Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

PHÁT TRIỂN KHẢ NĂNG TỰ HỌC CỦA HỌC SINH THÔNG QUA MỘT SỐ BIỆN PHÁP TRONG DẠY HỌC SỬ 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (262.52 KB, 17 trang )

SỞ GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GIÁO DỤC-ĐÀO TẠO NGA SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
PHÁT TRIỂN KHẢ NĂNG TỰ HỌC CỦA HỌC SINH THÔNG QUA
MỘT SỐ BIỆN PHÁP TRONG DẠY HỌC SỬ 9

Người thực hiện: Mai Thị Hiên
Chức vụ:
Giáo viên
Đơn vị công tác: THCS Nga Văn
SKKN thuộc lĩnh vực: Lịch sử

THANH HÓA NĂM 2015

1


A- ĐẶT VẤN ĐỀ
Lịch sử là một một môn học đặc thù với những chuỗi sự kiện, diễn biến
đã diễn ra trong quá khứ. Vì vậy, nhiệm vụ của dạy học lịch sử là khôi phục
lại bức tranh quá khứ để từ đó rút ra bài học từ quá khứ, vận dụng nó vào
trong cuộc sống hiện tại và tương lai.
Tuy nhiên, hiện nay phần đông học sinh không thích học lịch sử vì đây là
môn học được các em coi là rất khó, lại là môn phụ, nên việc dạy học lịch sử
của giáo viên trở nên khó khăn hơn rất nhiều. Vậy làm thế nào để học sinh sẽ
yêu thích môn học và tự giác trong học tập, ham muốn tìm tòi, sáng tạo. Một
trong những phương pháp quan trọng để đem lại hiệu quả cho người giáo viên
dạy lịch sử ở trường THCS là vấn đề tự học của học sinh.
Trước hết, cần quan niệm như thế nào về việc tự học của học sinh? Trong
việc tự học, không chỉ chú ý đến việc học sinh tự đọc sách, làm việc không có


thầy giáo và bạn bè, mà phải chú trọng đến tinh thần, thái độ, ý chí, phương
pháp làm việc của các em để nắm vững kiến thức và vận dụng kiến thức vào
đời sống. Có thể học sinh tự học sách giáo khoa, song vẫn thụ động, chỉ biết
thuộc lòng mà không biết cách đặt vấn đề, tìm hiểu sâu hơn những kiến thức
trong sách. Có thể học sinh ngồi nghe giáo viên giảng bài mà vẫn không tiến
hành những hoạt động tư duy độc lập trong việc lựa chọn những điều nghe
được để ghi chép, nảy sinh những vấn đề mới cần giải quyết, có nhu cầu tìm
hiểu sâu hơn những điều giáo viên trình bày. Kết quả kiểm tra sẽ kém nếu học
sinh chỉ lặp lại những điều đã đọc trong sách giáo khoa, mà không thể hiện
việc độc lập làm việc của mình trong khi nghe giảng ở trên lớp, tự học ở nhà
để trình bày những kiến thức thực sự của mình đã làm chủ, biết sử dụng ngôn
ngữ của mình để diễn đạt kiến thức và có ý kiến nhận xét, phán đoán riêng.
Vì vậy, quan niệm việc tự học trong quá trình học tập của học sinh là
việc các em độc lập hoàn thành những nhiệm vụ được giao, với sự giúp đỡ,
hướng dẫn, kiểm tra của giáo viên. Nó gây hứng thú học tập, sự cố gắng của
học sinh (nhất là học sinh cuối cấp) và đóng góp phần nào vào sự phát triển
của xã hội. Từ những vấn đề trên, tôi quyết định chọn đề tài “Phát triển khả
năng tự học của học sinh thông qua một số biện pháp trong dạy học sử 9”
nhằm góp phần vào việc nâng cao hiệu quả dạy học bộ môn Lịch sử 9 trong
nhà trường THCS
2


B/ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
Việc rèn luyện phương pháp tự học cho HS không chỉ là một biện pháp
nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là mục tiêu dạy học. Thực tế cho thấy
một số học sinh học rất chăm chỉ nhưng vẫn học kém, các em thường học
bài nào biết bài đấy, học phần sau đã quên phần trước, học thuộc kiến thức
một cách chi tiết nhưng khi hỏi nội dung kiến thức bao trùm thì không trả lời

được, không biết liên kết các kiến thức với nhau, không biết vận dụng kiến
thức đã học trước đó vào những phần sau. Phần lớn số học sinh này khi đọc
sách hoặc nghe giảng trên lớp không biết cách tự ghi chép để lưu thông tin,
lưu kiến thức trọng tâm vào trí nhớ của mình. Vì vậy, việc đi sâu vào hoạt
động tự học của học sinh trong dạy học sẽ giúp các em học được phương
pháp học, tăng tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy của bản
thân
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ
Trước khi thực hiện đề tài này tôi đã khảo sát chất lượng của học sinh và
thu được kết quả như sau:
Lớp
9B

Tổng
số HS
43

Giỏi
SL
%
2
4.7

Khá
SL
13

%
30.2


TB
SL
28

%
55.8

Yếu - kém
SL
%
4
9.3

Thông qua bài kiểm tra, tôi nhận thấy những sai sót của học sinh:
- Học sinh thường trả lời câu hỏi bằng cách sao chép nguyên xi sách giáo
khoa, trình bày lủng củng, chưa có tính độc lập tư duy.
- Học sinh trả lời được những câu hỏi dễ, đơn giản (như trình bày) còn
một số câu hỏi mang tính tổng hợp, phân tích, so sánh, nhận xét, rút ra ý
nghĩa, liên hệ thực tế... thì còn rất lúng túng hoặc chung chung, rất ít học sinh
giành được điểm ở phần câu hỏi mang tính tư duy độc lập làm chủ kiến thức
- Đa số học sinh cho rằng lịch sử là bộ môn phụ, lại khó học nên tâm lý
các em không thích bộ môn và cũng không giành nhiều thời gian học cho môn
học này.
- Trong một số tiết học, do chương trình quá tải so với thời gian quy định
trong chương trình nên giáo viên ít chú ý tới đối tượng học sinh yếu kém,

3


chính yếu tố này làm cho các em thêm tự ti về năng lực của mình và cảm thấy

chán nản về môn học, kết quả làm bài không cao.
- Vì lượng kiến thức trong các tiết học tương đối nhiều, lại kèm theo
nhiều sự kiện lịch sử cùng với các mốc thời gian, số tiết làm bài tập thì không
có trong chương trình như các khối dưới, nên giáo viên cũng không có nhiều
thời gian để dẫn dắt học sinh rèn luyện kĩ năng trình bày suy nghĩ của mình
thông qua lời nói nhằm phát triển khả năng đàm thoại trước mọi người.
III- GIẢI PHÁP VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Căn cứ vào tình hình thực tế trên, vấn đề đặt ra với giáo viên là làm như thế
nào để giúp học sinh hiểu được lịch sử tức là phải nắm được bản chất của sự
kiện, từ đó các em thấy được lịch sử là môn học bổ ích, dễ hiểu, các em sẽ trở
nên yêu thích môn học, tự giác học tập, luôn tìm tòi và sáng tạo. Muốn vậy,
trong các tiết giảng dạy, giáo viên cần khuyến khích năng lực tự học của học
sinh dưới sự hướng dẫn của giáo viên thông qua những hoạt động độc lập chủ
yếu của học sinh như sau:
1.Những hoạt động tự nhận thức khi nghe giáo viên giảng bài
a) Sử dụng sách giáo khoa trên lớp:
Trước giờ học, học sinh có thể đã đọc bài viết trong sách giáo khoa ở nhà
theo sự hướng dẫn của giáo viên. Vì vậy, trong quá trình giáo viên trình bày,
học sinh kết hợp theo dõi bài giảng và bài viết trong sách giáo khoa. Do đó ở
trên lớp, giáo viên không nên trình bày lại sách giáo khoa, điều đó làm mất
hứng thú của học sinh khiến các em có suy nghĩ: ở trong sách đã có cả rồi nên
không cần ghi chép hay lắng nghe và suy nghĩ. Đôi khi nên cho học sinh đọc
to, cả lớp cùng nghe một đoạn trong sách giáo khoa để thay cho phần trình
bày tài liệu mới, nếu phần đó chỉ cần thông tin tài liệu mới. Cũng có thể giáo
viên để cả lớp tự đọc một đoạn trong sách rồi đặt câu hỏi để học sinh trả lời.
Điều quan trọng trong việc sử dụng sách giáo khoa trên lớp là gíao viên
hướng dẫn học sinh nắm vững những nội dung quan trọng cần ghi nhớ, phân
tích những sự kiện cơ bản, rút ra kết luận khái quát, trả lời câu hỏi đặt ra.
Giáo viên phải làm cho học sinh thấy được sự thống nhất giữa bài giảng với
sách giáo khoa, hiểu được ý đồ của thầy khi bổ sung kiến thức ngoài sách

giáo khoa để làm nổi bật kiến thức cơ bản. Từ đó, học sinh tự lập dàn ý ghi
4


chép, hiểu lôgic phát triển lịch sử. Việc ghi dàn ý trên bảng đen có ý nghĩa
quan trọng để học sinh theo dõi nội dung sách giáo khoa, bài giảng và tự học
ở nhà.
Bài giảng tốt của giáo viên không phải chỉ giúp cho học sinh ghi chép
đầy đủ mà động viên tính tích cực tư duy của các em trong khi nghe giảng, tự
mình lựa chọn vấn đề để ghi chép theo dàn ý trên bảng và tự đặt ra những vấn
đề để giải quyết trên lớp hay tiếp tục suy nghĩ ở nhà.
Ví dụ: Khi dạy sử 9- Tiết 13- Bài 11- Mục I-Sự hình thành trật tự thế
giới mới.
+ Giáo viên yêu cầu học sinh theo dõi vào sách giáo khoa và cho biết:
? Hội nghị Ianta(Liên Xô) được triệu tập trong hoàn cảnh nào
+ Khi học sinh trả lời, giáo viên kết hợp ghi bảng ngắn gọn sự kiện:
- Từ ngày 4 -> 11/2/1945 hội nghị Ianta được triệu tập
+ Sau đó giáo viên tiếp tục hỏi:
? Tại sao hội nghị chỉ có sự tham gia của nguyên thủ 3 cường quốc
Đây là câu hỏi yêu cầu các em nhớ lại giai đoạn cuối của cuộc chiến
tranh thế giới II, để thấy được sự thắng thế của phe đồng minh chống phát xít.
Các em sẽ thấy được vai trò và sức mạnh của các cường quốc trong thế chiến
II và đặc biệt là vai trò của Liên Xô đối với nhân loại
+ Tiếp đó GV yêu cầu một HS đọc to phần chữ nhỏ trong SGK trang 45
cho cả lớp nghe
+ Sau đó GV hỏi câu hỏi cuối tiểu mục trong SGK:
? Hội nghị Ian ta đã có những quyết định nào và hệ quả của các quyết định
đó.
Đây là lọai câu hỏi thông thường, HS rất dễ trả lời nếu các em theo dõi
vào SGK

+ Trong khi học sinh trả lời, giáo viên kết hợp ghi bảng ngắn gọn sự
kiện:
- Nội dung: phân chia khu vực ảnh hưởng (sgk)
-> Xác lập Trật tự hai cực Ianta
+ Sau đó giáo viên nêu câu hỏi đòi hỏi tư duy độc lập của HS:
? Tại sao những thỏa thuận quy định trong hội nghị đã trở thành khuôn khổ
của một trật tự thế giới mới ( em hiểu như thế nào là “trật tự”, “khuôn khổ”)
5


? Tại sao gọi là trật tự hai cực do Liên Xô và Mĩ đứng đầu mỗi cực
Đối với hai câu hỏi trên, nếu HS không thể trả lời ngay thì GV cần đưa
ra các câu hỏi gợi mở, hoặc lấy những ví dụ đơn giản, gần gũi, để các đôí
tượng HS đều dễ hình dung và đưa ra câu trả lời. Từ đó, GV kết luận nội dung
của tiểu mục và dẫn dắt sang tiểu mục mới.
Với cách dạy như trên, học sinh sẽ không bị nhàm chán bởi giáo viên chỉ
tập trung nói lại và ghi lại những kiến thức đã có trong SGK, các em sẽ được
làm việc tích cực bằng chính tư duy của mình để lí giải cho những kiến thức
mà SGK đã cung cấp, đồng thời kết hợp ghi dàn ý vào vở như giáo viên đã
ghi trên bảng, ngoài ra các em còn có thời gian để ghi thêm một số kiến thức
mà các em cảm thấy quan trọng cần phải lưu lại .
b) Ghi bài trên lớp:
Giáo viên hướng dẫn học sinh ghi chép trên lớp ở những công việc sau:
* Thứ nhất, ghi dàn bài học, theo dàn bài của giáo viên trên bảng đen và
đối chiếu khi theo dõi sách giáo khoa để ghi những sự kiện chính.
* Thứ hai, vẽ lại trong vở ghi những hình vẽ giáo viên trình bày trên
bảng đen để minh hoạ cho bài giảng (những hình vẽ đơn giản song có nội
dung kiến thức).
Ví dụ: Khi dạy tiết 19-Bài 16- MụcII Nguyễn Ái Quốc ở Liên Xô(19231924). Khi GV nói đến sự kiện:Nguyễn Ái Quốc trình bày quan điểm về mối
quan hệ giữa phong trào công nhân ở các nước đế quốc với phong trào cách

mạng ở các nước thuộc địa.
GV minh họa bằng hình vẽ đơn giản kết hợp với trình bày hình vẽ: chủ
nghĩa đế quốc được Nguyễn Ái Quốc ví như con đỉa hai vòi, một vòi nó hút
máu (bóc lột) giai cấp công nhân ở chính quốc, một vòi hút máu của nhân dân
các nước thuộc địa, Vì vậy muốn tiêu diệt đế quốc thì công nhân ở chính quốc
phải đoàn kết với nhân dân lao động thuộc địa chặt đứt 2 vòi của chủ nghĩa
đế quốc, có như vậy mới tiêu diệt được chủ nghĩa đế quốc
Chủ nghĩa đế quốc

Phong trào công nhân

+

Phong trào cách mạng
6


( chính quốc)
(thuộc địa)
* Thứ ba, ghi lại số liệu, niên đại quan trọng, lập các niên biểu, đồ thị
(theo bài giảng giáo viên).
Ví dụ: Sau khi dạy xong Tiết 44-Bài 29: Cả nước trực tiếp chiến đấu
chống Mĩ, cứu nước (1965-1973). Giáo viên hướng dẫn HS lập niên biểu hệ
thống lại các giai đoạn lịch sử của cách mạng 2 miền với những nhiệm vụ cơ
bản nhất từ 1954 đến 1973:
Giai đoạn
Từ 1954-1960

Cách mạng miến Bắc
Cách mạng miền Nam

Hoàn thành cải cách ruộng -Đấu tranh chống Mĩ-Diệm,
đất
giữ gìn và phát triển lực
lương.
-“Đồng khởi” thắng lợi
Từ 1961-1965 Thực hiện kế hoạch nhà nước Đấu tranh chống chiến lược
5 năm nhằm bước đầu xây “Chiến tranh đặc biệt” của
dựng cơ sở vật chất cho Mĩ
CNXH
Từ 1965-1968 Vừa chiến đấu chống chiến Đấu tranh chống chiến lược
tranh phá hoại lần thứ nhất “Chiến tranh cục bộ” của Mĩ
của Mĩ, vừa sản xuất thực
hiện nghĩa vụ hậu phương
Từ 1969-1973 -Khôi phục và phát triển kinh Đấu tranh chống chiến lược
tế-văn hóa
“Việt Nam hóa chiến tranh”
- Chiến đấu chống chiến và “Đông Dương hóa chiến
tranh phá hoại lần thứ hai, tranh” của Mĩ
vừa sản xuất và làm nghĩa vụ
hậu phương
Bảng niên biểu này giúp các em hệ thống được kiến thức trong suốt
chặng đường dài của lịch sử thời kì đất nước bị chia cắt thành hai miền, các
em sẽ không bị lẫn lộn nhiệm vụ của mỗi miền trong mỗi giai đoạn lịch sử
* Thứ tư, ghi các tài liệu lịch sử gốc, câu nói nổi tiếng của các danh
nhân, câu trích trong tác phẩm các tác gia kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin,
Chủ tịch Hồ Chí Minh, văn kiện Đảng và Nhà nước... ghi chép phải liên hệ sự
kiện đang học với câu trích.

7



* Thứ năm, ghi các từ mới, các thuật ngữ sử học thường dùng để hiểu
nội dung các khái niệm, các kiến thức cơ bản trong bài.
Cuối cùng, ghi lời hướng dẫn, dặn dò của giáo viên về việc tự học ở nhà.
2. Tự học sách giáo khoa
Việc tự học SGK thường được thực hiện khi giáo viên yêu cầu các em về
nhà chuẩn bị bài cho tiết học sau. Tuy nhiên để các em chuẩn bị bài thường
xuyên và đầy đủ thì giáo viên nên yêu cầu học sinh có vở soạn bài ở nhà trước
khi đến lớp. Điều này có tác dụng tích cực đến ý thức, thái độ học tập của học
sinh, các em được chuẩn bị bài ở nhà trước nên khi giáo viên dạy bài mới thì
các em đã nắm được kiến thức cơ bản trong SGK thông qua việc trả lời các
câu hỏi ở cuối mỗi tiểu mục và cuối SGK. Đặc biệt hơn nữa, hiện nay với sự
phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, các em đã có thể ứng dụng công
nghệ thông tin vào việc tìm hiểu các thuật ngữ, tìm kiếm các nguồn tư liệu,
giải thích những kiến thức các em còn băn khoăn… trên intrenet. Điều đó sẽ
khiến các em không cảm thấy nặng nhọc bởi vừa phải làm quen với hàng loạt
kiến thức mới trong SGK, vừa phải độc lập tư duy giải quyết vấn đề GV đặt
ra, vừa phải kết hợp ghi dàn ý theo bảng đen, lại còn tranh thủ ghi chép tích
lũy thêm những kiến thức nâng cao. Thực tế các em đã được chuẩn bị bài từ
trước, nên giờ học trên lớp sẽ không còn nặng nề, quá tải, ngược lại giờ học
trên lớp sẽ giúp các em nhanh chóng lĩnh hội và khắc sâu kiến thức của tiết
học
Để giúp học sinh tự học theo kiến thức trong SGK, giáo viên cần hướng
dẫn các em thực hiện các bước như sau:
* Đọc và tự ghi tóm tắt ngắn gọn những vấn đề cơ bản của bài viết.
* Ghi lại những nội dung khó hiểu, đặc biệt là các thuật ngữ, khái niệm
lịch sử.
* Hoàn thành, câu hỏi bài tập trong sách.
* Tự làm việc với bản đồ, tranh ảnh trong sách giáo khoa như tìm hiểu
nội dung và trình bày diễn biến lịch sử theo bản đồ, tranh ảnh…

Tất cả những công việc giáo viên yêu cầu học sinh chuẩn bị ở nhà đếu
được giáo viên thường xuyên kiểm tra, đánh giá và cho điểm vào đầu giờ học.
Như vậy, việc chuẩn bị bài trước khi đến lớp của bộ môn sẽ trở thành thói

8


quen tốt, giúp các em không ngừng tìm tòi nâng cao hiểu biết, không bị giới
hạn bởi những kiến thức trong SGK
Ví dụ: Khi dạy sử 9- Tiết 14- Bài 13- Mục I-Những thành tựu chủ yếu
của cách mạng khoa học -kĩ thuật
- HS cần ghi lại ngắn gọn các nội dung cơ bản:
+ Những thành tựu trong lĩnh vực khoa học cơ bản
+ Những phát minh về công cụ sản xuất mới
+ Tìm ra những nguồn năng lượng mới
+ Sáng chế ra những vật liệu mới
+ Cách mạng xanh trong nông nghiệp
+ Tiến bộ trong giao thông vận tải, thông tin liên lạc
+ Thành tựu trong lĩnh vực chinh phục vũ trụ
- Vì đây là phần kiến thức mang tính tổng hợp của các nghành khoa học
nên có nhiều khái niệm khó hiểu. Vì vậy các em cần ghi lại những nội dung
khó hiểu để tìm câu trả lời, trong trường hợp các em không thể tìm được câu
trả lời thì giờ học ở trên lớp sẽ là mong đợi của các em để các em có thể tìm
thấy đáp án dưới sự chỉ dẫn của giáo viên hoặc thông qua sự hiểu biết của các
bạn trong lớp
- Câu hỏi cuối tiểu mục I: Cuộc cách mạng khoa học-kĩ thuật trong thời
gian gần đây có những thành tựu nào quan trọng đáng chú ý?
Đối với câu hỏi này, tất cả các đối tượng HS đều có thể trả lời vì các em
đã tóm tắt được những vấn đề cơ bản trước đó. HS cũng sẽ trả lời được một
cách cụ thể chi tiết thành tựu của mỗi lĩnh vực dựa vào SGK nếu như GV yêu

cầu
- Trong mục này có nhiều kênh hình (chưa kể đến HS tự sưu tầm thêm ),
tuy nhiên HS cần nêu được nội dung của các hình 24 25, 26 (SGK)
Hình 24: Cừu Đôli, động vật đầu tiên ra đời bằng phương pháp sinh sản
vô tính từ tế bào lấy từ tuyến vú của một con cừu đang mang thai
Hình 25: Năng lượng xanh (điện mặt trời) ở Nhật Bản. Là một nước
nghèo tài nguyên, Nhật Bản đã sớm áp dụng những thành tựu khoa học kĩ
thuật tiên tiến để tận dụng ánh sáng mặt trời phát minh rs điện phục vụ cho
sản xuất và sinh hoạt
Hình 26: Năm 1969, Astrong nhà du hành vũ trụ người Mĩ là người đầu
tiên trong lịch sử nhân loại đã đặt chân lên mặt trăng
9


3. Tự sưu tầm bản đồ, tranh ảnh, tư liệu ngoài sách giáo khoa
Việc sưu tầm này dựa trên cơ sở những kiến thức trong SGK, sau đó
giáo viên yêu cầu học sinh sưu tầm ở nhà để dùng minh họa cho tiết học ở
trên lớp. Giáo viên hướng dẫn học sinh thực hiện theo các bước sau:
* Lựa chọn những vấn đề cơ bản cần được làm nổi bật bằng các nguồn
tư liệu (các nguồn tư liệu này có thể tìm trong các loại sách báo cũ có liên
quan, trên internet hoặc trong các môn học liên môn)
Ví dụ: Trong Tiết 19- Bài 16 (lịch sử 9): “Những hoạt động của Nguyễn
Ái Quốc ở nước ngoài trong những năm 1919-1925”. Giáo viên yêu cầu học
sinh sưu tầm tài liệu nói về Nguyễn Ái Quốc. Học sinh có thể sử dụng bài thơ
“Người đi tìm hình của nước”(Tác giả: Chế Lan Viên)
Đất nước đẹp vô cùng nhưng Bác phải ra đi
Cho tôi làm sóng dưới con tàu đưa tiễn Bác
Khi bờ bãi dần lui, làng xóm khuất
Bốn phía nhìn không bóng một hàng tre
Đêm xa nước đầu tiên ai nỡ ngủ

Sóng vô dưới thân tàu đâu phải sóng quê hương
Trời từ đây chẳng xanh màu xứ sở
Xa nước rồi càng hiểu nước đau thương…
…Có nhớ chăng hỡi gió rét thành Ba Lê
Một viên gạch hồng Bác chống lại cả mùa đông băng gía
Và sương mù thành Luân Đôn có nhớ
Giọt mồ hôi người nhỏ giữa đêm khuya.
Đời bồi tàu lênh đênh theo sóng bể
Người đi hỏi khắp bóng cờ châu Mỹ, châu Phi
Những đất tự do những trời nô lệ
Những con đường cách mạng đang tìm đi
Đêm mơ nước ngày thấy hình của Nước
Cây cỏ trong chiêm bao xanh sắc biếc quê nhà
Ăn một miếng ngon cũng đắng lòng vì Tổ quốc

10


Chẳng yên lòng khi ngắm một nhành hoa…
…Nước Việt Nam nghìn năm Đinh, Lý, Trần, Lê
Thành nước Việt Nam nhân dân mát suối
Mái rạ nghìn năm hồng thay sắc mới
Những đời thường cũng có bóng hoa che
Ôi đường đến với Lê Nin là đường về tổ quốc
Tuyết Mát cơ va sáng ấy lạnh trăm lần
Trông tuyết trắng như đọng nghìn nước mắt
Lê Nin mất rồi nhưng Bác chẳng dừng chân
Luận cương của Lê Nin theo người về quê Việt
Biên giới còn xa nhưng Bác đã đến rồi
Kìa bóng Bác đang hôn lên hòn đất

Lắng nghe trong màu hồng hình đất nước phôi thai
Như vậy qua bài thơ, học sinh sẽ xây dựng trong tâm trí mình chân
dung về nhân vật lịch sử mà tên tuổi đã trở thành huyền thoại, một hình tượng
nghệ thuật có sức rung động và toả sáng mạnh mẽ, một tinh thần thiết tha yêu
nước, chí khí cương quyết đi tìm ra hình dáng cho đất nước Việt Nam, cho
dân tộc Việt Nam. Thông qua nội dung bài thơ, học sinh cũng đã khái quát
được con đường và hoàn cảnh và con đường ra đi tìm đường cứu nước các em
đã được học trong chương trình lịch sử 8, đồng thời cũng thấy được kết quả
của hành trình ra đi tìm đường cứu nước mà các em chuẩn bị tìm hiểu ngay
trong tiết học.
* Ghi tóm lược những nội dung quan trọng có tác dụng bổ sung cho bài
học trong sách giáo khoa, hoặc lưu lại những tranh ảnh hay lược đồ có thể
minh hoạ cho kiến thức đã học, mở rộng sự hiểu biết
Ví dụ: Để chuẩn bị cho học sử 9-Tiết 7-Bài 6: Các nước châu Phi. Trong
mục I, GV yêu cầu học sinh chuẩn bị hình ảnh minh họa cho tình trạng đói
nghèo, lạc hậu ở châu Phi. Hoặc trong mục II, GV yêu cầu HS tìm hình ảnh
minh họa cho sự tàn bạo của chế độ phân biệt chủng tộc mà chính quyền thực
11


dân da trắng đã làm đối với nhân dân Nam Phi. Trong trường hợp HS đã
chuẩn bị hình ảnh minh họa nhưng chưa thực sự sát với nội dung GV yêu cầu
nên GV cũng phải chuẩn bị trước từ nhà và hỗ trợ hình ảnh cho các em khi
cần thiết

Đôi dép của người châu Phi được làm từ vỏ chai nước khoáng

Một người thoát chết trong nạn diệt chủng đang khấn trước đầu lâu 12
của các nạn nhân



* Dựa trên các nguồn tư liệu đó, tích cực tư duy bằng cách tự đặt ra
những vấn đề cần giải quyết giúp nâng cao kiến thức
Ví dụ: Qua việc quan sát bức ảnh “Một người thoát chết trong nạn diệt
chủng đang khấn trước đầu lâu của các nạn nhân”, em có nhận xét gì về chế
độ phân biệt chủng tộc mà chính quyền da trắng đã áp dụng ở Cộng hòa Nam
Phi?
4. Sử dụng bản đồ tư duy
Bản đồ tư duy là hình thức ghi chép nhằm tìm tòi đào sâu, mở rộng một
ý tưởng, hệ thống hóa một chủ đề hay một mạch kiến thức bằng cách kết
hợp sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết với sự tư duy
tích cực để mở rộng và đào sâu các ý tưởng. Đặc biệt bản đồ tư duy là một
sơ đồ mở, không yêu cầu tỉ lệ, chi tiết chặt chẽ như bản đồ địa lí, có thể vẽ
thêm hoặc bớt các nhánh, mỗi người vẽ một kiểu khác nhau, dùng màu sắc,
hình ảnh, các cụm từ diễn đạt khác nhau, cùng một chủ đề nhưng mỗi người
có thể “thể hiện” nó dưới dạng bản đồ tư duy theo một cách riêng, do đó việc
lập bản đồ tư duy phát huy được tối đa khả năng sáng tạo của học sinh. Có
thể vận dụng bản đồ tư duy vào hỗ trợ dạy học kiến thức mới, củng cố kiến
thức sau mỗi tiết học, ôn tập hệ thống hóa kiến thức sau mỗi chương và giúp
học sinh hiểu bài, nhớ lâu, nhớ sâu.
13


Giáo viên hướng dẫn học sinh đi từ khái quát đến cụ thể, hướng dẫn học
sinh lập bản đồ tư duy: ( Nội dung chìa khóa là cây
cành
nhánh)
từ đó học sinh mở rộng, phát triển thêm.
Ví dụ: Sau khi học xong sử 9- Tiết 6-Bài 5: Các nước Đông Nam Á. GV
hướng dẫn HS lập sơ đồ tư duy khái quát lại nội dung kiến thức cơ bản mà

các em vừa được lĩnh hội trong tiết học

Sau đó, GV yêu cầu HS dựa vào sơ đồ để trình bày khái quát nội dung
kiến thức của tiết học. Đây chính là phần củng cố kiến thức mà GV là người
cố vấn, là trọng tài cùng với HS hệ thống kiến thức bài học.
IV. KIỂM NGHIỆM
1.Kiểm nghiệm:
Sau khi thực hiện đề tài này, tôi tiến hành kiểm tra các em và thu được kết
quả như sau:
Giỏi
Tổng
%
số HS SL
9B
43
10
23,3
2. Hiệu quả:

Lớp

Khá
SL
19

%
44,2

TB
SL

14

%
32,5

Yếu - kém
SL
%
0
0

14


- So với trước khi thực hiện đề tài này, số học sinh đạt điểm khá- giỏi tăng
lên, số học sinh trung bình giảm xuống, đặc biệt là số học sinh yếu- kém
không còn
- Góp phần nâng cao và mở rộng kiến thức cho học sinh
- Phát triển năng lực tư duy sáng tạo, độc lập suy nghĩ, mạnh dạn trình bày
suy nghĩ của bản thân và say mê học tập môn lịch sử hơn
3. Bài học kinh nghiệm:
- Bản thân tôi luôn cố gắng thay đổi phương pháp giảng dạy của mình
theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác của học sinh thông qua các phương
pháp dạy học trên
- Tôi đã tích cực hướng dẫn học sinh phương pháp học tập để các em có
thể tự học mọi lúc chứ không chỉ dừng lại học ở trên lớp, học với nhiều nguồn
tư liệu trên nhiều kênh thông tin, không ngừng trau dồi kiến thức. Thông qua
hoạt động này những học sinh yếu kém được làm việc một cách tích cực dưới
sự hướng dẫn của giáo viên, nắm chắc kiến thức, khắc sâu về bản chất của sự
kiện, hiện tượng lịch sử.

- Không ngừng tìm tòi, đọc và nghiên cứu các tài liệu để thu nhận các
phương pháp truyền thụ kiến thức cho học sinh từ dễ đến khó, từ mức độ thấp
đến mức độ cao
- Rèn luyện kĩ năng trình bày ngắn gọn , rõ ràng, đầy đủ, dễ hiểu và có
tính thuyết phục
- Luôn học hỏi đồng nghiệp để tích lũy chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm
C-KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
1. Kết luận:
Hướng dẫn, rèn luyện khả năng, thói quen tự học cho học sinh còn thể
hiện việc tôn trọng nhân cách của các em, gây cho các em lòng tự tin, chống ỷ
lại, lười biếng trong làm việc và suy nghĩ. Với sáng kiến kinh nghiệm này, tôi
đã áp dụng vào các tiết dạy và đã đạt được kết quả khả quan. Trước hết bản
thân đã nhận thấy rằng những kinh nghiệm này rất phù hợp với bộ môn và
những tiết dạy theo hướng đổi mới. Học sinh có hứng thú học tập hơn, tích
cực chủ động sáng tạo để mở rộng vốn hiểu biết, đồng thời cũng rất linh hoạt

15


trong việc thực hiện nhiệm vụ lĩnh hội kiến thức. Không khí học tập sôi nổi,
nhẹ nhàng và học sinh yêu thích môn học. Tôi cũng hi vọng với việc áp dụng
đề tài này, học sinh sẽ đạt được kết quả cao trong các kì thi và đặc biệt học
sinh sẽ yêu thích môn học hơn so với thực trạng hiện nay
2. Đề xuất
Để thực hiện phương pháp này một cách có hiêụ quả theo mục tiêu giáo
dục bộ môn, tôi xin kiến nghị đề xuất một số vấn đề sau:
* Cơ quan thiết bị trường học:
- Cần có đầy đủ tranh ảnh về các di tích lịch sử và di sản văn hoá hoặc
chân dung của các nhân vật lịch sử có công với cách mạng .
- Nhà trường cần mua một số tư liệu, tài liệu có liên quan đến lịch sử và

cách giảng dạy bộ môn lịch sử
* Đối với giáo viên:
- Soạn bài, nghiên cứu kĩ bài giảng, lựa chọn kiến thức, dạy học bằng
phương pháp lấy học sinh làm trung tâm, hệ thống câu hỏi rõ ràng, chuẩn
mực, lôgic
- Cần khen-chê kịp thời, bổ sung thiếu sót và cố gắng tìm ý đúng trong
câu trả lời của học sinh để kích thích các em học tập, tổ chức cho học sinh
làm việc độc lập, đàm thoại, trao đổi bài chéo, đồng thời thường xuyên kiểm
tra việc chuẩn bị bài ở nhà, chấm vở bài tập để kiểm tra việc học của học sinh.
- Tổ chức tốt hoạt động học tập nhóm và cá nhân để thực hiện tốt việc đối
thoại và đàm thoại trong học tập.
- Tăng cường hoạt động chuyên môn theo nhóm, tổ, cụm và có sổ dự giờ,
góp ý, rút kinh nghiệm.
*Đối với học sinh:
- Có đầy đủ SGK, sách bài tập, vở bài tập
- Cần tự giác, tích cực, chủ động trong học tập
- Biết vận dụng sáng tạo kiến thức vào thực tế
Hướng dẫn, rèn luyện khả năng, thói quen tự học cho học sinh còn thể hiện
việc tôn trọng nhân cách của các em, gây cho các em lòng tự tin, chống ỷ lại,
lười biếng trong làm việc và suy nghĩ. Hiện nay, chúng ta đã có nhiều điều

16


kiện để mở rộng việc tự học của học sinh trong môn Lịch Sử. Cần thực hiện
phương châm “Lấy học sinh làm trung tâm” chống việc học thụ động.

XÁC NHẬN CỦA THỦ
TRƯỞNG ĐƠN VỊ


Nga Văn, ngày 10 tháng 04 năm 2015
Tôi cam đoan đây là SKKN do tôi viết,
không sao chép của người khác.
NGƯỜI THỰC HIỆN

Mai Thị Hiên

17



×