Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Một số kinh nghiệm trong việc tổ chức các trò chơi dân gian cho trẻ 5 – 6 tuổi”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.44 MB, 21 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Bậc học Mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Mục tiêu của giáo dục Mầm non là giúp trẻ em phát triển về thể chất, tình cảm,
trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho
trẻ vào lớp một; hình thành và phát triển ở trẻ em những chức năng tâm sinh lý,
năng lực và phẩm chất mang tính nền tảng, những kỹ năng sống cần thiết phù
hợp với lứa tuổi, khơi dậy và phát triển tối đa những khả năng tiểm ẩn, đặt nền
tảng cho việc học tập ở các cấp học tiếp theo và cho việc học tập suốt đời. Trẻ
đến trường Mầm non được chăm sóc-nuôi dưỡng- giáo dục. Trẻ được tiếp thu,
lĩnh hội tất cả các kiến thức khoa học cơ bản từ đơn giản đến phức tạp, từ dễ đến
khó thông qua các hoạt động chăm sóc như hoạt động ăn, ngủ, vệ sinh cá nhân,
hoạt động lao động, ngày hội, ngày lễ, hoạt động chơi, hoạt động học ..vv
Ở bậc học Mầm non, đối với độ tuổi mẫu giáo “Hoạt động vui chơi là hoạt
động chủ đạo” “Trẻ học bằng chơi - chơi mà học”. Trẻ mẫu giáo không những
cần được sự quan tâm chăm sóc về vệ sinh, thể lực sức khoẻ, tinh thần, cơ thể
phát triển một cách cân đối hài hòa, mà còn phải được tham gia tích cực vào
trong các hoạt động học tập, hoạt động vui chơi, mà quan trọng nhất là trẻ được
thoả mãn nhu cầu vui chơi, trẻ được khám phá, trải nghiệm thực tế, thể hiện tính
độc lập sáng tạo.
Xuất phát từ mục đích, ý nghĩa, vai trò, tầm quan trọng của hoạt động vui
chơi đối với trẻ mẫu giáo và nhu cầu hưởng thụ hoạt động vui chơi đặc biệt là
trò chơi dân gian, tôi thấy việc tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi dân gian là một
việc làm vô cùng cần thiết và rất có ý nghĩa đối với trẻ.
Trò chơi dân gian gắn liền với cuộc sống của trẻ thơ, những trò chơi đơn
giản, dễ chơi với những bài đồng dao lời, âm điệu nhịp nhàng hoà quyện với trò
chơi, tạo nhịp điệu, làm cho trò chơi trở nên sống động, vui tươi, sôi nổi, nhí
nhảnh, mang tính giáo dục cao như: Phát triển về lĩnh vực ngôn ngữ rõ ràng,
trong sáng, mạch lạc; phát triển về thể chất rèn luyện tính dẻo dai, nhanh nhạy,
tính đoàn kết tập thể…vv
Đúng như PGS. TS Nguyễn Văn Huy, giám đốc Bảo tàng Dân tộc học Việt
Nam đã nói: “Cuộc sống đối với trẻ em không thể thiếu những trò chơi. Trò chơi


1


dân gian không đơn thuần là một trò chơi của trẻ con mà nó chứa đựng cả nền
văn hoá dân tộc Việt Nam độc đáo và giàu bản sắc. Trò chơi dân gian không chỉ
chắp cánh cho tâm hồn trẻ, giúp trẻ phát triển tư duy, sáng tạo, mà còn giúp các
em hiểu về tình bạn, tình yêu gia đình, quê hương, đất nước. Ngày nay, các em ở
một xã hội công nghiệp, chỉ quen với máy móc và không có khoảng thời gian
chơi cũng là một thiệt thòi. Thiệt thòi hơn khi các em không được làm quen và
chơi những trò chơi dân gian của thiếu nhi ngày trước, đang ngày càng bị mai
một và quên lãng, không chỉ có ở các thành phố mà còn ở cả các vùng quê. Vì
thế, giúp các em hiểu và quay về nguồn với các trò chơi dân gian là một việc
làm cần thiết".
Có thể nói một cách chính xác hơn: Vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ
mẫu giáo. Thông qua hoạt động vui chơi, trẻ được hình thành và phát triển về 5
mặt nhân cách và 5 lĩnh vực giáo dục như: Phát triển nhận thức, thể chất, ngôn
ngữ, thẩm mỹ, tình cảm và kỹ năng xã hội. Thông qua nội dung của các bài
đồng dao, các trò chơi dân gian để giáo dục và hướng cho trẻ đến cái đẹp, cái
thiện, thích làm ra cái đẹp, biết trân trọng, giữ gìn và bảo vệ cái đẹp. Qua đó
nhằm phát triển toàn diện nhân cách cho trẻ. Chính vì vậy, giáo viên cần tổ chức
cho trẻ chơi các trò chơi nói chung và trò chơi dân gian nói riêng.
Năm học 2008 - 2009, Bộ giáo dục và đào tạo phát động phong trào: “Xây
dựng trường học thân thiện - Học sinh tích cực” trong đó có nội dung đưa trò
chơi dân gian vào trường học. Nhưng làm thế nào để tổ chức được các trò chơi
dân gian thực sự có hiệu quả, lôi cuốn và hấp dẫn được trẻ là một bài toán khó
với các giáo viên, đặc biệt là các giáo viên Mầm non. Vì căn cứ vào đặc điểm
tâm, sinh lý của trẻ, khả năng chú ý có chủ định của trẻ mẫu giáo còn hạn chế.
Trẻ dễ nhớ, nhanh quên, dễ dàng tham gia vào trò chơi nhưng cũng nhanh chán,
nhanh bỏ cuộc.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

I. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
Vấn đề giáo dục con người là vấn đề của mọi thời đại, mọi quốc gia dân
tộc và cũng là của mọi nhà, mọi người. Vì vậy, việc giáo dục con người ngay từ
những năm tháng đầu đời là vô cùng quan trọng, có vai trò đặc biệt trong việc
đặt nền móng cho sự hình thành và phát triển của nhân cách con người đó.
2


Trong thời đại ngày nay, trẻ em luôn được xác định là tương lai của đất nước, là
những chủ nhân quyết định vận mệnh đất nước, Bác Hồ kính yêu đã dạy “Hãy
dành những gì tốt đẹp nhất cho trẻ thơ”. Thực hiện lời dạy của Người, Đảng và
Nhà nước ta đã và đang quan tâm sâu sắc đến trẻ thơ, quan tâm về mọi mặt
nhằm phát triển về đức - trí - thể - mĩ cho trẻ.
Ở lứa tuổi mẫu giáo, hoạt động vui chơi là hoạt động chủ đạo, bởi vui chơi
đã gây ra những biến đổi về chất, có ảnh hưởng quyết định đến sự hình thành
nhân cách trẻ và là tiền đề cho hoạt động học tập ở lứa tuổi tiếp theo. Phương
châm “Học bằng chơi, chơi mà học” luôn được quán triệt trong công tác chăm
sóc, giáo dục trẻ mẫu giáo ở trường Mầm non.
- Thực hiện chương trình giáo dục Mầm non (Ban hành kèm theo Thông tư
số 17/2009/TT-BGDĐT ngày 25 tháng 07 năm 2009 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục
và Đào tạo) quy định: Hoạt động chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ em lứa tuổi
mẫu giáo. Trẻ có thể chơi với các loại trò chơi cơ bản như: Trò chơi đóng vai
theo chủ đề, trò chơi ghép hình, lắp ráp, xây dựng; trò chơi đóng kịch; trò chơi
học tập; trò chơi vận động; trò chơi dân gian; trò chơi với phương tiện công
nghệ hiện đại. Trong các loại trò chơi có rất nhiều các hình thức và trò chơi
khác, nhưng trò chơi dân gian không thể không nhắc đến.
- Thực hiện theo tài liệu bồi dưỡng hè cho cán bộ quản lý và giáo viên
Mầm non năm học 2012 -2013 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về nội dung hướng
dẫn đánh giá công tác tổ chức hoạt động vui chơi của trẻ ở trường Mầm non của
Tiến sĩ Nguyễn Thị Thanh Hà - Trường CĐSP TW TP- Hồ Chí Minh.

- Thực hiện theo tài liệu hướng dẫn tổ chức thực hiện chương trình giáo
dục Mầm non dành cho trẻ mẫu giáo lớn (5 – 6 tuổi ) của Nhà xuất bản Giáo dục
Việt Nam do TS.Trần Thị Ngọc Trâm và TS.Lê Thu Hương; PGS. TS.Lê Thị
Ánh Tuyết (đồng chủ biên) hướng dẫn chung về hoạt động vui chơi và gợi ý
hướng dẫn tổ chức các loại trò chơi. Đặc biệt, trò chơi dân gian là những trò
chơi được sáng tạo, lưu truyền tự nhiên, rộng rãi từ thế hệ này sang thế hệ khác,
mang đậm bản sắc văn hoá dân gian và phần lớn là những trò chơi có lời đồng
giao…vv
- Trên cơ sở các tài liệu, sách tham khảo như: Tuyển chọn trò chơi, bài hát,
thơ ca, truyện, câu đố theo chủ đề cho trẻ 5- 6 tuổi
3


- Trò chơi dân gian là một loại trò chơi được trẻ em mẫu giáo yêu thích.
Trên thế giới, không có một dân tộc nào lại không có trò chơi riêng cho con em
mình. Từ xa xưa trẻ em Việt Nam đã có nhu cầu chơi, nhu cầu nghĩ ra các trò
chơi, truyền cho nhau cách chơi từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nhờ đó mà trò
chơi dân gian được lưu truyền đến ngày nay. Trò chơi dân gian đã được sử dụng
nhiều trong các hoạt động vui chơi của trẻ ở trường mầm non, đặc biệt là hoạt
động học có chủ định của giáo viên cho trẻ ở trường Mầm non. Các trò chơi dân
gian không chỉ nhiều về số lượng mà còn phong phú về thể loại. Việc kết hợp
trò chơi dân gian trong các hoạt động học có chủ định tại trường mầm non mang
ý nghĩa to lớn trong việc: rèn luyện thể lực, sự khéo léo, nhịp nhàng, rèn luyện
trí tuệ, sự nhanh trí, óc phán đoán, gợi xúc cảm thẩm mỹ, khả năng hoạt động
nhóm, tập thể, sự gắn kết của tình bạn… và đặc biệt nó góp phần xây dựng nhân
cách mang đậm văn hóa dân tộc Việt Nam cho trẻ ngay từ khi trẻ còn nhỏ.
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ:
* Thuận lợi:
- Ban giám hiệu luôn luôn chăm lo đến chất lượng giáo dục, chỉ đạo


sát sao công tác thi đua “Dạy tốt, học tốt” tới từng giáo viên. Trường Mầm
non Nga Văn huyện Nga Sơn là trường đạt chuẩn Quốc gia mức độ I, theo
Quyết định số 36 của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Về cơ sở vật chất có đầy đủ
phòng học và một số phòng chức năng rộng rãi, khang trang, có các khu vườn cổ
tích, vườn rau…có khuôn viên sư phạm xanh - sạch - đẹp, có đồ chơi ngoài trời
đạt từ 5 loại trở lên. Nhà trường luôn đầu tư mua sắm đầy đủ trang thiết bị, đồ
dùng, đồ chơi để phục vụ chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ; có bề dầy thành
tích, nhiều năm liền được UBND huyện, UBND tỉnh và Sở Giáo dục Thanh Hóa
khen thưởng.
- Nhà trường có đội ngũ giáo viên trẻ, khoẻ, nhiệt tình, đạt trình độ chuyên
môn từ chuẩn và trên chuẩn, năng động có nhiều sáng tạo trong việc tổ chức các
hoạt động cho trẻ. Bản thân tôi là một giáo viên trẻ đạt trình độ chuyên môn trên
chuẩn (Đại học Sư phạm Mầm non), có niÒm đam mê với công tác chăm sóc
giáo dục trẻ, điều đặc biệt tôi có nhiều kinh nghiệm trong việc chăm sóc giáo
dục trẻ 5 – 6 tuổi, rõ nét nhất vẫn là tổ chức các trò chơi dân gian cho trẻ. Tôi
luôn được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của lãnh đạo Phòng giáo dục và đào tạo,
4


sự ủng hộ giúp đỡ của tập thể cán bộ, giáo viên nhà trường; sự quan tâm tạo điều
kiện về mọi mặt của các cấp ủy Đảng chính quyền địa phương và nhất là các bËc
cha mẹ học sinh, tạo điều kiện về kinh phí cũng như đồ dùng, đồ chơi, nhất là đồ
dùng phục vụ trò chơi dân gian. Nên ngay từ đầu năm học, tôi đã xây dựng lịch
trình tổ chức giao lưu trò chơi dân gian cho chính lớp mình.
- Đối với các cháu: Tỷ lệ huy động trẻ đến trường rất cao nhà trẻ đạt 40 %,
mẫu giáo đạt 98%, được học ở các nhóm, lớp đúng độ tuổi theo quy định, nên
trẻ ở lớp tôi rất mạnh dạn, tự tin, thông minh, thích tham gia vào các hoạt động
trò chơi, đặc biệt là các trò chơi dân gian.
- Đối với các bậc phụ huynh, cũng đã nhận thức đúng đắn về mục đích, ý
nghĩa, vai trò và tầm quan trọng của việc đưa con, em đến trường Mầm non. Vì

vậy mà tỷ lệ trẻ chuyên cần ngày càng cao hơn.
* Khó khăn:
- Nhà trường mặc dù đã đạt chuẩn Quốc gia nhưng về cơ sở vật chất, trang
thiết bị, đồ dùng, đồ chơi để đáp ứng theo yêu cầu của chương trình giáo dục
Mầm non và theo Thông tư 02 của Bộ Giáo dục và đào tạo thì vẫn chưa đảm
bảo.
- Về giáo viên qua một thời gian dự giờ, quan sát thực tiễn, tôi thấy một số
giáo viên khi tổ chức trò chơi còn mang nặng tính hình thức, chưa phát huy
được hết các ưu điểm của các trò chơi, chưa biết lồng ghép và tích hợp vào các
hoạt động chơi, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào trong việc tổ chức các
hoạt động cho trẻ còn nhiều hạn chế.
- Một số trẻ đến lớp còn rụt rè, chưa tích cực tham gia hoặc tham gia một
cách qua loa, máy móc.
- Một số bậc phụ huynh do hoàn cảnh, điều kiện kinh tế khó khăn, do công
việc làm ở các công ty, đi làm ăn ở xa, nên chưa thực sự dành thời gian quan
tâm, chăm sóc cho các cháu.
* Căn cứ vào cơ sở lý luận và thực trạng, ngay từ tháng 9 đầu năm học tôi
xây dựng kế hoạch khảo sát chất lượng trên trẻ ở lớp tôi như sau:

5


Tổng số
cháu
trong
lớp: 31
cháu
Số cháu
đạt
Tỷ lệ

Số cháu
chưa đạt
Tỷ lệ

Biểu
Biết phối
hiện khả
hợp với
năng tự
bạn
lực, sáng
trong khi
tạo trong
chơi
khi chơi

Thực
hiện
đúng
quy tắc,
luật của
từng trò
chơi.

Cháu
hiểu nội
dung và
nói được
tên trò
chơi


Cháu thể
Cháu
hiện
hứng
được
thú, tích
hành
cực tham
động của
gia trò
vai chơi
chơi

Cháu có
kỹ năng
chơi

10

8

7

7

8

9


15

32

26

23

23

26

29

48

21

23

24

24

23

22

16


68

74

77

77

74

71

52

Từ kết quả đạt được của những năm học trước và kết quả thực tế đạt được
trên đây. Là một giáo viên Mầm non, trong những năm qua tôi luôn băn khoăn,
trăn trở với chất lượng của cháu mình. Vì vậy tôi đã đi sâu vào nghiên cứu, tham
khảo và tìm ra các biện pháp để tổ chức các trò chơi dân gian một cách có hiệu
quả nhất. Sau đây tôi xin đưa ra “Một số kinh nghiệm trong việc tổ chức các
trò chơi dân gian cho trẻ 5 – 6 tuổi” tại lớp Hoa Hồng trường Mầm non xã
Nga Văn - huyện Nga Sơn cụ thể như sau:
III. CÁC GIẢI PHÁP VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN:
1. Sưu tầm và lựa chọn các trò chơi dân gian có nội dung phù hợp với
lứa tuổi của trẻ.
Kho tàng các trò chơi dân gian Việt Nam vô cùng phong phú và đa dạng
nhưng không phải trò chơi nào cũng phù hợp với trẻ nhỏ. Vì thế, bản thân tôi đã
giành nhiều thời gian và tích cực sưu tầm các loại trò chơi dân gian như: Trên
mạng Internet, các truyển tập, tập san, tạp chí, báo Hoạ My, báo Nhi đồng…vv
và tôi có sự cân nhắc lựa chọn cho trẻ chơi các trò chơi nào có luật chơi và cách
chơi đơn giản, dễ nhớ, dễ hiểu nhất và phù hợp với nội dung của từng chủ đề.

Khi lựa chọn các trò chơi dân gian cho trẻ, tôi thực hiện theo các tiêu chí sau:
- Trò chơi không quá đơn giản nhưng cũng không quá phức tạp.
- Đồ dùng đồ chơi phục vụ cho trò chơi dễ kiếm, dễ tìm.
- Giúp củng cố tư duy, ngôn ngữ, vận động, kỹ năng cho trẻ.
- Gây được hứng thú, thu hút sự chú ý của trẻ.
- Có sự tham gia của tập thể lớp hoặc nhóm trẻ trong lớp.
6


Bên cạnh đó, trong trường Mầm non lại có sự phân chia trẻ theo nhiều độ
tuổi. Mỗi độ tuổi lại có mức độ nhận thức và khả năng chú ý có chủ định khác
nhau. Chính vì thế, các trò chơi dân gian cũng cần phải được lựa chọn cho phù
hợp với từng độ tuổi. cụ thể như sau:
+ Với trẻ lứa tuổi nhà trẻ và mẫu giáo bé và nhỡ, khả năng chú ý có chủ
định còn kém, nhận thức còn đơn giản. Vì vậy trẻ chỉ có thể chơi được các trò
chơi đơn giản như: “Lộn cầu vồng”, “Chi chi chành chành”, “Tập tầm vông”, “Nu
na nu nống”, “Dung dăng dung dẻ”...
+ Còn với trẻ lớp tôi thì: Khả năng chú ý có chủ định và nhận thức của trẻ
đã cao hơn rất nhiều so với lứa tuổi trước. Vì thế, trẻ có thể chơi được các trò
chơi dài hơn và khó hơn như: “Thả đỉa ba ba”, “Ô ăn quan”, “Chuyền thẻ”, “Hát
chuyền sỏi”, “Trốn tìm”, “Đếm sao”, “Kéo co”, “Rồng rắn lên mây”, “Chồng
đống chồng đe”, “Trồng nụ trồng hoa”, “Ném còn”, “Cướp cờ”…vv
*Ví dụ: Chủ đề Thế giới động vật. Tôi lập kế hoạch và tổ chức thực hiện
cho trẻ chơi các trò chơi phù hợp như: “ Mèo bắt chuột”; “Cáo và Thỏ”; “ Đàn
chuột con"; “Gấu và người thợ săn”…vv
2. Chuẩn bị đầy đủ trang thiết bị, đồ dùng, đồ chơi, trang phục, lời ca,
địa điểm thật chu đáo, kỹ càng trước khi tổ chức cho trẻ tham gia vào các
trò chơi dân gian.
2.1.Chuẩn bị trang thiết bị, đồ dùng, đồ chơi, trang phục phù hợp cho
các trò chơi dân gian:

Đồ dùng đồ chơi của các trò chơi dân gian cũng vô cùng đa dạng và phong
phú, mang tính đặc trưng và được thiết kế dựa vào cách chơi và luật chơi của
từng trò chơi. Mỗi trò chơi dân gian có một hoặc nhiều loại trang thiết bị, đồ
dùng, đồ chơi, trang phục tương ứng mà thiếu nó thì trò chơi không thể tiến
hành được.
*Ví dụ: trò chơi: “ Chơi chuyền” đòi hỏi phải có 10 que chuyền và một đồ
vật có dạng khối cầu như quả bóng, quả bưởi non,... Trò chơi “ Ném còn” không
thể diễn ra nếu thiếu quả còn - đồ chơi truyền thống của trò chơi đó. Hay đơn
giản như trò chơi “ Bịt mắt bắt dê” cũng không thể được tổ chức nếu không có
dải vải hoặc dải khăn bịt mắt; trò chơi “ Gấu và người thợ săn” thì giáo viên
phải xây dựng mô hình khu rừng, phải có trang phục của Gấu và người thợ săn
7


nếu thiếu thì trò chơi sẽ không sinh động, không thu hút được sự hứng thú, tích
cực tham gia của trẻ.
Chính vì vậy, trước khi tổ chức cho trẻ chơi một trò chơi dân gian nào đó,
giáo viên cần tìm hiểu kỹ lưỡng về luật chơi, cách chơi cũng như việc có hay
không có đồ dùng đồ chơi phục vụ cho trò chơi, để từ đó có thể chuẩn bị đầy đủ
các yếu tố cần thiết cho trò chơi.
2.2. Dạy trẻ đọc thuộc lời ca (đối với những trò chơi có lời đồng dao):
Một đặc điểm đặc trưng của trò chơi dân gian đó là: trong các trò chơi có lời
đồng giao nhằm kết hợp luyện phát âm cho trẻ, cô giáo phải chú ý cho trẻ phát
âm rõ và chính xác. Những lời đồng giao cho xướng âm đồng loạt và nhấn mạnh
vào các nhịp (nhịp 2 từ, 3 từ hoặc 4 từ ); khi cho trẻ chơi các trò chơi có lời đồng
giao, cô giáo đọc đi, đọc lại nhiều lần đề trẻ thuộc, khi chơi trẻ không bao giờ
chỉ thực hiện các hành động của mình mà chúng thường vừa chơi vừa hát hoặc
đọc lời đồng dao nào đó. Các bài đồng dao đó khiến cho không khí chơi vui vẻ,
nhộn nhịp hơn. Mặc dù không phải bài đồng dao nào cũng có ý nghĩa, song bài
nào cũng có vần, điệu, dễ nhớ, dễ thuộc, phù hợp với tư duy hồn nhiên của trẻ.

Ví dụ: Như chơi trò chơi “Chi chi chành chành”

8


Người chơi có thể từ 3 - 5 người trở lên. Chọn một người đứng ra trước xòe bàn
tay ra các người khác giơ ngón trỏ ra đặt vào lòng bàn tay. Người xòe bàn tay
đọc thật nhanh: Chi chi chành chành- Cái đanh thổi lửa- Con ngựa chết
chương-Ba vương ngũ đế- Chấp chế đi tìm- Ù à ù ập. Đọc đến chữ “ập” người
xòe tay nắm lại, những người khác cố gắng rút tay ra thật nhanh, ai rút không
kịp bị nắm trúng thì vào thế chỗ người xòe tay và vừa làm vừa đọc bài đồng dao
cho các bạn khác chơi. Câu hát dường như chẳng có mạch ý nào rõ ràng, nhưng
thiếu nó thì trò chơi không thể tiến hành.
Hay như trò chơi “Rồng rắn lên mây”

Một người đứng ra làm thầy thuốc, những người còn lại sắp hàng một, tay
người sau nắm vạt áo người trước hoặc đặt trên vai của người phía trước. Sau đó
tất cả bắt đầu đi lượn qua lượn lại như con rắn, vừa đi vừa hát:
Rồng rắn lên mây
Có cây lúc lắc
Hỏi thăm thầy thuốc
Có nhà hay không?....
Người đóng vai thầy thuốc trả lời:
– Thấy thuốc đi chơi ! (hay đi chợ, đi câu cá , đi vắng nhà… tùy ý mà chế ra).
………………………………………………………………………..
9


Đối với trò chơi: “Thả đỉa ba ba”


Trò chơi chỉ có thể được tổ chức khi trẻ đã thuộc lời đồng dao. Chính vì

Các em vừa chơi vừa hát: Thả đỉa ba ba - Chớ bắt đàn bà- Phải tội đàn
ông- Cơm trắng như bông - Gạo rồng như suối(gạo tiền như nước) - Đổ mắm
đổ muối - Đổ chuối hạt tiêu - Đổ niêu nước chè - Đổ phải nhà nào - Nhà đó
phải chịu vậy,.. “Đỉa” quay sang bên kia thì lũ bạn bên này lại hô lên “ăn
quả/nhả hạt” rồi ào xuống. Chẳng may ai bị “đỉa” vớ phải thì trở thành “đỉa”,
…….
Tôi thường cho trẻ làm quen với lời đồng dao của các trò chơi dân gian
trước khi hướng dẫn trẻ chơi vào các thời điểm trong ngày của trẻ như: hoạt
động chiều, hoạt động ngoài trời...Khi trẻ đã thuộc lời đồng dao, tôi tổ chức cho
trẻ chơi các trò chơi tương ứng với lời đồng dao đó. Vì thế, trẻ chơi rất hứng thú
và tích cực tham gia chơi.
* Kết quả: Để đạt được kiến thức, kỹ năng đúng theo mục đích, yêu cầu
đề ra thì khâu chuẩn bị đầy đủ các điều kiện phục vụ cho trò chơi thì đã thắng
lợi được 50 % rồi. Vì vậy mà thông qua các trang thiết bị, đồ dùng, đồ chơi, đẹp
màu sắc hấp dẫn đã thu hút được trẻ tích cực, hứng thú tham gia vào các trò chơi
đạt 95%.
2.3. Chuẩn bị địa điểm để tổ chức trò chơi:

10


Mỗi trò chơi dân gian có một cách chơi và luật chơi khác nhau. Có những
trò chơi vận động mang tính tập thể rất cao, thường có số lượng người tham gia
chơi lớn và đòi hỏi địa điểm chơi phải có diện tích rộng, bằng phẳng, vệ sinh
sạch sẽ, có bóng mát như “ Kéo co”, “ Rồng rắn lên mây”, “ Thả đỉa ba ba”, “
Trồng nụ trồng hoa”, Nu na nu nống,...

Cô chuẩn bị cho các cháu chơi “kéo co”


11


Chuẩn bị địa điểm cho các cháu chơi “Mèo đuổi chuột”

Địa điểm chơi “Nu na nu nống”

12


Nhưng lại cũng có những trò chơi tĩnh, trẻ hay chơi theo các nhóm nhỏ như
“ Chi chi chành chành”, “ Tập tầm vông”, “Rải ranh”, “ Chuyền thẻ”, “ Ô ăn
quan”...

Chuẩn bị cho các cháu chơi “ Ô ăn quan”

13


Cô chuẩn bị cho các cháu chơi "Tập tầm vông"
Chính vì vậy, giáo viên cần nắm vững cách chơi, luật chơi, đặc điểm của từng
trò chơi để từ đó lựa chọn địa điểm cho phù hợp trước khi tổ chức cho trẻ chơi.
3. Tổ chức các trò chơi phù hợp với tính chất của hoạt động và trình
độ, khả năng của trẻ.
Mỗi hoạt động của trẻ đều nhằm đạt được một mục đích nhất định. Vì thế,
hoạt động nào cũng có tính chất riêng của nó. Nếu như hoạt động chung được tổ
chức nhằm cung cấp các kiến thức cho trẻ thì hoạt động ngoài trời lại giúp trẻ
được gần gũi với thiên nhiên, khám phá các hiện tượng tự nhiên và phát triển thể
chất; hay như ở hoạt động góc trẻ lại được mở rộng thêm về kinh nghiệm sống

và kỹ năng chơi theo nhóm. Chính vì vậy, giáo viên cần chú ý lựa chọn và tổ
chức các trò chơi dân gian cho phù hợp với tính chất của từng hoạt động và phù
hợp với trình độ, khả năng của trẻ. Luật chơi, cách chơi, đồ chơi có thể thay đổi
làm cho trò chơi thêm hấp dẫn và hứng thú. Với những trò chơi trẻ mới chơi lần
đầu, giáo viên thường là người “Trưởng trò” hoặc là “Cái”chơi cùng với trẻ,
thông qua đó để giải thích luật lệ và hướng dẫn trẻ chơi.
+ Với hoạt động ngoài trời: tận dụng không gian rộng và thoáng, giáo viên
nên tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi vận động nhằm rèn luyện và phát triển thể
lực cho trẻ như: “Rồng rắn lên mây”, “Bịt mắt bắt dê”, “Nhảy dây”, “Nhảy lò cò”,
“Thả đỉa ba ba”...
+ Với hoạt động góc: Nên tổ chức cho trẻ các trò chơi có thể chơi theo
nhóm nhỏ trong một không gian hẹp như: “Ô ăn quan”, “Chơi chuyền”, “Rải
ranh”, “Chuyền thẻ”, “Kéo cưa lửa xẻ”...
+ Với hoạt động có chủ định và hoạt động chiều (Chủ yếu tôi cho trẻ chơi
trong phòng học): Nên tổ chức cho trẻ các trò chơi tĩnh nhằm phát triển nhận
thức cho trẻ như: “Ô ăn quan”, “Tập tầm vông”, “Rải ranh”, “Chơi chuyền”,
“Chơi cờ”, “Vấn đáp”, “Đếm sao”, “ Đọc câu”...Đặc biệt khi tích hợp trò chơi
dân gian trong hoạt động chung, tôi đã lựa chọn trò chơi phù hợp với đặc điểm
của từng hoạt động.
Ví dụ: Với hoạt động giáo dục thể chất: Tôi đã lựa chọn các trò chơi vận
động nhằm rèn luyện thân thể khoẻ mạnh, hoạt bát và năng động. Nhiều trò chơi
đòi hỏi trẻ phải mạnh mẽ, nhanh chân, nhanh mắt, nhanh miệng. Trẻ phải có sức
14


khỏe mới có thể vui chơi và ngược lại vui chơi giúp cho trẻ thêm khỏe mạnh và
năng động.
Chẳng hạn:
+ Với trò chơi “ Rồng rắn lên mây”, khi trẻ hát xong câu cuối: “Xin khúc
đuôi - Tha hồ thày đuổi”, lập tức trẻ làm “ đuôi” (Đứng sau cùng ) phải chạy thật

nhanh, nếu không sẽ bị “ Thầy” tóm lấy, sau đó có thể bị thay người khác hoặc
lại phải làm “Thầy” để đi đuổi những trẻ khác.
+ Trò chơi “ Nhảy dây”, “Trồng nụ trồng hoa”, “Nhảy lò cò” có nhiều nấc
chơi nho nhỏ: Từ bàn một, bàn hai...Đến bàn mười (Nhảy lò cò ); Từ một nụ,
một hoa...Đến tám hoa (Trồng nụ trồng hoa )...Trẻ phải vượt qua dần từng nấc,
hết nấc này mới đi tiếp nấc sau. Như vậy, trẻ phải dai sức, khỏe mạnh, nhanh
nhẹn và khéo léo mới có thể tiến dần đến được nấc cuối của trò chơi.

+ Trò chơi “ Chi chi chành chành” lại buộc trẻ phải rất nhanh tay, nhanh
miệng vì nếu câu cuối bài là “ ù à ù ập” được đọc xong mà trẻ không rút kịp tay
ra, ngón tay của nó sẽ bị giữ lại, như thế là thua.
- Với hoạt động khám phá khoa học như Môi trường xung quanh, Toán,
Văn học, khi lựa chọn các trò chơi cần đáp ứng được các tiêu chí sau:
+ Nhằm phát triển nhận thức cho trẻ.
+ Phát triển ngôn ngữ.

15


+ Cung cấp cho trẻ các kỹ năng như: Kỹ năng hoạt động theo nhóm, kỹ
năng sử dụng đồ dùng đồ chơi...
+ Rèn luyện trí nhớ và khả năng tư duy cho trẻ.
Ví dụ: + Lời đồng dao của trò chơi chuyền: “Con ruồi có cánh - Đòn gánh có
mấu - Châu chấu có chân...” Đã giúp trẻ nhận biết được đặc điểm đặc trưng của
một số con vật và đồ vật quen thuộc.
+ Những câu hát ngược có tính chất đánh lừa nhận thức, thử thách sự năng
động của trí tuệ, khiến trẻ muốn hiểu đúng sự vật thì phải chuyển ngược lại:
“Non cao đầy nước - Đáy biển đầy mây - Dưới đất lắm mây - Trên trời lắm cỏ
Người thì có mỏ - Chim thì có mồm...”
+ Trò chơi “ Chuyền thẻ” là một trò chơi dân gian dạy trẻ làm toán cộng

hay trừ. Đó là bài tập đếm từ 1 đến 10 của trẻ. Trẻ nhóm các nhóm theo trật tự
cao dần lên và cộng lại trong phạm vi 10: bắt đầu từ bàn một “cái mốt, cái mai,
cái trai, cái hến...” sau đó là nhóm đôi và các nhóm cao hơn “đôi tôi, đôi chị...”,
“ba lá đa, ba lá đề...”, “Tám quả trám, hai lên chín”...Bài tập đó có thể giúp trẻ
đếm thành thạo trong phạm vi 10.
- Với hoạt động âm nhạc, nên chọn các trò chơi có giai điệu và lời hát như
các trò chơi: “ Tập tầm vông”, “Hát chuyền sỏi”, ….
Ngoài ra khi lựa chọn các trò chơi dân gian trong hoạt động chung, một
điều cần đặc biệt lưu ý đó là: Phải lựa chọ trò chơi phù hợp với đề tài và chủ đề,
chẳng hạn như:
- Chủ đề “Thế giới động vật” có thể tổ chức các trò chơi: “Bịt mắt bắt dê”,
“ Phụ đồng ếch”, “Thi tìm những con vật có từ láy”..

16


- Chủ đề “Thế giới thực vật” có thể cho trẻ chơi các trò chơi:
“ Trồng nụ trồng hoa”, “Mít mật mít gai”, “Làm nón mũ bằng lá”...
- Chủ đề “Tết và mùa xuân” là thời điểm thích hợp để giới thiệu cho trẻ
các trò chơi truyền thống của dân tộc trong dịp lễ Tết như “ Ném còn”, “Cướp
cờ”, “Bịt mắt bắt dê”, “ Đẩy gậy”, “ Chơi đu”, “ Múa lân”..
3.4. Động viên khen thưởng kịp thời và khuyến khích tất cả số trẻ trong
lớp tích cực tham gia vào trò chơi:
Một ưu thế của trò chơi dân gian chính là ở chỗ nó có thể dung nạp tất cả
những ai muốn chơi. Không bao giờ trò chơi dân gian quy định số người chơi
nhất định. Vì vậy tôi luôn động viên khen thưởng, khuyến khích tất cả các trẻ
tham gia chơi càng đông càng vui. Nếu chơi “ Bịt mắt bắt dê” hay “Mèo đuổi
chuột” mỗi khi có một người vào thêm, vòng chỉ rộng ra một chút chứ trò chơi
không thay đổi.


17


Còn trò chơi “ Rồng rắn lên mây” thì thêm một người, “ Cái đuôi” sẽ dài ra
một chút và tất cả mọi người đều được chơi, được chạy như nhau. Những trò
chơi “ Thả đỉa ba ba”, “Chi chi chành chành”, “Nhảy lò cò”, “Nhảy dây”... cũng
tương tự như vậy.

Trong khi chơi, mọi trẻ đều bình đẳng như nhau. Nếu trẻ chơi tốt, tích cực,
đúng luật và cách chơi thì cô giáo khen ngợi, thưởng cho trẻ bằng một trò pháo
tay hoặc một hoa bé ngoan, nếu trẻ nào ích kỷ, chơi không đúng luật chơi, chen
lấn các bạn khác thì bị cô giáo nhắc nhở và bị phạt nhẹ bằng cách lặc lò cò 3
18


vòng. Qua đó ý thức, tinh thần tập thể của các bé được nâng lên rất nhiều và các
bé tích cực tham gia một cách hứng thú không nhàm chán.
* Kết quả: Cứ đến các thời điểm cô tổ chức chơi các trò chơi dân gian, thì
100% trẻ trong lớp hào hứng tham gia chơi.
4. Phối- kết hợp thường xuyên với phụ huynh để cùng thống nhất nội
dung, hình thức tổ chức trò chơi dân gian cho trẻ.
Ngay từ đầu năm học tôi tham mưu với BGH nhà trường thành lập Ban
chấp hành phụ huynh của lớp và xây dựng kế hoạch hoạt động. Tôi sưu tầm và
thống kê các loại trò chơi dân gian, thông qua Ban chấp hành đề thống nhất, qua
đó Ban chấp hành tổ chức cuộc họp phụ huynh và triển khai tới tất cả các bậc
phụ huynh trong lớp theo ba kỳ (Đầu năm, giữa năm, cuối năm ).
Tuyên truyền và vận động phụ huynh cùng tham gia sưu tầm các trò chơi
dân gian có nội dung phù hợp với trẻ, sưu tầm, thu gom các nguyên-vật liệu sẵn
có của địa phương, nguyên vật liệu phế thải đề làm đồ dùng, đồ chơi sáng tạo
cho trẻ và giành nhiều thời gian quan tâm, chăm sóc, gần gũi cùng chơi các trò

chơi dân gian với trẻ.
Cô giáo thường xuyên gặp gỡ, trao đổi với phụ huynh về tình hình sức
khoẻ, cũng như kết quả học tập, vui chơi của trẻ. Thông qua đó để giáo viên và
phụ huynh nắm bắt cụ thể và điều chỉnh kế hoạch tổ chức các hoạt động cho trẻ.
* Kết quả: 100% phụ huynh cung tham gia và sưu tầm được 17 trò chơi
dân gian.
IV. KIỂM NGHIỆM:
Qua việc áp dụng một số kinh nghiệm của bản thân vào việc tổ chức cho
trẻ trong lớp làm quen với các trò chơi dân gian, vào tháng 5 cuối năm học tôi đã
khảo sát chất lượng trẻ thu được nhiều kết quả tốt và được BGH nhà trường
đánh giá cao về chất lượng toàn diện trên trẻ của lớp tôi.

* Kết quả ban đầu:
Tổng số
cháu
trong
lớp: 31
cháu

Cháu
hiểu nội
dung và
nói được
tên trò

Cháu có
kỹ năng
chơi

Biết phối

Biểu
hợp với hiện khả
bạn
năng tự
trong khi lực, sáng
chơi
tạo trong

Thực
hiện
đúng
quy tắc,
luật của

Cháu thể
Cháu
hiện
hứng
được
thú, tích
hành
cực tham
động của
gia trò

19


chơi
Số cháu

đạt
Tỷ lệ
Số cháu
chưa đạt
Tỷ lệ

khi chơi

từng trò
chơi.

vai chơi

chơi

10

8

7

7

8

9

15

32


26

23

23

26

29

48

21

23

24

24

23

22

16

68

74


77

77

74

71

52

* Kết quả sau khi thực nghiệm cho thấy:
Tổng số
cháu
trong
lớp: 31
cháu
Số cháu
đạt
Tỷ lệ
Số cháu
chưa đạt
Tỷ lệ

Cháu có
kỹ năng
chơi

Biết phối
hợp với

bạn
trong khi
chơi

Biểu
hiện khả
năng tự
lực, sáng
tạo trong
khi chơi

Thực
hiện
đúng
quy tắc,
luật của
từng trò
chơi.

Cháu thể
hiện
được
hành
động của
vai chơi

Cháu
hứng
thú, tích
cực tham

gia trò
chơi

30

28

27

27

29

28

31

97

90

87

87

94

90

100


1

3

4

4

2

3

0

3

10

13

13

6

10

0

Cháu

hiểu nội
dung và
nói được
tên trò
chơi

- 100% trẻ rất hứng thú và yêu thích các trò chơi dân gian.
- 100% trẻ được mở rộng kiến thức và có thêm rất nhiều hiểu biết về các
trò chơi dân gian, các phong tục truyền thống của dân tộc.
- Trẻ đã biết tự tổ chức chơi các trò chơi dân gian với các bạn trong lớp.
- Qua việc thường xuyên được tham gia vào các trò chơi dân gian, nhận
thức và thể lực của các trẻ trong lớp tôi được nâng cao rõ rệt. Trẻ nhanh nhẹn,
năng động, tự tin và hồn nhiên trong giao tiếp với mọi người.
- Trò chơi dân gian còn giúp các trẻ trong lớp tôi thêm gắn bó với nhau,
nâng cao tinh thần đoàn kết và ý thức tập thể của trẻ.

C. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
Qua việc vận dụng, thực hành kinh nghiệm trên, tôi đã rút ra được kết luận
như sau:
20


- Trò chơi dân gian có tầm quan trọng rất lớn đối với sự phát triển của trẻ
nhỏ. Trò chơi dân gian vừa giúp trẻ thỏa mãn nhu cầu vui chơi, vừa góp phần
nâng cao nhận thức, phát triển các giác quan, tăng cường thể lực cho trẻ, giúp trẻ
trở thành những người lao động tài giỏi trong tương lai.
- Những trẻ chơi một cách hăng hái, hoạt động nổi bật trong khi chơi
thường cũng chính là những đứa trẻ thông minh, tháo vát và biết tổ chức trong
cuộc sống.
- Cần phải tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi dân gian để phát triển ở trẻ tinh

thần tập thể, biết nhường nhịn bạn bè, biết giao lưu, chia sẻ kinh nghiệm của
mình với bạn khác.
- Khi tổ chức trò chơi dân gian cho trẻ giáo viên cần tìm hiểu kỹ cách chơi,
luật chơi và chuản bị đầy đủ các yếu tố cần thiết để tiến hành trò chơi.
- Những kinh nghiệm của tôi rất đơn giản, giáo viên có thể dễ dàng thực
hiện.
- Một số giáo viên và cả phụ huynh học sinh trong trường đã áp dụng kinh
nghiệm của tôi trong việc tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi dân gian và đạt được kết
quả tốt.
- Bằng việc tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi dân gian, tôi đã giúp trẻ được
thỏa mãn nhu cầu vui chơi, đồng thời bảo tồn được một di sản văn hóa tốt đẹp
của dân tộc, góp phần thực hiện tốt cuộc vận động “ Xây dựng trường học thân
thiện - Học sinh tích cực”.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG

Nga Sơn, ngày 5 tháng 4 năm 2015

ĐƠN VỊ

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết. Không sao chép của người khác.
Người viết sáng kiến

Mai Thị Chính

21




×