Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Huy động các lực lượng xã hội để giúp đỡ học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục ở trường THCS Nga Trường, huyện Nga Sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.49 MB, 24 trang )

MỘT SỐ GIẢI PHÁP
HUY ĐỘNG CÁC LỰC LƯỢNG XÃ HỘI
ĐỂ GIÚP ĐỠ HỌC SINH CÓ HOÀN CẢNH ĐẶC BIỆT KHÓ KHĂN
GÓP PHẦN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC
Ở TRƯỜNG THCS NGA TRƯỜNG - HUYỆN NGA SƠN
A. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Chất lượng giáo dục là cái đích mà tất cả các nhà trường, các cơ sở giáo dục
quan tâm để đạt được mục tiêu giáo dục.
Mục tiêu của giáo dục Trung học cơ sở (THCS) là nhằm giúp học sinh củng cố
và phát triển những kết quả của giáo dục Tiểu học, có học vấn phổ thông ở trình
độ cơ sở và những hiểu biết ban đầu về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học
trung học phổ thông, trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động.
Mọi tổ chức, gia đình và công dân có trách nhiệm chăm lo sự nghiệp giáo dục,
phối hợp với nhà trường thực hiện mục tiêu giáo dục, xây dựng môi trường giáo
dục lành mạnh và an toàn.
Giai đoạn 2006 - 2009: Cơ sở vật chất đang trong tiến độ xây dựng bổ sung
theo hướng chuẩn Quốc gia. Toàn trường có 1196 học sinh mà có tới 661 học
sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn (HSCHCĐBKK) và đã đạt được các chỉ
tiêu về chất lượng giáo dục theo tiêu chuẩn trường trung học đạt chuẩn Quốc
gia(Tỷ lệ học sinh bỏ học hàng năm không quá 1%, học sinh lưu ban không quá
3%. Học lực giỏi đạt từ 3% trở lên, học lực khá đạt từ 30% trở lên, học lực yếu kém không quá 5%. Thực hiện đúng quy định của BGD&ĐT về thời gian tổ
chức nội dung các hoạt động giáo dục ở trong và ngoài giờ lên lớp, mỗi năm học
tổ chức được ít nhất một lần hoạt động tập thể theo quy mô toàn trường. Hoàn
thành nhiệm vụ được giao trong kế hoạch phổ cập GDTHCS của địa phương).
Muốn nâng cao chất lượng giáo dục trong giai đoạn 2010 - 2013 với tình hình
kinh tế địa phương còn gặp nhiều khó khăn, số học sinh là con em gia đình có
hoàn cảnh đặc biệt khó khăn còn nhiều thì công tác huy động các lực lượng xã
hội để giúp đỡ học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn (học sinh khuyết tật, con
hộ nghèo, cận nghèo, mồ côi, gia đình chính sách…) vượt khó vươn lên trong
học tập và rèn luyện là một việc làm không dễ đối với một nhà trường nằm trong
vùng nông thôn khó khăn về kinh tế như xã Nga Trường.


Sau 4 năm (2010 - 2013), tôi đã có một số giải pháp hữu hiệu để giúp đỡ kịp
thời những học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn trong trường nên chất lượng
giáo dục đã có những bước đột phá vững chắc, luôn xếp nhất - nhì của huyện,
nhà trường liên tục đạt "tập thể lao động xuất sắc cấp tỉnh", được PGD&ĐT Nga
Sơn bình chọn là "đơn vị điển hình tiên tiến cấp tỉnh giai đoạn 2010 - 2014"
Tôi xin trình bày một số giải pháp "Huy động các lực lượng xã hội để giúp đỡ
học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, góp phần nâng cao chất lượng giáo
dục ở trường THCS Nga Trường, huyện Nga Sơn" để các bạn đồng nghiệp tham
khảo.
1


B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
Nghị quyết số 04-NQ/HNTW ngày 14/1/1993 Hội nghị lần thứ 4 BCH
Trung ương Đảng khóa VII về tiếp tục đổi mới sự nghiệp GD&ĐT đã ghi: “Huy
động các nguồn đầu tư trong nhân dân, viện trợ của các tổ chức quốc tế, kể cả
vay vốn của nước ngoài để phát triển GD”. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ VIII khẳng định: “Huy động toàn xã hội làm giáo dục, động viên các tầng
lớp nhân dân đóng góp sức xây dựng nền giáo dục quốc dân dưới sự quản lí của
Nhà nước”.
Trẻ em có vai trò quan trọng đối với gia đình và xã hội, là tương lai của đất
nước. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm công tác bảo vệ, chăm sóc
và giáo dục trẻ em. Năm 1990, Việt Nam là quốc gia đầu tiên ở Châu Á và là
quốc gia thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước của Liên Hiệp quốc về Quyền
trẻ em. Đến nay, nước ta ban hành Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em (sửa
đổi năm 2004) và nhiều văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực này.
Bên cạnh việc chăm sóc trẻ em bình thường, có một nhóm đối tượng trẻ em
mà Đảng, Nhà nước và xã hội đặc biệt quan tâm đó là trẻ em có hoàn cảnh đặc
biệt khó khăn, bao gồm: trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ

em nhiễm HIV/AIDS, trẻ em là nạn nhân của chất độc hóa học, trẻ em khuyết tật
nặng và trẻ em bị ảnh hưởng bởi thiên tai, thảm họa.
Ngày13 tháng 6 năm 2012, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt ''Chiến lược
phát triển giáo dục 2011 - 2020". Phần giải pháp có đoạn: “Xây dựng và thực
hiện các chính sách nhằm đảm bảo bình đẳng về cơ hội học tập, hỗ trợ và ưu
tiên phát triển giáo dục và đào tạo nhân lực cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số,
vùng khó khăn, các đối tượng chính sách xã hội, người nghèo”.
Ngày 26 tháng 4 năm 2013, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số
647/QĐ-TTg Phê duyệt Đề án chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn
dựa vào cộng đồng giai đoạn 2013 - 2020. Mục tiêu chung của đề án là: Huy
động sự tham gia của xã hội, nhất là gia đình, cộng đồng trong việc chăm sóc,
trợ giúp trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn để ổn định cuộc sống, có cơ hội
thực hiện các quyền của trẻ em và hòa nhập cộng đồng theo quy định của pháp
luật; phát triển các hình thức chăm sóc thay thế trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó
khăn dựa vào cộng đồng; từng bước thu hẹp khoảng cách về mức sống giữa trẻ
em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn với trẻ em bình thường tại nơi cư trú.
Với những căn cứ nêu trên cho thấy việc huy động các lực lượng xã hội để
giúp đỡ học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn là hết sức cần thiết. Khi được
sự quan tâm chăm sóc của cộng đồng, những học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó
khăn sẽ được lớn lên một cách lành mạnh và an toàn. Các em không chỉ là người
tiếp nhận thụ động lòng nhân từ của người lớn, mà các em còn là những thành
viên tham gia tích cực vào quá trình phát triển và hoàn thiện nhân cách, có đủ
đức đủ tài, có khả năng đóng góp công sức làm giàu đẹp quê hương, đất nước.
2


II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ:
II.1. Thực trạng của địa phương:
Nga Trường là xã nằm ở phía Tây Bắc của huyện Nga Sơn, địa hình bán
chiêm bán màu, diện tích đất tự nhiên 477,8ha - đất nông nghiệp là 329ha, toàn

xã có 1026 hộ với 4490 nhân khẩu(tháng 12/2013), tình hình kinh tế còn nhiều
khó khăn, thu nhập thấp, nghề phụ chậm phát triển. Trình độ dân trí thấp nên số
hộ nghèo chiếm tỷ lệ tương đối cao (13,14% - 20,3%) ảnh hưởng đến chất
lượng giáo dục của nhà trường, toàn xã mới có trường THCS Nga Trường đạt
chuẩn Quốc gia năm 2010. Tuy vậy, Nga Trường là xã có truyền thống hiếu học,
nguyện vọng lớn nhất của nhân dân trong xã là muốn con em mình được học
hành, được giáo dục đến nơi đến chốn. Tình hình trên cũng là vấn đề đặt ra cho
lãnh đạo xã và nhà trường trong quá trình phấn đấu xây dựng nhà trường từ một
đơn vị tiên tiến giai đoạn 2006 - 2009 vươn lên để trở thành trường học có chất
lượng cao hơn trong giai đoạn 2010 - 2013.
II.2. Thực trạng của nhà trường:
2.1. Vài nét khái quát về nhà trường
- Năm 1965: Trường cấp 2 Nga Trường được thành lập.
- Năm 1970: Trường cấp 2 lại sát nhập với trường cấp 1 trở thành trường
PTCS Nga Trường.
- Năm 1996: Được tách riêng thành trường THCS Nga Trường.
- Từ năm 1996 - 2005: Nhà trường có 12 lớp biến động từ 420HS-450HS.
CSVC rất thiếu ảnh hưởng rất lơn đến chất lượng giáo dục của nhà trường.
- Từ năm 2006 đến năm 2009: Nhà trường đã giảm từ 12 lớp xuống 9 lớp với
số học sinh biến động từ 363HS đến 240HS. CSVC đang trong tiến độ xây dựng
trường chuẩn Quốc gia. Nhà trường đạt danh hiệu lao động tiên tiến cấp huyện.
- Từ năm 2010 đến năm 2013: Nhà trường đã ổn định (8 lớp) với số học sinh
biến động từ 220HS đến 233HS và đạt chuẩn Quốc gia tháng 11 năm 2010.
2.2. Về đội ngũ giáo viên:
- Đảm bảo về số lượng và tương đối đồng bộ về cơ cấu. Tỷ lệ CBGV có trình
độ chuẩn trở lên chiếm tỷ lệ từ 70% đến 85%.
- Tỷ lệ giáo viên có phẩm chất đạo đức tốt đạt 85% đến 90%, chỉ có 1 đến 3
giáo viên chủ nhiệm giỏi trên 8 lớp đến 12 lớp.
- Giáo viên giỏi huyện xếp thứ sáu đến thứ tư toàn huyện, giáo viên giỏi tỉnh
đạt chỉ tiêu.

2.3. Về học sinh:
* Số HSCHCĐBKK được giúp đỡ giai đoạn 2006 - 2009.
Cận Khuyết Gia đình
Năm học
Nghèo
Mồ côi
Tổng
nghèo
tật
chính sách
2006 - 2007
173
1
8
9
0
191
2007 - 2008
164
0
6
9
0
179
2008 - 2009
144
0
4
5
0

153
2009 - 2010
127
0
6
4
1
138
Tổng
608
1
24
27
1
661
3


* Các chỉ tiêu chất lượng giáo dục đạt được giai đoạn 2006 - 2009:
- Bỏ học: Toàn trường có có 7 em (trong đó HS có HCĐBKK: 6 em)
- Lưu ban: Toàn trường có 6 em (trong đó HS có HCĐBKK: 3 em)
- Hoạt động ngoài giờ lên lớp: Thực hiện theo đúng quy định của BGD & ĐT.
- Hoàn thành kế hoạch PCTHCS.
- Học sinh lớp 9 đỗ vào các trường THPT xếp thứ bảy đến thứ tư toàn huyện:
Đạt chỉ tiêu.
- Chất lượng hai mặt giáo dục mới đạt chỉ tiêu; chất lượng học sinh giỏi huyện
xếp thứ sáu đến thứ tư toàn huyện (học sinh giỏi huyện các môn văn hóa chưa
nhiều, học sinh giỏi tỉnh chỉ có giải các môn khác, không có giải các môn văn
hóa đối với HSCHCĐBKK. Thể hiện trong các bảng số liệu sau:
Bảng 1: Học lực của học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn(HSCHCĐBKK)

so với học sinh toàn trường (HSTT):
Năm
học
2006
2007
2007
2008
2008
2009
2009
2010

Tổng
số

HSTT

Tỷ lệ học lực khá, giỏi
HSCHCĐBKK

HSTT

Tỷ lệ học lực TB
HSCHCĐBKK

HSTT

Tỷ lệ học lực yếu
HSCHCĐBKK


363

38,0

17,6

57,1

31,7

4,9

3,3

319

40,4

21,6

54,9

31,3

4,7

3,1

274


41,3

20,4

54,0

32,1

4,7

4,0

240

54,2

29,2

41,2

24,6

4,6

3,7

Bảng 2: Hạnh kiểm của học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn so với học sinh
toàn trường:
Năm
học

2006
2007
2007
2008
2008
2009
2009
2010

Tổng
số
HSTT

Tỷ lệ hạnh kiểm
khá, tốt
HSTT

HSCHCĐBKK

HSTT

HSCHCĐBKK

HSTT

HSCHCĐBKK

363

94,3


49,3

4,7

3,3

1,0

0,0

319

96,2

53,9

3,8

2,2

0,0

0,0

274

96,4

52,9


3,6

3,3

0,0

0,0

240

95,4

54,4

4,6

2,1

0,0

0,0

Tỷ lệ hạnh kiểmTB

Tỷ lệ hạnh kiểm yếu

Bảng 3: Chất lượng học sinh giỏi huyện, tỉnh giai đoạn 2006 - 2009:
HSDT
Học sinh giỏi

Xếp
Năm
Đối tượng học
theo quy
huyện
thứ
học
sinh
định
HSG

Học
sinh
giỏi tỉnh
4


Môn
văn hóa
(VH)

Môn
khác
(MK)

HSTT
1(VH)
36
12
14

6
(363)
3(MK)
HSCHCĐBKK
6
1
0
(189)
HSTT
1(VH)
2007
36
9
24
5
(319)
3(MK)
2008
HSCHCĐBKK
5
7
1(MK)
(177)
HSTT
1(VH)
2008
36
10
16
5

(274)
4(MK)
2009
HSCHCĐBKK
4
5
2(MK)
(154)
HSTT
1(VH)
2009
36
16
23
4
(240)
4(MK)
2010
HSCHCĐBKK
7
10
1(MK)
(137)
* Ghi chú: Ký hiệu HSDT:
Học sinh dự thi
Ký hiệu HSTT:
Học sinh toàn trường.
Ký hiệu HSCHCĐBKK: Học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.
Ký hiệu VH: Môn văn hóa
Ký hiệu MK: Môn khác

II.3. Thực trạng về công tác huy động các lực lượng xã hội tham gia giúp đỡ
học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn:
3.1. Địa phương: Trong giai đoạn 2006 - 2009, địa phương đang tập trung đầu
tư xây dựng cơ sở vật chất cho 3 trường học (trong đó trường THCS Nga
Trường phấn đấu đạt chuẩn Quốc gia). Công tác kế hoạch hóa gia đình thực hiện
chưa tốt nên còn nhiều gia đình đông con ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống.
Việc phối hợp với nhà trường để giúp đỡ HSCHCĐBKK đạt hiệu quả chưa cao.
3.2. Do điều kiện cơ sở vật chất nhà trường còn thiếu nhiều, trang thiết bị chưa
đáp ứng yêu cầu dạy và học. Công tác tham mưu với địa phương chưa mạnh dạn
kết hợp đề xuất nhiều vấn đề cùng một thời gian. Trong điều kiện kinh tế địa
phương còn gặp nhiều khó khăn, học sinh thuộc hộ nghèo chiểm tỷ lệ cao, Hiệu
trưởng mới huy động được các lực lượng xã hội để tăng cường cơ sở vật chất,
góp phần xây dựng trường chuẩn Quốc gia đúng tiến độ(chất lượng giáo dục
mới đạt yêu cầu) mà chưa có các giải pháp hữu hiệu để huy động các lực lượng
xã hội tham gia giúp đỡ những học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn để nâng
cao chất lượng giáo dục của nhà trường lên tốp đầu của huyện.
3.3. Kết quả huy động các nguồn lực:
Năm học Tổng số HS
Số tiền huy động Ghi chú
toàn trường
HSCHCĐBKK
để hỗ trợ
2006
2007

5


2006 - 2007
363

191
200.000đ
2007 - 2008
319
179
8.410.000đ
2008 - 2009
274
153
9.210.000đ
2009 - 2010
240
138
17.565.000đ
Tổng
1196
661
35.385.000đ
Từ cơ sở lý luận và thực trạng trên, tôi đã trăn trở để tìm ra các giải pháp
thiết thực nhất phù hợp với tình hình Địa phương và Nhà trường để tổ chức thực
hiện như sau:
III. CÁC GIẢI PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN GIAI ĐOẠN 2010 - 2013:
III.1. Làm tốt công tác tuyên truyền về lợi ích và vai trò của việc huy động
các lực lượng xã hội giúp đỡ HSCHCĐBKK trong trường học.
- Nội dung tuyên truyền:
+ Về lợi ích của việc huy động các lực lượng xã hội nhằm giúp đỡ học sinh
có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục ở
trường THCS Nga Trường: Việc làm này đã mang lại hiệu quả cao trong phong
trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện học sinh tích cực”. Tạo ra một môi
trường giáo dục giàu tình yêu thương nhân ái, những tấm lòng hảo tâm quan tâm

chăm lo đến đời sống tinh thần cũng như đời sống vật chất của những học sinh
nghèo đã như những ngọn nến hồng thắp sáng những ước mơ tuổi trẻ, khiến các
em luôn được sống và học tập rèn luyện trong một nhà trường có thầy cô giáo
như mẹ hiền, các lực lượng xã hội như những người thân trong gia đình đang
từng ngày dõi theo, vừa quan tâm lo lắng, vừa chăm sóc yêu thương, vừa mong
chờ hy vọng vào các em. Điều đó đã khiến các em nỗ lực học tập và phấn đấu,
đạt những thành tích cao trong học tập. Từ đó chất lượng giáo dục của nhà
trường ngày một nâng cao một cách toàn diện.
+ Công tác huy động các lực lượng xã hội nhằm giúp đỡ HSCHCĐBKK, góp
phần nâng cao chất lượng giáo dục ở trường THCS là một việc làm có một vai
trò quan trọng lớn lao nhằm giúp đỡ những học sinh thiếu thốn về tình cảm - vật
chất, yếu về học lực - hạnh kiểm - thiếu tự tin trong cuộc sống…có điều kiện để
vươn lên học tập tốt; làm cho xã hội giảm bớt những tệ nạn xã hội và có thêm
nhiều nhân tài phục vụ cho quê hương, đất nước.
- Hình thức tuyên truyền:
+ Thông qua phương tiện thông tin đại chúng.
+ Tổ chức hình thức liên hệ giữa lãnh đạo nhà trường và lãnh đạo địa phương
+ Tổ chức đại hội giáo dục.
+ Tổ chức các cuộc họp như: Họp hội đồng sư phạm, họp ban chấp hành hội
cha mẹ học sinh, họp phụ huynh của những học sinh cần giúp đỡ, họp với ban
chấp hành hội khuyến học - hội cựu giáo chức xã…
+ Thông qua các buổi chào cờ đầu tuần, các buổi hoạt động ngoài giờ lên lớp
III.2. Tập trung nâng cao phẩm chất đạo đức của người thầy giáo:
Chuẩn mực của giáo viên về đạo đức là yếu tố quyết định, xuyên suốt quá
trình giáo dục. Tư cách đạo đức, thực hiện kỷ cương, nề nếp, tư tưởng, tình cảm,
6


việc ứng xử, việc rèn luyện và đặc biệt là vững vàng về chuyên môn. Tóm lại:
"Thầy, cô giáo phải là tấm gương sáng cho học sinh noi theo". Thể hiện:

Nhiệt tình trong giảng dạy và giáo dục, luôn làm việc với tinh thần trách
nhiệm cao, luôn cải tiến nội dung và phương pháp, không tự thỏa mãn với trình
độ hiểu biết và tay nghề của mình. Thường có niềm vui khi nhìn thấy học sinh
của mình trưởng thành và lớn lên(nhất là đối với những học sinh có hoàn cách
đặc biệtkhó khăn). Thầy giáo phải có hứng thú và say mê bộ môn mình phụ
trách. Người thầy giáo cảm thấy sung sướng khi được tiếp xúc với trẻ, khi đi sâu
vào thế giới độc đáo của trẻ, luôn đặt niềm tin nơi các em. Thái độ quan tâm đầy
thiện ý và ân cần đối với trẻ. Lúc nào cũng thể hiện tinh thần giúp đỡ học sinh
bằng ý kiến hoặc bằng hành động thực tế của mình một cách chân thành và giản
dị.
III.3. Bồi dưỡng đội ngũ giáo viên chủ nhiệm:
3.1. Về năng lực cảm hóa học sinh:
- Năng lực cảm hóa học sinh là năng lực gây được ảnh hưởng trực tiếp của mình
bằng tình cảm và ý chí đối với học sinh. Nói cách khác đó là khả năng làm cho
học sinh nghe, tin và làm theo mình bằng tình cảm và niềm tin.
Tôi đã bồi dưỡng cho tất cả mọi đồng chí giáo viên trong nhà trường hiểu
rằng: Một GVCN muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình trước hết phải thực
sự yêu thương học sinh, coi các em như người thân của mình. Khi đã có tình yêu
thương thì người thầy sẽ hiểu và biết cách dạy học sinh, tình thương cũng phải
được đặt đúng chỗ HS mới cảm nhận được tình cảm từ trái tim thầy cô. Nói cách
khác giữa thầy và trò luôn có sự đồng điệu về tâm hồn. Tôi đã đặt ra câu hỏi để
mỗi giáo viên phải suy ngẫm: Tại sao cùng một HS cá biệt nhưng đối với thầy
cô này thì em chống đối, còn với thầy cô khác thì phục tùng và nghe lời? Rõ
ràng, điều quan trọng là không phải học sinh đã phạm lỗi ra sao? Mà nằm ở chỗ
là các em đã nhìn thấy lỗi của mình như thế nào? Làm được điều này chính là
nhờ sự thu phục nhân tâm của GVCN. Ngoài cá tính của từng em, phải nói thật
rằng có một số HS nổi loạn là do việc xử lí không đúng của người thầy. Thầy có
những lời nói xúc phạm đến trò, phân biệt đối xử với trò thì lời nói trước lớp
khó có trọng lượng. Kinh nghiệm cho thấy học sinh thích khuyên bảo nhẹ nhàng
hơn là trách phạt.

Với những giáo viên chủ nhiệm, tôi giúp họ hiểu rõ: GVCN có ‘quyền lực”
trong tay nhưng không phải vì thế mà lúc nào cũng lạm dụng nó, phải biết khi
nào cứng rắn và khi nào mềm dẻo để xử lí các tình huống. Vì thế ngoài năng lực
chuyên môn. GVCN còn là một nhà tâm lí giỏi, hiểu thấu đáo những tâm tư suy
nghĩ của học sinh. Nhiều lúc chủ nhiệm phải đặt mình vào thế của HS để hiểu
được hành vi và thái độ của các em với cương vị là người trong cuộc. Giáo dục
một con người là quá trình không có điểm cuối cùng. Đó là công việc kéo dài cả
đời người chứ không phải là chuyện của ngày một, ngày hai. Vì thế người giáo
viên chủ nhiệm không bao giờ được chủ quan, nóng vội, một câu nói vô tình,
một trách phạt nôn nóng, một hành xử thiếu cân nhắc đôi khi gây tổn thương và
biết đâu đó các em sẽ mang theo vết thương kia thành một ám ảnh không
7


nguôi... Trước mọi sai lầm, vi phạm của học sinh giáo viên chủ nhiệm cần hết
sức bình tĩnh, bao dung và độ lượng để xem xét, xử lí và giải quyết vấn đề.
3.2. Về năng lực đối xử khéo léo sư phạm
Trong quá trình giáo dục học sinh, tôi giúp mọi giáo viên nhận thức sâu sắc
vấn đề: Với những HSCHCĐBKK, do hoàn cảnh đưa lại nên có nhiều học sinh
chậm tiến. Vì vậy, giáo viên phải biết phát hiện kịp thời và giải quyết khéo léo
những vấn để xảy ra bất ngờ, không nóng vội, không thô bạo, chúng ta không
nên ảo tưởng là các em sẽ tiến bộ ngay sau vài lần nhắc nhở hay xử phạt của
giáo viên chủ nhiệm. Có khi các em vẫn tiếp tục vi phạm với mức độ liên tục
hơn, như một cách thách thức, một cách khẳng định mình với bạn bè, với thầy
cô, với mọi người. Chính ở những khoảnh khắc này, người giáo viên chủ nhiệm
cần thể hiện rỏ bản lĩnh và năng lực sư phạm. Trong đó có cả năng lực "chịu
đựng" của mình. Chịu đựng những vi phạm cố tình, những thách thức nông nổi
và chịu đựng cả những bực bội, tức giận đang phải dồn nén trong người. Cần tạo
được ở các em, trước hết là sự tôn trọng và sau đó là sự gần gũi, cảm thông.
Đối với những tình huống có vấn đề mà học sinh cá biệt tạo ra đòi hỏi năng

lực ứng xử sư phạm của người thầy. Khi ấy, mỗi người giáo viên phải biết nhìn
bằng con mắt của tình thương và sự thông cảm thật sự, ta nên có cái hiền từ bao
dung của người mẹ, người cha; cái gần gũi cảm thông của người anh, người chị;
và cái thân thiết của một người bạn.
Nhẹ nhàng phân tích những mặt ưu, khuyết, đúng, sai trong nhận thức, suy
nghĩ của các em... Giúp các em nhận biết những ưu điểm của mình và biết phát
huy nó. Không nên nói những câu phũ phàng. Ví như "ở em chẳng có điểm nào
tốt cả". "Người như em thật chẳng ra gì". "Trong 12 con giáp em không giống
con nào". Hoặc bi đát hơn "Cuộc đời em rồi chẳng có ra làm sao đâu"....
Mỗi giáo viên chủ nhiệm nói riêng, người giáo viên nói chung cần rút ra một
quy luật: Quá cứng thì dễ gãy; quá mềm thì khó uốn. Trong sự nghiệp trồng
người thì học sinh chậm tiến giống như cái cây không mọc thẳng. Đối với loại
cây này người giáo viên chủ nhiệm phải gia công nhiều hơn. Thầy cô chủ nhiệm
như là người cha, người mẹ của các em, có tiếng nói điều chỉnh kịp thời các
hành vi chưa đúng của các em, là tấm gương cho các em noi theo. Thầy cô giáo
dục các em không chỉ bằng lời nói mà bằng cả hành động, cử chỉ, thái độ, tác
phong hàng ngày. Hãy thương yêu các em bằng tấm lòng của người thầy, người
cha, người chị, người mẹ.. Hãy nhìn các em với ánh mắt nhìn về tương lai,
không nên dựa vào hành vi nhất thời của các em mà đánh giá cả bản chất con
người các em. Học sinh chúng ta chỉ là những cành cây non, đang muốn vươn
lên trở thành cành cây vững chắc, hãy tạo điều kiện cho các em thể hiện mình,
vươn lên nơi có ánh sáng vững bền, hãy đối xử các em bằng thái độ thân thiện
và tích cực. Và xin được mượn câu nói này để kết thúc: "Những gì xuất phát từ
trái tim sẽ đi đến trái tim".
3.3. Về sự quan tâm và trách nhiệm đến từng HSCHCĐBKK:

8


Giáo viên chủ nhiệm phải nắm bắt và hiểu sâu sắc từng cá nhân học sinh

trong lớp. Mỗi ngày, giáo viên nói chuyện, tâm sự với học sinh như những
người bạn về khía cạnh nào đó trong cuộc sống gia đình, nhà trường và xã hội.
Sẵn sàng chia sẻ với học sinh bất cứ khi nào chúng cần sự giúp đỡ.
Nếu học sinh cần chia sẻ những khó khăn gặp phải của cá nhân hoặc gia
đình, giáo viên phải luôn quan tâm, động viên an ủi, khích lệ để có thể tác động
đến đời sống cũng như việc học của học sinh.
Giáo viên phải biết khơi gợi "tinh thần đồng đội" và suy nghĩ quyền sở hữu
của học sinh "chúng ta là một lớp học đoàn kết, là một lớp học tốt nhất".
Giáo viên là người dàn xếp mọi việc, giúp học sinh vượt qua sóng gió và khó
khăn. Muốn vậy, khi gặp phải những khó khăn của học sinh, giáo viên thường
xuyên tâm sự, trình bày với Hiệu trưởng và đồng nghiệp về những vấn đề học
sinh trong lớp gặp phải nhằm tìm ra biện pháp phù hợp nhất để giải quyết mọi
vấn đề một cách êm thấm.
III.4. Xây dựng uy tín nhà trường:
Với cương vị là một hiệu trưởng, tôi luôn giáo dục và bồi dưỡng cho đội ngũ
cán bộ giáo viên nhận thức được rằng: Uy tín của người giáo viên có ý nghĩa
vô cùng quan trọng trong việc nâng cao chất lượng GD - ĐT.
Tuy nhiên, ngoài phẩm chất chính trị - đạo đức trong sáng và xu hướng
nghề nghiệp bền vững, người giáo viên cần có kiến thức toàn diện “biết 10 để
dạy 1”. Chúng ta thật sự tự hào vì hiện nay đại bộ phận giáo viên đều là những
tấm gương mẫu mực luôn tạo được niềm tin đối với các thế hệ học sinh. Tuy
nhiên vẫn còn một số người mặc dù trình độ chuyên môn không thua kém ai
nhưng do năng lực sư phạm hạn chế nên gặp khó khăn trong việc truyền đạt tri
thức cho người học. Rõ ràng “hồng” mà không “chuyên” thì vẫn chưa toàn diện.
Đâu đó trong nhà trường còn một số người (tuy chỉ là cá biệt) thiếu mẫu mực
trong giao tiếp, chưa khéo léo trong cách ứng xử làm cho lòng tin của người học
phần nào bị sút giảm. Ngoài ra, do không hiểu đối tượng nên có khi người thầy
quá khắt khe hay quá dễ dãi trong cư xử với học trò khiến cho hiệu quả giáo dục
không được như mong muốn. “Muốn tâm phục thì phải khẩu phục”.
Uy tín được hình thành và thể hiện trong hoạt động. Mặt khác, uy tín được

hình thành chủ yếu là do năng lực và phẩm chất của bản thân. Là người “dùng
nhân cách để giáo dục nhân cách”, người thầy phải là tấm gương mẫu mực về
đạo đức, tác phong. Không ngừng tu dưỡng đạo đức mới giữ gìn được sự đoàn
kết, có lối sống giản dị trong sạch. Hiểu được những chuẩn mực trong hoạt động
sư phạm, từ đó người giáo viên mới có ý thức rèn luyện phong cách sư phạm
phù hợp, mẫu mực từ lời nói đến hành vi cử chỉ… Ngoài ra, năng lực sư phạm
và trình độ chuyên môn nghiệp vụ cũng là một thước đo không thể thiếu của
người thầy. Người giáo viên “vừa hồng vừa chuyên” sẽ có sức mạnh cảm
hóa lớn lao, không chỉ thu hút, lôi kéo mà còn định hướng và điều khiển mọi
hoạt động học tập của học sinh.
Để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ mỗi giáo viên phải không

9


ngừng phấn đấu tự học, tự rèn nâng cao kiến thức, trình độ, năng lực chuyên
môn. Năng lực sư phạm bao hàm các phẩm chất trí tuệ như: Khả năng quan sát,
sáng tạo, các phẩm chất ngôn ngữ; các phẩm chất tư duy lí luận, biết đặt mình ở
vị trí của người học để hiểu họ và tự đánh giá về mình. Năng lực sư phạm còn
biểu hiện ở khả năng tổ chức cho người học, nhằm phát huy tính chủ động sáng
tạo, đáp ứng nhu cầu học tập. Biết kết hợp nhuần nhuyễn các phương pháp dạy
học hiện đại và nắm các kỹ năng dạy học cơ bản như kỹ năng định hướng, điều
khiển, trình bày, đặt câu hỏi, xử lý tình huống giảng dạy…
Có thể nói, xây dựng uy tín nhà trường là một quá trình liên tục và lâu dài.
Đó còn là một quá trình khổ luyện nên đòi hỏi mỗi chúng ta phải cố gắng không
ngừng.
III.5. Lập kế hoạch khảo sát đối tượng học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó
khăn ngay đầu các năm học.
Yêu cầu từng học sinh sau khi nghỉ hè đến trường đều phải trình bày hoàn
cảnh gia đình bằng văn bản nộp cho GVCN.

Chỉ đạo GVCN phối hợp với địa phương lập danh sách HSCHCĐBKK ngay
từ đầu năm học theo mẫu sau:
Xóm

Họ và tên

Lớp

con ông(bà)
Nghèo

Đối tượng học sinh
Cận
Gia đình
Con
nghèo chính sách mồ côi

Khuyết
tật

1

2

Nhà trường giao trách nhiệm cho giáo viên chủ nhiệm đến từng gia đình học
sinh để tìm hiểu về hoàn cảnh gia đình, bố mẹ, những người thân trong gia đình
và bản thân của học sinh theo mẫu sau:
TT
Họ và tên
Lớp Con ông(bà) Xóm

Hoàn cảnh gia đình
1
2

Đôn đốc giáo viên chủ nhiệm kịp thời nắm bắt tâm tư, sở thích, tính tình, tình
cảm của học sinh thông qua bạn bè cùng lớp, cùng trường báo cáo về hiệu
trưởng những trường hợp HSCHCĐBKK cần giúp đỡ về vấn đề gì?
III.6. Tổ chức họp với phụ huynh có học sinh cần giúp đỡ:
Như ta đã biết, gia đình là tế bào của xã hội, con trẻ hình thành nhân cách bắt
đầu từ gia đình. Vì vậy, nhà trường cần phối kết hợp với gia đình giúp đỡ học
sinh về tinh thần cũng như vật chất, trong các buổi họp phụ huynh toàn trường
xong, nhà trường dành thời gian họp riêng với phụ huynh có học sinh cần giúp
đỡ. Hiệu trưởng phải tham gia trực tiếp họp và lắng nghe ý kiến của phụ huynh
để bổ sung, điều chỉnh và rút kinh nghiệm. Thông qua giáo viên chủ nhiệm, chỉ
đạo nội dung họp với cha mẹ học sinh:
Giáo viên phải nắm chắc học sinh thuộc đối tượng nào, ghi chép ngắn gọn
đặc điểm của từng học sinh.
10


Trình bày phải ngắn gọn, rõ ràng và cụ thể, các bậc phụ huynh muốn biết thái
độ cư xử với thầy cô và bạn bè của con mình ra sao? nguyên nhân của việc học
giảm sút? lý do vi phạm nội quy nhà trường?...
Khi nói về HS với các bậc phụ huynh học sinh, giáo viên phải cẩn thận và
học sinh sống trong các hoàn cảnh khác nhau.
Giáo viên có thể sẽ thông báo trước với các bậc phụ huynh về vấn đề cần trao
đổi trong cuộc họp, nếu xảy ra những vấn đề nghiêm trọng cần thảo luận kín đáo
và lâu hơn. Bởi gia đình là nguồn động viên tinh thần quý giá và cũng là nơi
kiểm tra đánh giá thực tế, là nơi cung cấp phương tiện học tập cho học sinh. Vì
vậy, giáo viên đừng mang những điều quá bất ngờ đến với các bậc phụ huynh

học sinh.
Giáo viên giúp phụ huynh về phương pháp dạy con phải mềm dẻo, linh hoạt
tránh thô bạo mà ít hiệu quả. Yêu cầu phụ huynh dành nhiều thời gian tự học ở
nhà cho con, không vì kinh tế khó khăn mà bắt con mình phải làm việc quá sức
ảnh hưởng đến sức khỏe - kết quả học tập và vi phạm quyền trẻ em.
Giáo viên chủ nhiệm cho phụ huynh xem trực tiếp sổ liên lạc tại buổi họp để
có vấn đề gì thì trao đổi luôn (khác với học sinh có hoàn cảnh bình thường là gửi
sổ liên lạc về gia đình).
III.7. Làm tốt công tác tham mưu với Đảng ủy - Chính quyền địa phương và
Hội khuyến học huyện - Huyện đoàn - Hội CTĐ huyện Nga Sơn.
7.1. Với Đảng ủy - chính quyền địa phương xã Nga Trường:
Ngay từ đầu các năm học tôi đã trình bày với Đảng ủy - Chính quyền địa
phương về dự kiến tổng số HSCHCĐBKK cần giúp là bao nhiêu em? nguồn
kinh phí huy động để giúp đỡ các em là bao nhiêu tiền? lực lượng xã hội nào
tham gia giúp đỡ về vật chất? lực lượng xã hội nào tham gia về tinh thần? để
Đảng ủy có Nghị quyết yêu cầu chính quyền, các tổ chức đoàn thể phối hợp với
nhà trường thực hiện một cách có hiệu quả.
7.2. Với Hội khuyến học huyện - Huyện đoàn - Hội CTĐ huyện Nga Sơn.
Trong các năm học, khi có thông báo những HSCHCĐBKK được hỗ trợ học
bổng theo tiêu chuẩn đã quy định thì nhà trường tổ chức họp ngay để xét chọn
công minh, đúng đối tượng và hoàn tất hồ sơ của học sinh được giúp đỡ nộp lên
cấp trên kịp thời. Đồng thời đề xuất với Hội khuyến học huyện - Huyện đoàn Hội CTĐ huyện Nga Sơn hỗ trợ những học sinh gặp khó khăn đột xuất trong các
năm học.
III.8. Giúp đỡ học sinh có nguy cơ bỏ học và yếu về học lực - hạnh kiểm, học
sinh khuyết tật.
8.1. Giúp đỡ học sinh có nguy cơ bỏ học:
Trong thời gian nghỉ hè. Một số HSCHCĐBKH đi ở cho người thân trong
Nam, ngoài Bắc…để có tiền phụ giúp gia đình. Do tác động khách quan nên các
em có ý định bỏ học. Vì vậy, vào đầu các năm học nhà trường phân công giáo
viên phụ trách theo xóm đến từng gia đình có học sinh chưa ra lớp để vận động

và tìm nguyên nhân có nguy cơ bỏ học để có những biện pháp giúp đỡ kịp thời.
Nếu học sinh bỏ học vì khó khăn về kinh tế thì giúp đỡ bằng vật chất. Nếu học
11


sinh bỏ học vì khó khăn về tinh thần thì giúp đỡ bằng tinh thần.
8.2. Giúp đỡ học sinh yếu về học lực:
Nhà trường tập trung phụ đạo thêm hai môn Toán và Ngữ văn với mục đích
nâng cao chất lượng đại trà vì hai môn này liên quan đến việc xếp loại học lực
của học sinh.
Sau khi khảo sát chất lượng đầu năm học, nếu HSCHCĐBKK không đạt
điểm trung bình thì nhà trường giao cho giáo viên đứng lớp tranh thủ lúc trưa
đối với giáo viên ở xa hoặc buổi tối đối với giáo viên là người địa phương đến
tận nhà học sinh để phụ đạo thêm cho học sinh vì các em còn phải dành thời
gian ban ngày để phụ giúp gia đình.
Ví dụ: Môn Toán: Giúp học sinh tự phát hiện lỗi của mình. Sau đó có kế
hoạch trình bày để học sinh hiểu được loại lỗi nào mình thường mắc phải mà
không cảm thấy xấu hổ. Vì vậy, giáo viên nên phát triển cảm nhận của học sinh
về loại câu trả lời đúng. Nhắc nhở học sinh về tầm quan trọng của việc luyện tập
khi học toán. Môn toán được học thông qua việc làm bài tập toán, không phải
ngồi xem người khác làm. Cho học sinh nhiều bài tập để thực hành, giúp củng
cố kiến thức còn thiếu. Như vậy, học sinh có nhiều tiến bộ và bớt căng thẳng lo
sợ khi học toán. Không nên đánh giá học sinh quá nhiều dựa trên tốc độ làm bài.
Ví dụ: Môn Ngữ văn: Khi dạy cần tạo không khí văn học, bối cảnh lịch sử,
bối cảnh xã hội, thời đại mà nhà văn sáng tác nên tác phẩm văn học đó. Trong
đánh giá thì nên tế nhị, khéo léo động viên khích lệ gây hứng thú học tập cho
học sinh. Văn học là Nhân học, bởi vậy, trong quá trình dạy Văn học, giáo viên
cần chú ý liên hệ thực tế, thông qua đó bồi dưỡng tâm hồn, giúp các em có thế
giới nội tâm phong phú, biết yêu thương con người, yêu cái Thiện cái Đẹp, ghét
cái Ác cái Xấu, từ đó góp phần hình thành nhân cách cho học sinh một cách toàn

diện. Khi dạy cần truyền đạt những kiến thức đơn giản mà các em dễ tiếp thu rồi
mới nâng cao dần. Giáo viên có thể lồng ghép những câu chuyện ngắn thú vị để
các em bớt mệt mỏi và yêu thích bộ môn hơn.
8.3. Giúp đỡ học sinh yếu về hạnh kiểm:
- Nguyên nhân học sinh yếu về hạnh kiểm: Do học sinh thiếu sự quan tâm chỉ
dạy của gia đình. Do sự giáo dục của gia đình chưa phù hợp. Do ảnh hưởng của
bạn bè xấu xung quanh, của xã hội hiện đại. Do thiếu tình thương yêu của bạn
bè và người thân…
- Các biện pháp giúp đỡ: Phối hợp tốt ba môi trường giáo dục:
+ Về phía nhà trường: GVCN phối hợp với tổng phụ trách đội tạo nhiều sân
chơi lành mạnh, hình thành thói quen ở các em "Mình vì mọi người, mọi người
vì mình". Giáo dục kỹ năng sống cho các em và tinh thần đoàn kết , tương thân
tương ái thông qua các hoạt động từ thiện do nhà trường phát động. Giáo dục
các em tinh thần "Lá lành đùm lá rách", " Một miếng khi đói bằng một gói khi
no"…
+ Về phía gia đình: Cần phải luôn là chỗ dựa vững chắc cho các em, giúp các
em không cảm thấy cô đơn, lẻ loi, hụt hẫng. Gia đình cần nhận thức đúng đắn về
vai trò, trách nhiệm của mình trong việc nuôi dạy con cái. Không nên quá lo về
12


kinh tế mà bỏ quên việc giáo dục con em mình, những thành viên trong gia đình
cần luôn noi gương tốt cho các em noi theo.
+ Đối với xã hội: Nhà trường đã phối hợp với các tổ chức xã hội trong xã như
Hội khuyến học, hội Cựu giáo chức, hội cha mẹ học sinh giúp đỡ động viên
những HSCHCĐBKK vi phạm nội quy nhà trường hiểu ra lỗi lầm để sửa đổi kịp
thời, tiếp tục đến trường học tập.
* Cuối năm học, nhà trường gửi kết quả học lực - hạnh kiểm tới Chủ tịch hội
khuyến học - chủ tịch hội Cựu giáo chức xã - Trưởng ban đại diện hội cha mẹ
học sinh của trường để họ triển khai đến các thành viên trong ban chấp hành

hội cùng phối hợp giúp đỡ học sinh chậm tiến bộ và tuyên dương, khen thưởng
những học sinh tiến bộ kịp thời.
Ví dụ: Năm học 2013 - 2014:
TT Họ và tên

Lớp

Con ông(bà)

Xóm

Xếp
loại
học
lực

Xếp
loại
hạnh
kiểm

Tiến
bộ

Giảm Nguyên
sút
nhân

1
2

3


8.4. Giúp đỡ học sinh khuyết tật:
Đặc điểm chung của một nhóm học sinh khuyết tật của trường THCS Nga
Trường là bị Thiểu năng trí tuệ, có thể chất yếu, thể lực kém phát triển. Nhà
trường đã miễn giảm lao động và trực tuẩn cho các em, song các em vẫn mang
nặng tâm lý mặc cảm tự ti, rụt rè nhút nhát. Bởi vậy, khi giúp đỡ học sinh
khuyết tật, bản thân tôi luôn nhắc nhở chỉ đạo giáo viên trong nhà trường bằng
tình yêu thương, thường xuyên gần gũi quan tâm kịp thời đến từng em khuyết
tật. Trong giảng dạy giáo viên phải nhẹ nhàng ân cần động viên khích lệ từng
em, ưu tiên cho các em khuyết tật được làm việc nhiều hơn, đặc biệt phải giáo
dục những học sinh khác trong lớp trong trường cần biết yêu thương quan tâm
chia sẻ với những bạn không may bị khuyết tật cả về tinh thần, vật chất. Từ đó
giúp các em học sinh khuyết tật lạc quan hơn, phấn chấn và hăng hái nhiều hơn
trong học tập và rèn luyện, để mỗi học sinh khuyết tật “tàn nhưng không phế”.
III.9. Giúp đỡ HSCHCĐBKK phấn đấu đạt học sinh giỏi cấp huyện, tỉnh và
có điều kiện ôn tập để thi vào các trường THPT.
9.1.Giúp đỡ HSCHCĐBKK phấn đấu đạt học sinh giỏi cấp huyện, tỉnh:
Học sinh giỏi cấp huyện, cấp tỉnh là nhiệm vụ rất quan trọng và cần thiết của
các nhà trường để đào tạo nhân tài cho đất nước. Vì vậy, Nhà trường giao trách
nhiệm cho giáo viên giỏi, có tinh thần trách nhiệm cao, nhiệt tình, tự giác trong
công tác bồi dưỡng học sinh giỏi. Cho học sinh mượn tài liệu ôn luyện, hỗ
trợ
vở - bút để học sinh ghi chép hàng ngày. Động viên giáo viên tăng thời gian bồi
dưỡng các em hơn học sinh có hoàn cảnh bình thường. Khích lệ tinh thần các
em sau mỗi bài kiểm tra(thi thử) đạt điểm cao hơn lần trước bằng cách tuyên
13



dương trước toàn trường trong các buổi chào cờ đầu tuần hay sau mỗi đợt sơ kết
thi đua. Bồi dưỡng cho HSCHCĐBKK khi ôn luyện gấp hai lần đối với học sinh
có hoàn cảnh bình thường. Nếu đạt học sinh giỏi huyện thì tiền thưởng cao gấp
ba, đạt HSG tỉnh thì thưởng gấp bốn lần những bạn có hoàn cảnh bình thường.
9.2. Giúp đỡ HSCHCĐBKK có điều kiện ôn tập để thi vào các trường THPT:
Tâm lý HSCHCĐBKK chỉ cố gắng học hết lớp 9, có bằng TNTHCS để đi
làm ăn, phụ giúp gia đình (nhất là các gia đình đông con).
Hoạt động hướng nghiệp có vai trò quan trọng đối với việc tạo cho các em có
động lực, có niềm say mê học tập.
Khi hướng nghiệp các em, tôi tận tình giúp các em hiểu biết về những mảng
ngành nghề thuộc các lĩnh vực khoa học, xã hội khác nhau. Đặc biệt là cần thiết
của việc chọn nghề sao cho phù hợp với năng lực sở trường của mỗi em thì mới
giúp các em phát huy hết tài năng và sở thích của bản thân. Và như vậy, con
đường học lên PTTH là con đường hứa hẹn nhiều cơ hội giúp các em có điều
kiện trang bị thêm cho mình vốn kiến thức cần thiết để sau này phục vụ cho
công việc đạt kết quả cao nhất, đặc biệt là tự lo cho bản thân và gia đình tương
lai sau này. Hiểu được điều đó, mỗi học sinh đều nỗ lực ôn tập quyết tâm phấn
đấu thi đỗ vào các trường THPT góp phần vào thành tích chung của nhà trường
(tỷ lệ thi đỗ vào các trường THPT của trường THCS Nga Trường luôn luôn xếp
nhất - nhì toàn huyện).
Giúp đỡ về vật chất cho các em trong thời gian ôn tập: Giáo viên dạy thêm
miễn tiền học ôn thi vào THPT…
Giúp đỡ về ngày công lao động: Nhà trường phát động học sinh lớp 8 thu
hoạch mùa giúp các gia đình có các anh, chị lớp 9 đang ôn tập.
III.10. Giúp các em khơi dậy niềm vui trong cuộc sống và tin tưởng vào
chính bản thân mình để vươn lên học tập tốt.
- Hiệu trưởng phải nắm chính xác những nỗi phiền muộn của học sinh, có số
điện thoại để liên lạc khi cần thiết, có thể đến tận nhà học sinh để tìm hiểu sự
việc, trao đổi trực tiếp, chia sẻ, động viên các em kịp thời.
Ví dụ: Em Lại Thị Tâm học sinh lớp 9B năm học 2010 - 2011 là con gia đình

chính sách (bố là thương binh), em rất bức xúc về cách cư xử không công bằng
của người mẹ nên đã chán nản, hay bỏ học, uống rượu bia như con trai và gây
nhiều chuyện làm ảnh hưởng đến uy tín của bố mẹ và nhà trường. Là hiệu
trưởng, tôi đã gặp riêng gia đình để tìm hiểu nguyên nhân và giúp họ có cách
giáo dục con tốt hơn. Đặc biệt, tôi đã gặp học sinh để phân tích đúng - sai của
em, thậm chí còn nhận em làm con nuôi, hứa sẽ lo cho em có điều kiện học tập
hết THCS và đi học trung cấp nghề để tự lo cho bản thân sau này. Cảm động
trước sự quan tâm của tôi và nhận ra những khuyết điểm của bản thân khiến mẹ
hay la mắng. Em hứa sẽ quyết tâm học tập để không phụ lòng thầy cô và gia
đình. Kết quả: Em đạt HSG cấp trường, giải KK cấp tỉnh môn Địa lý lớp 9.
14


- Giáo viên chuẩn bị trước kế hoạch, tìm một địa điểm thích hợp mang tính riêng
tư nhưng bình thường để giúp học sinh xua tan đi nỗi buồn của các em.
Ví dụ: Em Trần Thị Linh thuộc hộ cận nghèo năm học 2011 - 2012, em ở với
ông bà nội già yếu, bố ốm đau, mẹ đi làm công ty để kiếm tiền trang trải cho cả
gia đình, em phải dành nhiều thời gian giúp đỡ bố mẹ nên ảnh hưởng đến kết
quả học tập. Cô giáo Hoàng Thị Nhu vừa là chủ nhiệm vừa là giáo viên dạy môn
Ngữ văn đã giúp đỡ em về kiến thức để em đạt học sinh giỏi cấp huyện.

(Cô giáo Hoàng Thị Nhu đang tâm sự với em Trần Thị Linh tại phòng Y tế của
nhà trường)
- Lôi cuốn học sinh tham gia các hoạt động tập thể (toàn trường), hoạt động theo
nhóm(theo lớp). Có như vậy, học sinh mới cảm thấy tự tin, bớt ái ngại trong
việc tiếp xúc với thầy cô và bạn bè và yêu mến mái trường của mình.
(minh chứng ở trang 21 của sáng kiến)
- Giúp học sinh biết chấp nhận hoàn cảnh để vươn lên và phấn đấu cho tương lai
của bản thân.
Ví dụ: Em Nguyễn Thị Kiều Trang học sinh lớp 9A năm học 2013 - 2014.

Bố mẹ ly dị (bố đi lấy vợ khác, mẹ đi lấy chồng khác) để em ở lại với bà nội trên
80 tuổi, không bao lâu bà nội lâm bệnh qua đời, em ở một mình thân gái sinh ra
chán nản muốn bỏ học để đi làm kiếm tiền sinh sống vì mẹ mỗi tháng gửi cho
con số tiền quá ít ỏi không có điều kiện để đến trường. Em được GVCN, chi hội
trưởng hội CMHS quan tâm chăm sóc cả về tinh thần và vật chất, đặc biệt em
được cô Trần Thị Thủy giáo viên bộ môn Địa lý đã đưa em về nhà mãi tận Bỉm
Sơn cách trường và nhà em 15 km để nuôi em và ôn luyện cho em suốt 1 tháng
trời. Vì thế, em đã vơi đi nỗi buồn và cảm động trước tình nghĩa thầy trò mà cố
gắng vươn lên học tập tốt. Kết quả, em đạt giải nhì học sinh giỏi cấp huyện môn
Địa lý và đỗ vào trường THPT Ba Đình Nga Sơn.
15


(Hình ảnh em Mai Thị Kiều Trang đang ngồi trước cửa nhà mình với tâm trạng
buồn bã và lo lắng về hoàn cảnh của gia đình)
- Giúp đỡ học sinh thuộc gia đình khá giả có bố mẹ đi làm ăn xa để con ở nhà
một mình hoặc nhờ ông bà và họ hàng chăm sóc nên các em thiếu thốn tình cảm
sinh ra chán nản, sống bất cẩn… dễ bị sa vào các tệ nạn xã hội.
Ví dụ: Em Mai Tuấn Thành là học sinh thuộc hộ cận nghèo năm học 2010
-2011, 2011 - 2012, do em được sống cùng bố mẹ và chị gái nên em đã chăm chỉ
học tập đạt HSG huyện lớp 6 và lớp 7. Đến năm học 2012 - 2013, gia đình em
thoát nghèo, kinh tế khá giả song em không đạt HSG huyện vì mẹ em ra Hà Nội
ở với bố, chị gái đi lấy chồng, em ở nhà một mình bị bạn xấu rủ rê đi chơi điện
tử làm ảnh hưởng đến kết quả học tập. Năm học 2013 - 2014 em được GVCN
và chi hội trưởng hội CMHS kịp thời giúp đỡ em về tinh thần, cô Nguyễn Thị
Trang nhiệt tình bồi dưỡng môn Toán cho em. Cảm động trước sự quan tâm của
mọi người em đã quyết tâm học tập đạt giải nhì HSG cấp huyện môn Toán tự
luận lớp 9, đạt giải nhì học sinh giỏi cấp tỉnh môn Máy tính Casio và đỗ vào
trường THPT Ba Đình Nga Sơn với số điểm rất cao. Đặc biệt, em được chọn
vào đội tuyển học sinh giỏi cấp Quốc gia môn Máy tính Casio.


(Cô giáo Nguyễn Thị Trang đang dạy bồi dưỡng em Mai Tuấn Thành
tại nhà em Thành chuẩn bị dự thi HSG cấp tỉnh môn Máy tính casio)
16


III.11. Phát huy nội lực trong nhà trường và tranh thủ sự ủng hộ của cá

nhân, tập thể hảo tâm ngoài nhà trường:
11.1. Phát huy nội lực trong nhà trường:
Phát động Rể nhà trường xây dựng tủ sách dùng chung đủ để cho học sinh
nghèo, cận nghèo, gia đình chính sách được mượn đầu năm học.
Phát động học sinh toàn trường hưởng ứng "tuần lễ vì bạn nghèo" để tặng vở,
sách giáo khoa, đồ dùng học tập cho học sinh nghèo trước khi khai giảng năm
học mới.
Phát động CBGV - HS tham gia phong trào "Mỗi tổ chức, cá nhân gắn với 1
địa chỉ nhân đạo" để tặng sổ tiết kiệm cho học sinh có hoàn cảnh khó khăn nhất
trong năm học vào dịp thành lập hội CTĐ Việt Nam 23/11.
Phát động CBGV - HS ủng hộ "Tết vì người nghèo" nhân dịp tết Nguyên
Đán để tặng quà và áo ấm cho HSCHCĐBKK.
Hiệu trưởng nhà trường trích một phần lương của mình để xây dựng quỹ
khuyến học hỗ trợ khen thưởng cho HSCHCĐBKK tiến bộ vào cuối các năm
học.
(minh chứng bằng hình ảnh ở trang 22 của sáng kiến)
11.2. Tranh thủ sự ủng hộ của cá nhân, tập thể hảo tâm ngoài nhà trường:
Tìm hiểu địa chỉ của những doanh nghiệp phát triển và cá nhân thành đạt
trong và ngoài xã thông qua điều tra của CBGV phụ trách các xóm và Hội Cựu
giáo chức xã Nga Trường. Phối hợp với Chủ tịch công đoàn - BCH hội chữ thập
chữ thập đỏ nhà trường để thống nhất số HSCHCĐBKK cần được giúp đỡ và số
tiền cần được hỗ trợ. Xin ý kiến chỉ đạo của Đảng ủy, UBND, Hội khuyến học,

Hội Cựu giáo chức xã về nội dung kêu gọi các lực lượng tham gia giúp đỡ
HSCHCĐBKK trong trường. Viết thư kêu gọi các nhà tài trợ ủng hộ học sinh có
xác nhận của Chủ tịch UBND xã và Chủ tịch hội khuyến học xã. Khi nhận tiền
của các nhà tài trợ đều có sự chứng kiến của Chủ tịch UBND, Chủ tịch hội
khuyến học xã và BGH cùng ban thanh tra của nhà trường. Nộp danh sách
HSCHCĐBKK đã nhận tiền hỗ trợ cho UBND - Hội khuyến học xã theo dõi và
lưu giữ. Thông báo danh sách cá nhân, tập thể ủng hộ cho HSCHCĐBKK trên
loa truyền thanh của xã. Ghi danh cá nhân, tập thể điền hình vào sổ vàng truyền
thống nhà trường. Viết thư cảm ơn những cá nhân, tập thể điển hình với số tiền
từ 2.000.000đồng trở lên.
(Danh sách các tập thể, cá nhân hảo tâm trong và ngoài nhà trường giúp đỡ về
vật chất cho HSCHCĐBKK giai đoạn 2010 - 2013 được minh chứng cụ thể ở
trang 23,24 của sáng kiến)
IV. KIỂM NGHIỆM:
IV.1. Chất lượng đội ngũ giáo viên giai đoạn 2010 - 2013:
Nhiệt tình, yêu nghề, mến trẻ, đoàn kết, luôn cố gắng hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ được giao. Đủ về số lượng và đồng bộ về cơ cấu. Chất lượng đội ngũ
đáp ứng được yêu cầu giáo dục.
CBGV có trình độ trên chuẩn chiếm tỷ lệ cao. Tỷ lệ giáo viên có phẩm chất
đạo đức tốt đạt 100%, nhiều giáo viên chủ nhiệm giỏi (có 5 đến 6 GVCN giỏi
17


trong tổng số 8 GVCN/ 8 lớp/năm), GVG cấp trường liên tục xếp thứ nhất toàn
huyện. GVG cấp huyện hai năm liền được xếp thứ nhất toàn huyện. GVG cấp
tỉnh đạt chỉ tiêu.
IV.2. Chất lượng học sinh:
- Bỏ học: Toàn trường có 3em (trong đó không có HSCHCĐBKK), giảm 4em
so với 2006 - 2009. Lưu ban: Toàn trường có 3 em (trong đó chỉ có 1 em là
HSCHCĐBKK), giảm 3 em so với giai đoạn 2006 - 2009.

Danh sách HSCHCĐBKK bỏ học ghi trong đĩa CD.
- Học sinh lớp 9 đỗ vào các trường THPT: Xếp thứ ba đến thứ nhất toàn huyện
(tăng 4 bậc so với giai đoạn 2006 - 2009).
- Hoạt động ngoài giờ lên lớp có nội dung và hình thức ngày càng phong phú,
đạt hiệu quả cao. Mỗi năm tập được 2 bài múa hát sân tập thể có 100% học sinh
tham gia. Thay mặt cho học sinh toàn huyện đi biểu diễn trong buổi lễ khai mạc
Hội khỏe phù đổng huyện Nga Sơn.
- Hoàn thành xuất sắc công tác PCGDTHCS được Giám Đốc SGD &ĐT Thanh
Hóa tặng giấy khen.
- Chất lượng hai mặt giáo dục vượt chỉ tiêu; chất lượng học sinh giỏi huyện xếp
thứ hai đến thứ nhất toàn huyện; học sinh giỏi tỉnh đảm bảo về số lượng và
chất lượng(có môn VH đối với HSCHCĐBKK). Thể hiện trong các bảng số liệu
sau:
Bảng 1: Học lực của học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn(HSCHCĐBKK)
so với học sinh toàn trường(HSTT):
Năm
học
2010
2011
2011
2012
2012
2013
2013
2014

Tổng
số

Tỷ lệ học lực khá, giỏi

Tỷ lệ học lực TB
Tỷ lệ học lực yếu
HSTT HSCHCĐBKK HSTT HSCHCĐBKK HSTT HSCHCĐBKK

226

58,9

19,9

36,7

13,3

4,4

2,2

233

60,1

18,0

35,6

13,7

4,3


2,1

231

60,1

22,1

36,0

15,6

3,9

1,7

220

60,9

23,2

35,5

15,9

3,6

1,8


Bảng 2: Hạnh kiểm của HSCHCĐBKK so với học sinh toàn trường(HSTT):
Năm
học
2010
2011
2011
2012
2012
2013
2013
2014

Tổng
Tỷ lệ hạnh kiểm
Tỷ lệ hạnh kiểmTB
Tỷ lệ hạnh kiểm yếu
số
khá, tốt
HSTT HSTT HSCHCĐBKK HSTT HSCHCĐBKK HSTT HSCHCĐBKK
226

98,7

34,5

1,3

0,9

0,0


0,0

233

99,5

33,9

0,5

0,4

0,0

0,0

231

100,0

39,4

0,0

0,0

0,0

0,0


220

100,0

40,9

0,0

0,0

0,0

0,0

(Theo dõi kết quả học lực- hạnh kiểm của từng HSCHCĐBKK theo từng năm
học và bảng tổng hợp HL- HK cả giai đoạn 2006 - 2013 được ghi trong đĩa CD)
18


Bảng 3: Chất lượng HSG huyện, tỉnh thể hiện trong bảng số liệu sau:
Năm học

Đối tượng
học sinh

2010
2011

HSTT

(226)
HSCHCĐBKK
(81)
HSTT
(233)
HSCHCĐBKK
(81)
HSTT
(231)
HSCHCĐBKK
(91)
HSTT
(220)
HSCHCĐBKK
(90)

2011
2012
2012
2013

2013
2014

HSDT
theo quy

Học sinh giỏi huyện
Môn văn
Môn khác

hóa
(MK)
(VH)

36

36

36

36

24

27

13

`14

26

41

6

5

25


12

6

0

28

21

10

6

2

1(VH)
1(VH)

2

2(VH)
2(MK)

1

2(VH)
0

1


1(VH)
1(MK)
0

( Danh sách học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn đạt HSG cấp huyện, cấp
tỉnh được ghi trong đĩa CD).
IV.3. Kết quả huy động các nguồn lực:
3.1. Số HSCHCĐBKK giai đoạn 2010 - 2013: 343 em giảm 318 em so với
giai đoạn 2006 - 2009.
Năm học

Nghèo

2010 - 2011
2011 - 2012
2012 - 2013
2013 - 2014
Tổng

43
36
37
38
154

Cận
nghèo
25
31

41
40
137

Khuyết
tật
7
6
4
2
19

Gia đình
chính sách
2
3
3
4
12

Mồ côi

Tổng

4
5
6
6
21


81
81
91
90
343

3.2. Kinh phí huy động: Số tiền nhiều hơn giai đoạn 2006 - 2009, thể hiện
trong bảng số liệu so sánh sau:
Giai đoạn

HSTT

HSCHCĐBKK

Số tiền huy động

2006 - 2009
1196
661
35.385.000đ
2010 - 2013
910
343
127.825.000đ
IV.4. Kết quả thi đua khen thưởng của nhà trường

Giai đoạn
2006
2009
2010

2013

Bình quân số
tiền/HSCHCĐBKK
53.500đ/HS
352.500đ/HS

Danh hiệu

Hình thức khen thưởng
Được Giám Đốc SGD &ĐT, Chủ tịch
Liên tục đạt tập thể lao
UBND tỉnh tặng giấy khen và bằng
động tiên tiến cấp huyện
khen.
Liên tục đạt tập thể lao Được BGD&ĐT, Chủ tịch UBND tỉnh,
động xuất sắc cấp tỉnh
Thủ Tướng Chính phủ tặng bằng khen

19


C. KẾT LUẬN:
Để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục trong điều kiện kinh tế địa
phương còn gặp nhiều khó khăn, nhà trường có HSCHCĐBKK chiếm tỷ lệ cao
thì vấn đề huy động các lực lượng xã hội giúp đỡ học sinh có hoàn cảnh đặc biệt
khó khăn trong các trường học nói chung và ở trường THCS Nga Trường nói
riêng chiếm một vị trí vô cùng quan trọng. Để thu hút được nhiều lực lượng xã
hội tham giúp đỡ HSCHCĐBKK có điều kiện vươn lên học tập thì Nhà trường
phải có uy tín cao được Đảng - Chính quyền - Nhân dân trong toàn xã tin tưởng.

Mặt khác, đội ngũ CBGV phải được nâng cao về phẩm chất đạo đức nhất là giáo
viên chủ nhiệm phải có năng lực cảm hóa học sinh, năng lực đối xử sư phạm
khéo léo, quan tâm và trách nhiệm đến từng HSCHCĐBKK. Đặc biệt, nhà
trường phải làm tốt công tác tham mưu với Đảng - Chính quyền các cấp và phối
hợp chặt chẽ với các tổ chức đoàn thể trong và ngoài nhà trường.
Một trường học đóng trên địa bàn xã đến thời điểm năm 2013 mới đạt 6/19
tiêu chí xây dựng nông thôn mới(quá chậm so với các xã khác trong toàn huyện)
mà phấn đấu đạt danh hiệu"tập thể lao động xuất sắc" 4 năm liền. Phải khẳng
định Hiệu trưởng đã có những giải pháp hữu hiệu phù hợp với tình hình thực tế
của địa phương và nhà trường. Các giải pháp đó là:
1. Làm tốt công tác tuyên truyền.
2. Tập trung nâng cao phẩm chất đạo đức của người thầy.
3. Bồi dưỡng đội ngũ giáo viên chủ nhiệm.
4. Xây dựng uy tín nhà trường.
5. Lập kế hoạch khảo sát học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn cần giúp đỡ.
6. Tổ chức họp với phụ huynh có học sinh cần giúp đỡ.
7. Làm tốt công tác tham mưu với Đảng - Chính quyền địa phương; với Hội
khuyến học - Huyện đoàn - Hội CTĐ huyện.
8. Giúp đỡ học sinh có nguy cơ bỏ học và yếu về học lực - hạnh kiểm, học sinh
khuyết tật.
9. Giúp đỡ HSCHCĐBKK phấn đấu đạt HSG cấp huyện, tỉnh và có điều kiện ôn
tập để thi vào các trường THPT.
10. Giúp các em khơi dậy niềm vui trong cuộc sống và tin tưởng vào chính bản
thân mình để vươn lên học tập tốt.
11. Phát huy nội lực trong nhà trường và tranh thủ sự ủng hộ của cá nhân, tập
thể hảo tâm ngoài nhà trường.
Một số giải pháp "Huy động các lực lượng xã hội để giúp đỡ học sinh có
hoàn cảnh đặc biệt khó khăn" được đúc rút tại trường THCS Nga Trường huyện Nga Sơn, nó thể hiện sự cố gắng hết sức của bản thân và HĐSP nhà
trường. Rất mong sự góp ý của các bạn đồng nghiệp và Hội đồng giám khảo.
Xin chân thành cảm ơn!

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Thanh Hóa, ngày 9 tháng 4 năm 2015
CAM KẾT KHÔNG COPY
Hoàng Thị Yến
20


D. CÁC MINH CHỨNG

(Các em học sinh trường THCS Nga Trường trong cảnh
"Múa hát sân trường" đón bằng khen của Thủ Tướng Chính phủ
Năm học 2012 - 2013)

(HSCHCĐBKK đang múa với các bạn trong lớp 9B mừng ngày khai giảng năm
học 2013 - 2014)
21


(Cô giáo Hoàng Thị Yến - Hiệu trưởng nhà trưởng trao sổ tiết kiệm cho em
Mai Thị Hồng Hà lớp 8A nhân ngày 23/11/2013)

(Cô giáo Hoàng Thị Yến - HT nhà trường trao áo ấm cho HSCHCĐBKK nhân
dịp tết Nguyên Đán Giáp Ngọ)

(Phát thưởng cho HSCHCĐBKK nhân buổi lễ tổng kết năm học 2013 - 2014)
22


DANH SÁCH CÁC TẬP THỂ VÀ CÁ NHÂN HÁO TÂM ĐIỂN HÌNH
GIÚP ĐỠ VỀ VẬT CHẤT CHO HỌC SINH CÓ HOÀN CẢNH ĐẶC BIỆT KHÓ KHĂN
ĐƯỢC TUYÊN TRUYỀN TRÊN LOA TRUYỀN THANH CỦA XÃ

VÀ GHI DANH TRONG SỔ VÀNG TRUYỀN THỐNG CỦA NHÀ TRƯỜNG
GIAI ĐOẠN 2010 - 2013

Năm
học

2010
2011

Số tiền

Nội dung

2.075.000đ - Tặng vở nhân ngày
khai giảng năm học
mới.
22.500.000đ - Tặng 45 xuất học
bổng
cho
45
HSCHCĐBKK học khá
giỏi.
3.000.000đ - Bồi dưỡng và khen
thưởng.

Tập thể, cá nhân, địa chỉ
- Ông Nguyễn Văn Công xóm
2 hiện công tác tại Hà Nội.
- Tổ chức ASA Hà Nội


- Công ty cổ phần Phúc Thịnh
thành phố Hồ Chí Minh.

3.500.000đ - Khen thưởng.
2.000.000đ
2.000.000đ
10.150.000đ

2011
2012

3.500.000đ
2.000.000đ
2.600.000đ

2012
2013

10.000.000đ
5.000.000đ

2.000.000đ

- Hoàng Thị Yến - Hiệu
trưởng nhà trường.
- Tặng 1 sổ tiết kiệm.
- CBGV và HS trường THCS
Nga Trường.
- Tặng áo ấm nhân dịp - CBGV và HS trường THCS
tết Nguyên Đán.

Nga Trường.
- Tặng 58 áo hè và 58 - Công ty cổ phần Bảo Linh
áo đông.
Nam Định do ông Lê Quang
Thưởng kêu gọi tài trợ.
- Bồi dưỡng và khen - Hoàng Thị Yến - Hiệu
thưởng.
trưởng nhà trường.
- Tặng 1 sổ tiết kiệm.
- CBGV và HS trường THCS
Nga Trường.
- Tặng quà và áo ấm - CBGV và HS trường THCS
nhân dịp tết NĐ.
Nga Trường.
- Bồi dưỡng và khen - Ông Nguyễn Văn Công xóm
thưởng.
2 hiện công tác tại Hà Nội.
- Bồi dưỡng và khen - Ông Trần Bảo Hoàng xóm 8
thưởng.
Nga Trường hiện đang công tác
tại công ty CP các dân tộc VN.
- Bồi dưỡng và khen -- Anh Mai Văn Dũng công
23


thưởng.
2.300.000đ - Khen thưởng

nhân xây lắp Bỉm Sơn.
-- Hoàng Thị Yến - Hiệu trưởng

nhà trường.
2.000.000đ - Tặng 1 sổ tiết kiệm.
- CBGV và HS trường THCS
Nga Trường.
2.000.000đ - Tặng 10 xuất quà tết - CBGV và HS trường THCS
Nguyên Đán.
Nga Trường.
20.000.000đ - Tặng 40 xuất học - Ông Lê Quang Thưởng kêu
bổng cho HS nghèo học gọi cá nhân hảo tâm ở Hà Nội
khá giỏi HKI.
và Thanh Hóa ủng hộ.
7.000.000đ - Bồi dưỡng và khen - Anh Mai Văn Hiền công
nhân xây lắp Bỉm Sơn.
thưởng.
Khen
thưởng - Hoàng Thị Yến - Hiệu
3.000.000đ HSCHCĐBKK tiến bộ trưởng nhà trường.
cuối năm học.
2013
2014

- Ông Nguyễn Văn Công xóm
Bồi
dưỡng
HSG
dự
thi
4.200.000đ
2 hiện công tác tại Hà Nội.
tỉnh.

2.000.000đ - Tặng 1 sổ tiết kiệm.

- CBGV và HS toàn trường

- Tặng 10 xuất quà tết
2.000.000đ Nguyên Đán.
- CBGV và HS toàn trường
10.000.000đ

- Khen thưởng.

- Cô Mai Thị Nguyệt xóm 6
Nga Trường hiện đang công
tác ở Hà Nội.

3.000.000đ - Bồi dưỡng và khen - Anh Mai Văn Đô Gia Lâm
Hà Nội.
thưởng.
Tổng 127.825.000
(Một trăm hai mươi bẩy triệu tám trăm hai lăm ngàn đồng)

24



×