dần đi bản sắc văn hoá
địa phương . Phát triển bền vững là bảo đảm quyền lợi của người dân, mọi người
đều được tham gia vào kinh doanh để họ nâng cao chất lượng cuộc sống, góp phần
xoá đói giảm nghèo. Nhưng điều đó không có nghĩa là để cho lợi ích kinh tế làm lu
mờ các giá trị văn hoá. Cần ngăn ngừa sự thay thế các ngành nghề truyền thống lâu
đời bằng chuyên môn phục vụ du lịch. Không để người dân địa phương biến văn
hoá bản địa thành hàng hoá bán cho khách. Văn hoá là phần không thể thiếu đối với
mỗi người. Đó là những tinh hoa được tích luỹ từ đời này qua đời khác. Nó làm nên
giá trị của mỗi người, mỗi địa phương. Vì thế phát triển sao cho bền vững về văn
hoá – xã hội cũng là một mảng hết sức quan trọng.
1.4.2.3. Bền vững về môi trường
Du lịch cũng là một hình thức kinh doanh vì thế việc đảm bảo phát triển tốt về
kinh tế, có lợi nhuận là một tất yếu. Tuy nhiên phát triển bền vững có nghĩa là phải
có sự hài hoà giữa yếu tố kinh tế và môi trường. Không nên chỉ chú trọng vào phát
triển kinh tế mà tìm mọi cách kể cả việc làm tổn hại nghiêm trọng đến tài nguyên.
Bởi vì tài nguyên du lịch thường có sẵn và rất khó để phục hồi, thời gian phục hồi là
rất lâu. Những điểm cần lưu ý khi khai thác phát triển tài nguyên du lịch là:
Khai thác tài nguyên không quá giới hạn cho phép, phải tôn trọng sức chứa
của khu du lịch. Doanh nghiệp phải xác định được số lượng khách tối đa mà không
gây thiệt hại đến môi trường tự nhiên, không làm cho khách cũng như người dân địa
phương cảm thấy khó chịu và chính quyền địa phương vẫn có thể quản lý được.
Ngoài việc khai thác hợp lý ra doanh nghiệp cũng cần phải sử dụng nó một cách
hợp lý tránh sự lãng phí tài nguyên. Duy trì sự đa dạng và ổn định của các hệ sinh
thái, các động thực vật…không để chúng bị phá huỷ.
Không gây ô nhiễm và giảm thiểu chất thải cũng là một vấn đề quan trọng
trong việc phát triển bền vững môi trường. Đối với môi trường cần giảm thiểu tối đa
rác thải và đảm bảo việc xử lý rác tốt. Đối với môi trường không khí xung quanh
môi trường cần có biện pháp để giảm khí thải do các phương tiện giao thông, các
thiết bị phục vụ cho du lịch gây nên. Quy hoạch cơ sở hạ tầng và giải phóng mặt
bằng cũng phải phù hợp với điều kiện cho phép của môi trường. Như địa phương
nên xác định xem có bao nhiêu khách sạn, nhà hàng là hợp lý về vấn đề về điện,
nước, hệ thống xử lý rác thải phục vụ cho du lịch mà vẫn đảm bảo cuộc sống cho
người dân nơi đây.
1.4.3. Mối quan hệ giữa phát triển du lịch sinh thái và phát triển du lịch bền
vững
Chuyên đề thực tập
Du lịch bền vững là hoạt động du lịch đáp ứng nhu cầu hiện tại của khách du
lịch và của chính khu du lịch đồng thời bảo vệ, thúc đẩy cơ hội phát triển cho tương
lai. Du lịch bền vững hướng tới việc quản lý các nguồn tài nguyên sao cho các nhu
cầu kinh tế xã hội phải được thoả mãn trong khi vẫn duy trì được bản sắc văn hoá,
các đặc điểm sinh thái, sự đa dạng sinh học và hệ thống các giải pháp hỗ trợ. Du
lịch bền vững xác định vai trò trung tâm của cộng đồng trong việc lập kế hoạch và
ra các quyết định phát triển du lịch. Du lịch bền vững phục vụ cho mục đích phát
triển con người cho nên du lịch bền vững không chỉ tập trung vào mục đích kinh tế
mà còn nhằm vào phát triển xã hội bao gồm giáo dục, y tế, môi trường và vấn đề tôn
giáo.
“Du lịch sinh thái là du lịch có trách nhiệm với các khu thiên nhiên là nơi bảo
tồn môi trường và cải thiện phúc lợi cho nhân dân địa phương”. Du lịch sinh thái là
loại hình du lịch diễn ra trong các vùng có hệ sinh thái tự nhiên còn bảo tồn khá tốt
nhằm mục tiêu nghiên cứu, chiêm ngưỡng, thưởng thức phong cảnh, động thực vật
cũng như các giá trị văn hoá hiện hữu. Du lịch sinh thái nhấn mạnh và đề cao yếu tố
giáo dục nâng cao ý thức con người trong vấn đề bảo tồn thiên nhiên, giữ gìn và
phát huy giá trị bản sắc văn hoá do con người sáng tạo. Trong loại hình du lịch sinh
thái không nhất thiết phải có sự tham gia của cộng đồng và dân cư địa phương.
Chuyên đề thực tập
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH THÁI Ở CÁT
BÀ
2.1. Khái quát về Cát Bà
Hải phòng có nhiều cảnh quan thiên nhiên, có biển, có đảo, có vườn quốc
gia… đã tạo cho thành phố Hoa phượng đỏ tiềm năng lớn để phát triển du lịch sinh
thái. Cát Bà là một khu du lịch nổi tiếng của Hải Phòng – một hòn đảo lớn nằm ở
phía tây nam vịnh Hạ Long và Bái Tử Long, cách trung tâm thành phố khoảng
60km. Thiên nhiên đã ưu đãi cho quần đảo này nhiều cảnh quan đẹp, tài nguyên
rừng và biển phong phú, một quần thể đảo và hang động làm mê hồn du khách.
Vườn quốc gia Cát Bà hiện còn giữ diện tích lớn rừng nguyên sinh nhiệt đới với hệ
thực động vật phong phú gồm 745 loài thực vật, hơn 32 loài thú, 69 loài chim, 20
loài bò sát và lưỡng cư… Nhiều loài động vật quý hiếm như sóc bụng đỏ, rùa da…
và đặc biệt là loài voọc đầu trắng được ghi vào danh mục được bảo vệ nghiêm ngặt
đã trở thành biểu tượng của Vườn Quốc gia Cát Bà. Cát Bà có hệ thống hang động,
vùng vịnh như các động Trung Trang, Thiên Long, Hùng Sơn... có tới 139 bãi biển
các loại nằm xen kẽ giữa những dãy núi đá vôi trùng điệp với cấu trúc địa hình Kast
ngập nước. Ngoài ra hệ sinh thái san hô ở Cát Bà là tài nguyên đặc hữu trong quần
thể Di sản thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long. Cát Bà hấp dẫn khách du lịch trong
và ngoài nước bởi vẻ đẹp thiên nhiên hoang dã, môi trường sinh thái biển trong lành
và tài nguyên du lịch đa dạng. Năm 2004, Cát Bà được UNESCO công nhận là Khu
dự trữ sinh quyển thế giới, được quảng bá rộng rãi ở trong nước và trên thế giới, có
sức hút lớn cho đầu tư, các tổ chức quốc tế tài trợ trong phạm vi của chương trình
UNESCO về con người và sinh quyển.
Đảo và biển Cát Bà có lịch sử con người lâu đời với nền văn hoá nông nghiệp,
đánh bắt nuôi trồng thuỷ sản.Dựa trên những di tích khảo cổ, có thể thấy con người
đã sống ở khu vực này ít nhất 6.000 năm trước. Cát Bà có 42 khu vực khảo cổ với
các di tích tiền sử, trong số đó: 4 điểm còn chứa đựng những dấu vết của kỷ nguyên
Pleitoxen, 7 điểm thuộc thời tiền sử, 2 điểm liên quan đến thời kỳ lịch sử, 8 động và
những vòm đá cho thấy những dấu vết khảo cổ văn hoá. Các di tích khảo cổ của Cát
Bà nằm trên các dải cát gần biển và cách thị trấn Cát Bà 1,5 km về phía đông nam.
Bên cạnh xương của các động vật biển, tập hợp những đò vật kháccủa thời kỳ văn
Chuyên đề thực tập
hoá này cũng được tìm thấy từ biển. Điều này chứng tỏ con người trong khu vực
này sống gần gũi với môi trường biển và Cát Bà bị tách ra khỏi lục địa vào một số
giai đoạn. trong số 4 động còn chứa một số động vật như hươu, nai, tê giác, nhím và
đười ươi. Di tích của các mồ mả ở các động trên đảo Cát Bà được tìm thấy ở động
Khay Quy, động Ang Giua trong đó đã tìm thấy xương của người Melanedi. Những
vật dụng và các di tích văn hoá trên đảo Cát Bà bao gồm di tích của các miếu “các
bà”,”các ông” có liên quan chặt chẽ với truyền thuyết “ bảy ngày ba ông” kể về
cuộc chién đáu chống lại quân xâm lược vào thời kỳ đầu dựng nước. Ngoài ra còn
có thành cổ nhà Mạc ở xã Xuân Đàm. Các lễ hội cũng còn lưu giữ bao gồm lễ hội
đua thuyền rồng, đua thuyền nan, lê tế thần biển và lễ hội đánh cá cung trở thành
những nét hấp dẫn du khách.
2.2. Các điều kiện phát triển du lịch sinh thái ở Cát Bà
2.2.1. VỊ trí, địa lý
Cát Bà, còn gọi là đảo Ngọc, là hòn đảo lớn nhất trên tổng số 1.969 đảo trên
vịnh Hạ Long.Cát Bà là một hòn đảo đẹp và thơ mộng, nằm ở độ cao trung bình 70
m so với mực nước biển (dao động trong khoảng 0-331 m). Trên đảo này có thị trấn
Cát Bà ở phía đông nam (trông ra vịnh Lan Hạ) và 6 xã: Gia Luận, Hiền Hào, Phù
Long, Trân Châu, Việt Hải, Xuân Đám. Cư dân chủ yếu là người Kinh.
2.2.2.
Lịch sử
Tương truyền xưa kia tên đảo là Các Bà, là hậu phương cho Các Ông theo
Thánh Gióng đánh giặc Ân. Ở thị trấn Cát Bà hiện nay có đền Các Bà. Các bản đồ
hành chính thời Pháp thuộc (như bản đồ năm 1938) còn ghi là Các Bà. Như vậy có
lẽ tên gọi Các Bà đã bị đọc trệch thành Cát Bà.Trước đây đảo Cát Bà thuộc huyện
Cát Bà, năm 1977 mới sáp nhập với huyện Cát Hải thành huyện Cát Hải mới. Trước
đây đảo thuộc tỉnh Quảng Yên, sau thuộc khu Hồng Quảng, đến năm 1956 mới
chuyển về thành phố Hải Phòng. Thị trấn Cát Bà hiện nay là huyện lị huyện Cát
Hải. Trước năm 1945, thị trấn Cát Bà là phố Cát Bà, rồi đại lý Cát Bà thuộc huyện
Cát Hải, tỉnh Quảng Yên. Sau năm 1945, trở thành thị xã Cát Bà. Đến năm 1957 thị
xã Cát Bà đổi thành thị trấn và huyện Cát Bà mới thành lập.
2.2.3.
Tài nguyên thiên nhiên và môi trường sinh thái
Trên đảo chính Cát Bà có rừng nguyên sinh trên núi đá vôi là một nơi đang
được đẩy mạnh phát triển du lịch sinh thái. Phía Đông Nam của đảo có vịnh Lan
Hạ, phía Tây Nam có vịnh Cát Gia có một số bãi cát nhỏ nhưng sạch, sóng không
lớn thuận tiện cho phát triển du lịch tắm biển, nghỉ dưỡng. Trên biển xuất hiện
Chuyên đề thực tập
nhiều núi đá vôi đẹp tương tự vịnh Hạ Long và Bái Tử Long. Ở một số đảo nhỏ,
cũng có nhiều bãi tắm đẹp.
Con đường độc đạo chạy ven biển và xuyên qua đảo Cát Bà
•
Đường xuyên đảo Cát Bà: dài 27 km, có nhiều đèo dốc quanh co, xuống
khoăn, qua áng, men theo mép biển, xuyên qua vườn quốc gia, phong cảnh
kỳ thú, non nước hữu tình.
•
Vườn quốc gia Cát Bà: có diện tích 15.200 ha, trong đó có 9.000 ha rừng,
5.400 ha biển tạo nên một môi trường sinh thái lý tưởng.
•
Động Trung Trang: Nằm cách thị trấn 15 km cạnh đường xuyên đảo, có
nhiều nhũ đá thiên nhiên. Động này có thể chứa hàng trăm người.
•
Động Hùng Sơn: Cách thị trấn 13 km, trên đường xuyên đảo. Động còn có
tên Động Quân Y vì trong Chiến tranh Việt Nam người ta đã xây cả một
bệnh viện hàng trăm giường nằm ở trong lòng núi.
•
Động Phù Long (Cái Viềng) mới tìm ra, được cho là đẹp hơn động Trung
Trang.
Bãi tắm Cát Cò
•
Các bãi tắm: Cát Cò 1, Cát Cò 2, Cát Dứa, Cát Ông, Cát Trai Gái, Đường
Danh v.v... là những bãi tắm nhỏ, đẹp, kín đáo, có nhiều mưa, che nắng, cát
Chuyên đề thực tập
trắng mịn, nước biển có độ mặn cao, trong suốt tới đáy. Người ta dự định xây
dựng ở đây những "thuỷ cung" để con người có thể trực tiếp quan sát các đàn
cá heo, tôm hùm, rùa biển, mực ống, cá mập bơi lượn quanh những cụm san
hô đỏ.
Một bãi tắm đẹp trên Đảo Khỉ thuộc quần đảo Cát Bà
Cát Bà với vẻ đẹp nguyên sơ và hùng vĩ, nó được mệnh danh là Hòn Ngọc của Vịnh
Ngoài ra Cát Bà còn có nhiều động, thực vật quý hiếm: Gần 60 loài đã được
coi là các loài đặc hữu và quý hiếm đã được đưa vào Sách đỏ Việt Nam như các loài
động vật: ác là, quạ khoang, voọc đầu vàng, voọc quần đùi trắng và các loài thực vật
như chò đãi, kim giao (Podocarpus fleurii), lá khôi (Ardisia spp.), lát hoa
(Chukrasia tubularis),dẻ hương, thổ phục linh, trúc đũa, sến mật. Ngoài ra còn 8
loài rong, 7 loài động vật đáy cũng cần được bảo vệ.
2.2.4.
Tài nguyên nhân văn
Quần đảo Cát Bà có tiềm năng phát triển du lịch cả về tự nhiên lẫn nhân văn.
Cát Bà còn lưu giữ các di tích cổ sinh, di chỉ khảo cổ học, di tích lịch sử - văn hóa
như thành nhà Mạc, khu thương cảng (bến Gốm), di chỉ Cái Bèo và đặc biệt là hoá
thạch trầm tích trong hang động Đá Trắng. Theo giám định của Viện Khảo cổ học,
hóa thạch được tìm thấy có niên đại Pleistocen muộn (từ 01 triệu đến 11.000 năm
trước).
Môi trường thiên nhiên của Cát Bà-Cát Hải đã là cái nôi của người từ cổ xưa.
Các nhà khảo cổ đã tiến hành khai quật 17 địa điểm trên đảo Cát Bà. Kết quả cho
thấy có tới 15 điểm có dấu tích của người cổ xưa như hang Eo bùa thuộc xã Hiền
Hào, Tùng Bà thuộc Vườn Quốc Gia, Bờ Đá, Khoăn Mui thuộc xã Trân Châu, Áng
Giữa thuộc xã Việt Hải. Đặc biệt là di chỉ Cái Bèo được một nhà khảo cổ người
Chuyên đề thực tập
Pháp phát hiện năm 1938, qua nhiều lần khai quật và kết quả phân tích Điôxit
cácbon cho biết người Việt cổ có mặt ở đây cách ngày nay trên 6.000 năm. Trong
tầng đất trên của di chỉ Cái Bèo còn có một tầng di chỉ chứa những di vật tiêu biểu
thuộc nền văn hoá Hạ Long. Trong lớp đất này có ít xương động vật. Những hiện
vật ở đây mang đủ loại hình của nền văn hoá Hạ Long đồng thời còn có những đặc
điểm riêng biệt cho thấy con người của nền Hạ Long đến đây sinh sống vào giai
đoạn muộn, giai đoạn phát triển cao của nền văn hoá này. Giữa hai tầng trên và dưới
của di chỉ Cái Bèo là một lớp san mỏng không chứa các di vật hoặc xương các động
vật. Điều này chứng tỏ trước đây đã có một thời nước biển dâng lên tràn ngập lớp
dưới để lại dấu tích của biển ngăn cách giữa hai nền văn hoá sớm và muộn. Di chỉ
Cái Bèo có giá trị lịch sử lớn khẳng định người Việt cổ đã cư trú tại vùng đất này từ
rất xa xưa.
Các làng xã trên đảo Cát Bà nằm giáp biển nên cuộc sống của người dân nơi
đây cũng gắn liền với biển :chèo thuyền, đua thuyền là sinh hoạt văn hoá, hội đua
thuyền chính là ngày hội xuống nước của các làng chài Cát Hải. Chính ở nơi đầu
sóng ngọn gió, với sức sống, tinh thần lao động sáng tạo, người dân ở đây đã để lại
những giá trị văn hoá độc đáo. Trên thị trấn Cát Bà ngày nay còn lại dấu tích nơi
đền thờ các bà trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm phương Bắc. Hòn cẩm
thạch của làng Gia Luận đã từng là nơi tập kết dấu cọc gỗ lấy từ Vân đồn để góp
phần làm lên chiến thắng quân Nam Hán trong trận Bạch Đằng Giang của Ngô
quyền năm 938. Ngôi miếu cổ Văn Chấn - xã Văn Phong có kiến trúc tinh xảo vào
Hậu Lê (Thế kỷ XV) "Tân tạo thạch bia" chùa Gia Lộc với khối đá bốn mặt trạm
khắc hoa văn sinh động hiếm thấy được tạo dựng từ thời "Cảnh Thịnh tứ niên" năm
1797. Đình Đôn Lương nghệ thuật kiến trúc điêu khắc tuyệt diệu thể hiện tài nghệ
một thời. Tại xã Xuân Đám còn lại một phần kiến trúc bức tượng thành xếp đá được
xây dựng từ thời nhà Mạc thế kỷ XVI. Chùa Hoà Hy (Hoà Quang) còn tương đối
nguyên vẹn, có nhiều pho tượng độc đáo, những nét hoa văn trạm trên bia đá hiếm
thấy trên các bia chùa của miền Bắc. Văn bia đình làng Hoàng Châu còn lưu danh
các sinh đồ Quốc Tử Giám: Nguyễn khắc Minh, Bùi Quang Trịnh, Vũ Tiến Tước là
người làng Hoàng Châu đã học hành đỗ đạt tại cơ quan học viện cao nhất nước ta
thời kỳ tiền Lê Hoàng Triều. Người dân trên đảo có quyền tự hoà về con đường học
hành, đỗ đạt của cha ông một thời.Có thể nói văn hoá của huyện đảo Cát Hải phong
phú đa dạng bởi lẽ người dân định cư trên đảo có nguồn gốc từ nhiều nơi họp thành
là cộng đồng những người sống bằng nghề biển vùng Duyên Hải.
Chuyên đề thực tập
Đến với Cát Bà, chúng ta còn được hòa mình vào lễ hội làng cá được tổ chức
vào cuối tháng 3, đầu tháng 4 hàng năm để ghi nhớ ngày Bác Hồ về thăm làng cá
Cát Bà.
2.2.5.
Khu dự trữ sinh quyển
Quần đảo Cát Bà có rừng mưa nhiệt đới trên đảo đá vôi, rừng ngập mặn, các
rặng san hô, thảm rong - cỏ biển, hệ thống hang động, tùng áng, là nơi hội tụ đầy đủ
các giá trị bảo tồn đa dạng sinh học, bảo đảm các yêu cầu của khu dự trữ sinh quyển
thế giới theo quy định của UNESCO.
Cát Bà đã được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới ngày 02
tháng 12 năm 2004. Ngày 1 tháng 4 năm 2005 tại đây đã diễn ra lễ đón nhận bằng
quyết định của UNESCO và kỷ niệm sự kiện này. Việt Nam hiện có 06 khu dự trữ
sinh quyển thế giới được UNESCO công nhận là: Cần Giờ, Cát Tiên, châu thổ sông
Hồng, miền Tây Nghệ An, Kiên Giang và quần đảo Cát Bà.Tổng diện tích khu dự
trữ sinh quyển Cát Bà rộng hơn 26.000 ha, với 2 vùng lõi (bảo tồn nghiêm ngặt và
không có tác động của con người), 2 vùng đệm (cho phép phát triển kinh tế hạn chế
song kết hợp với bảo tồn) và 2 vùng chuyển tiếp (phát triển kinh tế). Khu dự trữ
sinh quyển Cát Bà là vùng hội tụ đầy đủ cả rừng mưa nhiệt đới trên đảo đá vôi, rừng
ngập mặn, các rạn san hô, thảm rong và đặc biệt là hệ thống hang động.
2.2.6.
Điều kiện kinh tế-xã hội
Với lợi thế gần biển đã tạo điều kiện thuận lợi cho Cát Bà phát triển kinh tế.
thành phố Hải Phòng và Bộ Thuỷ Sản đã coi Cát Bà là trung tâm của dịch vụ thuỷ
sản. Chính phủ và Tổng cục du lịch đã quyết định phát triển Cát Bà thành trung tâm
quốc gia về du lịch sinh thái. Tất cả điều này cho thấy tiềm năng thuỷ sản, du lịch
và dịch vụ của huyện Cát Hải. Ngành kinh tế đánh bắt cá truyền thống đã tăng
trưởng nhanh trong vài năm qua. Với những định hướng phát triển phong phú,
ngành thuỷ sản Hải Phòng đã vượt qua nhiều khó khăn và từng bước phát triển.
Khai thác thuỷ sản đã đạt được 5.730 tấn năm 2000 và tăng lên 8.091 tấn năm 2002.
Nuôi trồng thuỷ sản từ 608 tấn tăng gấp đôi lên 1.148 tấn năm 2002. Đến năm 2009
ngành thuỷ sản tăng 9,5%, đạt 7.050 tấn, trong đó khai thác là 3.050 tấn, nuôi trồng
là 4.000 tấn. Đó là kết quả của việc chuyển đổi cơ cấu mạnh mẽ, đặc biệt là việc áp
dụng đổi mới những phương pháp và áp dụng công nghệ khoa học tiên tiến trong
sản xuất. Một trong những nết phát triển của ngành thuỷ sản là nhiều hộ gia đình đã
đầu tư vào các lồng nuôi thuỷ sản trên biển. Đây là cách hiệu quả để sử dụng các
điều kiện môi trường tự nhiên và đánh thức những tiềm năng chưa được khai thác
Chuyên đề thực tập
của biển Cát Bà. Cùng với sự phát triển của thuỷ sản, sản xuất cũng được cải thiện.
Trên khu vực rộng 143,7ha năm 2002 sản lượng đạt 12.187 tấn, tăng 27,6% so với
năm 2001. Những năm qua, Cát Hải đã trở thành điểm hấp dẫn đối với khách du
lịch Việt Nam cũng như du khách quốc tế.
Cùng với xây dựng cơ sở hạ tầng, ngành giáo dục và đào tạo cũng đạt các mục
tiêu vượt mức kế hoạch đề ra cả về chất lượng và số lượng. Ngành thể thao, văn
hoá, thông tin đa hợp tác chặt chẽ với các ngành khác trong việc triể khai thành
công các chương trình tuyên truyền. Tuyên truyền tập trung vào việc hoàn thành các
mục tiêu phát triển chính trị, kinh tế, bảo vệ môi trường và kiểm soat những vấn đề
xã hội. Ngày càng có nhiều hoạt động biểu diễn văn hoá nghệ thuật. Nhà văn hoá
huyện tổ chức rất nhiều buổi biểu diễn văn hoá, văn nghệ, khuyến khích mở rộng
các phong trào văn hoá văn nghệ địa phương.
Cát Hải tập trung vào phát triển kinh tế xã hội, sử dụng tài nguyên rừng, biển
sinh thái để phát triển kinh tế đa ngành. Xây dựng Cát Hải thành một trung tâm du
lịch sinh thái quấc gia đạt chuẩn quốc tế và trung tâm kinh tế biển của Bắc Bộ Việt
Nam, đăc biệt khu kinh tế mở và một khu vực đô thị của thành phố Hải Phòng. Cát
Hải hiện nay làmột trung tâm hội tụ đầu tư với dự án quy hoạch du lịch sinh thái và
khu vực cảng biển Cát Don, Xuân Đàm và Cát Bà với tổng đầu tư trên 500 tỷ trên
diện tích 104ha và một số dự án khác.
2.2.7. Cơ sở vật chất kỹ thuật
Trong chiến lược phát triển Uỷ ban nhân dân và Huyện uỷ đã xác định “xây
dựng hạ tầng cần phải được ưu tiên tạo động lực cho sự phát triển của các ngành
kinh tế mũi nhọn”. Theo định hướng này, mấy năm qua huyện đã triển khai tích cực
việc xây dựng hạ tầng với hiệu quả cao. Theo đó, huyện đã đầu tư mạnh vào cơ sở
hạ tầng nhằm khuyến khích đầu tư vào các trung tâm dịch vụ hỗ trợ thuỷ sản và du
lịch tại đảo Cát Bà. Hoàn thành kế hoạch xây dựng huyện Cát Hải và kế hoạch chi
tiết thị trấn Cát Bà để trình uỷ ban nhân dân Hải Phòng phê duyệt theo đó, huyện
Cát Hải sẽ mở rộng theo hướng tây về xã Phu Long. Ngoài ra huyện sẽ tích cực
triển khai con đường liên đảo thứ 2 xuyên qua Cát Bà, Gia Luận và Tuần Châu, tiếp
tục đầu tư cho các công trình xây dựng, xây dựng các trường học nhiều tầng, nâng
cấp bệnh viện và các trung tâm y tế. Cho tới nay, hầu hết các con đường nội hạt đã
được bê tông và nhựa hoá. Các tuyến nội đảo qua Đình Vũ, Cát Hải và Cát Bà đã
khuyến khích tăng mạnh lưu lượng xe cộ và hành khách đi lại. Tuyến giao thông
khác là sử dụng tầu cao tốc để chuyên chở, phục vụ du lịch và phát triển phúc lợi xã