Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH SẢN XUẤT VÀ TIÊU THỤ LÚA GẠO CỦA THÀNH PHỐ CẦN THƠ TỪ 2012 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (293.42 KB, 26 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH
❧•❧

PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH SẢN XUẤT
VÀ TIÊU THỤ LÚA GẠO CỦA
THÀNH PHỐ CẦN THƠ TỪ
2012 - 2014
Đề Cương Sơ Bộ

Giáo viên hướng dẫn

Nguyễn Minh Cảnh

Sinh viên thực hiện

Huỳnh Thái Sang

MSSV

CT1222M055

Mã ngành

D340101


CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU
1.1 LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Nước ta là một nước nông nghiệp với truyền thống là trồng lúa nước.


Lúa là cây lương thực quan trọng nhất của nước ta và đặc biệt là vùng Đồng
Bằng Sông Cửu Long. Với kinh nghiệm được hình thành và tích lũy qua bao
đời nay của dân tộc ta, cùng với những tiến bộ khoa học – kỹ thuật trong nước
và trên thế về lĩnh vực về nghiên cứu và sản xuất lúa đã thúc đẩy mạnh mẽ
ngành trồng lúa nước ta vươn lên bắt kịp trình độ phát triển của Thế Giới.
Những năm gần đây, Việt Nam đã tham gia vào thị trường lúa gạo quốc
tế với sản lượng gạo xuất khẩu hàng năm đứng thứ 2 – 4 trên Thế Giới. Đối
với người việt chúng ta thì cây lúa không chỉ là cây lương thực hay đại diện
cho nền văn hóa mà còn là nguồn tài chính của người nông dân. Từ một nước
thiếu hụt nguồn lương thực thực phẩm trầm trọng trong những năm thời kỳ
“Bao Cấp” nhưng hiện nay, nền nông nghiệp của nước ta không chỉ sản xuất ra
để đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn xuất khẩu sang nhiều thị trường lớn
trên Thế Giới. Ngành trồng lúa nước ở nước ta đã phát triển và là một trong
những ngành sản xuất lương thực vô cùng quang trọng và đạt được những
thành tựu vô cùng đáng kể, đưa Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo lớn
thư 2 trên Thế Giới (2013).Trước đây cây lúa, hạt gạo chỉ mang lại sự no đủ
cho con người thi ngày nay, nó còn có thể làm giàu cho người nông dân và cho
cả đất nước nếu chúng ta biết biến nó thành thứ hàng hóa có giá trị. Việt Nam
là cái nôi của nền văn minh lúa nước, hạt gạo gắn liền với sự phát triển của
dân tộc cho đến nay nó vẫn là nền kinh tế của cả nước.
Cần Thơ là trung tâm của Đồng Bằng Sông Cửu Long và củng là một
trong những tỉnh trọng điểm sản xuất nông nghiệp của vùng và cả nước, có
tiềm năng lớn, đa dạng với nhiều lợi thế để phát triển nông nghiệp. Cần Thơ
nằm ở vùng trung tâm Đồng Bằng Sông Cửu Long nên địa thế rất thuận lợi, có
nhiều sông ngòi nhưng lại không có hiện tượng ngập lũ vào các mùa lũ nên rất
thuận lợi cho việc trồng lúa và người dân có thể canh tác ba vụ trên một năm.
Do là trung tâm nên có trình độ khoa học kỹ thuật phát triển, có nhiều giống
lúa mới được cần thơ nghiên cứu và đưa vào canh tác thu được năng suất rất
cao, có thể kháng được bệnh. Hiện nay, cây lúa có giá trị kinh tế rất cao đáp
ứng nhu cầu lương thực trong nước mà còn xuất khẩu sang các nước khác. Vì

vậy để nâng cao giá trị kinh tế của cây lúa ta cần phải chú trọng cả khâu sản
xuất và tiêu thụ, làm cho cây lúa ở cần thơ mang lại lợi nhuận lớn cho thành
phố và nâng cao đời sống cho người dân. Sản xuất như thế nào đem lại lợi
2


nhuận, trúng mùa cho nông dân mà còn phải quan tâm đến khâu tiêu thụ, quá
trình tiêu thụ tốt sẽ giúp cho nông dân bán được lúa, gạo và giá thành được
nâng lên. Vì vậy sản xuất và tiêu thụ phải đi song song nhau làm cho nền kinh
tế Cần Thơ ngày càng đi lên. Tuy nhiên nếu đánh giá tổng quan về thực trạng
sản xuất và tiêu thụ ở thành phố Cần Thơ thì còn rất nhiều khó khăn, thách
thức. Một số khó khăn thách thức điển hình như:
- Thứ nhất, chi phí nguyên liệu đầu vào ngày càng tăng, gây khó
khăn không chỉ cho quá trình sản xuất của nông dân mà còn cho quá trình tiêu
thụ vận chuyển của thương lái.
- Thứ hai, sự biến động về giá trên thị trường, khiến giá cả bấp
bênh, không ổn định.
- Thứ ba, kênh tiêu thụ chưa hiệu quả, còn mang tính tự phát, các tác
nhân tham gia vào kênh phân phối thường tự tìm kiếm đầu vào, đầu ra, thiếu
sự hổ trợ, phối hợp của các cơ quan chức năng.
- Thứ tư, khâu bảo quản sau thu hoạch chưa hiệu quả, gây trở ngại cho
thương lái trong quá trình vận chuyển, trao đổi mua bán,...và còn nhiều khó
khăn,trở ngại khác chưa được đề cập đến.
Trước những thách thức trên, việc nghiên cứu thực trạng, nguyên nhân
về tình hình sản xuất và tiêu thụ là vấn đề hết sức cần thiết; nhằm đưa ra biện
pháp để tối thiểu về chi phí, tối đa lợi nhuận của các tác nhân trong hệ thống
phân phối và tiêu thụ lúa của Cần Thơ
Vì vậy, đề tài: “PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH SẢN XUẤT VÀ TIÊU THỤ
LÚA, GẠO CỦA THÀNH PHỐ CẦN THƠ TỪ 2012 - 2014” được thực
hiện.

1.2 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1.2.1 Mục tiêu chung
Phân tích tình hình sản xuất và thực trạng tiêu thụ lúa gạo ở Cần Thơ,
từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất và tiêu thụ lúa
ở Cần Thơ vào thời gian tới.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
Phân tích tổng quan về tình hình sản xuất, thực trạng tiêu thụ, đề xuất
giải pháp.
Phân tích những thuận lợi, khó khăn, cơ hội, thách thức trong quá trình
sản xuất và tiêu thụ lúa ở Cần Thơ.

3


Đề xuất một số kiến nghị giải pháp nâng cao hơn nữa hiệu quả sản xuất
và tiêu thụ lúa gạo ở Cần Thơ trong thời gian sắp tới.
1.3 PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1.3.1 Thời gian nghiên cứu
Đề tài được sử dụng nguồn thông tin, số liệu thứ cấp trong thời gian 03
năm 2012 - 2013 -2014. Nguồn thông tin, số liệu thứ cấp được thu thập từ
cổng thông tin điện tử báo Cần Thơ, phòng nông nghiệp đài phát thanh truyền
hình thành phố Cần Thơ và một số trang thông tin điện tử khác. Thời gian
nghiên cứu và thực hiện đề tài 21.9.2015.
1.3.2 Không gian nghiên cứu
Địa bàn nghiên cứu là tình hình sản xuất và tiêu thụ lúa gạo trên địa bàn
thành phố Cần Thơ
Sơ lược về Cần Thơ: Thành phố Cần Thơ nằm trong vùng trung – hạ
lưu và ở vị trí trung tâm châu thổ đồng bằng sông Cửu Long, trải dài trên
55km dọc bờ Tây sông Hậu, tổng diện tích tự nhiên 1.401,61 km2 , chiếm
3,49% diện tích toàn vùng. Phía Bắc giáp tỉnh An Giang; phía Đông giáp tỉnh

Đồng Tháp và tỉnh Vĩnh Long; phía Tây giáp tỉnh Kiên Giang; phía Nam giáp
tỉnh Hậu Giang. Đơn vị hành chính của thành phố Cần Thơ gồm 5 quận (Ninh
Kiều, Cái Răng, Bình Thủy, Ô Môn, Thốt Nốt) và 4 huyện (Phong Điền, Cờ
Đỏ, Vĩnh Thạnh, Thới Lai) với 85 đơn vị hành chính cấp xã, phường, thị trấn
(5 thị trấn, 36 xã, 44 phường). Đất ở đây có hai nhóm đất chính là nhóm đất
phù sa (chiếm 84% diện tích tự nhiên, bao gồm 5 loại đất) và nhóm đất phèn
(chiếm 16% diện tích tự nhiên, bao gồm 3 loại đất).(Nguồn: canthopromotion)
1.3.3 Đối tượng nghiên cứu
Các hộ nông dân tham gia sản xuất và các đối tượng thu mua trên địa
bàn thành phố Cần Thơ.
1.4 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.4.1 Phương pháp thu thập số liệu
Số liệu thứ cấp
Các số liệu về điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế - xã hội, tình hình
sản
xuất nông nghiệp nói chung, sản xuất lúa nói riêng và các số liệu về năng suất,

4


sản lượng, diện tích sản xuất lúa qua các năm 2012 – 2013 được thu thập từ
cổng thông tin điện tử báo Cần thơ và một số trang web về tình hình sản xuất
và tiêu thụ lúa, gạo của Cần Thơ
1.4.2 Phân tích dữ liệu
1.4.2.1 So sánh tuyệt đối
Dựa vào các số liệu trong khoản thời gian phân tích là giai đoạn 2012 –
2014 ta chọn năm 2012 làm năm gốc rồi từ đó ta so sánh các năm sau với năm
gốc. Mục đích nhằm thấy rõ sự biến động về quy mô của chỉ tiêu nghiên cứu
giữa điểm nghiên cứu với điểm gốc.
1.4.2.2 so sánh tương đối

nắm được kết cấu, mối quan hệ, tốc độ phát triển, mức độ phổ biến và
xu hướng biến động của các chỉ tiêu kinh tế. Trong phân tích tài chính, các nhà
phân tích thường sử dụng các loại số tương đối sau:
- Số tương đối động thái: Dùng để phản ánh nhịp độ biến động hay tốc
độ tăng trưởng của chỉ tiêu và thường dùng dưới dạng số tương đối định gốc
[cố định kỳ gốc: yi/y0 (i = 1, n)] và số tương đối liên hoàn [thay đổi kỳ gốc: y (i
+ 1)/yi (i = 1, n)].
- Số tương đối kế hoạch: Số tương đối kế hoạch phản ánh mức độ, nhiệm
vụ mà doanh nghiệp cần phải thực hiện trong kỳ trên một số chỉ tiêu nhất định.
- Số tương đối phản ánh mức độ thực hiện: Dùng để đánh giá mức độ
thực hiện trong kỳ của doanh nghiệp đạt bao nhiêu phần so với gốc. Số tương
đối phản ánh mức độ thực hiện có thể sử dụng dưới chỉ số hay tỷ lệ và được
tính như sau:

1.4.2.3 Phân tích SWOT

Phân tích để thấy được những cơ hội, thách thức, đe doạ, những điểm
mạnh và điểm yếu trong sản xuất và tiêu thụ để từ đó ta có thể có những kết
luận và đưa ra những giải pháp cho phù hợp.

5


CHƯƠNG 2
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH SẢN XUẤT VÀ TIÊU THỤ LÚA Ở
CẦN THƠ
2.1 TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH SẢN XUẤT
2.1.1 Sơ lược về Cần Thơ và những chính sách lúa, gạo
Thành phố Cần Thơ với tổng diện tích đất tự nhiên hiện nay là 140.096
ha trong đó khoảng 110.000 ha là đất nông nghiệp (70%). Có 9 đơn vị hành

chánh giữa 5 quận và 4 huyện. Dân số khoảng 1,2 triệu người, trong đó khu
vực nông thôn chiếm 40%. Mặc dù tốc độ đô thị hóa, công nghiệp hóa đang
được đẩy mạnh và tăng nhanh trong những năm qua theo mục tiêu xây dựng
Cần Thơ trở thành đô thị loại I, đô thị trọng tâm, cửa ngõ của vùng ĐBSCL.
Cơ cấu kinh tế đặc trưng được đảy mạnh phát triển là công nghiệp,thương mại,
dịch vụ xây dựng và nông nghiệp công nghệ cao. Đến năm 2010 tỉ lệ cơ cấu
GDP của ngành nông nghiệp chỉ còn trên 10% GDP của thành phố, tuy nhiên
diện tích đất canh tác và dân số lao động sống lệ thuộc vào lĩnh vực nông
nghiệp còn khá cao. Như vậy xét về nhiều mặt phát triển nông nghiệp, nông
thôn thành phố Cần Thơ vẫn còn giữ vai trò rất lớn trong việc an sinh, phát
triển ổn định xã hội.
Trong những năm qua, dù phải tập trung nguồn lực xã hội tối đa đầu tư
cho xây dựng hạ tầng đô thị cũng như đẩy mạnh tái cấu trúc cơ cấu kinh tế xã
hội; thành phố Cần Thơ vẫn quan tâm, thực hiện tốt việc phát triển sản xuất
nông nghiệp; dù nguồn lực đầu tư không được dồi dào, nhưng đã được đầu tư
có hệ thống; nhất quán theo mục tiêu định hướng là “ chất lượng và hiệu quả”
trong mục tiêu chung, mang tính chiến lược lâu dài là xây dựng nền nông
nghiệp hàng hóa kỹ thuật cao ( nền nông nghiệp công nghệ cao), dựa trên cơ
sở ứng dụng các thành tựu công nghệ sinh học hiện đại.
Riêng cây lúa, hiện nay vẫn là một ngành sản xuất hàng hóa chính của
thành phố, có liên quan đến hầu hết cư dân và lao đông nông thôn; chiếm 80%
diện tích đất sản xuất nông nghiệp. Với gần 90.000 ha đất trồng lúa, hàng năm
canh tác trên 200.000 ha ( quay vòng 2,3 – 2,6 lần/năm), sản lượng bình quân
trên 1 ha đất hàng năm 14 tấn/ha/năm giữ vững được đà tăng trưởng về năng
xuất, sản lượng trong những năm qua. Tuy nhiên, mục tiêu được tập trung của
ngành trồng lúa thành phố trong năm qua vẫn là mục tiêu chất lượng toàn diện
nghĩa là phải làm thế nào để hạt gạo Cần Thơ “trắng”, phải làm thế nào để
môi trường của vùng trồng lúa phải là “nước trong lành”; phải làm thế nào để
thu nhập và cuộc sống của người trồng lúa được cải thiện. Để vun bồi, trau
chuốt vẻ đẹp của câu ca dao hữu ý hữu tình “ Cần Thơ gạo trắng nước

trong…”. Trong những năm qua, ngành Nông nghiệp thành phố đã được thực
hiện và đạt các kết quả như sau:
1) Chọn tạo, từng bộ giống lúa theo tiêu chuẩn chất lượng cho từng vùng
sản xuất cụ thể với yêu cầu chất lượng tập trung là các giống lúa có các đặc
điểm:
6


- Ngắn ngày (95 – 100 ngày) phù hợp cho việc quay vòng sản xuất, phù
hợp môi trường của địa bàn và chống chịu sâu bệnh tốt.
- Phẩm chất hạt gạo: trắng, trong ( ít bạc bụng) dẽo, dài, thơm…
- Có tiềm năng năng suất cao, phù hợp với điều kiện cơ giới hóa ...
Trong những năm qua, ngành nông nghiệp thực hiện chủ trương liên kết
hợp tác chặt chẽ với Viện nghiên cứu lúa ĐBSCL, Trường Đại học Cần Thơ
giúp nông dân chọn tuyển được bộ giống lúa tốt theo yêu cầu. Hiện có 80%
diện tích canh tác các giống lúa hạt dài, trắng, dẻo như Jasmine 85, OM4900,
OM4218, VD 20, OM2517, …..Đặc biệt, từ 2007 thành phố đã hợp đồng với
Viện nghiên cứu Lúa ĐBSCL để lai tạo chọn lọc bổ sung giống lúa cho thành
phố với đặc điểm yêu cầu “gạo trắng” đến nay đã có kết quả khả quan (Cần
thơ 1, Cần thơ 2, Cần thơ 3, Caafnthow 4…) sẽ sớm đưa vào sản xuất.
2) Đẩy mạnh công tác giống và nâng cao chất lượng giống trong sản
xuất.
Với mục tiêu xã hội hóa công tác giống đã tạo điều kiện ổn định nâng
cao chất lượng giống lúa trong sản xuất. Vì đây là một yếu tố để bảo đảm mục
tiêu sản xuất chất lượng và hiệu quả bền vững.
Hàng năm thành phố đã hỗ trợ kinh phí 500 – 600 triệu để hỗ trợ tổ
chức sản xuất giống trong dân theo hệ thống giống 3 cấp do các hộ tiên tiến,
tổ, nhóm, câu lạc bộ, Hợp tác xã, trại giống tham gia thực hiện.
Hiện nay, hệ thống này đang vận hành tốt, đáp ứng được mục tiêu nâng
cao phẩm chất giống trong sản xuất.

3) Tổ chức lại sản xuất theo quy mô cánh đồng liền thửa, vùng hàng
hóa tập trung. Với nổ lực của nhiều cấp, nhiều ngành trong thời gian qua, bên
cạnh việc phát triển các hợp tác xã nông nghiệp, ngành nông nghiệp đã xây
dựng những cánh đồng liên kết, cánh đồng một loại giống….đây là cơ sở tiền
đề thu hút đầu tư của nông dân và xã hội để cơ giới hóa, hiện đại hóa và kế
hoạch hóa nền sản xuất lúa.
4) Hoàn thiện hệ thống thủy lợi và đẩy mạnh cơ giới hóa trong sản xuất
lúa.
Đến nay hệ thống kinh tạo nguồn, nơi đây cơ bản được phục vụ sản
xuất quanh năm, thường xuyên được đầu tư nạo vét, tu bổ, bơm tưới chủ động,
với định hướng đầu tư phát triển hệ thống trạm bơm điện với quy mô nhỏ và
vừa.
Việc cơ giới hóa cũng được đầu tư hỗ trợ và khuyến khích đầu tư phát
triển. Đến nay khâu làm đất hoàn toàn bằng máy, tưới tiêu bằng máy, cắt gặt
đã bảo đảm được 40% - 80% từng vùng được làm bằng máy liên hợp; hệ
thống phơi sấy dịch vụ cũng đang phát triển mạnh, đã chủ động sấy trên 50%
sản lượng lúa. Việc cơ giới hóa, hiện đại hóa khâu làm đất, bơm tưới, cắt gặt,
sấy đang được hổ trợ khuyến khích đầu tư. Trên địa bàn hiện nay có trên 320
cơ sở xay xát có hệ thống kho bãi, sấy, tồn trữ, bóc tách bảo đảm tốt việc thu
mua sơ chế, chế biến tồn trữ phục vụ thị trường nội địa và xuất khẩu.
7


5) Tổ chức khuyến khích thực hiện liên kết 4 nhà và thực hiện kế hoạch
hóa sản xuất theo kế hoạch tiêu thụ dù hiện nay tỉ lệ hợp đồng tiêu thụ được ký
kết thực hiện với doanh nghiệp chỉ mới đạt từ 10 – 15% tùy từng vụ. Tuy
nhiên, hệ thống
thương lái cho từng vùng lúa cũng thực hiện thu mua ổn định theo tiêu chuẩn
chất lượng giống.
6) Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ kỹ thuật đồng bộ và theo định hướng

sản xuất xanh, bền vững.
Từ năm 2000 đến nay ngành Nông nghiệp đã đẩy mạnh tuyên truyền
huấn luyện nông dân thực hành IPM trong sản xuất lúa với mục tiêu cuối cùng
là tạo ra được kết quả Gạo trắng – Nước trong cho ngành lúa Cần Thơ, phong
trào này vẫn đang duy trì liên tục và mở rộng, đặc biệt 2002 được thực tiễn
hóa bằng kỹ thuật “ 3 giảm 3 tăng” đã giúp chặn đứng tình trạng lạm dụng
hóa chất trong sản xuất nông nghiệp nói chung và Lúa nói riêng.
Song song với các hoạt động đó, ngành nông nghiệp đã hợp tác nghiên
cứu với Viện lúa ĐBSCL, Trường Đại học Cần thơ để hoàn thiện các kỹ thuật
phòng chống dịch bệnh, cỏ… để xây dựng quy trình sản xuất lúa tốt trên nền
tảng của kỹ thuật 3 giảm 3 tăng. Đến nay kinh nghiệm ứng dụng IPM, 3 giảm
3 tăng của nông dân ngày càng được hoàn thiện, phát huy hiệu quả, giảm
lượng hóa chất trên đồng ruộng, ổn định năng suất cao, gia tăng chất lượng
sản phẩm đặc biệt tỉ lệ lãi trong sản xuất đã gia tăng, góp phần cải thiện tốt đời
sống nông dân.
Trong những năm gần đây, thực hiện mục tiêu sản xuất xanh, ngành
nông nghiệp đã đưa các chế phẩm sinh học, kỹ thuật an toàn vào sản xuất Lúa
như kỹ thuật – né rầy – ôm nước – dùng nấm sinh học để phòng trừ dịch hại
và các chất sinh hóa kích thích cây lúa khỏe. Hàng năm UBND thành phố đã
chi hỗ trợ kinh phí làm các chế phẩm nấm để bổ sung nguồn nấm cho sản xuất
trong vùng, hiệu quả kinh tế xã hội là rất cao.
Hiện nay, Cần thơ đang đẩy mạnh phong trào xây dựng cánh đồng mẫu lớn
trong sản xuất lúa, rau, cây ăn quả, thúy sán… trên toàn địa bàn; Đây là
chương trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa sản xuất nông nghiệp gắn với mục
tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới.
2.1.2 Khái quát thực trạng trồng lúa của nông hộ
- Năm 2012 Cần Thơ bắt đầu triển khai thực hiện mô hình “cánh đồng
mẫu lớn” nhằm tăng tính liên kết giữ các hộ nông dân và áp dụng những kỹ
thuật tiên tiến chung đem lại khả năng cung cấp nguyên liệu lớn cho các
thương lái, hạn chế việc thu mua nguyên liệu cho các thương lái. Tuy nhiên

mô hình này lại không được người dân đồng tình thực hiện do canh tác diện
tích nhỏ lẻ thuộc sự quản lý của quá nhiều hộ nông dân, tinh thần liên kết hợp
tác yếu ảnh hưởng khả năng liên kết hộ. Trình độ sản xuất của nông dân chưa
đồng đều, một số ít hộ vẫn còn sản xuất theo kinh nghiệm chưa tuân thủ đúng
8


quy trình kỹ thuật sản xuất gây trở ngại liên kết hình thành vùng nguyên liệu
đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp tiêu thụ lúa gạo trên địa bàn. Bên cạnh đó,
lòng tin của nông dân khi tham gia liên kết nông hộ trong quá trình sản xuất và
tiêu thụ lúa gạo hay tham gia cánh đồng lớn bị giảm bởi không tìm được đầu
ra cho sản phẩm. Một bộ phận nông dân còn tâm lý ỷ lại, đòi hỏi chính sách từ
nhà nước khi tham gia mô hình đã ảnh hưởng đến việc vận động các doanh
nghiệp tham gia liên kết sản xuất cung ứng và tiêu thụ sản phẩm. Việc tuân thủ
hợp đồng của nông dân cũng như công ty bao tiêu thực hiện chưa nghiêm túc,
tình trạng phá vỡ hợp đồng thường xảy ra khi giá thị trường cao nông dân
không bán cho công ty và ngược lại. Qua đó, giảm sự tin tưởng giữa người sản
xuất và tiêu thụ sản phẩm. Và khi xảy ra mâu thuẫn trong thực hiện hợp đồng
giữa nông dân và doanh nghiệp, chính quyền địa phương chưa có biện pháp
hữu hiệu giải quyết…
- Người dân Cần Thơ vẫn quen với cách sản xuất lúa theo kiểu truyền
thống dựa theo những kinh nghiệm dân gian của ông cha ta để lại, tuy nhiên
những năm gần đây khi công nghệ đã phát triển đặc biệt là trung tâm kinh tế
của Đồng Bằng Sông Cửu Long Cần Thơ đã có những bước phát triển, áp
dụng được những công nghệ kỹ thuật tiên tiến vào trong sản xuất nông nghiệp.
Đã có nhiều áp dụng tốt những khoa học tiên tiến như máy gặt liên hợp, giống
lúa cho năng suất cao khán được sâu bệnh…Tuy nhiên vẫn rất it hộ nông dân
áp dụng do kinh phí cho những máy gặt, giống lúa cong rất cao và kinh phí
của nông hộ thì có hạn nên không đủ để áp dụng. Tình trạng sản xuất của
người nông dân đa số là sản xuất theo hộ nhỏ lẻ không hợp tác thành nhiều hộ

để trao đổi kinh nghiệp cho nhau, đa số những giống lúa của nông hộ trồng
chủ yếu là “chọn mẫu đẹp” thấy giống lúa của người này đẹp rồi đổi đem về
làm giống nên tình trạng này cứ keo dài dẫn đến giống lúa bị suy thoái cho
năng suất thấp và sinh niều sâu bệnh. Ngày nay nhiều công ty được thành lập
nên cần rất nhiều công nhân nên đa số những thanh niên đã keo nhau vào công
ty làm dẫn đến thiếu hụt nguồn nhân công sản xuất, những người sản xuất
nông hộ bây giờ đa số là những người ở độ tuổi 30-50 là chủ yếu, chỉ có số ít
là thanh niên, đa phần những nông hộ đều có kiến thức thấp niên việc tiếp cận
và áp dụng khoa học vào trồng lúa rất khó dẫn đến hiệu suất công việc và năng
suất không được cao.
Khó khăn từ sản xuất
Trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới, nhu cầu về lúa gạo nhiều hơn
và đa dạng hơn; thị trường tiêu thụ cũng rộng hơn. Tuy nhiên, đến nay, khó
khăn về sản xuất, tiêu thụ lúa gạo ở Cần Thơ, cũng như cả nước còn rất nhiều.
Nông dân sản xuất theo nông hộ nhỏ, cá thể, sản xuất tự phát, thiếu liên kết "4
nhà", nhất là sự đặt hàng, đầu tư và bao tiêu sản phẩm của các doanh nghiệp.
Vì vậy, nông dân sản xuất lúa gặp nhiều rủi ro do sâu bệnh, thiên tai như: lũ
lụt, hạn hán, nhiễm mặn và đặc biệt là biến đổi khí hậu và thị trường tiêu thụ
gặp nhiều khó khăn. Thu nhập người nông dân thấp do giá bán thấp, thị trường
bấp bênh, sản xuất ra sản phẩm chưa biết bán cho ai và giá cả cũng không tự
9


định đoạt. Do đó, thường xảy ra hiện tượng "trúng mùa, mất giá" làm nông
dân chưa an tâm sản xuất. Không chỉ vậy, mặt bằng về trình độ sản xuất, kỹ
năng và kỹ thuật của nông dân chưa cao, chưa đồng đều (đặc biệt thiếu kiến
thức về chuyên môn, chất lượng sản phẩm, sản xuất theo tiêu chuẩn GAP,...)
dẫn đến chênh lệch năng suất giữa các hộ sản xuất lúa trong cùng một địa
phương, hoặc giữa địa phương này và địa phương kia còn khá cao. Việc sản
xuất nhỏ lẻ, manh mún và thiếu tổ chức dẫn đến sản xuất không đúng chất,

không đủ lượng, bán qua nhiều trung gian... nên không đạt giá trị cao.
nguồn: báo cần thơ (2014)
Khó khăn thu hoạch
Hệ thống máy móc thiết bị sau thu hoạch, như: máy sấy, kho tàng dùng
bảo quản tồn trữ, chế biến lương thực còn nhiều bất cập, chưa đảm bảo yêu
cầu, tổn thất khâu thu hoạch và sau thu hoạch lúa còn rất cao, từ 12-14%. Các
phụ phẩm trong sản xuất lúa như rơm, trấu... chưa tận dụng hết, còn lãng phí
và gây ô nhiễm môi trường.
Nguồn nhân công củng là một vấn đề đáng quan tâm, lượng nhân công ở
nông thôn bây giờ rất ít đa số đều làm công ty hoặc các công việc nhàn hạ
khác ít ai làm nông và trồng lúa nên để có thể tìm được nhân công củng rất
khó. Một khi lúa chín tới ngày thu hoạch không có đủ nhân công củng ảnh
hưởng đến quá trình thu hoạch và hiệu xuất làm việc dẫn đến những thất thoát,
hoặc nguồn nhân công ít dẫn đến giá của nhân công cao, nhân công làm giá
khiến cho nguồn thu nhập của người nông dân chẳng còn là bao.
2.1.3 Phân tích tình hình sản xuất lúa của Cần Thơ giai đoan 2012
– 2014

10


Bảng 2.1: Số liệu sản xuất lúa Cần Thơ 2012 - 2014
Năm báo cáo
Đơn
Chỉ tiêu
2012
2013
2014
vị
1.1 Lúa cả

năm
1000
Diện tích
228,20 236,60 232.34
ha
Tạ /
Năng suất
57,84
57,92
59,13
ha
1000
1396,0
Sản lượng
1319,80 1370,30
tấn
0
- Lúa đông
xuân
1000
Diện tích
87,80
88,00
88,00
ha
Tạ /
Năng suất
72,89
72,41
73,4

ha
1000
Sản lượng
640,00 637,20
646,1
tấn
- Lúa hè thu
1000
Diện tích
140,40 148,60
147.4
ha
Tạ /
Năng suất
48,42
49,33
56,18
ha
1000
Sản lượng
679,80 733,10 749.90
tấn

So sánh (%)
2013/20 2014/20
12
13

103,68


98,20

100,14

102,08

103,83

101,88

100,23

100

99,34

101.37

99,56

101,40

105,84

99,19

101,89

113,89


107,84

102,29

Nguồn: CƠ SỞ DỮ LIỆU NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN CÁC TỈNH, 2012 - 2014

Theo báo cáo của Phòng Nông Nghiệp Nông Thôn Cần Thơ, năm 2012 diện
tích sản xuất của tỉnh là 228,20, năng suất đạt 57,84 tạ/ha, sản lượng đạt
1319,80 tấn. Trong đó, Vụ Đông Xuân diện tích gieo sạ là 87,80 ha , năng suất
đạt 72,89 tạ/ha, sản lượng đạt 640,00 tấn. Còn vụ Hè Thu diện tích gieo sạ là
140,40 ha, năng suất đạt 48,42 tạ/ha, sản lượng đạt 679,80 tấn.
Tình hình sản xuất lúa năm 2013, diện tích gieo sạ cả năm là 236,60 ha,
trong đó vụ Đông Xuân là 88,00 ha, vụ Hè Thu là 148,60 ha, đạt 103,68% so
với tình hình năm 2012. Năng suất cả năm năm 2013 là 57,92 tạ/ha tăng
100,14% so với 2012, sản lượng đạt 1370,30 tấn tăng 103,83% so với năm
2012.

11


Tình hình sản xuất lúa năm 2014, diện tích gieo sạ cả năm đạt 232.34
ha, trong đó vụ Đông Xuân là 88,00 ha, còn vụ Hè Thu là 147.4 ha, đạt
98,20% so với năm 2013. Năng suất cả năm đạt 51,00 tạ/ha và tăng 102,08%
so với năm 2012, và sản lượng cả năm là 103,83 tấn và tăng 101,88% so với

năm 2013.
Hình 2.1: Diện tích, năng suất, sản lượng lúa Cần Thơ 2012 - 2014
Nhìn vào biểu đồ ta có thể thấy diện tích cánh đồng lúa của Cần Thơ
trong 3 năm này có sự thay đổi, năm 2012 – 2013 tăng 8,4 (nghìn ha), năm
2013 – 2014 giảm 4,6 (nghìn ha). Năng suất qua các năm đều tăng, 2012 –

2013 tăng 0,08 tạ/ha, 2013 – 2014 tăng 1,21 tạ/ha. Sản lượng củng tăng đều
qua các năm cụ thể 2012 – 2013 sản lượng tăng 50,5 (nghìn tấn), 2013 – 2014
tăng 25,7 (nghìn tấn).
Nhìn chung tình hình sản xuất lúa của Cần Thơ 2012 – 2014 đang có
những chuyển biến khá tốt theo tình hướng tích cực, mặc dù thực trạng ở các
hộ nông dân vẫn chưa tốt nhưng nhờ những chính sách và mục tiêu đề ra của
các huyện, Thành Phố Cần Thơ người dân thực hiện khá tốt, những chính sách
và hỗ trợ của nhà nước qua các năm cho thấy tình trạng sản xuất của người
dân khá tốt. Những mô hình “Cánh đồng mẫu lớn”, áp dụng các kỹ thuật “ 3
giảm, 3 tăng” và “1 phải 5 giảm” củng đã giúp được cho nông dân phần nào
sản xuất có hiệu quả hơn. Mặc dù diện tích đất trồng lúa thì ngày càng giảm
do Cần Thơ đang là Đô thị lớn của vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long và đang
có xu hướng giảm đất canh tác nông nghiệp để mở rộng đô thị, nhưng sản
lượng lúa của Cần Thơ vẫn tăng có thể nói đây là những bước phát triển trong
chính sách của Thành Phố và người dân.
2.2 PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TIÊU THỤ LÚA CỦA CẦN THƠ
2.2.1 Phân tích kênh tiêu thụ lúa ở huyện
12


Sản phẩm lúa
Bán trực tiếp
Bán thông qua các tổ chức thương mại chế biến
Người tiêu dùng trong và ngoài nước
1.
2.
3.
4.
5.
6.

7.

Tại kiốt của cơ sở kinh doanh
Tại chợ hoặc trao đổi với nhau
Người thu gom (Thương lái)
Cơ sở chế biến
Các đại lý
Các công ty, thương mại…
Bán lẻ

Là việc tổ chức đưa sản phẩm của nông hộ đến người tiêu dùng. Trong
nền kinh tế thị trường, khách hàng, người tiêu dùng là đối tượng phục vụ của
sản xuất. Vì vậy phải lựa chọn phải lựa chọn phương pháp nào để đưa sản
phẩm đến người tiêu dùng nhanh, kịp thời, thuận lợi nhất. Việc đưa sản phẩm
của nông hộ trồng lúa đến người tiêu dùng theo sơ đồ sau:
Hình 2.2: kênh tiêu thụ lúa ở Huyện
Như vậy có hai phương thức tiêu thụ chủ yếu:
+ Sản phẩm có thể trực tiếp từ người sản xuất (cơ sở sản xuất kinh
doanh) đến người tiêu dùng dưới các hình thức bán lẽ ở các Kiôt. Nông dân
tại địa phương không chỉ sản xuất trồng trọt mà họ còn kết hợp việc bán lẽ gạo
tại nhà. Bán ở các chợ (nông thôn hay thành thị) hoặc dưới hình thức bán trực
tiếp đến người tiêu dùng. Đây là hình thức kinh doanh chỉ xuất hiện nhỏ lẽ (có
khối lượng sản phẩm hàng hóa không lớn).
+ Sản phẩm đến với người tiêu dùng qua khâu tổ chức trung gian là
chức năng thương nghiệp: các đại lý, các công ty thương nghiệp và tư thương.
Nông dân bán cho thương lái khi họ thu hoạch với một số lượng lớn, bán với
giá sỉ khi số lượng nhiều. Tùy theo cơ sở thu mua có thể chế biến rồi bán cho
người tiêu dùng trong nước hoặc ngoài nước. Khi tiêu thụ sản phẩm lúa của
nông hộ thì yếu tố quan trọng đó là sản phẩm nông nghiệp rất đa dạng, phong
phú và trở thành nhu cầu tối thiểu hàng ngày của con người, vì vậy yếu tố giá

cả trong khi thu hoạch chính vụ gặp nhiều trắc trở làm cho giá giảm, lúc đó
dẫn đến tình trạng cung quá dư thừa. Việc chế biến và bảo quản, dự trữ là một
yêu cầu cần được chú ý trong quá trình tiêu thụ sản phẩm lúa.
2.2.2 Các thành viên tham gia vào kênh
Tham gia vào kênh tiêu thụ lúa gồm các tác nhân chính sau: nông dân,
thương lái, chủ vựa, tiểu thương và người tiêu dùng.
13


2.2.2.1. Nông dân trồng lúa
Nông dân trồng lúa thường tiêu thụ lúa theo một hình thức đó là bán lúa
qua trung gian là thương lái. Trước khi tiêu thụ, nông dân cũng thu thập thông
tin về giá cả qua các hộ sản xuất xung quanh, sau đó là đến các thương lái
khác nhau, cuối cùng chọn người mua với giá cao nhất, và chọn là đối tác để
liên hệ vào vụ sau. Thông thường người mua cố gắng ép giá và chỉ đưa ra giá
đúng sau khi thương lượng. Trên thực tế tiêu thụ qua dạng kênh này nông dân
luôn ở thế bị động về việc thương lượng giá cả. Bởi vì đa số, khi thương lái
đưa ra giá thì nông dân thấy tạm được thì đồng ý bán ngay với giá thỏa thuận
mà thương lái đưa ra, không thể kéo dài thời gian thương lượng để đạt một giá
tốt hơn vì đặc điểm là nông dân bán để có tiền trả các khoản vật tư, phân bón,
và tiền vay ngân hàng khi đến hạn. Tuy nhiên nếu bán dưới hình thức này thì
chất lượng lúa cũng không quan trọng lắm. Bởi vì thương lái thu mua nhiều
chủng loại, tốt có xấu có rồi đem trộn lẫn với nhau rồi mới đem tiêu thụ.
2.2.2.2. Thương lái thu mua lúa
- Thông tin về thương lái: Thương lái là tác nhân trung gian giữa
người nông dân và các chủ vựa, cơ sở chế biến trong khâu tiêu thụ sản phẩm
lúa. Thương lái có thu nhập từ sự chênh lệch giữa giữa giá mua lúa từ người
nông dân và giá bán ra cho các chủ vựa, cơ sở chế biến. Cùng một cách thức
như người nông dân, trước khi gia nhập chính thức kênh tiêu thụ thì hoạt động
tham gia thị trường bắt đầu từ việc thu thập, tham khảo thông tin về giá cả từ

những thương lái quen biết, có cùng chung hoạt động thu mua lúa như họ.
Đồng thời họ cũng thu thập thông tin từ các chủ vựa, cơ sở chế biến, các công
ty thương mại khác nhau, cuối cùng cũng chọn những người mua với giá cao
nhất, chọn là đối tác để cung cấp lâu dài. Nếu trong khâu thu mua lúa từ nhà
vườn, thương lái thường hay ép giá nông dân nhằm mua với giá thấp thì ngược
lại trong khâu bán ra thương lái cũng bị động trong khâu thương lượng giá cả
với các chủ vựa, tiểu thương, cơ sở kinh doanh.
- Phương thức mua: Thông thường thương lái xác định thời điểm mùa
vụ của lúa. Sau đó chủ động liên hệ với nhà vườn, chủ động đưa ra giá cả để
đôi bên thương lượng. Thương lái chỉ đồng ý thu mua khi nông dân chấp nhận
theo giá mà thương lái đưa ra dựa trên giá thị trường, và thương lái sẽ tính
toán chọn mua tại hộ sản xuất với giá thấp. Đây là điểm thuận lợi của thương
lái trong khâu thu mua nhưng lại là bất lợi cho nông dân nếu thương lái đưa ra
giá quá thấp nhằm tìm kiếm sự chênh lệch giữa giá mua và giá bán cao. Tiếp
theo, nếu nông hộ đồng ý theo giá thỏa thuận thì sẽ thương lượng đến số lượng
và thu mua liền hay hẹn ngày đến thu mua. Đa số thương lái không chú trọng
14


đến chất lượng lúa, vì họ thu mua nhiều chổ nên có nhiều loại chất lượng, nếu
lúa không tốt lắm và xay ra nhiều tấm, cám thì thương lái sẽ ép giá xuống để
mua với giá thấp nhất, còn những hộ có chất lượng lúa tốt xay ra bán có lời
cao thường thương lái mua giá cũng không cao hơn lắm so với loại lúa có chất
lượng thấp. Song, sau khi thu mua thương lái đem về trộn lẫn vào nhau rồi
đem tiêu thụ. Hầu hết người cung cấp chính cho thương lái thường là mối
quen biết đã quan hệ mua bán nhiều năm, vì sợ bán cho thương lái khác sẽ bị
ép giá làm cho giá bán thấp đi. Cho nên đây cũng là một thuận lợi cho việc thu
mua của thương lái.
- Khó khăn khi mua: Tuy có những thuận lợi như hoạt động kinh
doanh tương đối dễ dàng, không tốn nhiều công đầu tư, tìm kiếm được lợi

nhuận cao từ sự chênh lệch giá cả giữa đầu vào và đầu ra. Nhưng hoạt động
kinh doanh này cũng gặp không ít khó khăn. Trong quá trình phỏng vấn bán
cấu trúc, thương lái cho biết một số khó khăn nổi bật mà họ thường gặp như
sau:
+ Thứ nhất: Một số thương lái mới tham gia kinh doanh thường thiếu
vốn đầu tư vì một mặt thu mua với số lượng lớn lại phải chi trả ngay bằng tiền
mặt cho nông dân.
+ Thứ hai: Giá nhiên liệu xăng dầu ngày càng tăng cao khiến cho chi
phí vận chuyển càng lúc càng cao. Mà vận chuyển là một hoạt động mang tính
chất đặc thù của thương lái. Do đó rất khó để giảm thiểu chi phí vận chuyển.
+ Thứ ba: Do hoạt động kinh doanh này có lợi nhuận tương đối cao,
cho nên càng lúc có nhiều thành viên tham gia vào kênh, gây ra sự cạnh tranh
giữa các thương lái...
+ Thứ tư: Là công nghệ bảo quản sau thu hoạch, cho nên tỷ lệ thất thoát
cao khi vựa lại lúa mà chưa đảm bảo độ khô của lúa, trong quá trình vận
chuyển cũng thất thoát nhiều gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh của
thương lái.
- Cách thức bán ra: Trước khi tìm đối tác thu mua thì thương lái
thường tìm kiếm đối tác để cung cấp sau khi thu mua. Công việc này thực hiện
trước bởi vì theo kinh nghiệm của thương lái nhằm để đảm bảo chắc chắn rằng
hàng thu mua xong có nơi tiêu thụ ngay. Nghĩa là thương lái cũng chủ động
liên lạc với các chủ vựa, tiểu thương, cơ sở kinh doanh để thương lượng về giá
cả, số lượng... Sau khi thu mua số lượng lớn từ nông dân, thương lái trộn lẫn
vào nhau để cho chất lượng đồng đều rồi tiêu thụ với các chủ vựa, tiểu thương,
cơ sở kinh doanh. Do bán cho mối quen nên việc mua bán trao đổi với các đối
tượng trên cũng dễ dàng thuận lợi như với nông dân và không có thương lái
15


nào ký hợp đồng trong việc bán sản phẩm và mọi chi phí vận chuyển đều do

thương lái chịu.
2.3 PHÂN TÍCH SWOT ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH SẢN VÀ TIÊU
THỤ LÚA TẠI CẦN THƠ
2.3.1. Phân tích SWOT đối với quá trình sản xuất và tiêu thụ lúa
của nông dân
Những điểm mạnh:
S1: Cây lúa dễ trồng,
S2: Hiểu rỏ đặc điểm sinh học của cây lúa, hàng năm do có lũ về nên đã
cung cấp cho đồng ruộng một lượng phù sa đáng kể giúp cho cây lúa sinh
trưởng tốt.
S3: Có khả năng tìm tự tòi, học hỏi kinh ngiệm. Đa số các nông hộ đều
có kinh nghiệm lâu năm trong việc canh tác lúa và chịu khó tìm hiểu học hỏi
tiếp cận và áp dụng KHKT vào trong sản xuất. Nguyên nhân trên được giải
thích như sau: do trình độ học vấn của nông dân tại địa bàn nghiên cứu cũng
không quá thấp, cho nên việc tiếp thu kiến thức, thông tin mới thuận lợi hơn.
Mặt khác, để làm kinh tế sản xuất lúa đạt hiệu quả cao người dân luôn chủ
động tìm tòi, học hỏi kinh nghiệm từ bà con, hàng xóm, kinh nghiệm tự đúc
kết qua quá trình sản xuất...
S4: Có điều kiện kinh tế xã hội phù hợp cho việc sản xuất lúa và điều
kiện giao thông thủy lợi thuận lợi cho việc cung cấp vật tư, sản phẩm thu
hoạch của nông hộ. Do có nhiều chương trình đầu tư cải tạo hê thống tưới tiêu
phục vụ cho sản xuất nông nghiệp của nhà nước và địa phương cùng với đặc
điểm là vùng có hệ thống sông ngòi chằng chịt đã tạo điều kiện thuận lợi cho
việc tưới tiêu cũng như vận chuyển vật tư và sản phẩm thu hoạch của nông
dân.
W1: Không quan tâm đến việc tham gia các lớp tập huấn khoa học kỹ
thuật, chủ yếu chỉ dựa vào kinh nghiệm. Bởi vì một mặt, họ không có điều
kiện tham gia, mặt khác tâm lý người dân nghĩ đây chỉ là lý thuyết, thực tiễn
mới là quan trọng.
W2: Sản xuất mang tính tự phát, theo phong trào. Điều này làm cho sản

xuất manh mún, nhỏ lẽ, khó kiểm soát.
W3: Còn bảo thủ trong việc truyền đạt kinh nghiệm cho người khác.
Những cơ hội:

16


O1: Chính vì có những giá trị kinh tế rất cao nên cây lúa được nhà nước
nói chung và cơ quan chính quyền tại địa phương nói riêng rất quan tâm trong
công tác khuyến nông BVTV và chuyển giao kỹ thuật canh tác mới trong sản
xuất lúa, giúp bà con nông dân sản xuất lúa ngày càng đạt hiệu quả cao hơn
như: giống mới, máy sạ hàng, máy gặt đập liên hợp.
O2: Khoa học và công nghệ phát triển mạnh tạo điều kiện thuận lợi cho
việc tiếp cận và ứng dụng trên các lĩnh vực như: công nghệ sinh học, công
nghệ chế biến, công nghệ thông tin, cơ giới hóa... vào phát triển kinh tế địa
phương.
O3: Được tất cả mọi người đều biết đến và không thể thiếu trong khẩu
phần ăn của mọi gia đình. Qua điều tra tình hình phân phối sản phẩm của
thương lái, chủ vựa thì sản phẩm của cây lúa đã xuất khẩu đi nhiều nước.
O4: Hội nhập kinh tế quốc tế mở ra thị trường xuất khẩu rộng lớn cho
các sản phẩm của cây lúa. Nhu cầu về lương thực thế giới tăng mạnh cũng là
điều kiện thuận lợi để phát triển nông nghiệp toàn diện.
Những thách thức, đe dọa:
T1: Bị thương lái ép giá. Do giá cả thường do thương lái chủ động đưa
ra, sau khi thỏa thuận, nông dân phải bán lúa ngay để trả tiền cho các ngân
hàng, thuốc trừ sâu, phân bón và chi phí sinh hoạt nên không dựa lại được, vì
vậy nông dân luôn bị động trước vấn đề giá cả.
T2: Chi phí đầu vào tăng cao như phân bón, thuốc BVTV, nhiên liệu
xăng dầu.
T3: Tự tìm kiếm thị trường tiêu thụ, chưa có sự hổ trợ hiệu quả từ chính

quyền địa phương.
T4: Những thay đổi bất thường của thời tiết khiến quá trình chăm sóc
gặp nhiều khó khăn và sinh ra nhiều dịch bệnh.
Sơ đồ 2.1: PHÂN TÍCH SWOT ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH SẢN XUẤT VÀ
TIÊU THỤ LÚA CỦA NÔNG DÂN
SWOT
Cơ hội (O)
Đe dọa (T)
- O1: Có hợp tác xã,
- T1:Bị thương lái ép
được sự hổ trợ của chính giá
quyền địa phương và
- T2: Chi phí đầu vào
Nhà nước.
tăng cao
- O2: Có nhiều đề tài
- T3: Tự tìm kiếm thị
về cây lúa đã và đang
trường tiêu thụ
nghiên cứu.
- T4: Thay đổi của thời
- O3: Được tất cả mọi
tiết
17


Điểm mạnh (S)
- S1:Cây lúa dễ trồng
- S2: Hiểu rỏ đặc điểm
sinh học của cây lúa

- S3: Có khả năng tự
tìm tòi học hỏi
- S4: Linh hoạt trong
khâu vận chuyển bằng
trong sản xuất cũng như
tiêu thụ

Điểm yếu (W)
- W1: Không quan tâm
đến việc tham gia tập
huấn
- W2: Sản xuất mang
tính tự phát, nhỏ lẽ
- W3: Bảo thủ khi trao
đổi kinh nghiệm

người biết đến và không
thế thiếu trong bữa ăn
hàng ngay.
- O4: Hội nhập kinh tế,
có thị trường rộng lớn.
Kết hợp S + O
- S1, S2, S3 + O2: Phối
hợp với các nhà khoa
học có nhiều đề tài mới
nhằm năng cao hiệu quả
kinh tế cây lúa
- S3, S4 + O1: Tham
gia đẩy mạnh việc tiêu
thụ trao đổi kinh

nghiệm.
- S4 + O3: Kết hợp tốt
khả năng thị trường để
cho đầu ra
Kết hợp W +O
- W1, W2, W3 + O3:
Tích cực học hỏi cán
bộ, tham gia tập huấn
để năng cao hiệu quả
sản xuất, tiêu thụ, trao
đổi kinh nghiệm

Kết hợp S + T
- S1, S2, S3 + T2,T4:
Tăng cường tìm tòi, học
hỏi nhằm giảm rủi ro
thời tiết, giảm chi phí.
- S4 + T1: Liên kết với
các nông dân khác để
thương lái không có cơ
hội ép giá
- S4 + T3: Giữ mối
quen, tìm kiếm thêm
mối mới
Kết hợp W + T
- W3 + T3: Rộng rãi
trao đổi kinh nghiệm,
tích cực tham khảo
thông tin trên thị trường,
để tránh thương lái bị ép

giá, tìm đầu ra, các rủi
ro khi sản xuất.

2.3.2. Phân tích SWOT đối với các đối tượng thu mua lúa; (thương lái )
Những điểm mạnh:
S1: Khả năng am hiểu địa bàn, mùa vụ tốt. Do đặc thù nghề nghiệp của
thương lái là luôn di chuyển từ địa phương này đến địa phương khác, cho nên
họ hiểu khá rỏ từng địa bàn, từng mùa vụ.
S2: Khả năng thương lượng khi mua bán tốt. Do có nhiều kinh nghiệm,
họchủ động trong việc thương lượng giá với đối tác. Thường, thương lái chủ
động đưa ra giá cho nông dân và sau quá trình thương thảo thì nông dân luôn
chấp nhận bán với giá mà thương lái đưa ra.
S3: Vai trò quan trọng trong khâu phân phối. Bởi vì khi bán với số
lượng
lớn, nông dân tiêu thụ sản phẩm qua thương lái, ngoài ra không có nguồn tiêu
thụ khác.

18


Những điểm yếu:
W1: Quá trình thu mua tự phát, chưa có sự hổ trợ, định hướng từ nhà
nước.
W2: Khâu bảo quản sau thu hoạch còn nhiều hạn chế.
Những cơ hội:
O1: Số lượng bạn hàng tham gia vào kênh không nhiều, chỉ có những
thương lái có kinh nghiệm lâu năm, có thị trường ổn định, vốn mới tham gia
vào kênh tiêu thụ.
O2: Có đầu vào và đầu ra tương đối ổn định do mối quen.
Những thách thức:

T1: Chi phí đầu vào tăng cao, chủ yếu là nhiên liệu (xăng dầu) dùng
cho quá trình vận chuyển.
T2: Tỉ lệ hao hụt lớn khi vận chuyển.
T3: Giá cả bấp bênh do tính không ổn định của thị trường.
T4: Khó khăn khi vay vốn.

19


Sơ đồ 2.2: PHÂN TÍCH SWOT ĐỐI VỚI CÁC ĐỐI TƯỢNG THU
MUA LÚA (THƯƠNG LÁI)
Cơ hội (O)
Đe dọa (T)
O1: Số lượng bạn
- T1: Chi phí đầu vào
hang tham gia vào kênh tăng cao
tương đối ít
- T2: Tỷ lệ hao hụt lớn
- O2: Có đầu vào và đầu khi vận chuyển
ra tương đối ổn định do - T3: Giá cả bấp bênh
SWOT
mối quen.
- T4: Khó khăn khi vay
vốn
- T5: Chưa có chủ
trương, chính sách hỗ
trợ, phát triển nghề từ
các cơ quan chức năng.
Điểm mạnh (S)
Kết hợp S + O

Kết hợp S +T
- S1: Khả năng am hiểu - S1 + O1: Kết hợp với
- S1, S2 + T1, T2, T3:
địa bàn, mùa vụ khá tốt. sự am hiểu địa bàn với
Tận dụng sự am hiểu
- S2: Khả năng thương
sự có ít đối tượng
địa bàn, mùa vụ, thương
lượng khi mua bán là cùng hoạt động trong
lượng giá mà
rất tốt.
lĩnh vực để phát huy
giảm chi phí, tìm cách
- S3: Có vai trò quan
tiềm năng sẵn có.
tiêu thụ hiệu quả nhất.
trọng trong khâu phân
- S2, S3 + O2: Tăng
- S3 + T4, T5: Hoạt
phối.
cường thêm nhiều mối
động hiệu quả để khẳng
làm ăn mua bán quen
định uy tín trên thị
biết khác nữa.
trường, chứng minh
năng lực với ngân hàng,
nhà nước.
Điểm yếu (W)
Kết hợp W +O

Kết hợp W + T
- W1: Quá trình thu
- W1 + O1, O2: Tích
- W2 + T2, T4: Tự học
mua là tự phát.
cực đầu tư cơ sở vật
hỏi để có kinh nghiệm
- W2: Chưa áp dụng kỹ chất, trình độ, năng lực
trong bảo quản.
thuật bảo quản sau thu
để hoạt động kinh
- W1 + T5: Chuyên
hoạch.
doanh càng chuyên
nghiệp hơn để chính
nghiệp hơn.
thức trở thành tác nhân
quan trọng trong khâu
tiêu thụ.

20


CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SẢN XUẤT VÀ TIÊU THỤ LÚA Ở
HUYỆN VÀ MỘT SỐ NGUYÊN NHÂN ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUÁ
TRÌNH SẢN XUẤT
4.1 Đối với nông dân
4.1.1 Năng cao nâng suất cây lúa
Áp dụng máy sạ hàng giúp cho cây lúa chống đổ ngã, thất thoát trong

khâu thu hoạch. Về vai trò của cấp hộ: trước mắt kinh tế nông hộ vẫn đóng vai
trò trực tiếp trong nâng cao tính cạnh tranh của lúa gạo trên thị trường. Việc
nâng cao nâng lực của kinh tế nông hộ trong sản xuất lúa là giải pháp vừa cơ
bản vừa cấp bách. + Hoàn thiện kỹ thuật sản xuất lúa cho nông hộ nhằm sử
dụng hợp lý và có hiệu quả các yếu tố đầu tư. Bao gồm sử dụng nhiều hơn và
hợp lý hơn yếu tố đầu vào như phân bón, nông dược, thủy lợi, giống, cải thiện
phương thức canh tác, gia tăng quy mô và cách thức sử dụng đất nông nghiệp.
+ Phát triển kỹ thuật canh tác, nâng cao chất lượng và giá trị lúa hàng hóa,
đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm và dinh dưỡng. Một trong những yêu cầu
của sản xuất lúa là người dân phải nắm rõ các tiêu chuẩn về an toàn vệ sinh
thực phẩm, dinh dưỡng để sản xuất trong sử dụng các mặt hàng nông sản thực
phẩm, tức là việc tạo lập và quản lý chất lượng nông phẩm phải được thực
hiện từ nông dân. Chất lượng lúa hàng hóa được tạo ra bởi quá trình liên tục từ
sản xuất- chế biến- bảo quản theo một quy trình nghiêm ngặt. Thực tế cho
thấy, nông dân thiếu điều kiện và thiếu quan tâm trong việc tạo và giữ chất
lượng nông sản hàng hóa. Trong thời gian tới cần hổ trợ nông hộ có điều kiện
đầu tư thiết bị, công nghệ nâng cao chất lượng hạt lúa. Tuy nhiên, việc nâng
cao chất lượng phụ thuộc vào các yếu tố như: Vốn- tay nghề của nông dân,
mức độ tập trung,.... Việc nâng cao chất lượng để cây lúa có tính cạnh tranh
cao luôn đòi hỏi nông dân phải đầu tư đầu vào công nghệ tạo chất lượng, gắn
kết với các ngành công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp trong và ngoài tỉnh.
+ Đa dạng hóa các nguồn thu nhập cho người trồng lúa bằng phát triển
các hệ thống canh tác, mô hình sản xuất có hiệu quả và tạo thêm nhiều việc
làm phi nông nghiệp cho nông dân lúc nông nhàn. Cải thiện mức sống của
nông hộ trong quá trình chuyển đổi nông nghiệp tự túc sang nông nghiệp hàng
hóa ở nông thôn. Việc đa dạng hóa tùy vào các yếu tố, các nguồn lực khác
ngoài đất đai như vốn, kỹ thuật, các cơ hội phát triển ngành nghề phi nông
nghiệp, mức độ ổn định giá cả và phát triển thị trường ở nông thôn là quá trình
tăng cơ hội có việc làm của nông dân.
4.1.2. Nâng cao trình độ kinh tế sản xuất

Nên thường xuyên mở các lớp tập huấn, các buổi nói chuyện chuyên đề,
chuyển giao KHKT tham quan học hỏi kinh nghiệm của nông dân sản xuất
giỏi và kết hợp với việc biểu dương khen thưởng những nông dân có thành
tích trong sản xuất. Bên cạnh đó cần quan tâm một số vấn đề sau:
Về giống
21


Giống là một yếu tố rất quan trọng trong quá trình sản xuất. Nó quyết
định năng suất, chất lượng sản phẩm sau này. Cho nên cần phải chọn giống có
chất lượng, thích hợp với từng vùng, từng mùa vụ, có khả năng kháng dịch
bệnh. Điều này có tác dụng giảm chi phí phòng trừ sâu bệnh tránh rủi ro, có
khả năng đạt năng suất, chất lượng cao.
Về phân bón
Về nguyên tắc phân bón sẽ làm cho cây trồng phát triển lên nhưng bón
với liều lượng quá nhiều sẽ gây lãng phí về tiền bạc, và công sức. Trong khi
đó năng suất không tăng lên mà còn giảm xuống. Vì vậy, nông dân phải bón
phân bón theo nguyên tắc 4 đúng, ba giảm ba tăng kết hợp với bảng so màu lá
lúa theo hướng dẫn của các cán bộ kỹ thuật để làm giảm tối đa chi phí sản xuất
Về nông dược
Hiện nay vấn đề làm thế nào giảm chi phí nông dược phải được quan tâm
nhiều hơn nữa, chương trình IPM khuyến cáo nông dân sử dụng nông dược
trên đồng ruộng, đối với các côn trùng thì có thể sử dụng thiên địch thay vì
thuốc như nuôi cá trên đồng ruộng, thả vịt vào ăn, chuẩn bị đất thật kỹ trước
khi xuống giống có thể làm giảm bệnh trong chu kỳ sản xuất. Ngoài ra khâu
thu hoạch cũng góp phần vào việc tăng năng suất theo khuyến cáo của các
chuyên gia nông dân nên cắt lúa khi 80-85% số hạt/bông ngã màu vàng. Bên
cạnh đó nông dân phải thăm đồng thường xuyên để kịp thời phát hiện sâu
bệnh và có biện pháp sử lý.
Về chí phí

Chi phí trong sản xuất lúa gạo cao là một trong những nguyên nhân chủ
yếu khiến cho hiệu quả sản xuất thu được thấp, giảm chi phí sản xuất là vấn đề
cần thiết phải được đặt ra để giúp nông dân được hưởng lơi như thành lập
thêm hợp tác xã để liên kết các hộ nông dân lại với nhau theo hướng góp
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tư liệu sản xuất theo hướng chuyên nghiệp
gắn sản xuất với thị trường. Giải pháp này cho phép cơ giới hóa mạnh mẽ
trong sản xuất, tiết kiệm thời gian, chi phí lao động, giảm các chi phí đầu tư
ban đầu và năng cao khả năng tiếp cận thị trường.
4.1.3. Nâng cao lợi nhuận kinh tế của nông hộ
Áp dụng máy sạ hàng giúp cho cây lúa chống đổ ngã, thất thoát trong
khâu thu hoạch. Giới thiệu cho người dân những giống lúa cứng cây, mà năng
suất vẫn tốt thông qua các mô hình trình diễn. Hướng dẫn nông dân xây dựng
lò sấy lúa đúng kĩ thuật làm tăng phẩm chất hạt gạo, nhất là trong mùa hè thu.
Nhà nước phải ban hành văn bản pháp luật cụ thể và có chế tài nghiêm khắc
hơn nữa trong luật kí kết hợp đồng giữa nông dân và doanh nghiệp. Doanh
nghiệp phải đặt ra những tiêu chuẩn về sản phẩm nông nghiệp cụ thể, dễ hiểu
và thảo luận với nông dân, kí kết hợp đồng phải có sự xác định của địa
phương nơi nông dân sản xuất. Thành lập đội kiểm tra gồm ba thành phần: đại
diện doanh nghiệp, nông dân sản xuất, thành viên hợp tác xã hoặc chính
quuyền địa phương. Đây là tổ chức xử lý tranh chấp khi có vấn đề khiếu kiện
22


về chất lượng nông sản giữa hai bên. Các doanh nghiệp không thể kí kết hợp
đồng với tất cả các hộ nông dân mà phải kí kết thông qua hợp tác xã. Ban chủ
nhiệm là cầu nối giữa hai bên là nơi tiếp nhận thông tin thị trường từ doanh
nghiệp và cung cấp lại cho người dân, để họ chọn và có hướng sản xuất phù
hợp
Khuyến khích người dân tham gia vào hợp tác xã, vì khi muốn xâm nhập
vào thị trường quốc tế thì cần phải có sự đồng nhất về sản phẩm và số lượng

tương đối lớn, mà một cá thể không thể làm được và nếu sản xuất khác nhau
chất lượng không đồng nhất, thì giá thành sẽ thấp, sản xuất cá thể khó có thể
tồn tại được. Việc ra đời hợp tác xã nhằm liên kết doanh nghiệp và nông dân là
cấp thiết. Vấn đề đầu tiên là làm thế nào giảm các yếu tố đầu vào càng nhiều
càng tốt, chương trình ba giảm ba tăng giúp cho nông dân có thể tiết kiệm chi
phí giống, phân bón, thuốc BVTV. Bên cạnh đó áp dụng triệt để chương trình
IPM trên đồng ruộng vừa làm giảm chi phí nông dược vừa cho sản phẩm sạch
đồng thời góp phần bảo vệ sức khỏe con người và môi trường. Về lâu dài nông
dân nên thay đổi tập quán sản xuất theo lối truyền thống, phải tích cực chủ
động áp dụng các tiến bộ KHKT vào trong sản xuất và tiến hành chuyển dịch
cơ cấu kinh tế với những cây trồng phù hợp với lợi thế của từng vùng. Ngoài
ra phải thường xuyên nạo vét kênh mương, hoàn thiện hệ thống thủy lợi nội
đồng để phục vụ tối đa nhu cầu cho sản xuất lúa của người dân. Và phải tăng
cường hợp tác giữa các nhà (nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp và
nhà nước) để hạn chế tối đa tác hại của sâu rầy và dịch bệnh hại lúa để năng
cao phẩm chất sản phẩm, tăng năng suất sản xuất.
4.2. Đối với thương lái
- Giảm tỉ lệ hao hụt của sản phẩm khi mua bán.
- Tận dụng sự am hiểu địa bàn, mùa vụ, thương lượng giá cả mà giảm chi
phí, tìm cách tiêu thụ hiệu quả nhất.
- Tận dụng sự am hiểu địa bàn, kinh nghiệm sẵn có, sự cạnh tranh trên
thị trường chưa gay gắt để tìm kiếm thêm nhiều nguồn vốn đầu vào và đầu ra
khác nhằm giảm thiểu rủi ro, có nguồn hàng phong phú, mở rộng thị trường
tăng thu nhập.
- Đầu tư phương tiện, cơ sở vật chất, trình độ, tăng tính chuyên nghiệp
trong làm ăn mua bán (uy tín, thỏa thuận giá cả sao cho đôi bên cùng có lợi...)
nhằm nâng cao uy tín, tăng thu nhập, là một khâu không thể thiếu trong quá
trình phân phối. Nếu có điều kiện về vốn, kinh nghiệm, các nguồn lực khác, có
thể đăng ký thành lập doanh nghiệp, công ty chuyên thu mua, phân phối các
sản phẩm về hạt lúa.

4.4 kết luận
4.4.1 Đối với nông dân:
Sản xuất lúa là một hoạt động chính của nông dân ĐBSCL nói chung và
người dân ở huyện Tân Hưng tỉnh Long An nói riêng. Vì vậy mà thu nhập và
đời sống của nông hộ vẫn phụ thuộc hoàn toàn vào hoạt động canh tác lúa của

23


họ. Đây cũng là nguồn cung cấp lương thực chủ yếu cho con người và góp
phần vào tăng trưởng kinh tế tại địa phương.
Qua quá trình phân tích, đánh giá các chỉ tiêu kinh tế và các chỉ tiêu tài
chính trên 01 ha đất trồng lúa cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất và
thu nhập của nông hộ có thể đưa ra một số kết luận sau:
+ Đa số các nông hộ đều có kinh nghiệm sản xuất lâu năm, nhưng trình
độ học vấn của các chủ hộ còn tương đối thấp chủ yếu từ cấp II trở xuống, đó
cũng là nguyên nhân làm ảnh hưởng đến việc áp dụng KHKT và tiếp cận
thông tin thị trường của họ.
+ Chi phí đầu tư cho vụ Đông Xuân thấp hơn vụ Hè Thu, cụ thể chi phí
vụ Đông Xuân là 17.615.513 đồng/ha, vụ Hè Thu là 18.732.050 đồng. Như
vậy cao hơn 1.116.537 đồng so vơi vụ Đông Xuân. Qua đó cho thấy vụ Hè
Thu bị ảnh hưởng về thời tiết khí hậu nên là cho chi phí tăng lên. Năng suất vụ
Đông Xuân cao hơn hẳn vụ Hè Thu là 1.023 kg/ha (vụ Đông Xuân là 8.067 và
vụ Hè Thu là 7.044 kg/ha), đó là do sản xuất ở vụ Hè Thu dịch bệnh hại lúa
xuất hiện nhiều nên đạt năng suất thấp hơn vụ Đông Xuân. Về thu nhập thì vụ
Đông Xuân cũng cao hơn vụ Hè Thu là 3.856.260 đồng.
+ Khi so sánh các chỉ tiêu tài chính thì hiệu quả đầu tư của Vụ Đông
Xuân đạt cao hơn so với vụ Hè Thu.
+ Năng suất lúa của nông hộ phụ thuộc vào các yếu tố: diện tích, tổng chi
phí đầu tư, còn yếu tố kinh nghiệm và trình độ học vấn tuy có ảnh hưởng đến

năng suất nhưng về mặt thống kê thì không đủ cơ sở kết luận rằng hai nhân tố
này ảnh hưởng đến năng suất lúa.
+ Lợi nhuận của nông hộ sản xuất lúa phụ thuộc vào các yếu tố: năng
suất, giá bán, chi phí giống, chi phí phân bón, thuốc BVTV, chi phí thuê lao
động, trong đó yếu tố năng suấ và giá bán tác động làm tăng thu nhập của
nông hộ, còn chi phí giống, phân bón, thuốc BVTV và chi phí lao động tác
động lại làm giảm thu nhập của nông hộ.
+ Trong sản xuất, nông dân có một số thuận lợi là loại cây cung cấp
lương thực cho con người và là loại thực phẩm không thể thiếu trong bữa ăn
hàng ngày, nhu cầu trong nước rất cao, mặt khác sản phẩm lúa cũng đã và
đang xuất khẩu nhiều nước với sản lượng lớn làm cho giá lúa tăng cao lên liên
tục trong thời gian này, như vậy người nông dân sản xuất có lãi cao... Đồng
thời, cũng gặp không ít khó khăn là chi phí đầu vào tăng cao, gặp rủi ro về sự
bất thường của thời tiết làm phát sinh nhiều dịch bệnh, thường bị thương lái ép
giá khi mua bán, nói chung kinh nghiệm tự có của bản thân là chính,...
4.4.2 Đối với quá trình tiêu thụ:
- Quá trình tiêu thụ sản phẩm lúa của nông dân theo ba phương thức đó
là bán cho thương lái, bán trực tiếp cho người tiêu dùng, bán cho các cơ sở chế
biến. Trong đó, hình thức bán cho thương lái chiếm đa số, vì tuy giá bán thấp,
thường bị thương lái ép giá nhưng thương lái không yêu cầu cao về chất lượng
cho lắm.

24


- Tác nhân thương lái trong khâu tiêu thụ sản phẩm lúa có một số đặc
trưng sau: đa số là thương lái đường dài. Số lượng thương lái tham gia vào
kênh tiêu thụ còn ít, thương lái còn mang tính độc quyền về thị trường, chỉ
những thương lái có kinh nghiệm, có quan hệ mua bán tốt, có đầu vào, đầu ra
ổn định... thì mới gia nhập kênh. Vì tính độc quyền cho nên thương lái có một

số thuận lợi trong kinh doanh như: chủ động trong việc ra giá đối với nông
dân, chưa có sự cạnh tranh gay gắt của bạn hàng... Tuy nhiên, cũng gặp không
ít khó khăn như: cũng thường bị chủ vựa ép giá, chi phí đầu vào tăng, trong
quá trình thu mua do thanh toán bằng tiền mặt ngay cho nên số vốn lớn nhưng
tình hình vay vốn gặp rất nhiều trở ngại, tỷ lệ hao hụt sản phẩm trong khâu
vận chuyển là khó tránh khỏi nhưng kỹ thuật bảo quản sao thu hoạch chưa tốt.
- Thị trường tiêu thụ lúa rộng lớn nhưng vào vụ số lượng lớn nên thương
lái phải tìm đầu ra cho sản phẩm lúa và tiến hành thu mua, nên giá cả bấp bênh
đôi khi thương lái kinh doanh bị thua lỗ.
KIẾN NGHỊ
Đối với nông hộ
- Đối với các nông hộ sản xuất lúa cần luôn luôn học hỏi nâng cao kiến
thức và áp dụng KHKT vào trong sản xuất lúa. Ngoài ra cần tăng cường đoàn
kết giữa các hộ trong sản xuất nhằm khắc phục vấn đề thiếu lao động làm
giảm hiệu quả sản xuất.
Phải thường xuyên tham gia các buổi tập huấn do cán bộ địa phương tổ
chức (huyện hoặc tỉnh), và tích cực tham gia vào các tổ chức xã hội để tạo
điều kiện liên kết, giúp đỡ nhau và tìm kiếm thông tin thị trường.
Tập trung đầu tư cho Vụ Đông Xuân để khai thác lợi thế cạnh tranh của
vụ lúa này vì vụ này thuận lợi cho việc sản xuất lúa và cho năng suất cao. Đối
với vụ Hè Thu, cần duy trì ổn định năng suất, giảm thểu chi phí và nâng cao
chất lượng lúa.
Đối với nông hộ
Đối với các nông hộ sản xuất lúa cần luôn luôn học hỏi nâng cao kiến
thức và áp dụng KHKT vào trong sản xuất lúa. Ngoài ra cần tăng cường đoàn
kết giữa các hộ trong sản xuất nhằm khắc phục vấn đề thiếu lao động làm
giảm hiệu quả sản xuất.
- Phải thường xuyên tham gia các buổi tập huấn do cán bộ địa phương tổ
chức (huyện hoặc tỉnh), và tích cực tham gia vào các tổ chức xã hội để tạo
điều kiện liên kết, giúp đỡ nhau và tìm kiếm thông tin thị trường.

- Tập trung đầu tư cho Vụ Đông Xuân để khai thác lợi thế cạnh tranh của
vụ lúa này vì vụ này thuận lợi cho việc sản xuất lúa và cho năng suất cao. Đối
với vụ Hè Thu, cần duy trì ổn định năng suất, giảm thểu chi phí và nâng cao
chất lượng lúa.
Đối với địa phương.

25


×