Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

skkn một số giải pháp giúp trẻ 3 4 tuổi làm quen với tác phẩm văn học, nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ tại trường mầm non ba đình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 20 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Như chúng ta đã biết, ở trường mầm non thông qua các hoạt động chăm sóc
giáo dục trẻ để giúp trẻ phát triển toàn diện. Mỗi hoạt động chăm sóc giáo dục
trong chương trình giáo dục mầm non, được được tổ chức theo một hệ thống thống
nhất. Cung cấp kiến thức kỹ năng có tính đồng tâm trong suất các độ tuổi từ đầu
nhà nhà trẻ cho đến cuối độ tuổi mẫu giáo.
Cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học (LQVTPVH) là một trong những
hoạt động ở trường mầm non được trẻ yêu thích. Hoạt động làm quen với tác phẩm
văn học là loại hình nghệ thuật; đặc biệt nó rất gần gũi với trẻ thơ, từ buổi đầu thơ
ấu, trẻ đã sống chan hoà trong không khí lời ru “ ầu ơ “ đầy yêu thương tận tình của
bà, của mẹ. Đó chính là trẻ đã được đến với văn học và đó cũng là cánh cửa mở ra
chân trời nhận thức cho trẻ. Đặc biệt văn học có tác động mạnh mẽ đến sự phát
triển ngôn ngữ cho trẻ; là phương tiên dẫn dắt trẻ đến với thế giới xung quang.
Qua những bài ca dao, câu chuyện là tấm gương mẫu mực về lời ăn tiếng nói
cho trẻ học tập, là phương tiện hữu hiệu trong việc giáo dục trẻ lòng yêu thiên
nhiên, yêu quê hương đất nước, tình yêu mến bạn bè với những người thân thiết,
biết được việc làm tốt, biết yêu cái đẹp, cái thiện, ghét cái ác, phê phán những việc
làm xấu, kính yêu Bác Hồ, thật thà, ngoan ngoãn…..Điều đó chính là văn học là
phương tiện hình thành các phẩm chất đạo đức trong sáng cho trẻ thơ.
Với đặc điểm tâm sinh lý của trẻ nhà trẻ và trẻ 3 tuổi, vốn từ và ngôn ngữ
của trẻ đang phát triển mạnh mẽ. Vì vậy cần thiết phải quan tâm phát triển để
hướng đến kết quả mong đợi tối ưu nhất về phát triển ngôn ngữ cho trẻ trong độ
tuổi.
Để đạt được hiệu quả giáo dục trẻ nói chung và hoạt động cho trẻ
LQVTPVH nói riêng, đòi hỏi mỗi giáo viên mầm non luôn phải tìm tòi các giải
pháp tổ chức thực hiện các họat động chăm sóc, giáo dục trẻ tốt nhất. Với ý nghĩa
tích cực của hoạt động cho trẻ LQVTPVH tới sự phát triển ngôn ngữ cũng như phát
triển toàn diện của trẻ trong độ tuổi. Trong năm học 2013 - 2014, tôi đã quan tâm
tìm tòi các giải pháp tổ chức tốt cho trẻ LQVTPVH. Và đó cũng là lý do tôi chọn
đề tài SKKN “Một số giải pháp giúp trẻ 3 - 4 tuổi làm quen với tác phẩm văn


học, nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ tại trường mầm non Ba Đình”

1


B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I- CƠ SỞ LÝ LUẬN
Khoa học nghiên cứu về đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi mầm non đã cho thấy:
Trẻ 3 tuổi phát triển rất nhanh về thể lực và tâm lý, ngôn ngữ ngày càng đóng vai
trò quan trọng với trẻ. Trẻ có thể sử dụng lời nói để trao đổi với mọi người xung
quanh.
Các nghiên cứu về ngôn ngữ trẻ em đã kết luận: Sự phát triển ngôn ngữ trẻ
em gắn liền với sự phát triển của tư duy, giúp trẻ có khả năng nhận thức thế giới
bên ngoài. Do đó ở trẻ luôn xuất hiện các loại câu hỏi “ Tại sao”, “vì sao”, “để làm
gì” với chúng ta.
Ngôn ngữ của trẻ tiến bộ nhanh hay chậm tùy thuộc vào điều kiện sống, quan
hệ giao tiếp với những người xung quanh. Đây là giai đoạn trẻ đang học nói hay bắt
chước người lớn và chính thời điểm này cô giáo, gia đình là các yếu tố chủ đạo để
dạy trẻ. Uốn nắn cho trẻ cách nói rõ từ, rõ câu, cách phát âm chính xác…Vì vậy mà
mục tiêu của chương trình giáo dục mầm non hiện nay đã hết sức coi trọng phát
triển ngôn ngữ cho trẻ. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ được xem là lĩnh vực xếp hàng
đầu trong năm lĩnh vực phát triển trẻ mẫu giáo.
Trong tất cả các tài liệu nói về tác động của văn học đối với trẻ thơ, đều
khẳng định văn học là hoạt động học rất quan trọng với trẻ mầm non - là phương
tiện chủ đạo phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Thông qua hoạt động cho trẻ LQVTPVH
giúp trẻ có đủ vốn từ để thể hiện sự biểu cảm, giao tiếp, biết sử dụng từ đúng hoàn
cảnh. Không những thế mà việc dạy trẻ làm quen văn học, cung cấp cho trẻ từ ngữ
nghệ thuật như: Từ tượng thanh, tượng hình giúp trẻ phát triển trí tưởng tượng, óc
quan sát, khả năng tư duy độc lập trong suy nghĩ.
Trong các tác phẩm văn học đến với trẻ là thế giới mới về những câu chuyện

cổ tích; về cuộc sống thực tại bao gồm: Thiên nhiên, xã hội, con người… Tác
phẩm văn học diễn tả, biểu đạt hình thức đa dạng, độc đáo. Văn học nói về thế giới
loài vật cỏ cây, hoa, lá, mọi hiện tượng thiên nhiên; cũng nói về những gì gần gũi
trong môi trường sống của trẻ như làng quê, đồng ruộng, phiên chợ, lớp học,….
Tác phẩm văn học giúp trẻ nhận ra mối quan hệ những tình cảm gia đình, cô cháu,
tình yêu mọi người…..Nhờ được nghe tiếp xúc với một số lượng tác phẩm văn học,
sẽ giúp trẻ nhận thức, mô tả được cuộc sống xung quanh, phong phú, hấp dẫn, bằng
những dạng thức khác nhau.

2


Cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học chỉ ra mức độ, giới hạn, yêu cầu của
việc cho trẻ tiếp xúc với tác phẩm văn học qua nghệ thuật đọc, kể chuyện, của cô
giáo. Hoạt động này nhằm dẫn dắt, hướng dẫn trẻ cảm nhận những giá trị nội dung,
nghệ thuật khơi gợi trẻ sự rung động hứng thú với văn học có ấn tượng về nghệ
thuật như đọc thơ, kể chuyện, trò chơi, đóng kịch, góp phần hình thành và phát
triển toàn diện nhân cách trẻ. Đặc biệt là phát triển mạnh mẽ ở trẻ về lĩnh vực ngôn
ngữ; rèn luyện kỹ năng giao tiếp ứng xử của trẻ.
Qua việc cho trẻ làm quen với các tác phẩm văn học chính là hình thành ở trẻ
những tình cảm, đạo đức tốt đẹp, những xúc cảm, thẩm mỹ phát triển trí tưởng
tượng như lòng yêu thiên nhiên ở quả, cây, lá, hoa…..Lòng kính trọng yêu thương
gần gũi và giúp đỡ người thân xung quanh trẻ như ông bà, bố mẹ, anh chị em, thầy
cô giáo. Thông qua hoạt động này trẻ làm tái tạo và sáng tạo thêm những tình tiết
của tác phẩm một cách hồn nhiên, phù hợp với nội dung của tác phẩm thông qua sự
hiểu biết trí tưởng tượng của trẻ. Đồng thời trẻ đọc thuộc thơ, kể lại chuyện được.
Chính vì thế mà đạt được mục đích của hoạt động cho trẻ LQVTPVH.
Có thể nói, cho trẻ LQVTPVH. là phương tiện chủ đạo phát triển ngôn ngữ,
phát triển ở trẻ kỹ năng diễn đạt, sử dụng câu, từ, đọc kể diễn cảm…để làm tiền đề
cho sự phát triển toàn diện ở trẻ. Vì vậy cần thiết phải có biện pháp để khai thác tối

ưu khả năng phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động cho trẻ LQVTPVH.
Đây chính là cơ cở lý luận để tôi xây dựng các giải pháp cho để tài sáng kiến
kinh nghiệm.
II . THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Thực trạng chung
a, Về điều kiện cơ sở vật chất, quản lý
Trường mầm non Ba Đình là trường đã đạt chuẩn quốc gia mức độ I. Vì thế
điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị tương đối đảm bảo cho công tác giảng dạy
của giáo viên. Môi trường trong và ngoài lớp tương đối đáp ứng yêu cầu tổ chức
các hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ.
Môi trường giáo dục trong ngoài lớp của nhà trường nói chung được quan
tâm, đặc biệt là môi trường văn học và chữ viết.
Lớp học luôn nhận được sự quan tâm của ban giám hiệu nhà trường đầu tư
cơ sở vật chất như mua sắm tranh thơ, tranh chuyện, sách báo phục vụ cho môn
học.

3


Bên cạnh những thuận lợi trên, vẫn còn không ít khó khăn về cơ sở vật chất,
trang thiết bị như: Các trang thiết bị dạy học hiện đại còn thiếu, như chưa có ti vi,
đầu quay, băng đĩa, máy tính… điều này có ảnh hưởng nhất định đến hiệu quả, chất
lượng các hoạt động giáo dục nói chung cũng như chất lượng cho trẻ làm quen với
tác phẩm văn học nói riêng.
b, Điều kiện về giáo viên
Có đội ngũ giáo viên 100% đạt trình độ chuẩn trở lên, trong đó có 58% đội
ngũ đạt trình độ trên chuẩn. Đa phần giáo viên có ý thức trách nhiệm cao với công
việc, nhiệt tình công tác.
Nhưng bên cạnh đó cũng còn có một số giáo viên tuổi đời cao nên việc tiếp
cận chương trình giảng dạy còn nhiều hạn chế.

Đa phần giáo viên nhà trường chưa quan tâm khai thác tối ưu sự tác động
của hoạt động cho trẻ LQVTPVH đối với sự phát triển của trẻ.
c, Điều kiện về phụ huynh
Đại đa số phụ huynh nhận thức được tầm quan trọng của bậc học mầm non
nên luôn quan tâm đến việc chăm sóc giáo dục trẻ. Đã quan tâm trong việc phối
hợp với nhà trường, giáo viên để chăm sóc con em mình. Luôn giúp đỡ tạo điều
kiện để hỗ trợ cô giáo như: Ủng hộ cao các khoản đóng góp xã hội hóa giáo dục;
tham gia làm đồ chơi cùng; sưu tầm đóng góp phế liệu để làm đồ dùng đồ chơi. vải,
bông , chai lọ… để làm đồ chơi phục vụ cho môn học.
Bên cạnh những thuận lợi vẫn còn nhiều điểm khó khăn đó là: Phụ huynh ở lớp
phần lớn là làm nông thôn nên ít có thời gian và điều kiện quan tâm đến con em
mình, đặc biệt là việc kèm cặp các cháu học.
Một số phụ huynh chưa nhận thức hết được yêu cầu và tầm quan trọng của phát
triển ngôn ngữ cho trẻ.
Đa số phụ huynh bận công việc không trò chuyện với trẻ và nghe trẻ nói, trẻ
không được đáp ứng đầy đủ về nhu cầu trẻ cần.
Ví dụ: Trẻ chỉ cần nhìn vào đồ dùng nào đó chỉ tay đòi là được đáp ứng ngay
mà không cần dùng lời để yêu cầu hoặc xin. Đây cũng là một trong những yếu tố
ảnh hưởng không ttót đến sự phát triển ngôn ngữ ở trẻ.
d, Điều kiện về học sinh
Toàn trường có tổng số học sinh là 243 cháu. Đa phần các cháu ngoan, có
nhận thức khá đồng đều. Khả năng ngôn ngữ của trẻ đạt yêu cầu.

4


2. Điều kiện thực tế của nhóm lớp.
Bản thân tôi là giáo viên có trình độ trên chuẩn, có tâm hhuyết với nghề
nghiệp, được nhà trường đánh giá là giáo viên có năng lực khá.
Đối với đội ngũ giáo viên nhà trường nói chung và bản thân tôi nói riêng.

Qua các năm thực hiện chuyên đề cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học đã thực
sự có nhiều đầu tư vào việc tư duy các phương pháp hình thức cho trẻ làm quen với
tác phẩm văn học. Đã quan tâm chú trọng đa dạng và phong phú hình thức tổ chức
hoat động văn học cho trẻ.
Tổng số trẻ trong nhóm lớp tôi phụ trách có 30 cháu đa phần các cháu ngoan,
nhưng có nhiều trẻ chưa qua lớp nhà trẻ nên trẻ có một số hạn chế như: Trẻ chưa có
nề nếp học tập ở đầu năm, chưa mạnh dạn tự tin, Ngôn ngữ của trẻ còn hạn chế,
nhiều trẻ phát âm chưa rõ, chưa đạt vốn từ theo yêu cầu độ tuổi.chưa diễn tả được ý
muốn hiểu biết của mình với người khác.
Để tiến hành tổ chức thực hiện các giải pháp của đề tài, tôi xác định các mục
tiêu giải quyết của các giải pháp qua các nội dung khảo sát chất lượng cho trẻ làm
quen với tác phẩm văn học như sau:
S
Kết quả khảo sát
T
Nội dung khảo sát
Số trẻ
T
Số trẻ
%
1 Khả năng nghe theo yêu cầu độ tuổi.
30
17
56
2 Sử dụng vốn câu từ theo yêu cầu độ tuổi. 30
15
50
3 Sử dụng ngôn ngữ diễn đạt kể lại chuyện, 30
14
46

mô tả lại sự việc có sự giúp đỡ.
Từ kết quả khảo sát, tôi đánh giá các khả năng phát triển ngôn ngữ của trẻ
theo yêu cầu độ tuổi là thấp. Tôi xác định tiến hành giải quyết mục tiêu của sáng
kiến bằng một số giải pháp tại mục III của sáng kiến.
III. CÁC GIẢI PHÁP V À TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Giải pháp giáo viên học tập nắm vững yêu cầu nội dung phát triển
ngôn ngữ cho trẻ trong độ tuổi.
Phạm vi ngiên cứu các giải pháp giúp trẻ 3 - 4 tuổiLQVTPVH, với mục đích
nhằm đến sự phát triển ngôn ngữ tối ưu của trẻ trong yêu cầu độ tuổi. Tôi đã xác
định việc học tập tìm hiểu để nắm vững yêu cầu về nội dung, kết quả mong đợi về
5


phát triển ngôn ngữ cho trẻ trong độ tuổi là hết sức cần thiết. Vì nắm hệ thống đầy
đủ nội dung thì mới có thể xây dựng kế hoạch chương trình giáo dục đảm bảo đủ và
đúng yêu cầu.
Trước hết, để đảm bảo nắm vững yêu cầu giáo dục trẻ, cơ sở chủ đạo quan
trong để giáo viên cần học tập nắm vững đó là các yêu cầu trong chương trình giáo
dục mầm non, được ban hành kèm theo thông tư số 17/2009/TT-BGDĐT ngày 25
tháng 7 năm 2009 của bộ trưởng bộ giáo dục và đào tạo. Ngoài ra còn phải nghiên
cứu thêm các tài liệu chính thống do bộ giáo dục ban hành liên quan đến yêu cầu
giáo dục. Ở đây nghiên cứu trong phạm vi giúp trẻ phát triển ngôn ngữ cho trẻ, tôi
đã xác định các nội dung yêu cầu và kết quả mông đợi cần nắm vững đề thể chế
hóa trong thực hiện chương trình giáo dục đó là:
* Nội dung Nghe:
- Giúp trẻ nghe hiểu các từ chỉ người, tên gọi đồ vật, hành động, hiện tượng
gần gũi, quen thuộc.
- Hiểu và làm theo yêu cầu đơn giản.
- Nghe hiểu nội dung các câu đơn, câu mở rộng.
- Nghe hiểu nội dung chuyên kể, chuyện đọc phù hợp với độ tuổi.

- Nghe các bài hát, bài thơ, ca giao, đồng giao, tục ngữ, câu đố, hò vè phù
hợp với độ tuổi.
* Nội dung nói:
- Phát âm các tiếng của tiếng việt.
- Bày tỏ tình cảm nhu cầu và hiểu biết của bản thân bằng các câu đơn, câu
mở rộng.
- Trả lời và đặt các câu hỏi: Ai?; Cái gì?; khi nào?; Ở đâu?
- Sử dụng các từ biểu thị sự lế phép.
- nói và thể hiện cử chỉ, điệu bộ, nét mặt ohù hợp với yêu cầu, hoàn cảnh
giao tiếp.
- Đọc thơ, ca giao, đồng giao, tục ngữ, hò vè.
- Kể chuyện đã được nghe có sự gipú đỡ.
- kể lại sự việc.
- Đóng vai theo lời dẫn chuyện của giáo viên.
Nội dung làm quen với đọc viết.

6


- trẻ làm quen với một số ký hiệu thông thường trong cuộc sống ( Nhà vệ
sinh, lối ra, nơi nguy hiểm, biển báo giao thông: Đường cho người đi bộ…)
- Tiếp xúc với chữ, sách chuyện.
- Xem và nghe đọc các loại sách khác nhau.
- làm quen với cách đọc viết tiếng việt:
+ Hướng đọc, viết: Từ trái sang phải, từ dòng trên xuống dòng dưới.
+ Hướng viết của các nét chữ: Đọc ngắt nghỉ sau các dấu.
- Cầm sách đúng chiều, mở sách, xem tranh và đọc chuyện.
- Giữ gìn sách.
Như vậy, từ việc nắm vững các nội dung, tôi sẽ cụ thể hóa các nội dung vào
xây dựng chương trình giáo dục, cụ thể hóa nôi dung hoạt động cho trẻ LQVTPVH

theo các chủ đề phù hợp. Việc nắm vững yêu cầu có tính khoa học sẽ tránh việc
thực hiện bỏ sót yêu cầu; làm cơ sở cho hoạt động đánh giá khả năng tiếp thu kiến
thức kỹ năng so với mục tiêu yêu cầu về văn học và phát triển nôn ngữ của trẻ hằng
ngày và theo giai đoạn, từ đó có kế hoạch giáo dục tiếp theo phù hợp.
Từ việc xây dựng kế hoạch cho bản thân nắm vững các yêu cầu phát triển
ngôn cho trẻ trong độ tuổi, bản thân tôi đã có kiến thức vững chắc để áp dụng vào
giáo dục trẻ. Đánh giá khả năng và giúp trẻ nắm vững kiến thức kĩ năng một các hệ
thống đủ yêu cầu, đảm bảo cung cấp kiến thức theo sự đồng tâm.
2. Giải pháp xây dựng môi trường trong lớp cho trẻ LQTPVH đạt hiệu
quả.
Tôi nhận thức việc xây dựng môi trường giáo dục là rất cần thiết. Xây dựng môi
trường giáo dục là học liệu cho trẻ học tập. Môi trường giáo dục đa dạng sinh động
sẽ thu hút sự chủ động tích cực của trẻ tham gia vào các hoạt động giáo dục, mang
lại hiệu quả giáo dục cao. Đối với việc tôi quan tâm đến nghiên cứu các giải pháp
cho trẻ LQVTPVH, tôi xác định sẽ quan tâm đến việc xây dựng môi trường cho trẻ
LQVTPVH. Đó chính là việc xây dựng các hình ảnh trực quan sinh động về các nội
dung liên quan đến văn học trong môi trường trong lớp và ngoài lớp học. Các hình
ảnh có sức sống động, có khả năng tác động thu hút được sự tò mò của trẻ, gợi cho
trẻ các nhu cầu được hiểu biết.
Thực hiện giải pháp này, trước hết tôi phải tư duy tìm hiểu và sưu tầm nhiều các
hình ảnh, cách sắp xếp môi trường khoa học phù hợp với nhận thức và hoạt động
của trẻ 3 tuổi. môi trường xậy dựng phải phù hợp với chủ đề để đáp ứng vận dụng

7


cho trẻ hoạt động ở nhiều các hoạt động có chủ đích hay hoạt động vui chơi tìm
hiểu trong chủ đề. Tuy nhiên với mục tiêu thực hiện các giải pháp để hoàn thành đề
tài sáng kiến kinh nghiệm trong năm học, nên tôi đã quan tâm đặc biệt đến xây
dựng môi trường cho trẻ LQVTPVH.

Để xây dựng môi trường hiệu quả tôi căn cứ vào các nội dung của hoạt động
cho trẻ LQVTPVH đã được cụ thể hóa trong chủ đề, để từ đó tư duy nội dung về
môi trường cần xây dựng ở các không gian cụ thể của lớp. Xây dựng tại mảng chủ
đề chính, các góc chơi, xâyh dựng góc sách, góc cổ tích. Các góc mang đạm mầu
sắc hình ảnh về các nội dung các câu chuyện, bài thơ, ca giao đồng giao…
* Xây dựng góc cổ tích
Góc cổ tích là một góc được bố trí tại một không gian hợp lý trong nhóm lớp.
Trong góc xây dựng các hình ảnh, mô hình cảnh quan về nội dung, về các nhân vật
trong các câu chuyện tạo cho trẻ những cảm nhân mới lạ, có cảm giác thích tìm tòi
khám phá.
Ví dụ: Ở chủ đề Thế giới động vật. Chuẩn bị cho kể chuyện “ Đôi bạn nhỏ”
Tôi xây dựng trong góc cổ tích mô hình về câu chuyện “” đôi bạn nhỏ” gồm các
mảng mô hình được bố trí hợp lý từ vị trí trẻ bước vào vườn đến bên trong sâu của
khu vườn:
Mô hình 1: Hình ảnh gà con và vịt con dsang thân thiện bên nhau.
Mô hình 2: Gà trên bãi cỏ tìm giun; Vịt con dưới ao mò ốc.
Mô hình 3 : Cáo đuổi bắt gà.
Mô hình 4 : Vịt cõng gà bơi dưới ao.
Trẻ được vào thăm vườn cổ tích, được quan sát các mô hình, trẻ sẽ tư duy
tưởng tượng ra nội dung của câu chuyện theo trí tượng tượng của trẻ. Và sau đó cô
sẽ giúp trẻ gợi mở để tiếp tục khai thác sâu hơn trí tưởng tượng của trẻ, giúp trẻ tự
đạt ra các câu hỏi cũng như các câu trẻ lời sáng tạo.
Ví dụ: Bước vào vườn cổ tích, trẻ nhìn thấy ngay hình ảnh 2 bạn gà và vịt
xinh đẹp và thân mật. trẻ có thể đạt câu hỏi: Bạn gà vịt đang là gì nhỉ?; trẻ có thể tự
trả lời: À, chắc là gà vịt đang đang nói chuyện; À, chắc là gà vịt đang rủ nhau đi
chơi!....
Bước tiếp sâu hơn vào vườn, trẻ nhìn thấy mô hình gà đang trên bãi cỏ, vịt
đang ở dưới ao. Trẻ có thể lại tự hỏi và tự đặt câu hỏi theo tri giá và tưởng tượng
của trẻ.


8


Cứ như vậy giáo viện theo giõi và gợi mở cho trẻ kể chuyện sáng tạo qua mô
hình; sau đó khi vào tổ chức hoạt động cho trẻ cô lại có thể dùng mô hình đó để
giới thiệu chuyện, hướng trẻ vào tâm trạng được giải đáp thắc mắc của trẻ qua việc
cô kể chuyện cho trẻ nghe.
Tương tự như vậy tôi xây dựng thay đổi các hình ảnh, mô hình theo nội dung
các bài thơ, câu chuyện, bài ca giao đồng giao mà trẻ sẽ học hoặc đã học để củng
cố.
Trong mỗi hoạt động của trẻ với môi trường, tôi đều quan sát, tận dụng mọi
tình huống, cơ hội để giúp trẻ gợi nhớ hay khắc sâu các tác phẩm văn học mà trẻ sẽ
được làm quen hoặc đã cho trẻ làm quen. Cũng thông qua môi trường đã xây dựng
giáo viên quan tâm khai thác sự tác động trực tiếp của môi trường đến sự phát triển
ngôn ngữ cho trẻ.

Hình ảnh 1: Xây dụng góc cổ tích tại nhóm lớp
* Xây dựng góc sách
Ngoài việc xây dựng góc cổ tích trong lớp để giúp trẻ làm quen với hình ảnh
gợi mở về các tác phẩm văn học trẻ sẽ được làm quen, hoặc đã được làm quen. Tôi
xây dựng góc sách của lớp. Góc sách cũng là góc được bố trí trong không gian phù
hợp của lớp. Góc sách có nhiều các loại sách, tranh, chuyện tranh có nội dung phù
hợp với nội dung chủ đề. Các sách tranh phải phù hợp với trẻ, là các tranh chuyện

9


mầm non, tranh có ghép chữ to, hình ảnh sinh động hấp dẫn trẻ, có tác động đến trí
tưởng của trẻ.
Xây dựng góc sách để trong các giờ chơi trẻ sẽ chủ động xem tranh, xem

sách. Thông qua đó để làm quen với nội dung của các tác phẩm văn học. Thông
qua các tranh chuyện, trẻ tự đặt câu hỏi về nội dung các bức tranh, tư duy về các
bức tranh thành những câu chuyện theo trí tưởng tượng của trẻ. Tự trả lời cho
những câu hỏi mà trẻ tự đạt ra, hoặc các câu hỏi mà cô gợi mở cho trẻ tìm hiểu.
Thông qua góc sách cô hướng dẫn cho trẻ cách cầm sách, cách đọc sách, trẻ
tự đọc chuyện theo tưởng tưởng; trẻ tư duy tưởng tưởng về những câu chuyện sáng
tạo qua các hinh ảnh trong sách tranh. Từ đó đạt được mục tiêu phát triển ngôn ngữ
cho trẻ cũng như phát triển các lĩnh vực giáo dục khác.
Để góc sách được phong phú thì giáo viên phải tích cực sưu tầm sách tranh, thay
đổi sách tranh trong góc sách theo chủ đề, theo nội dung từng tác phẩm văn học mà
trẻ sẽ học, đã học để trẻ tìm hiểu, tránh sự nhàm chán. Sưu tầm các loại tranh ảnh,
hoạ báo có nội dung chương trình để làm phong phú góc sách. Để thuận tiện và
hiệu quả của góc sách đối với giáo dục trẻ, việc bố trí, sắp xếp các sách tranh trong
góc phải vừa tầm với của trẻ, giúp trẻ dễ lấy dễ sử dụng.

Hình ảnh 2: Trẻ cùng cô đang xem sách tranh tại góc sách
10


Ngoài ra tôi tận dụng tất cả mọi không gian trong ngoài lớp đề trang trí các hình
ảnh đa dạng có nội dung phù hợp để tận dụng tác động của môi trường xây dựng
đến sự phát triển của trẻ ở mọi lúc mọi nơi, mọi không gian môi trường.
Để phát huy hiệu quả của môi trường đã xây dựng thì đòi hỏi giáo viên phải
quan tâm đến mọi hoạt động của trẻ với môi trường. Tạo các cơ hội để khai thác sự
tác động của môi trường với sự phát triển toàn diện của trẻ.
Qua việc xây dựng môi trường cho trẻ LQVTPVH trong nhóm lớp, tôi đã áp
dụng trong trong hoạt động cho trẻ LQVTPVH, đã có tác động tích cực nâng cao
hiệu quả cho trẻ làm quen với các tác phẩm văn học; có tác động tích cực và đạt
hiệu quả cao về phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
3. Giải pháp tích cực đổi mới sáng tạo hình thức tổ chức hoạt động cho trẻ

LQVTPVH, gây hứng thú cho trẻ tích cực tham gia hoạt động.
Đây là giải pháp chính để giúp trẻ LQVTPVH. Vì vậy đòi hỏi giáo viên
phải nắm vững phương pháp và nội dung thực hiện các thể loại văn học được gợi ý
trong kế hoạch của chương trình chăm sóc giáo dục. Nghiên cứu các tác phẩm ở
những khía cạnh khác nhau để lựa chọn phương pháp, sáng tạo các hình thức tổ
chức cho trẻ LQTPVH phù hợp, nhằm giúp trẻ thích thú được tham gia vào hoạt
động. Từ việc trẻ thích thú hoạt động thì trẻ mới có thể cảm nhận được nội dung
của bài thơ câu chuyện, trẻ mới có thể thực hiện trả lời được các câu hỏi của cô và
trẻ mới có thể chủ động đặt ra các câu hỏi để thỏa mãn tính tò mò ham hiểu biết của
mình trong các tình tiết của hoạt động.
Trước hết giáo viên phải hiểu được sáng tạo hình thức tổ chức có nghĩa là:
Trong mỗi hoạt động cho trẻ LQVTPVH giáo viên phải nghĩ ra được các hình thức
hoạt động sinh động để chuyển tải nội dung yêu cầu của bài dạy đến với trẻ. Hình
thức đó phải phù hợp với hoạt động của trẻ, có tính mới lạ với trẻ.
Ví dụ:
+ Khi tổ chức hoạt động cho trẻ LQVTPVH - kể chuyên 3 cô tiên. Thông
thường giáo viên vấn thực hiện là: Cho trẻ ngồi vào lớp, dùng lời giới thiệu dẫn dắt
để trẻ biết câu chuyện cô sẽ kể; cô kể diễn cảm lần 1; kể lần 2 theo tranh, kể lần 3
Theo mô hình, đàm thoại theo hệ thống câu hỏi chuẩn bị…
11


Như vậy cũng có thể xem là tổ chức một hoạt động kể chuyện đạt yêu cầu. Nhưng
nếu chỉ như vậy thường xuyên, trẻ sẽ cảm thấy nhàm chán, khả năng tiếp thu của
trẻ hạn chế, trẻ thụ động theo trong tiếp thu kiến thức kỹ năng.
+ Nhưng cũng hoạt động cho trẻ LQVTPVH - kể chuyện 3 cô gái. Tôi sáng
tạo đổi mới hình thức tổ chức bằng cách: Tôi tạo một mô hình khu vườn cổ tích
trong lớp. trước khi vào hoạt động cho trẻ đến tham khu vườn. Trẻ được quan sát
Mô hình với những hình ảnh nhân vật, quang cảnh sinh động mới lạ. như vậy trẻ sẽ
rất thích thú, tập trung chú ý để tìm tòi những điều mới lạ trong hình ảnh các nhân

vật. Từ đó làm nẩy sinh trong trí tưởng tưởng của trẻ bằng nhu cầu đặt các câu hỏi:
Ai nhỉ? Sao bé vậy? sao bông hoa hồng to thế; và trẻ thể hiện cảm xúc thích quá!...
Lúc này giáo viên sẽ lại đặt câu hỏi mở để kích thích tính tính tò mò cho trẻ, hướng
trẻ vào hoạt động sẽ được thỏa mãn nhu cầu tìm hiểu về các nhân vật như: Các con
có muốn biết những cô gái trong bông hoa hồng là ai không? Các con có biết vì sao
các cô gái lại bé tí teo như vậy không? Và lúc này cô mở cánh cửa cho trẻ bước vào
thế giới mới mà trẻ đang muốn biết, qua việc cô kể câu chuyện diễn cảm cho trẻ
nghe.

Hình ảnh 3: Xây dựng mô hình chuyện ba cô tiên tại góc cổ tích

12


Đó là sáng tạo hình thức cho trẻ LQVTPVH ngay từ đầu hướng trẻ vào hoạt
động. Còn trong suốt quá trình trẻ hoạt động cũng vậy, cũng cần phải có hình thức
sáng tạo làm thay đổi tư thế, tâm trạng học cũ của trẻ, chuyển sang một hình thức
làm thay đổi tư thế tâm trạng mới giúp trẻ hưng phấn hơn với hoạt động.
Như vậy đòi hỏi giáo viên phải thật sự có tâm huyết, có trí tưởng tượng về
tâm trạng của trẻ trong mỗi hoạt động học cụ thể, để tư duy tìm ra các hình thức
sinh động tổ chức cho trẻ hoạt động. Từ việc trẻ hứng thú hoạt động thì hiệu quả
chuyển tải nội dung đến với trẻ sẽ rất cao.
Qua việc thực hiện giải pháp luôn tìm tòi sáng tạo các hình thức tổ chức cho
trẻ LQVTPVH, tôi nhận thấy trong tất cả các giừo hoạt động LQVTPVH trẻ đều rất
thích và trẻ nhớ nội dung tác phẩm nhanh, trả lời lưu loát được các câu hỏi đảm
thoại và còn đạt được các câu hỏi với cô trong khi trẻ học tập. Như vậy mục tiêu
giúp trẻ phát triển ngôn ngữ qua mỗi hoạt động cho trẻ LQVTPVH cụ thể đạt được
rất tốt.
4. Giải pháp dạy trẻ làm quen với tác phẩm văn học thông qua hoạt
động mọi lúc mọi nơi.

Với hoạt động ở mọi lúc mọi nơi tôi đã vận dụng phù hợp từng đề tài để dạy
trẻ dạy vào các thời điểm thích hợp.
* Qua giờ đón trả trẻ
Trong giờ đón trẻ tôi có thể cho yêu cầu trẻ đọc các bài thơ, bài ca giao đồng
giao. Tôi có thể hướng dẫn trẻ tự xếp tranh, xem tranh và kể chuyện theo tranh mà
mình vừa xếp được. Qua việc trò chuyên với trẻ tôi đặt những câu hỏi liên quan đến
câu chuyện phù hợp cho trẻ tư duy và trả lời.
Ví dụ: + Hôm qua con đã được nghe cô kể câu chuyện gì?
+ Câu chuyện có nhân vật nào?...
Từ tất cả các hoạt động trong giờ đón trả trẻ, tôi đều tận dụng để giáo dục trẻ
các nội dung phù hợp; đặc biệt là trao đổi trò chuyện với trẻ các nội dung có vấn
đề, các nội dung liên quan đến các tác phẩm văn học, từ đó để khai thác tối ưu tác
động đến phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
* Thông qua các hoạt động chơi
Thông qua hoạt động vui chơi tôi có thể cho trẻ chơi đóng kịch phản ánh lại
tác phẩm theo hướng dẫn gợi ý của cô; Chơi góc gia đình trẻ ru em bé; trẻ làm cô
giáo dạy học sinh đọc thơ…

13


*Thông qua hoạt động chiều
Tôi có thể đọc kể tác phẩm mới được quy định trong chương trình cho trẻ
nghe hoặc những tác phẩm cô tự chọn phù hợp với khả năng nhận thức của trẻ. việc
ôn luyện tập các tác phẩm đã học trong chương trình giáo viên đọc hoặc kể lại tác
phẩm cho trẻ nghe sau đó yêu cầu trẻ đọc hoặc kể lại theo gợi ý của trong các thời
điểm ngoài giờ học, cô theo dõi sửa sai cho trẻ để trẻ thực hiện đúng yêu cầu mong
đợi của cô. Muốn cho việc ôn luyện hứng thú tham gia tôi tổ chức dưới hình thức
trò chơi: hái hoa, đoán tên, đóng kịch, hay thi biểu diễn giữa cá nhân, các tổ theo
các đề tài.

* Thông qua các ngày hội ngày lễ
Thông qua các ngày hội ngày lễ trong trường là hình thức để lồng gép hoạt
động cho trẻ LQVTPVH hiệu quả.
Ví dụ: gắn liền với các ngày hội ngày lễ vào dịp kỉ niệm ngày 8/3 ,1/6,
20/11, 22/12... cô giáo tổ chức cho các cháu trong lớp, trong trường liên hoan biểu
diễn văn nghệ, trong đó có thi đọc thơ kể truyện, đóng kịch theo tác phẩm văn học.
Hình thức này thu hút được nhiều trẻ tham gia biểu diễn, có tác dụng động viên cho
các cháu giỏi, đồng thời khuyến khích các cháu yếu, nhút nhát tham gia vào các
hoạt động nghệ thuật...
Và tương tự như vậy, tôi đã tận dụng mọi cơ hội mọi lúc mọi nơi để nâng cao
hiệu quả cho trẻ LQVPVH.
5. Giải pháp làm đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho tổ chức hoạt động cho trẻ
làm quen với Văn học
Với đặc điểm của trẻ mầm non, trẻ trực quan hình tượng là chủ yếu. Bởi vậy
đồ dùng đồ chơi chính là sách giáo khoa của trẻ, giúp trẻ nhận biết kiến thức dễ
dàng và hào hứng trong khi học. Vì vậy việc chuẩn bị đồ dùng đồ chơi đủ và
phong phú đa dạng phục vụ cho hoạt động học là hết sức cần thiết. Có đủ đồ dùng
đồ chơi có tác động lớn đến hiệu quả cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học.
Qua hoạt động dạy trẻ, tôi hiểu được đặc điểm của trẻ là trẻ rất thhích các
hình ảnh nhân vật có tính dân gian như: Rối que, rối tay. Tôi đã sử dụng những phế
liệu như đồ dùng bỏ đi vải, xốp để tạo nên những mô hình, đồ vật, con vật xinh xắn
giúp trẻ hứng thú trong giờ văn học. Việc làm đồ dùng đồ chơi tôi căn cú vào nội

14


dung các câu chuyện, bài thơ để làm thành các bộ rối tay hoặc rối que phục vụ cho
dạy một câu chuyện.
Ngoài ra dùng các phế liệu nhựa, xốp là sạch xây dựng nên các mô hình làm
đồ dùng dạy học.


Hình ảnh 4: Đồ chơi tự làm phục vụ cho trẻ LQVTPVH
6. Giải pháp tuyên truyền phối hợp với phụ huynh
Như chúng ta đã biết, đối với trẻ mầm non môi trường tiếp xúc của trẻ
chủ yếu là gia

15


đình và nhà trường. Chính vì vậy việc kết hợp giữa gia đình và nhà trường là một
biện pháp không thể thiếu. Phụ huynh chính là nhân tố quyết định về các điều kiện
cho hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ rất cần thiết phải có đóng góp của phụ huynh.
Trong việc tạo nguồn nguyên liệu, xây dựng môi trường văn học tại trường lớp,
nhất thiết cần đén sự phối hợp của phụ huynh.
Tôi đã quan tâm việc tuyên truyền với phụ huynh bằng nhiều hình thức,
thông qua góc
tuyên truyền trao đổi thường xuyên qua giờ đón trả trẻ; thông qua các kỳ họp phụ
huynh, tôi nêu tầm quan trọng của lĩnh vực phát triển ngôn ngữ cho trẻ nói riêng,
đặc biệt là phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động cho trẻ LQVTPVH.
Tuyên truyền cho phụ huynh hiểu về việc thông qua các hình ảnh sự gợi mở của
người lớn, để trẻ tư duy về hình ảnh đó một cách lô gic, từ nội dung duy, giúp trẻ
nói lên được ý tưởng của mình bằng ngôn ngữ, thông qua các câu hỏi mà người lớn
gợi ý, hỏi trẻ. Từ đó phụ huynh phối hợp với giáo viên giáo dục trẻ tại gia đình,
giúp việc tiếp thu kiến thức, rèn luyện kĩ năng kể chuyện sáng tạo của trẻ tốt hơn.
Hàng tháng tuyên truyền với phụ huynh qua các biểu bảng nêu lên nội
dung về chủ điểm, về các câu chuyện sáng tạo của cô và trẻ. Qua đó phụ huynh
thấy được ngôn ngữ của trẻ phát triển như thế nào và có biện pháp kích thích sự
phát triển ngôn ngữ cho trẻ tại gia đình.
Ví dụ: Cô trao đổi với phụ huynh về những hình thức có thể giúp trẻ kể
lại chuyện, đọc thơ ,tư duy sáng tạo câu chuyện trẻ đã kể, yêu cầu phụ huynh về

nhà cho trẻ kể lại câu chuyện đó hoặc kích thích trẻ kể các câu chuyện khác khi
gặp tình huống nào đó, hình ảnh nào đó ở gia đình.
Huy động phụ huynh đóng góp tiền ủng hộ tạo góc văn học hoặc thu nhập
những nguyên vật liệu sẵn có, dễ tìm như báo hoạ mi, vải vụn, len vụn, các vỏ
hộp, mút xốp…kết hợp trong và ngoài giờ đón trả trẻ để trao đổi với phụ huynh.
Xây dựng góc sách tuyên truyền với phụ huynh về các câu truyện của cô, của
trẻ đa dạng và phong phú. Bao gồm các sách tranh, hình ảnh về thế giới xung
quanh.Để phụ huynh có thể tham khảo, có hiểu biết thêm, cùng với giáo viên phối
hợp tạo điều kiện cho trẻ làm LQVTPVH hiệu quả nhất và phát triển ngôn ngữ cho
trẻ một cách tốt nhất.

16


Kết quả việc tuyên truyền phối hợp đã giúp cho môi trường giáo dục của lớp
đa dạng, phong phú; nhóm lớp đủ đồ dùng đồ chơi. Từ kết quả đó đã tác động đến
hiệu quả giáo dục trẻ nói chung và hoạt động cho trẻ LQVTPVH nói riêng.
7. Giải pháp sưu tầm các bài hát ru và ru trẻ ngủ trong giờ ngủ
Từ xa xưa, hát ru là món ăn tinh thần quý giá đối với mỗi trẻ thơ. Nhưng
ngày nay món ăn tinh thần đó đối với trẻ đã bị đa các bà mẹ trẻ và giáo viên
mầm non không mang lại cho trẻ.
Từ thực tế chăm sóc giáo dục trẻ, tôi nhận thấy đa số trẻ thèm khát được
nghe những lời ru êm ái trước giờ trẻ ngủ. Mỗi bài hát ru đều chứa đựng trong đó
những giá trị giáo dục sâu sắc. Ngoài ra khi trẻ nghe cô hát ru rất nhiều trẻ còn lắng
nghe và hát theo cô. Có trẻ còn hỏi cô về một số những thắc mắc trong nội dung
các câu thơ mà trẻ thấy khó hiểu. Vì vậy tôi nghĩ đây cũng là một giải pháp mới
giúp mở rộng cho trẻ làm quen với văn học và thông qua đó phát triển ngôn ngữ
cho trẻ.
Trước hết, tôi đã bằng nhiều hình thức sưu tầm các bài hát ru xưa. Tự học
hát ru để sử dụng trong hoạt động chăm sóc giấc ngủ cho trẻ và đồng thời thực hiện

mục tiêu của sáng kiến kinh nghiệm.
Tôi đã tìm đến các ông bà cao tuổi trên địa bàn xã, nhờ các ông bà đọc lại
cho các bài hát ru xưa tôi chép lại. tôi sưu tầm trên mạng để có được các bài hát
ru như mong muốn.
Kết quả tôi đã sưu tầm được 32 bài hát ru cổ, 10 bài hát ru lời mới. Giai
điệu các bài hát ru mượt mà ấm áp; nội dung các bài hát ru chứa đựng nhiều
những nỗi niềm sâu lắng mang tính giáo dục cao. Tuy đối với trẻ là rất trừu
tượng, nhưng điều đó luôn tạo ra trong trẻ sự tưởng tượng phong phú, để kích
thích trẻ có thể có nhu cầu hỏi người lớn để được giải đáp. Hoặc sẽ mãi là điều
trẻ nhớ và tưởng tượng trong tâm trí trẻ. Những câu từ trong các bài hát ru
thường lại là những hình ảnh gây được chú ý của trẻ.
Ví dụ:
Cái ngủ mày ngủ cho lâu
Mẹ còn bắt ốc đồng sâu chưa về.
Bắt được con trắm con trê
Buộc cổ lôi về nấu nước làm lông.
Miếng thịt thì để phần chồng

17


Miếng xương mẹ gặm, miếng lòng con ăn!
Hay:
Cái bống đi chợ cầu hôn
Sao mày chẳng rủ cái tôm đi cùng?
Bồng bồng cõng chồng đi chơi
Đi đến chỗ lội đánh rợ mất chồng.
Ai ơi cho mượn gầu sòng
Tôi tát nước cạn cho chồng tôi lên!
Hay:

Con cò, con vạc, con nông
Sao mày dẫm lúa nhà ông hỡi cò?
Không không tôi dứng trên bờ
Mẹ con nhà vạc đổ ngờ cho tôi!

Như vậy tôi đã có lượng bài hát ru, áp dụng để chăm sóc giấc ngủ cho trẻ.
Những bài hát ru cũng là những tác phẩm văn học được mở rộng đưa đến với trẻ,
tạo cảm hứng tưởng tượng cho trẻ, qua đó góp phần vào giúp trẻ hứng thú học với
hoạt động LQVTPVH. Cũng như thông qua hát ru giáo dục nhân cách và phát triển
ngôn ngữ cho trẻ đạt hiệu quả cao.
IV. KIỂM NGHIỆM
Quá trình áp dụng các giải pháp đã thực hiện, tôi nhận thấy đa số trẻ trong
lớp thích thú với hoạt động LQVTPVH. Có nhiều ý tưởng hay trong kể chuyện. Trẻ
duy trì dùng câu chính xác để diễn đạt ý tưởng bằng các câu khó hơn, câu mở
rộng.
Sau khi thực hiện các biện pháp tôi đã tiến hành khảo sát kết quả theo các nội
dung đã khảo sát ban đầu để so sánh và rút ra hiệu quả đạt được sau nghiên cứu.
Kết quả cho thấy như sau:
- Tạo được môi trường giáo dục ở nhóm lớp tốt cho trẻ hoạt động.
- Tận dụng các nguyên vật liệu sẵn có, dễ tìm để tạo ra nhiều loại đồ dùng
phong phú, đa dạng, sử dụng có hiệu quả trong việc tổ chức cho trẻ hoạt động nói
chung và trẻ LQVTPVH nói riêng.
- Giáo viên nắm vững thêm về phương pháp cho trẻ LQVTPVH, phong phú
trong tư duy về hình thức tổ chức cho trẻ LQVTPVH.

18


- nâng cao được hiệu quả công tác tuyên truyền phối hợp.
- Đặc biệt là nâng cao được chất lượng cho trẻ LQVTPVH, góp phần phát

triển ngôn ngữ cho trẻ, đáp ứng được kết quả mong đợi về phát triển ngôn ngữ của
trẻ trong độ tuổi. Kết quả được thể hiện trên trẻ cụ thể:
STT
Nội dung khảo sát
Số trẻ
Kết quả khảo sát
Số trẻ
Tỉ lệ Tỉ lệ % tăng so
%
với ban đầu.
1
Khả năng nghe theo yêu 30
27
90
34
cầu độ tuổi.
2
Sử dụng vốn câu từ theo 30
26
86,6
36,6
yêu cầu độ tuổi.
3
Sử dụng ngôn ngữ diễn 30
24
80
34
đạt kể lại chuyên, mô tả
lại sự việc có sự giúp đỡ.
Qua kết quả kiểm nghiệm, tỉ lệ % hiệu quả sau khi tổ chức thực hiện các giải

pháp đã tăng lên rõ rệt so với kết quả khảo sát ban đầu. Như vậy đã khẳng định các
giải pháp đã đựơc tổ chức thực hiện nêu trong sáng kiến có hiệu quả khá tốt.
C. KẾT LUẬN ĐỀ XUẤT
I. KẾT LUẬN
Qua một năm tiến hành các giải pháp giúp trẻ làm quen với tác phẩm văn
học, với mục đích nâng cao chất lượng cho trẻ LQVTPVH nhằm phát triển ngôn
ngữ cho trẻ. Qua quá trình triển khai thực hiện, mối giải pháp đều đã đóng góp hiệu
quả cho mục đích của đề tài đáng kể.
Một trong những giải pháp quan trọng có tác động lớn nâng cao chất lượng
cho trẻ làm quen với văn học đó là môi trường văn học. Môi trường tốt sẽ tác động
đến việc trẻ thu nhận kiến thức, trên cơ sở trực tiếp trải nghiệm và trong hoạt động
tương tác với xung quanh. Các giải pháp đều đã có đóng góp cho hiệu quả của đề
tài bằng những kết quả cụ thể thu được sau tiến hành mỗi giải pháp. Các giải pháp
đã được tiến hành một cách khoa học có mục đích, có hệ thống đã giúp cho đề tài
hiệu quả.
Từ thực tế về kết quả đạt được qua việc tổ chức thực hiện các giải pháp
trong SKKN, nhằm đạt được kết quả nâng cao chất lượng cho trẻ LQVTVH, phát
triển ngôn ngữ cho trẻ, tôi đã rút ra bài học kinh nghiệm như sau:
19


1. Giáo viên cần phải có tâm huyết với nghề nghiệp, luôn có ý thức bồi
dưỡng năng lực chuyên môn gnhiệp vụ bản thân để có khả năng thực hiện hiệu quả
việc chăm sóc giáo dục trẻ.
2. nhận thức được tầm quan trọng và có kỹ năng xây dựng môi trường Giáo
dục.
3. Nắm vững phượng pháp tổ chức các hoạt động giáo dục trẻ nói chung và
hoạt động cho trẻ LQVTPVH nói riêng, biết giáo dục tích hợp.
4. Tích cực thực hiện công tác tuyên truyền phối hơp với phụ huynh đạt hiệu
quả.

II. ĐỀ XUẤT
Đề nghị lãnh đạo nhà trường quan tâm nhiều hơn nữa trong việc bổ sung
thêm thiết bị đồ dùng theo hướng hiện đại cho hoạt động văn học nói riêng và các
họat động chăm sóc giáo dục trẻ trong trường nói chung.
Trên đây là một số giải pháp tôi đã áp dụng cho trẻ 3 tuổi LQVTPVH, nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động cho trẻ LQVTPVH, nhằm tác động tích cực đến phát
triển lĩnh vực ngôn ngữ cũng như góp phần phát triển toàn diện cho trẻ. Trong quá
trình tổ chức thực hiện các các giải pháp không tránh khỏi những khiếm khuyết.
Tôi rất mong được hội đồng khoa học ngành và các bạn đồng nghiệp đóng góp ý
kiến cho đề tài được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN
Ba Đình , ngày 15 tháng 4 năm 2014
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến
kinh nghiệm của mình không sao chép
của người khác.
Người viết sáng kiến

Nguyễn Thị Hương

20



×