VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ QUỐC DŨNG
THẨM QUYỀN CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH LONG AN
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60.38.01.04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. TRẦN QUANG ĐỘ
HÀ NỘI - 2016
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
PHÚC THẨM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ............................................. 6
1.1. Khái quát lý luận về xét xử phúc thẩm .................................................. 6
1.2. Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm ...................................... 16
Chƣơng 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT
NAM VỀ THẨM QUYỀN CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM VÀ
THỰC TIỄN TẠI TỈNH LONG AN ........................................................... 21
2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về thẩm quyền của
Hội đồng xét xử phúc thẩm. ........................................................................ 21
2.2. Thực tiễn thực hiện các quy định về thẩm quyền của Hội đồng xét xử
phúc thẩm tại Tòa án nhân dân tỉnh Long An ............................................. 40
CHƢƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM VIỆC THỰC HIỆN THẨM
QUYỀN CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM TRONG TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM .................................................................................. 59
3.1. Tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về
thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm .............................................. 59
3.2. Hƣớng dẫn thực hiện thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm .... 62
3.3. Tổng kết thực tiễn xét xử phúc thẩm khắc phục tình trạng án oan, sai.64
3.4. Nâng cao năng lực của Thẩm phán xét xử phúc thẩm. ........................ 71
KẾT LUẬN .................................................................................................... 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 78
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS
Bộ luật dân sự
BLHS
Bộ luật hình sự
BLTTDS
Bộ luật tố tụng dân sự
BLTTHS
Bộ luật tố tụng hình sự
HĐTP
Hội đồng thẩm phán
HĐXX
Hội đồng xét xử
TAND
Tòa án nhân dân
TANDTC
Tòa án nhân dân Tối cao
TTHS
Tố tụng hình sự
UBND
Ủy ban nhân dân
VKS
Viện kiểm sát
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết củađề tài
Từ Đại hội lần thứ VI (năm 1986) của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề
ra chủ trƣơng đổi mới toàn diện đất nƣớc.Cảicách tƣpháplàmộtđòihỏikhách
quan,cấpthiếtđể cóthểthíchứngvớinhữngđổimớivề chínhtrị, kinhtế,vănhóa, xã
hội. Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị “về chiến
lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020” đề ra các chủ trƣơng lớn, có tính đột phá
nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong cải cách tƣ pháp ở nƣớc ta.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã có những sửa đổi, bổ sung một
cách tƣơng đối đồng bộ, toàn diện và phát huy tác dụng tích cực trong cuộc
đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, bảo đảm cho hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng đạt đƣợc
mục đích và nhiệm vụ đặt ra, đáp ứng đƣợc yêu cầu cải cách tƣ pháp ở nƣớc
ta. Tuy nhiên, về cơ bản các quy định về phúc thẩm trong Bộ luật tố tụng hình
sự sửa đổi vẫn nhƣ trƣớc đây chƣa khắc phục đƣợc những bất cập, tồn tại và
vƣớng mắc trong thực tiễn.
Trong các quy định về xét xử phúc thẩm vụ án hình sự, thẩm quyền của
Hội đồng xét xử phúc thẩm là rất quan trọng, nếu không có quy định này, thì
khi các bản án sơ thẩm có sai sót sẽ không đƣợc khắcphụckịp thời.Vì vậy,
việc nghiên cứu làm sáng tỏ về mặt lý luận các quy định về thẩm quyền của
Hội đồng xét xử phúc thẩm; chỉ ra những bất cập, vƣớng mắc trong thực tiễn
và nguyên nhân, trên cơ sở đó đƣa ra đƣợc các căn cứ khoa học nhằm tiếp tục
hoàn thiện các quy định vềcác quy định về thẩm quyền của Hội đồng xét xử
phúc thẩm là một yêu cầu cấp thiết của khoa học luật tố tụng hình sự hiện
nay. Mặc khác, tình hình xét xử án hình sự theo thủ tục phúc thẩm tại Tòa án
nhân dân tỉnh Long An trong thời gian qua, bên cạnh những kết quả đạt đƣợc
1
góp phần ổn định tình hình chính trị tại địa phƣơng thì vẫn còn những hạn
chế, thiếu sót. Tình trạng án sơ thẩm bị hủy, bị cải sửa do lỗi chủ quan của
Thẩm phán chƣa đƣợc khắc phục triệt để; việc áp dụng pháp luật thiếuthống
nhất…
Do đó, tác giả chọn đề tài: “Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc
thẩm trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Long An”
vừa có tính cấpthiết về cơ sở lý luận, vừa đáp ứng với yêu cầu thực tiễn xét xử
tại Tòa án nhân dân tỉnh Long An hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Từ khi có BLTTHS 1988 ra đời, và sau đó là BLTTHS 2003, các quy
định về thủ tục xét xử phúc thẩm là đối tƣợng nghiên cứu cho nhiều tác giả.
Qua khảo sát tình hình nghiên cứu cho thấy đã có nhiều công trình nghiên cứu
về thủ tục xét xử phúc thẩm nhƣ: Luận án “Thẩm quyền của Tòa án các cấp
theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam” của TS. Nguyễn Văn Huyên năm 2002;
luận án “Phúc thẩm trong Tố tụng hình sự” của TS. Nguyễn Đức Mai năm
2004; luận án “Nguyên tắc hai cấp xét xử trong Tố tụng hình sự Việt Nam”
của TS. Vũ Gia Lâm năm 2008; luận văn “Thẩm quyền của Tòa án cấp phúc
thẩm trong Tố tụng hình sự” của Ths. Nguyễn Văn Tiến năm 1997; …
Trƣớc khi có BLTTHS 2003 có một số bài nghiên cứu trên các báo, tạp
chí nhƣ: Tạp chí Tòa án nhân dân số 23/2006; và “Một số vấn đề về phạm vi
xét xử và quyền hạn của Hội đồng xét xử phúc thẩm vụ án hình sự”, Tạp chí
Tòa án nhân dân số 18/2009. Đinh Văn Quế “Một số vấn đề về sửa bản án sơ
thẩm trong xét xử phúc thẩm theo Bộ luật TTHS năm 2003”, Tạp chí Tòa án
nhân dân số 13/2006. Ngoài ra, còn đƣợc đề cập tới ở một số tài liệu khác.
Nhƣ vậy, nội dung cụ thể về thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc
thẩm là một phần trong các nội dung nghiên cứu về thủ tục phúc thẩm của
luận án tiến sĩ hoặc luận văn thạc sĩ. Do đó, việc nghiên cứu toàn diện về quy
2
định này là rất cần thiết, tạo sự thống nhất trong nhận thức và chính xác trong
thực tiễn xét xử.
3. Mục đíchvànhiệmvụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý
luận về thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm trong tố tụng hình sự Việt
nam; phân tích làm rõ những điểm hạn chế, thiếu sót trong quy định về thẩm
quyền của hội đồng xét xử phúc thẩm, phân tích những tồn tại hạn chế trong
thực tiễn áp dụng quy định đó để đƣa ra giải pháp bảo đảmthực hiện thẩm
quyền của hội đồng xét xử phúc thẩm.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích nghiên cứu đã đƣợc đặt ra, luận văn tập trung vào các
nhiệm vụ sau:
- Góp phần làm rõ các vấn đề lý luận về thẩm quyền của hội đồng xét
xử phúc thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam.
- Đánh giá các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thẩm quyền
của hội đồng xét xử phúc thẩm và thực tiễn thi hành tại Long An trong thời
gian qua.
- Đề ra những giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về thẩm quyền
của hội đồng xét xử phúc thẩm và bảo đảm thực hiện trên thực tế.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là các quy định của pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam về thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm; thực
tiễn thi hành các quy định của BLTTHS về thẩm quyền của hội đồng xét xử
phúc thẩm tại tỉnh Long An.
Phạm vi nghiên cứu
3
Luận văn nghiên cứu các quy định có liên quan trong lịch sử phát triển
của pháp luật TTHS của nƣớc ta và trọng tâm là nghiên cứu quy định tại Điều
248 của BLTTHS Việt Nam năm 2003 về quyền thẩm quyền của Hội đồng
xét xử phúc thẩm. Nghiên cứu cụ thể các nội dung quy định tại Điều 248
trong mối tƣơng quan phù hợp với các văn bản pháp luật khác nhƣ: Bộ luật
hình sự, Bộ luật dân sự v.v.. Đồng thời, luận văn tổng hợp số liệu và phân tích
thực tiễn áp dụng Điều 248 của các Tòa án nhân dân tỉnh Long An trong thời
gian từ năm 2010 đến năm 2015.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp luận
Luận văn nghiên cứu trên cơ sở phƣơng pháp luận của chủ nghĩa Mác Lê nin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về Nhà nƣớc và pháp quyền. Các giải pháp
luận văn đƣa ra đƣợc nghiên cứu dựa trên các quan điểm định hƣớng chỉ đạo
của Đảng và nhà nƣớc ta về cải cách tƣ pháp và hoàn thiện hệ thống pháp luật
trong giai đoạn hiện nay.
Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu của khoa học luật hình
sự nhƣ: phân tích, tổng hợp, lịch sử, thống kê, khảo sát thực tiễn và tham khảo
chuyên gia. Để thực hiện Luận văn, tác giả thu thập số liệu thống kê về thực
tiễn xét xử phúc thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Long An trong 05 năm (2010
– 2015).
6. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn. Kết quả nghiên cứu của luận
văn có ý nghĩa trong việc góp phần nhận thức đúng đắn, thống nhất về thẩm
quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm. Luận văn đƣa ra các giải pháp có cơ
sở lý luận và thực tiễn đối với việc hoàn thiện pháp luật TTHS của nƣớc ta
trong thời kì mới.
4
Luận văn là tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và giảng dạy, học tập
môn Tố tụng hình sự.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 3 chƣơng:
Chương1:Lý luận vềthẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm trong
tố tụng hình sự Việt Nam.
Chương2:Quy định của pháp luật Tố tụnghìnhsự Việt Nam về thẩm
quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm và thực tiễn tại tỉnh Long An.
Chương3: Các giải pháp bảo đảm việc thực hiện thẩm quyền của Hội
đồng xét xử phúc thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam.
5
Chƣơng 1
LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC
THẨM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Khái quát lý luận về xét xử phúc thẩm
1.1.1. Khái niệm xét xử phúc thẩm
Trong khoa học luật TTHS, khái niệm xét xử phúc thẩm có thể đƣợc
hiểu ở các góc độ khác nhau cả ở nghĩa hẹp và nghĩa rộng. Theo nghĩa hẹp,
thì khái niệm xét xử phúc thẩm có thể đƣợc hiểu là một giai đoạn của TTHS
(giai đoạn phúc thẩm); một chế định (chế định phúc thẩm) của TTHS hay
cũng có thể đƣợc hiểu là một thủ tục tố tụng (thủ tục xét xử phúc thẩm). Theo
nghĩa rộng, khái niệm xét xử phúc thẩm đƣợc hiểu ở cả ba nghĩa nêu trên [13,
tr. 13]. Để làm rõ khái niệm về xét xử phúc thẩm, cần phải làm sáng tỏ các
nội dung sau đây:
Thứ nhất, xét xử phúc thẩm làgiai đoạn của TTHS: Quá trình giải quyết
các vụ án hình sự đƣợc phân thành các giai đoạn có tính độc lập tƣơng đối kế
tiếp và liên quan chặt chẽ với nhau. Giai đoạn tố tụng trƣớc là tiền đề cho giai
đoạn tố tụng sau. Ví dụ, để có thể đƣa một vụ án ra xét xử thì phải có quyết
định truy tố của VKS đối với các bị cáo trong vụ án đó và muốn truy tố thì
phải có kết luận của cơ quan điều tra về vụ án.
Với tƣ cách là một giai đoạn độc lập của quá trình TTHS, giai đoạn
phúc thẩm tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào việc bản án, quyết định
sơ thẩm có kháng cáo hoặc kháng nghị hay không. Đây là giai đoạn tiếp theo
của giai đoạn xét xử sơ thẩm. Nó đƣợc bắt đầu ngay sau khi bản án sơ thẩm
đƣợc tuyên và kết thúc khi bản án, quyết định sơ thẩm có HLPL hoặc đƣợc
thay thế bằng bản án, quyết định phúc thẩm [13, tr.14,15].
Có ý kiến cho rằng, phúc thẩm không phải là một giai đoạn độc lập của
quá trình TTHS mà phụ thuộc vào việc có hay không có kháng cáo, kháng
6
nghị đối với bản án, quyết định sơ thẩm trong thời hạn luật định. Bởi vì, sau
khi xét xử sơ thẩm, không phải tất cả các vụ án hình sự, mà chỉ có những vụ
án mà bản án có kháng cáo, kháng nghị mới đƣợc đƣa ra xét xử phúc thẩm.
Có thể dễ dàng nhận thấy rằng, ý kiến này đã sai lầm khi đồng nhất "giai
đoạn phúc thẩm" với "thủ tục xét xử phúc thẩm". Đối với một vụ án cụ thể,
thủ tục xét xử phúc thẩm không phải là bắt buộc. Thủ tục xét xử phúc thẩm
chỉ phát sinh khi có kháng cáo, kháng nghị đối với bản án, quyết định sơ thẩm
theo quy định của pháp luật. Trong trƣờng hợp bản án, quyết định sơ thẩm
không bị kháng cáo hoặc kháng nghị, thì mặc dù không phải tiến hành xét xử
phúc thẩm vụ án đó, nhƣng đối với vụ án đó giai đoạn phúc thẩm vẫn tồn tại
và đƣợc bắt đầu ngay sau khi bản án sơ thẩm đƣợc tuyên và kết thúc khi hết
thời hạn kháng cáo, kháng nghị và bản án có HLPL.
Thứ hai, xét xử phúc thẩm là chế định của TTHS: Về mặt lý luận, pháp
luật của mỗi quốc gia nói chung và pháp luật của Việt Nam nói riêng, là một
hệ thống những quy tắc xử sự (các quy phạm pháp luật) do Nhà nƣớc ban
hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội trong các lĩnh vực khác nhau của đời
sống xã hội. Hệ thống này đƣợc phân thành các tiểu hệ thống nhỏ hơn - các
ngành luật. Mỗi ngành luật là một tiểu hệ thống các quy tắc xử sự điều chỉnh
một loại quan hệ xã hội trong một lĩnh vực nhất định của đời sống xã hội
(hình sự, dân sự, kinh tế,...). Đến lƣợt mình, mỗi ngành luật lại đƣợc chia
thành các chế định pháp lý và mỗi chế định này bao gồm các quy phạm pháp
luật điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội cùng tính chất [13, tr.17].
Pháp luật TTHS cũng bao gồm các chế định pháp lý khác nhau. Với tƣ
cách là một chế định của pháp luật TTHS, xét xử phúc thẩm là một tiểu hệ
thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa
các chủ thể tham gia vào giai đoạn tố tụng này. Các quy phạm pháp luật này
không chỉ bao gồm các quy định trong BLTTHS của mỗi quốc gia mà cả các
7
quy phạm trong các văn bản luật và dƣới luật khác. Ví dụ: Ở nƣớc ta chế định
phúc thẩm trong TTHS không chỉ bao gồm các quy phạm ở Phần thứ tƣ "Xét
lại bản án và quyết định chưa có hiệu lực pháp luật theo thủ tục phúc thẩm",
mà cả các quy định khác của BLTTHS nhƣ: Các nguyên tắc cơ bản; các quy
định về thủ tục tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm đƣợc áp dụng khixét xử phúc
thẩm. Một số lƣợng khá lớn quy phạm về phúc thẩm trong TTHS còn đƣợc
chứa đựng trong các văn bản luật (nhƣ Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Luật tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân,...) và văn bản dƣới luật (nhƣ Pháp lệnh Tổ chức
Tòa án quân sự, Pháp lệnh tổ chức Viện kiểm sát quân sự; các Thông tƣ liên
tịch, các nghị quyết của Hội đồng thẩm phán TANDTC,... về việc hƣớng dẫn
áp dụng một số quy định của BLTTHS) [13, tr.17].
Thứ ba, xét xử phúc thẩm làthủ tục tố tụng: Xét xử phúc thẩm là một
trong những hình thức xem xét lại việc xét xử của Tòa án cấp trên đối với Tòa
án cấp dƣới. Thủ tục xét xử phúc thẩm đối với một vụ án chỉ phát sinh khi
bản án, quyết định sơ thẩm về vụ án đó bị kháng cáo hoặc kháng nghị theo
quy định của pháp luật. Vì vậy, không phải tất cả các vụ án hình sự sau khi
xét xử sơ thẩm đều đƣợc xem xét lại theo thủ tục này. Thủ tục phúc thẩm sẽ
kết thúc sau khi Tòa án cấp phúc thẩm ra bản án hoặc quyết định về vụ án đó.
Nhƣ vậy, thời điểm bắt đầu của giai đoạn phúc thẩm và thời điểm bắt
đầu của thủ tục xét xử phúc thẩm là khác nhau. Thời điểm bắt đầu của giai
đoạn phúc thẩm là cố định, không thay đổi và sớm hơn, tức là ngay sau khi
tuyên bản án, quyết định sơ thẩm. Còn thời điểm bắt đầu thủ tục phúc thẩm
phụ thuộc vào ý chí của các chủ thể có quyền kháng cáo, kháng nghị theo quy
định của pháp luật và đƣợc xác định từ thời điểm Tòa án nhận đƣợc kháng
cáo hoặc kháng nghị. Thời điểm kết thúc giai đoạn phúc thẩm và thời điểm
kết thúc thủ tục phúc thẩm chỉ trùng nhau trong trƣờng hợp vụ án có kháng
cáo, kháng nghị là ngay sau khi Tòa án cấp phúc thẩm ra bản án hoặc quyết
8
định phúc thẩm. Đối với vụ án không có kháng cáo, kháng nghị, thủ tục phúc
thẩm không phát sinh, vì vậy, không thể có thời điểm bắt đầu và kết thúc thủ
tục này [13, tr.18].
Từ những phân tích nêu trên, có thể hiểu khái niệm về xét xử phúc
thẩm trong TTHS nhƣ sau: Phúc thẩm trong TTHS là chế định tố tụng thể
hiện chế độ hai cấp xét xử, là giai đoạn độc lập của TTHS, đồng thời là thủ
tục mà theo đó Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hình sự mà bản án,
quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn luật địnhnhằm
kiểm tra tính hợp pháp, tính có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm, khắc
phục kịp thời các sai lầm của Tòa án cấp sơ thẩm, bảo vệ công lý, quyền con
người, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
1.1.2. Tính chất của xét xử phúc thẩm
Một trong những vấn đề cần đƣợc quan tâm đầu tiên khi nghiên cứu về
thủ tục phúc thẩm đó là tính chất xét xử phúc thẩm. Tính chất xét xử phúc
thẩm sẽ quyết định đến những vấn đề khác của phúc thẩm nhƣ: Phạm vi xét
xử phúc thẩm, những quy định chung về thủ tục tại phiên tòa phúc thẩm, trình
tự phiên tòa phúc thẩm cũng nhƣ quyền hạn của Tòa án cấp phúc thẩm…Mặt
khác, tính chất của phúc thẩm là một trong những điểm khác biệt để có thể
phân biệt giữa thủ tục phúc thẩm và giám đốc thẩm. Tính chất của phúc thẩm
đƣợc thể hiện qua những nét đặc trƣng cơ bản đó là:
Thứ nhất,Phúc thtg nh th vấn đề cần đƣợc quan tâm đầu tiên Không
phải mọi vụ án hình sự đều đƣợc xét xử sơ thẩm và phúc thẩm. Thế nhƣng,
bản án, quyết định sơ thẩm bị Viện kiểm sát kháng nghị, bị cáo hay những
ngƣời tham gia tố tụng có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan kháng cáo trong thời
hạn luật định thì đƣợc xét xử theo thủ tục phúc thẩm để xem xét lại những vấn
đề bị kháng cáo, kháng nghị và những vấn đề khác khi cần thiết. Việc xét xử
9
phúc thẩm là yêu cầu khách quan, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của
Toà án cấp phúc thẩm.
Thứ hai, căn cứ làm phát sinh trình tự phúc thẩm là kháng cáo, kháng
nghị mà trong đó quyền kháng cáo là nét đặc trƣng của phúc thẩm.Sau khi xét
xử sơ thẩm, bản án quyết định của Tòa án chƣa có hiệu lực ngay, bị cáo và
những ngƣời tham gia tố tụng khác còn có quyền yêu cầu Tòa án cấp trên trực
tiếp xét xử lại vụ án một lần nữa. Để tạo điều kiện cho bị cáo và những ngƣời
tham gia tố tụng khác thực hiện tốt quyền kháng cáo của mình thì, khi tuyên
án, Hội đồng xét xử phải giải thích cho bị cáo và những ngƣời tham gia tố
tụng khác về quyền kháng cáo và họ phải đƣợc giao bản án trong thời hạn luật
định. Trƣờng hợp bị cáo hoặc những ngƣời tham gia tố tụng khác vắng mặt tại
phiên tòa thì quyền kháng cáo đƣợc tính kể từ ngày họ nhận đƣợc bản án,
quyết định hoặc kể từ ngày tống đạt hợp lệ bản án, quyết định của Tòa án.
Quyền kháng cáo của bị cáo và những ngƣời tham gia tố tụng khác
không chỉ đƣợc thể hiện qua các quyền của họ đƣợc pháp luật quy định mà
còn thể hiện qua nghĩa vụ của Tòa án trong việc giải quyết kháng cáo của họ.
Trƣờng hợp kháng cáo hợp lệ về hình thức, Tòa án cấp phúc thẩm phải mở
phiên tòa để giải quyết chấp nhận hay không chấp nhận nội dung kháng cáo
của ngƣời kháng cáo. Nếu không chấp nhận kháng cáo, Tòa án cấp phúc thẩm
phải nêu rõ lý do của việc không chấp nhận kháng cáo. Tòa án cấp phúc thẩm
không làm xấu hơn tình trạng của bị cáo nếu nhƣ không có kháng nghị của
Viện kiểm sát hoặc kháng cáo của ngƣời bị hại theo hƣớng bất lợi cho bị cáo.
Quy định này đảm bảo cho bị cáo có sự yên tâm thực hiện quyền kháng cáo
mà không lo hậu quả của việc kháng cáo có thể gây bất lợi cho mình.
Thứ ba, tính chất của phúc thẩm không phải là xét lại mà là xét xử lại
vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm chƣa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo
hoặc kháng nghị.Nhiệm vụ của Tòa án cấp phúc thẩm là kiểm tra tính hợp
10
pháp và có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm, đồng thời xét xử lại về mặt
nội dung tính hợp pháp của bản án, quyết định trên cơ sở của pháp luật nội
dung và pháp luật tố tụng.
Tính có căn cứ của bản án, quyết định thể hiện ở chổ các chứng cứ đƣa
ra để chứng minh trong vụ án phải phù hợp với thực tế. Tòa án cấp phúc thẩm
xét xử lại vụ án về mặt nội dung là việc xác định lại thực chất của vụ án để
đƣa ra quyết định những vấn đề về nội dung vụ án và những quyết định khác
có liên quan. Quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm có thể giống hoặc khác so
với quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm. Đây chính là điểm khác biệt của phúc
thẩm so với giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Đối với giám đốc thẩm hoặc tái
thẩm chỉ kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án, quyết định đã
có hiệu lực pháp luật mà không xét xử lại về nội dung.
Từ phân tích trên có thể khẳng định rằng, tính chất của phúc thẩm
trong TTHS là việc thực hiện một cấp xét xử mà trong đó Toà án có thẩm
quyền xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp
luật do bị kháng cáo hoặc kháng nghị trong thời hạn luật định”.
1.1.3. Mục đích của xét xử phúc thẩm
Mục đích của xét xử phúc thẩm là nhằm kiểm tra tính hợp pháp và tính
có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp
của công dân, tổ chức xã hội và Nhà nƣớc.
Với tính chất là cấp xét xử thứ hai, vừa là một hình thức giám đốc của
Toà án cấp trên đối với việc xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm. Hội đồng xét xử
phúc thẩm đồng thời thực hiên cả hai chức năng vừa xét xử lại vụ án về nội
dung vừa xem xét lại tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án, quyết định
sơ thẩm.
Một là, xét xử lại về mặt nội dung. Tòa án cấp phúc thẩm có nhiệm vụ
xem xét, đánh giá lại sự thật khách quan của vụ án dựa trên toàn bộ những
11
chứng cứ đã đƣợc thu thập trong giai đoạn xét xử sơ thẩm và chứng cứ mới
đƣợc thu thập bổ sung trong giai đoạn xét xử phúc thẩm. Hội đồng xét xử
phúc thẩm có quyền xét xử lại một phần hoặc toàn bộ nội dung vụ án tùy
thuộc vào nội dung của kháng cáo và kháng nghị. Tuy nhiên, trong trƣờng
hợp cần thiết, theo quy định của pháp luật, Tòa án cấp phúc thẩm cũng có thể
xem xét những nội dung khác ngoài phạm vi kháng cáo hoặc kháng nghị.
Hai là, thực hiện nhiệm vụ giám đốc việc xét xử của Tòa án cấp trên
đối với Tòa án cấp dƣới. Hội đồng xét xử phúc thẩm kiểm tra xem xét tính
khách quan và tính hợp pháp của bản án hoặc quyết định sơ thẩm của Tòa án
cấp dƣới. Việc kiểm tra lại tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án sơ
thẩm nhằm giúp cho tòa án cấp phúc thẩm có thể sửa chữa những sai lầm
trong bản án hoặc quyết định sơ thẩm, đảm bảo cho Tòa án xét xử đúng
ngƣời, đúng tội, đúng pháp luật, đồng thời bảo vệ các quyền và lợi ích hợp
pháp của ngƣời tham gia tố tụng[39, tr 524].
1.1.4. Các đặc điểm của xét xử phúc thẩm
Nhƣ đã phân tích ở trên, xét xử phúc thẩm là cấp xét xử thứ hai, tại
phiên tòa xét xử phúc thẩm, Hội đồng xét xử phúc thẩm đồng thời thực hiện
cả hai chức năng vừa xét xử lại vụ án về nội dung, vừa xét lại tính hợp pháp
và tính có căn cứ của bản án sơ thẩm. Do đó, xét xử phúc thẩm có các đặc
điểm cơ bản nhƣ sau:
Thứ nhất, Tòa án cấp phúc thẩm không chỉ kiểm tra việc tuân theo yêu
cầu của pháp luật trong khi xét xử của Tòa án cấp dƣới, mà còn kiểm tra tính
đúng đắn của các tình tiết thực tế đƣợc xác định trong bản án, tức là đồng thời
kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án.
Trên cơ sở những kháng cáo, kháng nghị hợp lệ, Hội đồng xét xử phúc
thẩm sẽ tiến hành xét lại và xét xử lại đối với những bản án, quyết định sơ
thẩm bị kháng cáo, kháng nghị. Cụ thể, Hội đồng xét xử phúc thẩm tiến hành
12
xét lại tính hợp pháp của bản án, quyết định đó và tính có căn cứ về sự phù
hợp giữa kết luận trong bản án, quyết định với những sự kiện trên thực tế
khách quan của vụ án. Hội đồng xét xử phúc thẩm tiến hành xét xử lại vụ án
để giải quyết vụ án một cách chính xác trên cơ sở những chứng cứ ở cấp sơ
thẩm và những chứng cứ mới.
Thứ hai, xét xử phúc thẩm chỉ có thể đƣợc tiến hành khi có kháng cáo
của những ngƣời tham gia tố tụng hoặc có kháng nghị của VKS theo quy định
của BLTTHS. Chính những kháng cáo, kháng nghị hợp pháp là căn cứ để bản
án, quyết định sơ thẩm chƣa có hiệu lực pháp luật trở thành đối tƣợng cần
đƣợc xem xét giải quyết ở giai đoạn phúc thẩm. Do đó, cơ sở pháp lý có
nguồn gốc làm phát sinh thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm chính là
kháng cáo, kháng nghị hợp pháp đối với những bản án, quyết định sơ thẩm.
Trong đó, quyền kháng cáo là nét đặc trƣng của xét xử phúc thẩm. Sau khi xét
xử sơ thẩm, bản án, quyết định của Tòa án chƣa có hiệu lực pháp luật ngay, bị
cáo và những ngƣời tham gia tố tụng còn có quyền kháng cáo yêu cầu xét xử
lại một lần nữa ở Tòa án cấp trên trực tiếp. Nếu nhƣ căn cứ để tiến hành xét
xử sơ thẩm là quyết định truy tố của Viện kiểm sát, căn cứ để tiến hành giám
đốc thẩm, tái thẩm là kháng nghị của những ngƣời tiến hành tố tụng có thẩm
quyền là những căn cứ mang tính quyền lực Nhà nƣớc thì trình tự phúc thẩm
có thể đƣợc phát sinh bởi kháng cáo của bị cáo và những ngƣời tham gia tố
tụng khác theo quy định của pháp luật.
Quyền kháng cáo đƣợc thể hiện qua việc bị cáo và ngƣời tham gia tố
tụng khác đƣợc quyền kháng cáo đối với bản án, quyết định sơ thẩm nào
nhằm mục đích đảm bảo quyền kháng cáo của bị cáo và những ngƣời tham
gia tố tụng khác. Thông qua kháng cáo, họ thể hiện sự bất đồng và nêu những
quan điểm của mình về việc giải quyết vụ án ở cấp sơ thẩm, đồng thời đề đạt
những nguyện vọng, những yêu cầu của mình đối với Tòa án cấp phúc thẩm.
13
Thứ ba, đối tƣợng của xét xử phúc thẩm là những bản án, quyết định sơ
thẩm do bị kháng cáo, kháng nghị hợp lệ nên chƣa có hiệu lực pháp luậ. Xét
xử phúc thẩm cũng là một điều kiện để Tòa án cấp trên có thể kiểm tra chất
lƣợng xét xử của Tòa án cấp dƣới, hƣớng dẫn Tòa án cấp dƣới xét xử đúng
pháp luật, xây dựng kế hoạch bồi dƣỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ xét xử.
Mặc dù vậy, không phải tất cả các vụ án xét xử qua cấp sơ thẩm đều bị phúc
thẩm. Chỉ có những bản án hoặc quyết định sơ thẩm chƣa có hiệu lực pháp
luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị hợp lệ theo quy định của BLTTHS mới là
đối tƣợng của xét xử phúc thẩm. Một bản án, quyết định sơ thẩm, nếu có sai
lầm, nhƣng không có kháng cáo, kháng nghị yêu cầu phúc thẩm thì bản án,
quyết định đó cũng không bị xét xử phúc thẩm. Mặt khác, khi bản án, quyết
định sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật mới phát hiện thấy sai lầm thì cũng
không phải là đối tƣợng của thủ tục phúc thẩm. Trong trƣờng hợp này, bản
án, quyết định sơ thẩm đó sẽ bị xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm
theo quy định của pháp luật tố tụng.
Thứ tư, chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng trong XXPT bao gồm:
Tòa án cấp phúc thẩm, Viện kiểm sát cấp phúc thẩm; những ngƣời có quyền
kháng cáo theo quy định của pháp luật; những ngƣời có liên quan đến kháng
cáo, kháng nghị và những ngƣời tham gia tố tụng khác mà Tòa án cấp phúc
thẩm thấy cần thiết triệu tập tham gia phiên tòa.
Thứ năm,Tòa án cấp phúc thẩm không bị ràng buộc bởi những lý do
kháng cáo hoặc kháng nghị mà kiểm tra toàn bộ vụ án đối với tất cả những
ngƣời bị kết án, kể cả những ngƣời không kháng cáo và không bị kháng cáo,
kháng nghị trong giới hạn do BLTTHS quy định.
Thứ sáu, phiên tòa phúc thẩm có một số đặc thù phù hợp với cấp xét xử
phúc thẩm nhƣ: Khi khai mạc phiên toà, Thẩm phán - Chủ tọa phiên toà
không phải đọc quyết định đƣa vụ án ra xét xử; trƣớc khi tiến hành xét hỏi;
14
việc công bố Cáo trạng của Kiểm sát viên đƣợc thay thế bằng việc một thành
viên Hội đồng xét xử phúc thẩm tóm tắt nội dung vụ án, quyết định của bản
án sơ thẩm, nội dung kháng cáo, kháng nghị; việc luận tội của Kiểm sát viên ở
phần tranh luận đƣợc thay thế bằng việc trình bày kết luận của đại diện Viện
kiểm sát.
Thứ bảy, khi xét xử phúc thẩm, những ngƣời tham gia tố tụng liên quan
đến kháng cáo, kháng nghị có quyền bổ sung thêm tài liệu, chứng cứ. Chủ thể
kháng cáo, kháng nghị không chỉ viện dẫn những chứng cứ có trong hồ sơ vụ
án mà còn đƣợc xuất trình những tài liệu mới chƣa đƣợc xem xét tại Tòa án
cấp sơ thẩm. Bản án của Tòa án cấp phúc thẩm phải căn cứ vào cả chứng cứ
cũ và chứng cứ mới. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo và những ngƣời tham gia
tố tụng khác đƣợc thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình theo quy
định của BLTTHS nhƣ: Quyền đƣa chứng cứ và yêu cầu, tranh luận tại phiên
tòa, quyền bào chữa của bị cáo. Do xét xử phúc thẩm không chỉ là kiểm tra
tính hợp pháp và có căn cứ của bản án, quyết định mà còn xét xử lại vụ án về
mặt nội dung, nghĩa là xem xét tính đúng đắn của vụ án về mặt thực chất. Vì
vậy, pháp luật quy định bị cáo và những ngƣời có liên quan đến kháng cáo,
kháng nghị có quyền xuất trình những chứng cứ mới để bảo vệ quyền lợi cho
mình, không phải phụ thuộc vào những chứng cứ đã đƣa ra tại phiên tòa sơ
thẩm. Họ có quyền thay đổi lời khai, có quyền yêu cầu mời thêm nhân chứng
mới, có quyền đa ra những vật chứng mới. Viện kiểm sát cấp phúc thẩm cũng
có thể tự mình hoặc theo yêu cầu của tòa án tiến hành điều tra bổ sung thu
thập thêm những chứng cứ mới để làm sáng tỏ những vấn đề về nội dung vụ
án. Tất cả các chứng cứ mới và chứng cứ cũ đều đƣợc đa ra xem xét trực tiếp
tại phiên tòa và là căn cứ để tòa án cấp phúc thẩm ra bản án hoặc quyết định.
Ngoài ra, xét xử phúc thẩm còn có những đặc điểm đặc trƣng trong các
quan hệ pháp luật tố tụng giữa các cơ quan tiến hành tố tụng nhƣ: giữa Tòa án
15
cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm (trong việc thông báo kháng cáo, kháng
nghị; xác minh lý do kháng cáo quá hạn...) giữa Viện kiểm sát cấp sơ thẩm và
Viện kiểm sát cấp phúc thẩm (trong việc kháng nghị bản án sơ thẩm); Tòa án
cấp phúc thẩm và Viện kiểm sát cấp phúc thẩm trong quá trình giải quyết vụ
án...
1.2. Thẩm quyền của hội đồng xét xử phúc thẩm
1.2.1.Thẩm quyền xem xét kháng cáo quá hạn
Để đảm bảo tính ổn định của bản án, quyết định sơ thẩm, kháng cáo
thực hiện ngoài thời hạn luật định là quá hạn và về nguyên tắc không đƣợc
chấp nhận. Tuy nhiên nếu có lý do chính đáng thì Tòa án cấp phúc thẩm vẫn
có thể xem xét chấp nhận kháng cáo quá hạn đó, nhằm bảo đảm quyền lợi của
ngƣời kháng cáo, vì lý do của việc kháng cáo quá hạn đó không phải do lỗi
của họ. Những lý do đó có thể là ngƣời có quyền kháng cáo bị tai nạn bất ngờ,
ốm đau đột xuất phải đi cấp cứu và nằm viện dài ngày hoặc do thiên tai…
khiến cho họ dù muốn cũng không thể kháng cáo trong thời hạn luật định
đƣợc. Việc xét lý do kháng cáo quá hạn phải thực hiện trƣớc khi mở phiên tòa
phúc thẩm, không phụ thuộc vào việc ngoài bị cáo, đƣơng sự kháng cáo quá
hạn, trong vụ án còn có kháng cáo của các bị cáo hoặc đƣơng sự khác trong
thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 234 của BLTTHS.
Còn đối với kháng nghị của Viện kiểm sát quá hạn thì dù do bất kỳ lý
do gì cũng không đƣợc xem xét. Kháng nghị đó không làm phát sinh trình tự
xét xử phúc
1.2.2. Thẩm quyền xem xét vụ án (phạm vi xét xử phúc thẩm)
Trong quá trình thực hiện chức năng xét xử, Tòa án đƣợc Nhà nƣớc
trao cho quyền năng đƣa ra các quyết định có tính chất quyền lực nhà nƣớc để
giải quyết vụ án, đồng thời, cũng hạn chế quyền năng đó trong một giới hạn
pháp luật nhất định gọi là phạm vi thẩm quyền. Về cơ bản, kháng cáo hoặc
16
kháng nghị hợp pháp là cơ sở pháp lý để Hội đồng xét xử phúc thẩm xác định
phạm vi xét xử của mình. Phạm vi xét xử của Tòa án là giới hạn mà Tòa án có
thẩm quyền đƣợc quyền xét xử và ra các quyết định đối với vụ án theo quy
định của pháp luật. Phạm vi xét xử phúc thẩm đƣợc xác định dựa vào kháng
cáo, kháng nghị hợp pháp.
Nếu kháng cáo, kháng nghị đối với toàn bộ bản án hoặc quyết định sơ
thẩm thì Hội đồng xét xử phúc thẩm phúc thẩm phải xem xét toàn bộ nội dung
bản hoặc quyết định đó.Nếu kháng cáo, kháng nghị chỉ đề cập đến một phần
nội dung của bản án hoặc quyết định sơ thẩm, thì Hội đồng xét xử phúc thẩm
chỉ xem xét giải quyết phần nội dung của bản án, quyết định sơ thẩm có
kháng cáo, kháng nghị. Tuy nhiên, nếu xét thấy cần thiết thì Hội đồng xét xử
phúc thẩm còn đƣợc mở rộng ra những phần khác của bản án hoặc quyết
không có kháng cáo, kháng nghị, thậm chí mở rộng xem xét toàn bộ nội dung
bản án. Theo quy định tại Điều 241 BLTTHS năm 2003 thì phạm vi xét xử
phúc thẩm đƣợc xác định là việc "Tòa án cấp phúc thẩm xem xét nội dung
kháng cáo, kháng nghị. Nếu xét thấy cần thiết thì Tòa án cấp phúc thẩm có
thể xem xét các phần khác không bị kháng cáo, kháng nghị của bản án". Tuy
nhiên, thẩm quyền ra quyết định của Hội đồng xét xử phúc thẩm không phải
là vô hạn, mà pháp luật cho phép xem xét các phần khác không bị kháng cáo,
kháng nghị trên cơ sởnguyên tắc không làm xấu hơn tình trạng của bị cáo.
Ngoài ra, khi xét xử Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền ra quyết định
khởi tố vụ án, ra các quyết định xử lý hành chính nhƣ cảnh cáo, phạt tiền đối
với những ngƣời vi phạm trật tự phiên tòa.
Tóm lại, nhiệm vụ của Hội đồng xét xử phúc thẩm không chỉ kiểm tra
tính hợp pháp và có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm mà đồng thời xét
xử lại về mặt nội dung tính hợp pháp của bản án thể hiện ở chỗ không những
nó phải phù hợp với pháp luật hình sự về mặt nội dung trong việc giải quyết
17
vụ án đồng thời còn phải phù hợp với những quy định của pháp luật tố tụng
hình sự về mặt hình thức. Tính có căn cứ của bản án và quyết định thể hiện ở
chỗ các chứng cứ dùng để chứng minh vụ án phải phù hợp với những sự kiện
thực tế khách quan của vụ án.
1.2.3. Thẩm quyền quyết định của Hội đồng xét xử phúc thẩm
Phạm vi quyền hạn của Hội đồng xét xử phúc thẩm là một nội dung hết
sức quan trọng và cần thiết trong TTHS của nƣớc ta. Với vai trò là cấp xét xử
thứ hai và giải quyết vụ án một lần nữa nhằm kiểm tra tính hợp pháp và tính
có căn cứ của bản án hoặc quyết định sơ thẩm để ra những quyết định cần
thiết, Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền quyết định các vấn đề cụ thể của
vụ án sau khi đã xem xét toàn bộ vụ án. Nhƣ vậy có thể nói, thẩm quyền của
Hội đồng xét xử phúc thẩm là toàn bộ các quyền hạn mà pháp luật dành cho
Hội đồng xét xử phúc thẩm trong việc xem xét và quyết định các vấn đề cụ
thể về các vụ án hình sự đã đƣợc các Tòa án cấp dƣới trực tiếp xét xử sơ
thẩm, nhƣng bản án, quyết định sơ thẩm chƣa có hiệu lực pháp luật do bị
kháng cáo, kháng nghị.
Khi xét xử vụ án theo thủ tục phúc thẩm, Hội đồng xét xử phúc thẩm có
quyền quyết định: không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản
án sơ thẩm; sửa bản án sơ thẩm; hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét
xử lại; hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án.
Dựa vào các phân tích nêu trên, theo chúng tôi, có thể hiểu khái niệm
về thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm“là tổng hợp các quyền mà
pháp luật quy định cho Hội đồng xét xử phúc thẩm được xem xét và quyết
định trong phạm vi xét xử phúc thẩm đối với nội dung của vụ án hình sự mà
bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng
nghị; nhằm xét lại tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án, quyết định đó,
giải quyết một cách đúng đắn vụ án”.
18
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Nội dung chƣơng 1 đã nêu đƣợc khái niệm, tính chất, mục đích, các đặc
điểm và phạm vi của xét xử phúc thẩm. Theo đó, thẩm quyền của Hội đồng
xét xử phúc thẩm gồm các yếu tố đặc trƣng cơ bản nhƣ sau:
Chủ thể thực hiện thẩm quyền xét xử phúc thẩm là những ngƣời đƣợc
phân công tại Tòa án nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng, Tòa
án nhân dân Cấp cao.
Đối tƣợng của xét xử phúc thẩm: HĐXX phúc thẩm có quyền xem xét
và quyết định đối với những bản án, quyết định sơ thẩm chƣa có hiệu lực
pháp luật trên cơ sở những kháng cáo, kháng nghị hợp lệ. Ngoài ra HĐXX
phúc thẩm còn có thẩm quyền xem xét lý do kháng cáo quá hạn theo quy định
của pháp luật.
Nội dung xét xử phúc thẩm: Trên cơ sở những kháng cáo, kháng nghị
hợp lệ, Hội đồng xét xử phúc thẩm sẽ tiến hành xét lại và xét xử lại đối với
những bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị. Với tính chất là
cấp xét xử thứ hai, Hội đồng xét xử phúc thẩm đồng thời thực hiên cả hai
chức năng vừa xét xử lại vụ án về nội dung vừa xem xét lại tính hợp pháp và
tính có căn cứ của bản án sơ thẩm.
Phạm vi xét xử phúc thẩm: Trong quá trình thực hiện chức năng xét xử,
Tòa án đƣợc Nhà nƣớc trao cho quyền năng đƣa ra các quyết định có tính chất
quyền lực nhà nƣớc để giải quyết vụ án, đồng thời, cũng hạn chế quyền năng
đó trong một giới hạn pháp luật nhất định gọi là phạm vi xét xử phúc thẩm.
Với những phân tích ở Chƣơng 1 sẽ làm tiền đề cho việc nghiên cứu
thẩm quyền quyết định của Hội đồng xét xử phúc thẩm theo quy định pháp
luật tố tụng hình sự Việt nam và thực tiễn áp dụng tại Tòa án nhân dân tỉnh
Long An trong Chƣơng 2.
19
Chƣơng 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ
THẨM QUYỀN CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM VÀ THỰC
TIỄN TẠI TỈNH LONG AN
2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về thẩm
quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm
Theo quy định tại khoản 2 Điều 248 BLTTHS, Hội đồng xét xử phúc
thẩm có các quyền sau:
- Không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ
thẩm;
- Sửa bản án sơ thẩm;
- Hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án để điều tra lại hoặc xét xử
lại;
- Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án.
Tùy từng trƣờng hợp mà Hội đồng xét xử phúc thẩm có thể ra một
trong các quyết định này hoặc có thể ra nhiều quyết định khác nhau trong
cùng vụ án.
2.1.1. Không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản
án, quyết định sơ thẩm
Trƣớc hết việc giữ nguyên bản án sơ thẩm là trƣờng hợp toàn bộ bản án
sơ thẩm đều đƣợc giữ nguyên, không thay đổi. Trong trƣờng hợp một bản án
có nhiều kháng cáo, kháng nghị, việc Tòa án không chấp nhận một số kháng
cáo, kháng nghị và các quyết định sửa án thì đƣợc coi là trƣờng họp sửa án sơ
thẩm chứ không phải là trƣờng hợp giữ nguyên bản án sơ thẩm. Do đó, cần
phải hiểu giữ nguyên bản án sơ thẩm là giữ nguyên toàn bộ bản án sơ thẩm,
chứ không thể có trƣờng hợp giữ nguyên một phần bản án sơ thẩm.
BLTTHS năm 2003 hiện nay không quy định cụ thể trƣờng hợp nào thì
20
HĐXX phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị, giữ nguyên bản
án sơ thẩm. Tuy nhiên, qua thực tiễn công tác xét xử thì việc Tòa án cấp phúc
thẩm không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị đƣợc chia làm hai trƣờng hợp
chính đó là không chấp nhận về hình thức và không chấp nhận về nội dung.
Thứ nhất, không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị về hình thức nếu
kháng cáo, kháng nghị không đảm bảo các điều kiện thụ lý mà Toà án không
phát hiện đƣợc khi nhận và xử lý kháng cáo, kháng nghị. Điều kiện thụ lý
kháng cáo, kháng nghị gồm các điều kiện chủ thể, giới hạn và thời hạn kháng
cáo, kháng nghị. Toà án cấp sơ thẩm phải kiểm tra các điều kiện thụ lý kháng
cáo, kháng nghị. Toà án cấp phúc thẩm phải kiểm tra tính chính đáng của lý
do kháng cáo quá hạn. Việc không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị tại khâu
kiểm tra điều kiện thụ lý thể hiện ở việc Toà án cấp sơ thẩm trả lại đơn kháng
cáo hoặc Hội đồng xét kháng cáo quá hạn quyết định không chấp nhận kháng
cáo quá hạn.
Trong trƣờng hợp tại phiên toà phúc thẩm mới phát hiện kháng cáo,
kháng nghị không đảm bảo các điều kiện thụ lý thì Toà án cấp phúc thẩm
quyết định không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ
thẩm.
Thứ hai, không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị về nội dung khi các
yêu cầu trong kháng cáo, kháng nghị không có căn cứ pháp luật. Tòa án cấp
sơ thẩm đã xét xử chính xác, khách quan không có lý do gì để làm thay đổi
bản án hoặc quyết định của Tòa án.
Theo nguyên tắc thì Tòa án cấp phúc thẩm khi đã không chấp nhận
kháng cáo, kháng nghị thì phải giữ nguyên bản án. Tuy nhiên, thực tế cho
thấy có trƣờng hợp Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo, kháng
nghị nhƣng không ra quyết định giữ nguyên bản án sơ thẩm vì có lý do sửa
hay hủy bản án này. Ví dụ, trong một vụ án đồng phạm, Hội đồng xét xử bác
21
kháng nghị của Viện Kiểm sát hoặc của ngƣời bị hại tăng nặng hình phạt đối
với bị cáo này, nhƣng lại giảm hình phạt đối với bị cáo khác không có kháng
cáo. Theo quy định tại Điểm a Khoản 2 Điều 248 thì Tòa án cấp phúc thẩm
khi không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị thì phải quyết định giữ nguyên
bản án, nhƣng theo quy định về phạm vi xét xử của Tòa án cấp phúc thẩm tại
Điều 241 BLTTHS thì Tòa án cấp phúc thẩm có thể đƣợc xem xét các phần
khác không đƣợc kháng cáo, kháng nghị của bản án. Vì thế, Tòa án cấp phúc
thẩm vẫn có quyền không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị, đồng thời vẫn có
thể quyết định sửa bản án, hủy bản án để điều tra lại hoặc hủy bản án và đình
chỉ vụ án đối với những phần khác của bản án không bị kháng nghị, kháng
cáo nếu quyết định đó có đủ căn cứ pháp luật.
2.1.2. Sửa bản án sơ thẩm
Sửa bản án sơ thẩm là quyết định của Hội đồng xét xử phúc thẩm để
thay đổi về nội dung của bản án sơ thẩm nhƣ: Thay đổi về việc định tội danh,
quyết định hình phạt, bồi thƣờng thiệt hại và các biện pháp tƣ pháp (nếu có)...
theo hƣớng bất lợi hoặc có lợi cho bị cáo.
Có thể thấy đây là quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm với ý nghĩa
đƣa ra nhƣng phán quyết cuối cùng nhằm giải quyết trực tiếp về nội dung của
một vụ án chứ không chỉ giải quyết gián tiếp qua hủy án để điều tra lại hoặc
xét xử lại. Đây cũng là quyền năng tạo nên điểm khác biệt trong thẩm quyền
của Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm mà Hội đồng giám đốc thẩm và tái thẩm
không có. Quyền hạn này xuất phát từ tính chất của cấp xét xử phúc thẩm là
không chỉ xét lại về tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án sơ thẩm mà
còn xét xử lại vụ án. Trong đó, cả hai thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm chỉ là
xét lại tính có căn cứ và tính hợp pháp trong những phán quyết của Tòa án
cấp sơ thẩm hoặc phúc thẩm đã có hiệu lực pháp luật mà không xét xử lại vụ
án, mặc dù phát hiện ra những sai lầm thiếu sót nhƣng không thể sửa nội dung
22