Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

SKKN mầm non: :“Một số giải pháp giúp trẻ 4 đến 5 tuổi làm quen với tác phẩm văn học, nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ” tại trường mầm non Ba Đình”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.25 MB, 20 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Đối với trẻ mầm non nói chung, trẻ được phát triển ngôn ngữ thông qua
nhiều các hoạt động. Nhưng hoạt động được xem là chủ đạo đó chính là hoạt
động cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học. Các tác phẩm văn học mầm non
đưa trẻ đến gần hơn với thế giới xung quanh, với cuộc sống con người xưa và
nay. Hoạt động văn học rèn luyện cho trẻ cách phát âm, phát triển từ, phát triển
câu tiếng việt, tạo cho trẻ những cảm xúc con con người, cho trẻ những nhận
thức về thế giới xung quanh…
Với trẻ 4 - 5 tuổi là lứa tuổi mà khả năng và nhận thức và ngôn ngữ của
trẻ có những bước tiến mới đáng kể. Trẻ 5 tuổi có khả năng tri giác âm thanh
nhanh nhạy và khả năng phát âm mềm dẻo tự nhiên. Trẻ ham tìm hiểu xã hội và
tự nhiên. Trẻ đã có khả năng chủ động giao tiếp ngôn ngữ với những người xung
quanh và hay đặt các câu hỏi như: Như thế nào? Làm bằng gì? Bao Giờ? Tại
sao?... Đặc biệt là trẻ biết lắng nghe câu trả lời của người lớn và bạn bè, thích
tham gia kể chuyện tập thể với bạn bè và cô. Trẻ có thể tự kể lại một sự việc
theo trình tự thời gian. Khả năng tiếp thu và sử dụng tiếng mẹ đẻ trong giao tiếp
hằng ngày của trẻ ngày càng tốt hơn. Do đó, ở lứa tuổi này, chúng ta cần cho trẻ
nghe nhiều loại từ, câu nói có nhiều sắc thái biểu cảm và ngũ điệu khác nhau
thông qua các trò chơi đóng vai, trò chơi dân gian, thơ, truyện. Đặt nhiều các
loại câu hỏi về thời gian, trạng thái, tính chất…Cho trẻ trả lời, giúp trẻ biết kể lại
truyện theo gợi ý hướng dẫn của cô là hoạt động cần thiết mà giáo viên mầm
non cần phải thực hiện có hiệu quả để mở rộng vốn từ cho trẻ cũng như góp phát
triển toàn diện cho trẻ.
Thông qua việc cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học giúp cho trẻ được
thỏa mãn nhu cầu được mở rộng từ mới, nhu cầu nói để phát triển câu của trẻ.
Có thể nói hoạt động cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học giữ vai trò
rất quan trọng đối với việc phát triển ngôn ngữ cũng như hình thành và phát
triển nhân cách cho trẻ lứa tuổi mầm non.
văn học không phải ngẫu nhiên đến với trẻ được, mà phải được hoạt động
có tổ chức của người lớn đặc biệt là cô giáo. Chính vì vai trò của hoạt động cho
trẻ làm quen với tác phẩm văn học, có ảnh hưởng lớn đến hoạt động giáo dục


trẻ mầm non phát triển toàn diện.
Với mục đích nhằm, phát triển ngôn ngữ cho trẻ, nâng cao chất lượng
giáo dục cho trẻ trong lớp; trong năn học 2014 - 2015, tôi chọn đề tài nghiên cứu
sáng kiến kinh nghiệm là:“Một số giải pháp giúp trẻ 4 - 5 tuổi làm quen với tác
phẩm văn học, nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ” tại trường mầm non Ba
Đình”

1


B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
Học thuyết về hệ thống tín hiệu đã khẳng định: Ngôn ngữ là hệ thống tín
hiệu thứ 2, là sự hoạt động đặc biệt của vỏ bán cầu đại não. Học thuyết này đảm
bảo cho phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ lựa chọn đúng các phương
pháp trong việc dạy nói cho trẻ, nhấn mạnh hiệu quả của những phương pháp
tích cực: Tích cực nhận thức và tích cực thực hành ngôn ngữ.
Theo Sách “Các hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ Mầm non” (Theo
chương trình giáo dục Mầm non mới), do nhà xuất bản giáo dục nắm 2012, của
đồng các tác giả Bùi Kim Tuyến, Nguyễn Thị cẩm Bích, Lưu Thị Lan, Vũ Thị
Hồng Tâm và Đặng Thu Quỳnh đã nêu phân tích tất rõ về vai trò đặc biệt quan
trọng của phát triển ngôn ngữ đối với sự phát triển của trẻ:
+ Ngôn ngữ là phương tiện hình thành và phát triển nhận thức của trẻ;
+ Ngôn ngữ là phương tiện đẻ phát triển tình cảm, đạo đức, thẩm mỹ;
+ Ngôn ngữ là công cụ để trẻ hòa nhập với cộng đồng.
Đồng thời các tác giả cũng nêu rất cụ thể các phương pháp, hình thức tổ
chức hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ trong các độ tuổi mầm non. Trong
đó, Hình thức tổ chức hoạt động cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học phù hợp
với mỗi độ tuổi, để phát triển ngôn ngữ cho trẻ được tác giả quan tâm đặc biệt;
Sách hiện nay đang là tài liệu chính thống làm cơ sở, phương tiện cho giáo viên

mầm non thực hiện nội dung phát triển ngôn ngữ cho trẻ.Từ vai trò của hoạt
động cho trẻ Làm quen với tác phẩm văn học với sự phát triển ngôn ngữ của
trẻ; đặc biệt là từ các câu chuyện mà cô kể cho trẻ nghe từ đó dạy trẻ kể lại
chuyên, vốn từ của trẻ sẽ được tăng lên.
Phát triển ngôn ngữ là một trong những mục tiêu quan trọng nhất của
chương trình giáo dục mần non hiện nay. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ được xem
là có vai trò tác động quyết định sự phát triển toàn diện cho trẻ.
Với đặc điểm về khả năng nhận thức và vốn từ của trẻ 4 - 5 tuổi. Độ tuổi
này, ngôn ngữ đối với trẻ không chỉ là phương tiện giao tiếp mà còn là đối tượng
nhận thức. Trẻ phát triển nhanh vốn từ và bắt đầu nói đúng cấu trúc ngữ pháp.
Vì vậy, cần tăng cường sử dụng các hoạt động phát triển ngôn ngữ nói dựa vào
các biểu tượng đã được tích lũy ở trẻ như hoạt động trò chuyện, đàm thoại, giao
nhiệm vụ, kể chuyên, học thuộc những bài thơ.
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ
1. Thực trạng chung
a, Điều kiện về cơ sở vật chất:
Trường mầm non Ba Đình là trường đã được công nhận chuẩn quốc gia.
Về cơ sở vật chất, trang thiết bị cơ bản đảm bảo cho các hoạt động chăm sóc
giáo dục trẻ. Môi trường giáo dục trong ngoài lớp của nhà trường nói chung
được quan tâm, đặc biệt là môi trường văn học và chữ viết.
2


Lớp học luôn nhận được sự quan tâm của nhà trường đầu tư cơ sở vật
chất như mua sắm tranh thơ, tranh chuyện, sách báo phục vụ cho môn học.
Những khó khăn về cơ sở vật chất, trang thiết bị như: Các trang thiết bị
dạy học hiện đại còn thiếu, chưa có như chưa máy tính nối mạng cho các nhóm
lớp để khai thác ứng dụng trong hoạt động giáo dục trẻ.
b, Điều kiện về phụ huynh:
Đại đa số phụ huynh nhận thức được tầm quan trọng của bậc học mầm

non, nên luôn quan tâm đến việc chăm sóc giáo dục trẻ. Đã quan tâm trong việc
phối hợp với nhà trường, với giáo viên để chăm sóc con em mình, luôn giúp đỡ
tạo điều kiện để hỗ trợ cô trò học tập.
Những khó khăn đó là: Phụ huynh ở lớp phần lớn là làm nông thôn nên ít có
thời gian và điều kiện quan tâm đến con em mình thường xuyên để kịp thời phối
hợp với giáo viên củng cố kiến thức kỹ năng về các môn học điều chỉnh những
lệch lạc của trẻ.
Một số phụ huynh chưa nhận thức hết được yêu cầu và tầm quan trọng của
phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Khó khăn lớn nhất về điều kiện phụ huynh đó là: Đại đa số phụ huynh còn
nói tiếng địa phương nhiều, có tới 40 - 45% còn nói ngọng về âm Tr - ch, s-x, l n, dấu hỏi với dấu ngã... Đây là những khó khăn trong phát triển ngôn ngữ chuẩn
cho trẻ.
c, Thực trạng đối với giáo viên:
Đội ngũ giáo viên nhà trường có tinnh thần trách nhiệm cao trong thực hiệ
nhiệm vụ chăm sóc giáo dục trẻ, chịu khó học hỏi để nắm vững kiến thức kỹ
năng chăm sóc giáo dục trẻ đạt hiêu quả. Tuy vậy, bên cạnh đó vẫn còn có 1 số
nhỏ giáo viên cao tuổi, tiếp cận với yêu cầu giáo dục đổi mới còn chậm, vì vậy
cũng có nhữg ảnh hưởg nhất định đến chất lượng giáo dục chung của nhà
trường.
d, Thực trạng về trẻ:
Đại đa số các cháu trong trường ngoan ngoãn, mạnh dạn, hồn nhiên, đạt yêu
cầu cơ bản về phát triển toàn diện cũng như trẻ đã có vốn từ cơ bản theo yêu cầu
độ tuổi. Bên cạnh những ưu điể thì cũg còn những hạn chế nhất định: như ngôn
ngữ diễn đạt mạch lạc của trẻ còn nhiều hạn chế, trẻ thường bớt âm khi nói, trẻ

3


nói và phát âm do ảnh hưởng ngôn ngữ không chuẩn của người lớn xung quanh
(nói tiếng địa phương).

2. Thực trạng nhóm lớp
Bản thân tôi là giáo viên luôn có ý thức, trách nhiệm cao trong hoạt động
chăm sóc giáo dục trẻ; Có trình độ trên chuẩn và năng lực sư phạm khá.
Lớp tôi phụ trách có tổng số học sinh 28 cháu, trong đó có 13 cháu nam
và 15 cháu nữ. phần đông các cháu ngoan, hồn nhiên. Lớp được nhà trường
quan tâm đầu tư mua sắm tương đối đầy đủ về đồ dùng dạy học, đồ dùng đồ
chơi cho trẻ.
Về hạn chế: Có một số trẻ chưa đi học qua nhà trẻ, vì vậy mà vốn từ của
trẻ chưa có, trẻ nói trống không, chưa thể hiện được nhu cầu về nghe nói của
mình. Nhìn chung các cháu chưa có kiến thức kỹ năng về ngôn ngữ theo yêu cầu
độ tuổi, vì trẻ mới đầu năm.
Từ điều kiện thưc trạng chung đã nêu, cùng với mục tiêu đề tài đặt ra là
nhằm đến phát triển ngô ngữ cho trẻ. Vì vậy, để có cơ sở lựa chọn và tiến hành
các giải pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ phù hợp, tôi đã căn cứ vào kết quả
mong đợi các yêu cầu về kiến thức kỹ năng phát triển ngôn ngữ cho trẻ 4 – 5
tuổi, trong chương trình giáo dục mầm non. Tôi tiến hành khảo sát cho kết quả
ban đầu như sau:

STT

1

Tiêu chí đánh giá

Nghe

- Hiểu các từ chỉ đặc điểm,
tính chất, công dụng và các
từ biểu cảm.
- Hiểu và làm theo được 2

-3 yêu cầu.
- Nghe hiểu các câu đơn,
câu mở rộng, câu phức.
- Nghe hiểu nội dung
chuyện kể, chuyện đọc, bài
thơ, câu đố phù hợp với độ
tuổi.

Số
lượng
Khảo
sát

Kết quả
Số trẻ
đạt
%
yêu
cầu

28

19

67,8

28

17


60,7

28

16

57,1

28

16

57,1

4


Nói

2

Làm quen
với đọc viết

3

- Phát âm các tiếng có chứa
các âm khó.
- Bày tỏ tình cảm, nhu cầu
và hiểu biết của bản thân

bằng câu đơn, câu ghép.
- Trả lời và đặt câu hỏi:
“ai?”; “ Cái gì?”; “ Ở
đâu?”; “ Khi nào?”; Để
làm gì?”...
- Sử dụng các từ biểu thị sự
lễ phép.
- Kể lại chuyện đã được
nghe.
- Kể lại sự việc có nhiều
tình tiết.
- Đóng kịch.
- Tiếp xúc với chữ, với
sách chuyện.
- Xem và nghe đọc các loại
sách khác nhau.
Làm quen với cách đọc và
viết tiếng việt ( Hướng đọc
viết).
Phâ biệt phần mở đầu, kết
thúc của sách, đọc truyện
qua tranh vẽ.

28

19

67,8

28


14

50

28

13

46,4

28

12

42,8

28

13

46,4

28

12

42,8

28


10

35,7

28

15

53,5

28

13

46,4

28

14

50

28

12

42,8

III. CÁC GIẢI PHÁP VÀ TỔ CHÚC THỰC HIỆN

1. Tạo môi trường hoạt động cho trẻ làm quen tác phẩm văn học
Để giúp trẻ nâng cao khả năng cảm thụ văn học thì việc tạo cơ hội cho trẻ
làm quen với các tác phẩm văn học phải thường xuyên.
Ngay từ đầu năm học tôi đã chú ý xây dựng môi trường giáo dục trong
lớp, đặc biệt là “Góc văn học”. Ở đây trẻ được xem tranh truyện, tạp chí, họa
5


báo, các hình ảnh của các nhân vật trong truyện mà trẻ yêu thích. Khi xây dựng
“ Góc văn học “ thì mục đích chính của tôi là từ “ Góc văn học” tôi muốn giới
thiệu thêm thật nhiều các tác phẩm văn học trong chương trình và và ngoài
chương trình giáo dục để giới thiệu đến trẻ, bởi trong tiết học thì việc cho trẻ
được tiếp xúc với các tác phẩm văn học cũng có nhưng chưa đáp ứng đủ nhu cầu
ham học hỏi của trẻ ở lứa tuổi này.
Qua “ Góc văn học” tôi tổ chức các hoạt động đọc thơ, kể chuyện, cho trẻ
tập đóng kịch để trẻ được nói những ngôn ngữ của các nhân vật trong truyện để
từ đó trẻ làm giàu vốn từ của bản thân. Để gây được sự hứng thú của trẻ khi
tham gia vào các hoạt động đó thì việc tạo không gian mang đậm tính văn học
là rất cần thiết. Ngay từ đầu năm học tôi đã vận động phụ huynh đóng góp tranh
thơ, truyện tranh ngoài chương trình để kể cho trẻ nghe vào các hoạt động chiều
và cho trẻ chơi trong các giờ hoạt động góc.
Để thu hút trẻ tham gia vào các hoạt động kể chuyện và tập đóng kịch ngay
từ đầu năm học tôi dùng 1 mảng tường để trang trí thành 1 sân khấu mi ni chỉ
với 1 mảnh vải làm khung sân khấu đằng sau là 1 bảng nhám dính để tôi có thể
dễ dàng trang trí khung cảnh sao cho phù hợp với từng cảnh trong truyện.

Hình ảnh 1: Hình ảnh xây dựng góc văn học
Để là phong phú môi trường văn học và tạo được hứng thú cho trẻ tham
gia vào hoạt động, bản thân tôi luôn tìm tòi cách làm đồ dùng đồ chơi sáng tạo
từ các nguyên liệu tái sử dụng. Tôi có thể làm ra những bộ con giống, con rối để

tạo các nhân vật trong chuyện phục vụ cho hoạt động tổ chức cho trẻ làm quen
với văn học. Tôi đã làm ra những nhân vật giống, rối ngộ nghĩnh trog các tác
phẩ văn học từ việc sưu tầm các nguyên liệu bỏ đi như: vỏ chai, lõi cuộn chỉ, các
mảnh vải vụn… Ngoài ra còn làm đồ dùng đồ chơi từ các nguyên vật liệu sẵn có
6


để phục vụ cho hoạt động học của trẻ nói chung và hoạt động với văn học nói
riêng.

Hình ảnh 2: Hình ảnh Đồ chơi tự làm
* Kết quả: Qua việc tạo môi trường cho trẻ làm quen với văn học, đã làm môi
trường hoạt động giao dục chung của lớp phong phú đa dạng. Trong đó góc văn
học được xây dưng với nhiều đồ dùng đồ chơi thu hút sự chú ý cho trẻ như:
Những tập rối tay các nhân vật của những câu chuyện trong chương trình, đồ
dùg đồ chơi tự làm ngộ ngĩnh…Từ môi trường được quan tâm xây dựg phong
phú, các đồ dùng đồ chơit đa dạng đã thu hút trẻ hào hứng tham gia các hoạt
động đọc thơ, kể chuyện và từ đó ngôn ngữ của trẻ được phát triển một cách tự
nhiên, mang lại hiệu quả phát triển ngôn gữ cho trẻ cao nhất.
2. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua việc cho trẻ kể lại chuyện và tập
đóng kịch
Dạy trẻ kể lại truyện là một nội dung của chương trình làm quen văn học ở
trường mầm non. Đây là hoạt động cơ bản giúp trẻ rèn luyện, thực hành, trải
nghiệm nghệ thuật, là hoạt động có ý nghĩa tác động mạnh mẽ đến việc phát
triển từ mới, mở rộng câu và là quen với những câu ghép, câu phức. Cũng từ đó
góp phần tích cực vào phát triển ngôn ngữ, phát triển nhân cách trẻ.
Để giúp trẻ hứng thú kể chyện và nhớ nội dung truyện một cách tốt nhất,
ngoài việc đọc kể cho trẻ nghe, sử dụng các hình thức kể kết hợp các mô hình,
rối tay… tôi còn ứng dụng thêm công nghệ thông tin vào trong giảng dạy để
giúp trẻ hứng thú kể chuyên.

Mục đích khi sử dụng công nghệ thông tin vào trong giảng dạy là để trẻ
được trực tiếp xem các hành động, cử chỉ của các nhân vật và qua đấy trẻ được
7


tiếp xúc với giọng kể hay với ngôn từ phong phú và đúng với tính cách nhân
vật. Qua cách làm quen như vậy, trẻ biết nhận xét, đánh giá về đặc điểm tính
cách của các nhân vật thông qua ngôn ngữ nói của mình. Bên cạnh việc kể
chuyện cho trẻ nghe và cho trẻ xem băng truyện, tôi còn chú ý đến việc giúp trẻ
ghi nhớ cốt truyện với nội dung và các tình tiết chính, các nhân vật chính của
câu chuyện thông qua hệ thống câu hỏi, nhắc trẻ logic của câu chuyện, mối quan
hệ và tác động của các nhân vật.
VD: Câu chuyện “Cáo, Thỏ và Gà trống” tôi đã xây dựng đoạn phim hoạt
hình về nội dung câu chuyện ngoài ra tôi còn làm đoạn phim về các con vật kết
hợp với nhạc đệm rất hứng thú làm cho trẻ nhớ lời thoại của các nhân vật trong
truyện.
Ngoài việc sử dụng các hình ảnh sống động trên máy vi tính tôi còn tận
dụng chức năng ghi âm của chiếc máy điện thoại để ghi lại giọng kể của trẻ khi
trẻ kể chuyện. Sau đó tôi dùng dây kết nối giữa điện thoại với loa thùng để bật
lại cho trẻ nghe. Ngoài việc ghi âm giọng kể của trẻ bằng điện thoại tôi còn tận
dụng chức năng quay phhim để quay lại những vở kịch mà các cháu đã đóng.
Qua việc sử dụng chiếc điện thoại để quay phim và ghi âm giọng kể của trẻ tôi
thấy được hiệu quả rõ ràng trẻ hào hứng tham gia được tập kể chuyện và đóng
kịch hơn, trẻ biết chau chuốt lời nói của nhân vật và nhập vai tốt hơn. Sau khi
trẻ xem các vở kịch mà trẻ đóng tôi cho trẻ nhận xét đánh giá giọng kể của các
bạn trong lớp
Có rất nhiều hình thức dạy trẻ kể lại chuyện. VD: kể lại chuyện theo
tranh, kể lại chuyện bằng rối tay ...
* Hình thức kể lại chuyện theo tranh
Trước khi cho trẻ kể lại chuyện theo tranh tôi cho trẻ làm quen với câu

chuyện qua các hoạt động góc, hoạt động chiều. tôi kể cho trẻ nghe chuyện bằng
những quyển truyện tranh to với những hình ảnh của các nhân vật rõ ràng, sống
động, đẹp mắt, nội dung câu chuyện rõ ràng, ngắn gọn. Ngoài ra, tôi còn cho trẻ
xem băng truyện trước giờ trả trẻ với mục đích giúp trẻ ghi nhớ nội dung truyện,
nhớ nhân vật truyện và lời thoại của các nhân vật trong truyện.
VD: Câu chuyện “Chuyện chú dê đen”
- Hình thức tổ chức hoạt động góc
- Chuẩn bị: Bàn nhỏ, truyện tranh to
- Tiến hành: Tôi cho trẻ ngồi ở góc văn học, trước khi tổ chức cho trẻ kể
lại câu chuyện, tôi kể cho trẻ nghe và cho trẻ xem băng truyện ở hoạt động chiều
trước khi trả trẻ. Mục đích để trẻ nhớ nội dung và các nhân vật trong truyện.
trước khi tiến hành cho trẻ kể lại truyện, tôi đàm thoại với trẻ về các nhân vật và
tính cách của các nhân vật trong truyện. VD: + Câu chuyện kể về điều gì?
+ Chú dê trắng gặp con gì? Chú sói đã và làm gì với dê trắng?
+ Khi gặp dê đen sói đã làm gì? Dê đen đã có thái độ như thế nào với chó
sói?
+ Các con thích nhân vật nào, vì sao?

8


Sau khi đàm thoại xong, trẻ đã nhớ lại nội dung truyện, tôi tổ chức cho
trẻ lên kể lại theo các hình ảnh có trong truyện tranh, dạy trẻ khi kể đến nhân vật
nào thì dùng que chỉ vào từng hình ảnh trong truyện sao cho phù hợp với nội
dung truyện. Khi trẻ kể xong truyện, tôi cho các bạn trong nhóm nhận xét bạn
kể. Kể truyện theo tranh tổ chức ở hoạt động góc thì trẻ được thay nhau kể, trẻ
được thoải mái thể hiện giọng kể của mình, sử dụng ngôn ngữ sáng tạo trong khi
kể không bị gò bó như ở trong tiết học. Qua hoạt động ở góc văn học, trẻ được
đàm thoại, tranh luận trực tiếp với nhau để từ đó ngôn ngữ của trẻ được sử dụng
linh hoạt hơn trong cuộc sống.


Hình ảnh 3: Trẻ kể chuyện theo tranh
* Hình thức kể lại truyện theo rối tay
Việc sử dụng rối trong tiết học gây được sự chú ý, tò mò của trẻ, tạo điều
kiện cho trẻ tiếp cận với nghệ thuật múa rối. Ngoài ra, việc sử dụng rối tay khi
cho trẻ kể lại truyện không chỉ phát triển ngôn ngữ cho trẻ qua việc kể chuyện
mà còn giúp trẻ biết thể hiện các cử chỉ, điệu bộ trong giao tiếp để tăng tính linh
hoạt, sáng tạo, hiệu quả trong giao tiếp.
VD: Với câu chuyện “Cáo, Thỏ và Gà trống”, tôi sử dụng mô hình sân
khấu là một khu rừng, có hoa, cỏ, cây....nhân vật trong truyện được cách điệu
đầu các nhân vật được tạo ra từ các quả bóng nhỏ được trang trí vải, có đặc điểm
của từng nhân vật, thân được may từ vải đẹp mắt và ngộ nghĩnh. Khi dạy trẻ kể
chuyện bằng rối, trước tiên tôi cũng cung cấp nội dung câu chuyện cho trẻ nghe
vào hoạt động chiều, hoạt động góc. Bên cạnh việc cung cấp nội dung truyện
cho trẻ, tôi còn hướng dẫn trẻ cách sử dung rối tay, tôi dạy trẻ dùng cánh tay
9


lồng vào con rối, điều khiển con rối bằng 3 ngón tay (ngón cái, ngón trỏ, ngón
giữa) sao cho những cử chỉ phù hợp với lời thoại trong truyện.
Thời gian đầu khi mới làm quen với rối tay, trẻ rất lóng ngóng, khó thực
hiện được các động tác theo ý muốn. Để khắc phục được điều này, tôi đã làm
thật nhiều những con rối tay đặt ở góc văn học, sắp xếp sao cho trẻ thấy dễ dàng.
Khi hoạt động ở góc văn học, trẻ thoải mái sử dụng rối tay. Ban đầu, trẻ sử dụng
rối tay theo ý thích của mình, có khi là dùng rối tay để nói chuyện với bạn, từ đó
việc sử dụng rối tay với trẻ trở nên dễ dàng hơn, dần dần, tôi yêu cầu trẻ sử dụng
rối tay vào từng câu chuyện.
Nhờ việc sử dụng rối tay trong tiết học mà số trẻ có khả năng cảm thụ văn
học đạt cao, đa số trẻ nhớ nội dung truyện, lời thoại của các nhân vật và qua đó,
trẻ biết dùng ngôn ngữ của mình để nhận xét đánh giá tính cách của nhân vật

trong truyện như: Ai là người xấu, ai là người tốt.
* Trò chơi đóng kịch
Là hoạt động giúp trẻ phát triển trí nhớ và giáo dục trẻ tinh thần tập thể.
Qua hoạt động đóng kịch, trẻ truyền đạt lại nội dung câu chuyện làm sống động
lại tâm trạng, hành động, ngôn ngữ hội thoại của các nhân vật trong truyện, đồng
thời thể hiện tình cảm và đánh giá các nhân vật trong truyện. Khi đóng kịch, trẻ
dễ dàng nắm được nội dung, ý nghĩa tác phẩm, nắm được tính liên tục của câu
chuyện, điều này góp phần đẩy mạnh phát triển tư duy, cảm thụ các tác phẩm
văn học một cách sâu sắc ở trẻ. Để đạt được điều đó thì trước khi cho trẻ đóng
kịch, tôi cho trẻ ôn luyện lại nội dung câu chuyện, đàm thoại về các nhân vật
trong truyện để từ đó trẻ biết thể hiện những sắc thái khác nhau về ngữ điệu, tính
cách, tâm trạng của các nhân vật trong truyện. Muốn trẻ nhớ được ngôn ngữ, lời
thoại của các nhân vật trong truyện để đóng kịch thì trước hết cho trẻ nhớ lời
thoại của nhân vật sau đó cho trẻ đóng vai theo tổ hoặc nhóm.
VD: trong truyện “Chú dê đen”, tôi cho tổ 1 làm dê trắng, tổ 2 làm dê den,
tổ 3 làm chó sói để trẻ tự thể hiện hành động điệu bộ của nhân vật cho quen,
thành thạo. Sau đó cho trẻ nhắc lại lời thoại của các nhân vật trong truyện mà
trẻ sẽ đóng. Nhiệm vụ của cô giáo lúc này là người dẫn chuyện và trẻ diễn theo
nội dung câu tuyện. Khi diễn xong tôi cho trẻ tự nhận xét vai chơi của mình, từ
đó trẻ xác định được thái độ của nhân vật trong truyện là yêu hay ghét.
Trò chơi đóng kịch thực sự giúp trẻ cảm nhận tác phẩm văn học và phát
triển ngôn ngữ một cách sâu sắc. Để đạt được điều đó thì việc trang trí sân khấu
và hóa trang cho trẻ rất quan trọng.
Với câu truyện “Nhổ củ cải” tôi làm sân khấu có màn che, rồi trang trí cảnh phù
hợp. Bên cạnh việc làm mô hình sân khấu thì việc hóa trang cho trẻ đóng kịch
cũng rất cần thiết với nhân vật trong câu truyện, tôi cho trẻ quấn khăn mặc quần
áo...Việc hóa trang và bố trí sân khấu phù hợp , trang phục đẹp sẽ giúp trẻ tự tin
nhập vai tạo cho trẻ hứng thú với từng vai diễn.
Việc xác định giọng nói của các nhân vật trong truyện có vai trò quan
trọng trong việc dạy trẻ tập đóng kịch, trẻ xác định được giọng của nhân vật thì

trẻ sẽ nhập được vào vai chơi một cách tốt nhất.
10


VD : Trong truyện “ Nhổ củ cải”
+ Tôi hỏi trẻ giọng của bà, ông khi gọi cháu gái?( ồm ồm)
+ Giọng của cháu như thế nào?(thanh cao ) sau khi nhận cần thêm người
giúp đỡ thì giọng của cô bé như thế nào?( nhanh và gấp rút )
+ Giọng bà, con mèo, chó, chuột như thế nào? ( theo đặc điểm của các
con vật)
Tôi cho trẻ đọc lời thoại trích dẫn của các nhân vật trong truyện

Hình ảnh 4: trẻ đóng kịch “ Nhổ củ cải”
Thông qua việc tổ chức cho trẻ tập đóng kịch tôi thấy khả năng thể hiện ngôn
ngữ của trẻ trong giao tiếp tiến bộ rất nhiều trẻ tự nhiên, thoải mái hơn trong
giao tiếp bởi trong quá trình trẻ đóng kịch trẻ được trực tiếp giao lưu , đối thoại
trực tiếp với bạn diễn từ đó ngôn ngữ của trẻ phát triển một cách linh hoạt và
khéo léo.
Kết quả: Qua việc cho trẻ kể lại chyện đã tạo cho trẻ được trải nghiệm về ngôn
ngữ. Qua nhiều lần kể chuyện vốn từ của trẻ được tăng lên. Trẻ đã nghe và hiểu
các từ có sắc thái biểu cảm thông qua hoạt động đối thại lời nói trong kể chuyện
của trẻ. Trẻ nói được các từ ghép, thực hiện được 2 – 3 yêu cầu của cô thông qua
các câu hỏi đàm thoại, các gợi mở khi trẻ kể chuyện – đáp ứng yêu cầu về phát
triển ngôn ngữ cho trẻ trong độ tuổi.
3. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua các bài đồng dao, ca dao, vè
Đồng dao, ca dao như một bức tranh với nhiều màu sắc thể hiện sự phong
phú, đa dạng của cuộc sống, từ đời sống sinh hoạt vật chất và tinh thần, tình cảm
của con người, nó có giá trị về mặt nhận thức, tình cảm, ảnh hưởng rất lớn đến
việc hình thành, phát triển nhân cách trẻ. Đông thời đồng giao ca giao đến với
trẻ sẽ có tác đông mạnh mẽ đến phát triển ngôn gnữ cho trẻ.


11


Các bài đồng dao có 2, 3, 4, 6 chữ... có vần, với lối ngắt nhịp 1-1 , 2-2,...
thường có lối kết cấu vòng tròn, trùng điệp. Ngôn ngữ trong đồng dao, ca dao là
ngôn ngữ hát, kể, giàu tính nhạc, giàu hình ảnh, có sức tạo hình. Nó rất phù hợp
với tâm lý của trẻ, thỏa mãn sự nhu cầu thích phát âm của trẻ. Trẻ được đọc
đồng giao ca giao là hình thức rèn cho trẻ phát âm, tích lũy vốn từ, hiểu nghĩa
từ, nắm ngữ pháp, lối nói trôi trảy, uyển chuyển.
Để phát huy tính tích cực của ngôn ngữ qua các bài đồng dao, ca dao đối
với sự phát triển ngôn ngữ của trẻ thì việc tổ chức các hoạt động cho trẻ đọc
thuộc đồng dao, ca dao là rất quan trọng. Hiện nay, hoạt động dạy trẻ đọc đồng
dao, ca dao chưa có ở các hoạt động chung, chính vì vậy mà tôi lồng ghép hoạt
động đọc đồng dao, ca dao cho trẻ vào các hoạt động chơi trò chơi dân gian
được tổ chức ở hoạt động ngoài trời, hoạt động đón và trả trẻ, hoạt động sau khi
ngủ dậy. Bên cạnh việc dạy trẻ đọc thuộc những bài đồng dao, ca dao thì tôi
luôn tìm tòi những bài đồng dao, ca dao có nội dung của các chủ điểm mà trẻ
đang học.
VD: Chủ điểm gia đình : dạy trẻ đọc bài ca dao:
“ Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”
VD: Chủ điểm Thế giới động vật dạy trẻ đọc bài đồng dao “con vỏi con voi”.
VD: Chủ điểm thế giới thực vật: Dạy trẻ đọc bài “ lúa ngô là cô đậu nành”
Qua đó tôi thấy được hiệu quả rõ ràng, trẻ hào hứng tham gia trò chơi đọc
đồng dao, ca dao và nhớ bài lâu hơn.
* Tổ chức đọc đồng dao, ca dao, vè cho trẻ ở hoạt động ngoài trời
Sau mỗi giờ học ở trong trường mầm non là hoạt động ngọài trời. Hoạt

động ngoài trời thường kéo dài từ 20- 25 phút chính vì vậy tôi đã tận dụng hoạt
động ngoài trời để phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua việc cho trẻ đọc đồng
dao, ca dao. Bên cạnh việc dạy trẻ đọc đồng dao ca dao tôi lồng ghép các bài
đồng dao vào các trò chơi dân gian để tạo hứng thú cho trẻ khi đọc nhằm phát
triển ngôn ngữ cho trẻ một cách tốt nhất.
VD: Bài “Lộn cầu vồng”: Lộn cầu vồng, nước trong nước chảy, có cô mười bảy,
có chị mười hai, hai chị em ta, cùng lộn cầu vồng.
- Tôi dạy trẻ đọc theo nhịp. Cách chơi: Trẻ nắm tay nhau, đứng đọc và tay
vung theo nhịp của của bài hát. Đến câu “Cùng lộn cầu vồng” trẻ nắm tay nhau
quay người úp lưng vào nhau rồi chơi tiếp.

12


Hình ảnh 5:Trẻ đang chơi trò chơi dân giann, kết hợp đọc ca dao đồng dao
*Tổ chức đọc đồng dao, ca dao, vè cho trẻ trong giờ đón, trả trẻ
Khi dạy trẻ đọc thuộc đồng dao, ca dao tôi thường đọc đi đọc lại nhiều lần
để trẻ ghi nhớ, học thuộc sau đó tôi yêu cầu trẻ đọc nhanh dần lên, tổ chức thi
đua đọc nhanh giữa các tổ với nhau. Đó là cách làm cho trẻ rèn luyện bộ máy
phát âm, trau dồi ngôn ngữ, sự nhạy bén, linh hoạt của tư duy. VD: bài “Lúa ngô
là cô đậu nành”, “Chim ri là dì sáo sậu”, “Con kiến mà leo cành đa” là những
câu hát đồng dao mà trẻ rất thích đọc vì nó đem lại tiếng cười vui vẻ, tạo không
khí thi đua tự nhiên, cởi mở.
Ngoài những bài lựa chọn để giúp trẻ học đọc theo chủ đề, chủ điểm, tôi
còn khích lệ trẻ thi đua đọc ra những câu đồng dao, ca dao trẻ đã thuộc từ cha
mẹ, anh chị, bạn bè trong xóm. Hình thức thi đua là động lực lôi cuốn, thúc đẩy
trẻ cố gắng nỗ lực, tích cực học tập. việc thi đua có thể kéo dài 1 tuần, sau 1 tuần
tôi kiểm tra số lượng bài trẻ thuộc, có tuyên dương, khen thưởng để khuyến
khích trẻ trong học tập.
Tôi còn sáng tác thêm những bài đồng dao, hay vè để lồng ghép các

chuyên đề đến trẻ một cách sinh động, trẻ cũng hứng thú và phát triển thêm vốn
từ cho mình.
Ví dụ giáo dục trẻ bảo vệ môi trường, tôi viết bài vè có nội dung về môi trường:
Nge vẻ, nghe vè
Tiết kiệm điện năng
Nghe vè tới lớp
Yêu trường mến bạn
Bé ơi học tốt
Thân thiện – sạch xanh
Sẽ là trò ngoan
Môi trường trong lành
Nhớ lời cô dạy
Học hành tiến tới.
Bảo vệ môi trường
13


*Tổ chức cho trẻ đọc đồng dao, ca dao, vè sau khi trẻ ngủ dậy
Sau khi ngủ dậy, trẻ thường rất mệt mỏi, uể oải vì còn ngái ngủ nên tôi
thường cho trẻ đọc các bài đồng dao, ca dao quen thuộc để trẻ lấy lại tinh thần
sảng khoái, đầu óc thỏai mái để bước vào giờ học buổi chiều đồng thời, giúp trẻ
phát triển thêm khả năng ngôn ngữ.
VD: bài “Nu na nu nống”. Cách chơi: Trẻ ngồi bệt, cùng chiều với nhau,
sát cạnh nhau, 2 chân duỗi thẳng , vừa đọc bài đồng dao , vừa lấy tay đập vào
từng cẳng chân, mỗi từ trong bài đồng dao được đập nhẹ vào một chân theo thứ
tự từ đầu đến cuối rồi lại ngược lại cho đến chữ “ rút” chân ai gặp từ “ rút” thì co
chân lại cứ như thế cho đến khi các chân co lại hết thì chơi lại từ đầu.
* Kết quả: Sau khi tổ chức thực hiện giải pháp, trẻ được đọc nhiều các bài ca
giao đồng giao kết hợp với các hoạt động vui chơi học tập. Qua đó trẻ phát âm
lưu loát, sử dụng được nhiều từ ghép, từ khó; trẻ mạnh gian tự tin và tích cực

hơn trong các hoạt động vui chơi học tập.
4. Phát triển ngôn ngữ thông qua việc dạy trẻ đọc thơ diễn cảm
Nhiệm vụ phát triển ngôn ngữ là một nhiệm vụ có tầm quan trọng hàng đầu
ở các lứa tuổi, nó đặc biệt quan trọng trong quá trình tổ chức hoạt động dạy trẻ
đọc thơ diễn cảm cho trẻ em ở lứa tuổi mầm non. Đó là một trong những
phương pháp rèn luyện phát triển ngôn ngữ nói cho trẻ. Khi đọc thuộc lòng thơ
trẻ sẽ làm cho ngôn ngữ của mình thêm sinh động, uyển chuyển, biểu cảm giúp
trẻ thể hiện tình cảm, suy nghĩ của tác giả. Nhận thấy rõ được tầm quan trọng
của việc phát triển ngôn ngữ thông qua việc dạy trẻ đọc thơ diễn cảm tôi luôn
tìm tòi những phương pháp biện pháp tốt nhất để trẻ phát âm và diễn đạt được
mạch lạc.
Với lứa tuổi này tôi chọn các bài thơ có sắc thái khác nhau: êm dịu, nhẹ
nhàng, vui vẻ hóm hỉnh...nhằm giúp trẻ cảm nhận cái hay, cái đẹp trong ngôn
ngữ tiếng việt và trong cuộc sống, giúp trẻ phát triển đời sống tình cảm.
Để trẻ cảm thụ tốt ngôn ngữ của câu thơ, điều quan trọng nhất là phải đọc
diễn cảm, thể hiện nhịp điệu, âm điệu và sắc thái của bài thơ. Tôi tập đọc diễn
cảm và thuộc bài thơ trước khi đọc cho trẻ nghe
Để trẻ cảm thụ tốt bài thơ, nên trò chuyện với trẻ về nội dung bài thơ, giải
thích nghĩa của môt số từ, ý của các câu thơ, vẻ đẹp của các câu thơ mô tả, kết
hợp với tranh minh họa hoặc làm các động tác minh họa. Tôi đọc cho trẻ nghe
nhiều lần, đọc thơ theo cá nhân, theo nhóm, luyện tập cách đọc diễn cảm.
Để thu hút trẻ đọc thơ hơn thì việc chuẩn bị đồ dùng trực quuan trong dạy
học để gây hứng thú cho trẻ cũng rất quan trọng, trong quá trình dạy trẻ đọc thơ
diễn cảm tôi sử dụng các bức tranh thơ, sa bàn, con rối, vật thật.
Để thu hút lôi cuốn trẻ vào giờ học tôi lựa chọn các hình thức tổ chức phù
hợp, hấp dẫn như qua tổ chức hội thi “ Bé yêu thơ”, câu đố, tham quan và đặc
biệt là chọn những hình ảnh đẹp và nhân vật ngộ nghĩnh sáng tạo đưa vào công
nghệ thông tin để trẻ hòa nhập và hóa thân vào từng nhân vật.
Ví dụ : Dạy trẻ đọc thơ bài “ Cây dây leo ”


14


*Hoạt động 1: Cô cùng trẻ hát bài bát “ Em yêu cây xanh ” trò chuyện
với trẻ về bài hát, giới thiệu cho trẻ bài thơ “ Cây dây leo”. Để tìm hiểu bài thơ
rõ hơn cô trò mình sẽ đến với hội thi “ Bé yêu thơ” .
* Hoạt động 2: Đàm thoại với trẻ về nội dung bài thơ: Cho trẻ xem cô
đọc thơ trên papoil , sau đó đàm thoại cùng trẻ:
+ Bài thơ tên là gì? Bài thơ nói về điều gì ?
+ Cây dây leo như thế nào ? Cây làm gì để lớn lên ?
Sau mỗi câu hỏi tôi đọc những câu thơ trích dẫn theo hình ảnh papoil
cho trẻ để trẻ nhớ được nội dung bài thơ.
* Hoạt động 3: Trẻ đọc thơ, cô hướng dẫn trẻ đọc sao cho đúng từ thể
hiện được nhịp điệu của bài thơ.
Khi dạy trẻ đọc thơ giọng của cô phải chuẩn xác, diễn đạt trôi chảy phù hợp
với từng bài, cô phát âm không ngọng.
Khi dạy trẻ đọc thơ tôi chú ý nghe trẻ đọc và phát hiện ra trẻ nói ngọng, đọc
sai để sửa cho trẻ như tôi đọc lại để cho trẻ đọc theo nhiều lần và động viên trẻ “
Con đọc gần giỏi rồi” thi đua giữa các tổ với nhau để phát hiện tổ nào đọc tốt
hơn để nhiều trẻ đọc tốt.
Dạy trẻ nói đủ câu, tôi nói trước trẻ nhắc lại nhiều lần hoặc cho trẻ khác giúp
đỡ các bạn.
Trong giờ học tôi luôn chú ý bao quát chung để tìm hiểu đặc điểm của từng
trẻ để gần gũi động viên trẻ giúp đỡ những trẻ còn yếu kém, đưa trẻ vào hoạt
động với các bạn có nề nếp hơn, hứng thú hơn.
* Kết quả: Sau thực hiện giải pháp vốn từ, câu của trẻ được tăng lên. Trẻ hiểu
thêm nhiều các từ, câu mới có cấu trúc phức tạp hơn thông qua đọc thơ, thể hiện
được sắc thái tình cảm khi đọc thơ và kể chuyện theo tính chất của câu thơ hoặc
đoan chuyện à trẻ thể hiện; trẻ mạnh gian tư tin hơn trog hoat động học tập vui
chơi và giao tiếp với mọi người.

5. Tuyên truyền và kết hợp với phụ huynh trong việc phát triển ngôn ngữ
cho trẻ
Như chúng ta đã thấy môi trường tiếp xúc của trẻ chủ yếu là gia đình và
nhà trường. Chính vì vậy việc kết hợp giữa gia đình và nhà trường là một biện
pháp không thể thiếu.
Trong cuộc họp đầu năm tôi nêu tầm quan trọng của lĩnh vực phát triển
ngôn ngữ cho trẻ đặc biệt là thông qua hoạt động dạy trẻ đọc ca dao đồng dao,
đọc thơ, kể truyện. Hàng tháng tuyên truyền với phụ huynh về các câu chuyện
sáng tạo của cô và trẻ. Qua đó phụ huynh thấy ngôn ngữ của trẻ được phát triển
như thế nào và có biện pháp kích thích sự phát triển ngôn ngữ cho trẻ tại gia
đình.
Tôi sử dụng 1 mảng tường ở ngoài cửa lớp để làm bảng tuyên truyền với phụ
huynh về chương trình dạy trẻ theo chủ đề và thay tin hàng tuần để phụ huynh
biết và phối hợp với giáo viên rèn luyện thêm ở nhà.
Ví dụ: Tôi cung cấp một số bài đồng dao để các bậc phụ huynh cùng học với
trẻ để trẻ được đọc từ chính xác không bị nói ngọng.
15


Tôi trao đổi với phụ huynh về những câu chuyện bài thơ trẻ được học ở
trường, yêu cầu phụ huynh về nhà cùng đọc với trẻ và cho trẻ kể lại câu chuyện
đó hoặc kích thích trẻ kể lại câu chuyện. Như vậy ngôn ngữ của trẻ phát triển
một cách phong phú và đa dạng.
Trong năm học tôi đã tổ chức 2 lần họp phụ huynh.
+ Lần thứ 2 tôi tổ chức họp phụ huynh để nêu lên những kết quả đạt được của cô
trò tron học ky I và tổ chức 1 hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ để phụ
huynh được trực tiếp xem các cháu học. Qua cuôc họp đó tôi trao đổi với phụ
huynh những cháu nói ngọng, còn rụt rẻ trong giao tiếp. Để phối hợp cùng với
gia đình giúp cháu phát âm chuẩn hơn, giao lưu tốt hơn. Bên cạnh những cháu
phát âm còn ngọng thì tôi cũng nêu ra những cháu mạnh dạn năng động trong

các hoạt động như kể chuyện , đọc thơ để phát huy tính tích cực của các cháu.

Hình ảnh 6: phụ huynh dự giờ lớp học
Bằng cách đó cô giáo và phụ huynh luôn có được thông tin hai chiều của
trẻ ở nhà cũng như ở trường, trẻ lớp tôi được học và việc phát triển ngông ngữ
của trẻ cũng được củng cố và mở rộng hơn.
* Kết quả: Lớp tôi luôn được phụ huynh chủ động quan tâm phối hợp trong hoạt
động chăm sóc giáo dục trẻ. Phụ đã tích cực hỗ trờ giáo viên trong việc đóng
góp các nguyên liệu, hỗ trợ cùng là đồ dùng đồ chơi với giáo viên. Đặc biệt là
phụ huynh đã phối hợp để sửa chữa các lỗi về phát âm chưa chuẩn tiếng địa
phương cho trẻ, tạo điều kiện cho trẻ được đọc thơ, kể chuyện ở gia đình để
củng cố thêm kiến thức kỹ năng về ngôn ngữ cho trẻ.
IV. KIỂM NGHIỆM

16


Qua tổ chức thực hiện các giải pháp trong đề tài, tôi tiến hành đánh giá lại
kết quả theo các tiêu chí đánh giá khảo sát bann đầu. Kết quả đạt được như sau:
Kết quả khảo sát ( 28 cháu)

STT

Tiêu chí đánh giá

KQ đạt
được ban
đầu

1


2

KQ
tăng
so với
ban
đầu
(%)

%

Số
trẻ

%

19

67,8

26

92,8

25

17

60,7


25

89,2

28,5

16

57,1

25

89,2

32,1

16

57,1

23

82,1

25

19

67,8


27

96,4

28,6

14

50

24

85,7

35,7

13

46,4

23

82,1

35,7

12

42,8


23

82,1

39,3

13

46,4

23

82,1

35,7

12

42,8

24

85,7

42,9

Số
trẻ
- Hiểu các từ chỉ người, đồ

vật, sự vật, hành động, hiện
tượng quen thuộc.
- Hiểu và làm theo yêu cầu
đơn giản.
Nghe - Nghe hiểu các câu đơn,
câu mở rộng.
- Nghe hiểu nội dung
chuyện kể, chuyện đọc, bài
thơ, câu đố phù hợp với độ
tuổi.
Nói
- Phát âm các tiếng của
tiếng việt.
- Bày tỏ tình cảm, nhu cầu
và hiểu biết của bản thân
bằng câu đơn, câu mở rộng.
- Trả lời và đặt câu hỏi:
“ai?”; “ Cái gì?”; “ Ở
đâu?”; “ Khi nào?”.
- Sử dụng các từ biểu thị sự
lễ phép.
- Kể lại chuyên đã được
nghe có sự giúp đỡ.
- Kể lại sự việc.

KQ đạt
được sau
nghiên
cứu


17


Làm
quen
với
đọc
viết

- Tiếp xúc với chữ, với
10 35,7 25 89,2
sách chuyện.
42,8
- Xem và nghe đọc các loại
15 53,5
24 85,7
39,3
sách khác nhau.
Làm quen với cách đọc và
3
viết tiếng việt ( Hướng đọc
13 46,4 23 82,1
32,1
viết).
- Cầm sách đúng chiều, mở
14
50
24 85,7
42,9
sách, xem tranh.

1. Đối với giáo viên
Bản thân tôi nhận thấy sau khi tổ chức thực hiện đề tài sáng kiến với các
biện pháp trên, đã giúp tôi có thêm nhiều kỹ năng, kinh nghiệm và sự sáng tạo
trong tổ chức các hoạt động cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học. Tạo được sư
sáng tạo, gây hứng thú cho trẻ khi tham gia hoạt động, giúp trẻ tích cực hoạt
động.
Có kỹ năng lập kế hoạt giáo dục, nội dung phù hợp với nội dung từng chủ
đề, phù hợp vớiđiều kiện trường, lớp, địa phương nơi công tác, đặc biệt là phù
hợp với trẻ lớp mình phụ trách.
Có kỹ năng xây dựng môi trường học tập cho trẻ một cách sáng tạo,
khoa học, giúp trẻ hoạt động một cách tự tin, thoải mái…
V. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
I. KẾT LUẬN

Trong trường mầm non, làm quen với tác phẩm văn học là một hoạt động
quen thuộc với trẻ. Hoạt động này nhằm dẫn dắt, hướng dẫn trẻ cảm nhận những
giá trị nội dung, nghệ thuật phong phú trong tác phẩm văn học, khơi gợi ở trẻ sự
rung động, hứng thú đối với văn học, có ấn tượng về những hình tượng nghệ
thuật, cái hay cái đẹp của tác phẩm và thể hiện sự cảm nhận đó qua các hoạt
động mang tính chất văn học nghệ thuật như đọc thơ, kể chuyện, chơi trò chơi
đóng kịch, cao hơn nữa là tiến tới sáng tạo ra những vần thơ, câu chuyện theo trí
tưởng tượng của mình, góp phần hình thành và phát triển toàn diện nhân cách
trẻ.
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một lĩnh vực quan trọng, là tiền đề cho giáo
dục trẻ phát triển toàn diện. Với trẻ 4 - 5 tuổi, là độ tuổi có đặc điểm phát triển
ngôn ngữ mạnh mẽ. Trẻ có khả năng làm quen với các câu từ mới có tính chất
biểu cảm; trẻ nói được các câu ghép; có nhu cầu đặt các câu hỏi để khám phá thế
giới đồng thời ngôn ngữ của trẻ được phát triển.
Cùng với những yêu cầu đó, một yêu cầu cần thiết đối với người giáo
viên để thực hiện phát triển ngôn ngữ cho trẻ đạt hiệu quả đó là: Cần phải luôn

tư duy tìm tòi các cách làm mới, sáng tạo trong lựa chọn các giải pháp; vận dụng
18


linh hoạt các phương pháp phù hợp với điều kiện thực tế để thu hút trẻ vào các
hoạt động mà cô tổ chức. Từ sự hứng thú tích cực tham gia vào hoạt động. Giáo
viên tận dụng mọi cơ hội để phát huy tối đa khả năng phát triển từ, câu, phát âm
chuẩn cũng như cung cấp các kiến thức kỹ năng về ngôn ngữ cho trẻ. Qua tổ
chức thực hiện đề tài sáng kiến kinh nghiệm đạt được hiệu quả nhất định; bản
thân tôi rút ra một số kinh nghiệm như sau:
Giáo viên phải nắm chắc được yêu cầu kết quả mong đợi của hoạt động
cho trẻ làm quen văn học trong độ tuổi. Nắm vững yêu cầu của từng hoạt
động cho trẻ làm quen với văn học cụ thể.
Thường xuyên học hỏi, trao đổi với đồng nghiệp, học hỏi nâng cao
năng lực chuyên môn. Tích cực sáng tạo lồng gép giáo dục trẻ ở mọi lúc mọi
nơi một cách nhẹ nhành linh hoạt.
Áp dụng hình thức tổ chức phải phù hợp, tạo môi trường tốt giúp trẻ
làm quen với tác phẩm văn học.
Tích luỹ đồ dùng, phương tiện, điều kiện cần thiết phục vụ cho tiết học.
Phối kết hợp với chuyên môn, Ban Giám hiệu, phụ huynh và các cơ
quan, ban, ngành tạo điều kiện giúp đỡ về cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt
động, giúp trẻ tích cực tham gia hoạt động.
II. Ý KIẾN ĐỀ XUẤT
Đề nghị nhà trường phối hợp với phụ huynh vận động bổ sung thiết bị đồ
dùng đồ chơi phục vụ cho trẻ trong quá trình học tập.
Tổ chuyên môn của nhà trường tổ chức nhiều hơn nữa các tiết học mẫu để
giáo viên trong trường được giao lưu học hỏi lẫn nhau.
Trên đây là một số giải pháp cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học
nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ 4 - 5 tuổi. Các giải pháp tôi tổ chức thực hiện
đã thu được thành công đáng kể. Tôi rất mong nhận được hội đồng khoa học

các cấp đánh giá.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Ba Đình, ngày 05 tháng 4 năm 2014
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Tôi xin cam đoan bản SKKN là của chính
mình không sao chép của người khác
Người viết sáng kiến
Hoàng Thị Huệ

Mai Thị Thịnh

19



×