Tải bản đầy đủ (.doc) (71 trang)

Công tác xã hội với nhóm trẻ em khuyết tật, thực trạng, nguyên nhân và giải pháp can thiệp ở tỉnh quảng trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (12.97 MB, 71 trang )

Khoá luận tốt nghiệp

MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU.....................................................................................1
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.

Lí do chọn đề tài.......................................................................................1
Tình hình nghiên cứu................................................................................2
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu............................................................3
Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu.............................4
Giới hạn và phạm vi nghiên cứu...............................................................4
Đóng góp của đề tài..................................................................................4
Kết cấu......................................................................................................4
B. NỘI DUNG..............................................................................................6
Chương 1. LÍ LUẬN CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI, VIỆC LÀM
VÀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT........................................................................6
1.1. Chính sách xã hội - một số nội dung và quan điểm..............................6
1.1.1. Một số khái niệm về chính sách xã hội..............................................6
1.1.2. Một số quan điểm về chính sách xã hội ............................................7
1.1.3. Nội dung, vai trò của chính sách xã hội...........................................13
1.2. Việc làm và người khuyết tật..............................................................15
1.2.1. Quan niệm về việc làm và chính sách giải quyết việc làm..............15
1.2.2. Vấn đề việc làm của người khuyết tật ở Việt Nam..........................18
1.2.3. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về giải quyết việc làm cho người
khuyết tật.......................................................................................................23


2.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu..............................................................28
2.1.1. Vị trí địa lí và đặc điểm khí hậu.......................................................28
2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội.................................................................29
2.2. Thực trạng người khuyết tật và việc làm của người khuyết tật ở thành
phố Huế hiện nay..........................................................................................30
2.2.1. Thực trạng lực lượng lao động người khuyết tật trên địa bàn thành
phố Huế.........................................................................................................30
2.2.2. Thực trạng việc làm của người khuyết tật ở Thành phố Huế..........38
2.3. Đánh giá chung về hiệu quả của chính sách xã hội và những vấn đề đặt
ra đối với việc giải quyết việc làm cho người khuyết tật ở thành phố Huế....49
2.3.1. Những thành tựu đạt được...............................................................49
2.3.2. Những hạn chế và những vấn đề đặt ra trong giải quyết việc làm cho
người khuyết tật tại thành phố Huế...............................................................51
2.4. Những giải pháp cơ bản để phát huy chính sách xã hội đối với vấn đề
giải quyết việc làm cho người khuyết tật......................................................53
2.4.1. Nhóm giải pháp về kinh tế..................................................................53
2.4.2. Nhóm giải pháp về giáo dục................................................................55
2.4.3. Tăng cường vai trò của các tổ chức đoàn thể trong việc tìm kiếm và
tạo việc làm cho người khuyết tật.................................................................56
C. KẾT LUẬN........................................................................................58
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................60

1


Khoá luận tốt nghiệp

PHỤ LỤC ....................................................................................................62

2



Khoá luận tốt nghiệp

DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
CSXH:
NKT:
LĐ, TB& XH:
CSVL:
NXB:
CTQG:
TB:
BB:
THPT:
THCS:
UBND:
TBCN:
XHCN:
HTX:

Chính sách xã hội
Người khuyết tật
Lao động, Thương binh và Xã hội
Chính sách việc làm
Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia
Thương binh
Bệnh binh
Trung học phổ thông
Trung học cơ sở

Ủy ban nhân dân
Tư bản chủ nghĩa
Xã hội chủ nghĩa
Hợp tác xã

A. PHẦN MỞ ĐẦU
8. Lí do chọn đề tài
Việc làm cho người lao động là một trong những vấn đề xã hội có tính
chất toàn cầu, là mối quan tâm lớn của nhiều quốc gia. Việt Nam trong quá
trình chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lí của Nhà nước đã đạt
được những kết quả nhất định trong phát triển kinh tế như: tốc độ tăng
3


Khoá luận tốt nghiệp

trưởng kinh tế cao trong một số năm, giải quyết tốt vấn đề lương thực… Tuy
nhiên, Việt Nam cũng còn phải đối phó với những thách thức to lớn trong
quá trình phát triển. Một trong những thách thức to lớn đó là tỷ lệ thất
nghiệp cao, nhu cầu về việc làm đang tạo nên sức ép to lớn đối với nền kinh
tế nhất là việc làm cho người khuyết tật.
Trong bối cảnh đó, việc chăm lo giải quyết việc làm cho người khuyết
tật đã trở thành nhiệm vụ cơ bản và cấp bách, đòi hỏi mỗi cấp, mỗi ngành và
toàn xã hội phải quan tâm. Chính vì vậy, việc xây dựng kế hoạch giải quyết
việc làm cho người khuyết tật là nhiệm vụ hết sức quan trọng và cần thiết.
Vì nếu không được làm việc thì người khuyết tật sẽ phải sống phụ thuộc, trở
thành gánh nặng của gia đình và cộng đồng.
Có rất nhiều nguyên nhân khiến người khuyết tật ít cơ hội tìm được
việc làm, trong đó trước hết là do trình độ văn hóa thấp. Trong khi đó, muốn
có nghề, có việc làm thì phải có trình độ văn hóa nhất định. Hơn nữa,trong

quá trình tiếp cận cơ hội học nghề, tìm việc làm người khuyết tật cũng gặp
nhiều khó khăn, thiếu thông tin về học nghề, việc làm.
Để thực hiện thắng lợi mục tiêu giải quyết việc làm cho người khuyết
tật cần thực hiện tốt các chính sách xã hội, tăng cường sự hỗ trợ của Nhà
nước trong giải quyết việc làm và phát triển thị trường lao động để người
khuyết tật có thêm cơ hội tìm kiếm được việc làm.
Ở Thành phố Huế có khoảng 5774 người khuyết tật. Vì vậy, giải
quyết việc làm cho người khuyết tật là vấn đề bức xúc, đòi hỏi chính sách xã
hội phải quan tâm giải quyết nhằm bảo vệ cho người khuyết tật có được
những quyền cơ bản mà họ đáng được hưởng giúp họ vượt qua được tự ti,
mặc cảm, hòa nhập cộng đồng.
Chính vì vậy tôi chọn đề tài: “Hiệu quả của chính sách xã hội đối với
vấn đề giải quyết việc làm cho người khuyết tật ở thành phố Huế” làm khóa
luận tốt nghiệp của mình.
9. Tình hình nghiên cứu
4


Khoá luận tốt nghiệp

Các tác giả: Lương Thế Bản, Lê Doãn Nam, Nguyễn Thị Từ An,
Huỳnh Thị Nương … đã có nhiều công trình nghiên cứu về người khuyết
tật, về các chính sách xã hội. Tuy nhiên chưa có đề tài nào đề cập cụ thể đến
chính sách giải quyết việc làm cho người khuyết tật ở Thành phố Huế.
Trong đề tài: “Công tác xã hội với người tàn tật ở huyện Can Lộc,
tỉnh Hà Tĩnh” tác giả Lương Thế Bản đã nêu một cách tổng quát về các
chính sách xã hội đối với người tàn tật. Tác giả đã tập trung đi sâu vào công
tác xã hội để thấy được hiệu quả của nó như thế nào. Không những thế tác
giả đã làm nổi bật được thực trạng của người tàn tật ở huyện Can Lộc- Hà
Tĩnh để cho ta thấy được những khó khăn, vất vả mà người tàn tật còn gặp

phải nhất là ở vùng quê nghèo này. Tác giả còn cho chúng ta thấy được hơn
lúc nào hết phải quan tâm hơn nữa đến công tác xã hội để làm sao giúp được
càng nhiều cho người tàn tật để họ hòa nhập cộng đồng.
Trong đề tài: “Công tác xã hội với nhóm trẻ em khuyết tật, thực trạng,
nguyên nhân và giải pháp can thiệp ở tỉnh Quảng Trị” tác giả Lê Doãn Nam
lại chọn một đối tượng cụ thể hơn để nghiên cứu đó là trẻ em khuyết tật.
Đây là nhóm đối tượng gặp nhiều khó khăn nhất trong sinh hoạt cũng như
học tập, các em rất khó để hòa nhập vì tâm lí tự ti luôn bao trùm làm các em
cảm thấy mặc cảm. Bên cạnh đó tác giả cũng nêu lên thực trạng, nguyên
nhân cũng như đưa ra một số giải pháp để giúp các em vượt qua được những
rào cản đó. Các em dù thế nào thì cũng là thế hệ trẻ của tương lai chính vì
vậy mà cần có những biện pháp can thiệp sớm, giúp các em được đến trường
để sau này có được một công việc ổn định góp phần xây dựng đất nước.
Tác giả Huỳnh Thị Nương trong đề tài: “Tìm hiểu việc làm của người
khuyết tật vận động ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay” lại chọn đối tượng
khác để nghiên cứu đó là những người bị khuyết tật hệ vận động. Tác giả
cũng đề cập đến những khó khăn mà dạng người khuyết tật này gặp phải
cũng như sự khó khăn của họ khi tìm kiếm một công việc làm phù hợp. Có
thể nói rằng hầu như họ đều không đi lại được nên cơ hội tìm được việc làm

5


Khoá luận tốt nghiệp

của họ là rất hiếm hoi nếu như không muốn nói là vô cùng khó khăn. Những
nhà tuyển dụng hầu như đều e ngại với dạng khuyết tật này. Tác giả cũng đã
đưa ra một số giải pháp thiết thực và chủ yếu để giúp bộ phận này có được
một công việc làm để sớm ổn định cuộc sống.
Tác giả Nguyễn Thị Từ An trong đề tài: “Những vấn đề về tổ chức

gia đình của người khuyết tật ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay” lại bàn về
một khía cạnh hoàn toàn khác của người khuyết tật đó là vấn đề tổ chức gia
đình. Bởi vì cũng như bao nhiêu người bình thường khác người khuyết tật
cũng cần có một mái ấm gia đình. Vì đó là nơi mà tâm hồn của họ được
thanh thản nhất, đó cũng là nơi họ có thể chia sẻ được mọi điều của cuộc
sống đời thường mà họ gặp phải. Tuy nhiên đây cũng không phải là một
điều đơn giản đối với người khuyết tật. Không ai lại muốn kết hôn với một
người khuyết tật cả vì họ cho rằng đó là cả một gánh nặng. Chính vì vậy mà
tác giả đã nêu ra những khó khăn cần mọi người phải biết quan tâm và chia
sẻ cùng người khuyết tật để họ cũng có một mái ấm như bao nhiêu người
bình thường khác.
10.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Đề tài nhằm làm sáng tỏ thực trạng của người khuyết tật ở thành phố
Huế,
- Làm rõ hiệu quả của chính sách xã hội đối với vấn đề giải quyết
việc làm cho người khuyết tật ở thành phố Huế,
- Đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của chính
sách xã hội đối với vấn đề giải quyết việc làm cho người khuyết tật ở thành
phố Huế.
11.Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận là phép biện chứng duy vật
Các phương pháp cụ thể:
-

Phương pháp phỏng vấn

-

Phương pháp phân tích- tổng hợp
6



Khoá luận tốt nghiệp

-

Phương pháp thực nghiệm

-

Phương pháp điều tra xã hội học


12.Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
Do hạn chế về thời gian nên đề tài chỉ tập trung nghiên cứu hiệu quả của
chính sách xã hội đối với vấn đề giải quyết việc làm cho người khuyết tật ở
thành phố Huế.
13.Đóng góp của đề tài
Trên cơ sở điều tra, phỏng vấn, lấy các số liệu để từ đó phân tích, đánh
giá hiệu quả của chính sách xã hội đối với vấn đề giải quyết việc làm cho
người khuyết tật ở thành phố Huế.
Đề tài hoàn thành sẽ là tài liệu cho các trung tâm khuyết tật, cho các Sở
Lao động, Thương binh và Xã hội sử dụng, nghiên cứu.
14.Kết cấu
Ngoài mục lục, danh mục từ viết tắt, phần mở đầu, kết luận, danh
mục tài liệu tham khảo, phụ lục đề tài được kết cấu gồm hai chương với
6 tiết như sau:
Chương 1: Lí luận chung về chính sách xã hội và việc làm cho người
khuyết tật
1.1.


Chính sách xã hội- một số nội dung và quan điểm

1.2.

Việc làm và người khuyết tật

Chương 2: Hiệu quả của chính sách xã hội đối với vấn đề giải quyết
việc làm cho người khuyết tật ở Thành phố Huế
2.1.

Đặc điểm địa bàn nghiên cứu

2.2.

Thực trạng người khuyết tật và việc làm của người

khuyết tật ở Thành phố Huế hiện nay
2.3.

Đánh giá chung và những vấn đề đặt ra trong thực hiện

chính sách xã hội đối với việc giải quyết việc làm cho người khuyết tật.

7


Khoá luận tốt nghiệp

2.4.


Những giải pháp cơ bản để phát huy chính sách xã hội

đối với vấn đề giải quyết việc làm cho người khuyết tật

8


Khoá luận tốt nghiệp

B. NỘI DUNG
Chương 1. LÍ LUẬN CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI, VIỆC
LÀM VÀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT
1.3.

Chính sách xã hội - một số nội dung và quan điểm

1.1.4. Một số khái niệm về chính sách xã hội
Chính sách xã hội là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính
sách của Nhà nước. Để làm rõ khái niệm chính sách xã hội cần hiểu một số
khái niệm liên quan như: “chính sách” và “xã hội”.
“Chính sách” là cách thức tác động có chủ đích của một nhóm, tập
đoàn xã hội này vào những nhóm, tập đoàn xã hội khác thông qua các thiết
chế khác nhau của hệ thống chính trị nhằm thực hiện các mục tiêu đã được
xác định trước. Chính sách thường được thể hiện trong các quyết định, hệ
thống văn bản luật pháp và các quy định chuẩn hành vi khác.
“Xã hội” thường được hiểu theo hai nghĩa rộng và hẹp khác nhau.
Theo nghĩa rộng, xã hội là tất cả những gì gắn với con người, với xã hội loài
người nhằm phân biệt với các hiện tượng tự nhiên.
“Cái xã hội” dùng trong khái niệm “chính sách xã hội” là theo nghĩa

hẹp, được hiểu như con người với những mối quan hệ nhiều mặt của họ về
cả kinh tế, chính trị, văn hóa và tư tưởng. Nghĩa là, yếu tố con người là khía
cạnh nhân văn của tất cả những mối quan hệ kinh tế, chính trị, văn hóa và tư
tưởng ấy. Như vậy “cái xã hội” theo nghĩa hẹp chính là mục tiêu, là mục
đích của tất cả các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa và tư tưởng ấy.
CSXH là công cụ của Nhà nước được thể chế hóa để tác động vào
những quan hệ xã hội nhằm giải quyết những vấn đề xã hội đang đặt ra, góp
phần thực hiện công bằng, bình đẳng, tiến bộ xã hội và phát triển toàn diện
con người.

9


Khoá luận tốt nghiệp

Hoặc hiểu cách khác: CSXH là một bộ phận hợp thành chính sách của
Đảng và Nhà nước, là sự thể hiện cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng,
hệ thống pháp luật của Nhà nước, nhằm đảm bảo những nhu cầu vật chất và
tinh thần của con người, điều chỉnh các mối quan hệ xã hội và tạo động lực
trực tiếp để con người hoạt động trên mọi lĩnh vực xã hội.[19, 4-5]
CSXH là sự cụ thể hoá, thể chế hoá các đường lối, chủ trương để giải
quyết những vấn đề xã hội dựa trên những tư tưởng, quan điểm phù hợp với
bản chất xã hội-chính trị phản ánh lợi ích và trách nhiệm của cộng đồng xã
hội nói chung và của từng nhóm xã hội nói riêng nhằm tác động trực tiếp
vào con người và điều chỉnh các quan hệ giữa con người với con người, giữa
con người với xã hội, hướng tới mục đích cao nhất là thoả mãn những nhu
cầu ngày càng tăng về đời sống vật chất, văn hoá và tinh thần của nhân dân.
[4, 290]
1.1.5. Một số quan điểm về chính sách xã hội
1.1.2.1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về chính sách xã hội

Chính sách xã hội là bộ phận cấu thành của chính sách chung của một
chính đảng hay một chính quyền nhà nước nhất định, nó bao gồm việc giải
quyết một phạm vi ít nhiều rộng rãi các vấn đề xã hội phù hợp với thực chất
giai cấp và những mục tiêu hoạt động của đảng đó, của chính quyền nhà
nước đó. [24,44]
Dưới chế độ TBCN chính sách xã hội trước hết là tổng hòa những biện
pháp do nhà nước tư sản thi hành đối với quần chúng nhân dân. Mặc dầu
CSXH được mô tả dưới hình thức “sự quan tâm” đến nhu cầu trong đời sống
của những người lao động, nhưng trên thực tế nó bổ sung cho bạo lực công
khai. CSXH bao gồm các biện pháp điều tiết bằng luật pháp những điều kiện
lao động của công nhân và giải quyết “những xung đột lao động”, sự bảo
đảm xã hội (nghĩa là sự bảo đảm “bằng tiền của xã hội” do nhà nước tập
trung) đối với những người thất nghiệp, già nua và những người khác mất
khả năng lao động, những người nghèo đông con, trong một số trường hợp,

10


Khoá luận tốt nghiệp

đó là việc bảo đảm, bằng một hình thức nào đó, nơi ăn chốn ở, sự giúp đỡ y
tế cho các tầng lớp nghèo…
CSXH này xuất hiện chủ yếu như một sự phản ứng thích nghi của giai
cấp bóc lột cầm quyền nhằm duy trì các đặc quyền của mình, đối phó với
cuộc đấu tranh ngày càng mạnh mẽ của nhân dân lao động, coi chính sách
ấy là “cái van bảo hiểm” để giảm bớt sức ép của cuộc đấu tranh giai cấp.
Kết quả lớn nhất có thể đạt được nhờ thi hành một chính sách như vậy, chỉ
là một sự giảm nhẹ nào đó những tai họa không thể khắc phục được của
nhân dân lao động dưới chế độ TBCN, chỉ là một sự cải thiện từng mặt đời
sống của nhân dân. Đương nhiên, CSXH Tư sản không thể loại trừ được đấu

tranh giai cấp của giai cấp vô sản và của những tầng lớp lao động khác chống
lại chế độ bóc lột TBCN, và cuộc đấu tranh này không ngừng tăng lên.
Trái ngược hẳn với CSXH của giai cấp tư sản là CSXH của các đảng
cộng sản hoạt động trong điều kiện chủ nghĩa tư bản. Đây là bộ phận cấu
thành của chính sách chung của các đảng ấy, một chính sách cách mạng về
thực chất và về những mục đích cuối cùng. Trong khi đề ra mục tiêu là thay
đổi một cách căn bản những điều kiện xã hội, thì đồng thời các Đảng cộng
sản-chừng nào chủ nghĩa tư bản còn tồn tại- đấu tranh đòi giai cấp thống trị
và chính quyền nhà nước của nó phải nhượng bộ càng nhiều càng tốt nhằm
thỏa mãn những nhu cầu xã hội bức hiết của nhân dân lao động.
Việc chuyển chính quyền nhà nước vào tay gia cấp công nhân tạo ra
những khả năng khách quan để giải quyết một cách triệt để rất nhiều vấn đề
xã hội có liên quan đến việc thực hiện các quyền lợi của nhân dân lao động:
thủ tiêu tình trạng người bóc lột người, cải thiện mạnh mẽ các điều kiện
sống cho quần chúng nhân dân, tạo các tiền đề cho sự phát triển toàn diện
của quần chúng nhân dân để họ tham gia các hình thức hoạt động xã hội
sáng tạo, để xây dựng một lối sống mới thực sự nhân đạo của con người,
thiết lập sự bình đẳng xã hội.[24,44-45]
Nội dung của chính sách xã hội XHCN nhằm cải thiện toàn diện điều
kiện sống của người lao động bộc lộ ra một cách đầy đủ. CSXH còn bao

11


Khoá luận tốt nghiệp

gồm một nhóm nhiệm vụ độc lập là điều tiết tổng hòa các quan hệ xã hội
giữa giai cấp lao động và các tầng lớp lao động, nghĩa là hoàn thiện cơ cấu
xã hội của xã hội xã hội chủ nghĩa. CSXH góp phần vào sự tiến triển của
những quá trình như củng cố khối liên minh và tình hữu nghị giữa giai cấp

công nhân, nông dân, trí thức, dần dần khắc phục những sự khác biệt giữa
các giai cấp và các tầng lớp qua đó mà triệt để củng cố sự thống nhất xã hội.
Việc thực hiện tất cả các nhiệm vụ trong CSXH có liên quan trực tiếp
đến con người, đến địa vị của con người trong xã hội, đến điều kiện và nội
dung hoạt động sống của con người, đến việc hình thành và thực hiện các
nhu cầu trong đời sống và những khả năng của con người nhằm đạt tới sự
phát triển toàn diện của cá nhân. Đây là điều mà chủ nghĩa Mác- Lênin
mong muốn đạt đến.[24,46-47]
1.1.2.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về chính sách xã hội
Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định rằng: giải quyết các vấn đề xã
hội phản ánh bản chất của một chế độ của con người, do con người và vì con
người, là một vấn đề cơ bản của chủ nghĩa xã hội.
Lần đầu tiên văn kiện Đại hội VI đưa ra khái niệm chính sách xã hội,
thể hiện sự đổi mới tư duy của Đảng: giải quyết các vấn đề xã hội được đặt
trong tổng thể đường lối phát triển của đất nước. Nội hàm của chính sách xã
hội được xác định là: “Chính sách xã hội bao trùm mọi mặt của cuộc sống
con người: điều kiện lao động và sinh hoạt, giáo dục và văn hoá, quan hệ gia
đình, quan hệ giai cấp, quan hệ dân tộc...” [ 5, 86]
Từ những quan điểm nêu trên, Đại hội VI đã đề ra chủ trương về giải
quyết các vấn đề xã hội như: Phấn đấu hạ tỷ lệ phát triển dân số, coi đây là
một điều kiện quan trọng để tăng thu nhập quốc dân bình quân đầu người,
để thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội; Đảm bảo việc làm cho người lao
động là nhiệm vụ kinh tế - xã hội hàng đầu. Nhà nước cố gắng tạo thêm việc
làm và có chính sách để người lao động tự tạo ra việc làm bằng cách khuyến
khích phát triển kinh tế gia đình, khai thác mọi tiềm năng của các thành
12


Khoá luận tốt nghiệp


phần kinh tế khác, kể cả thành phần kinh tế tư bản tư nhân. Ban hành và
thực hiện Luật lao động; Đảm bảo cho người lao động có thu nhập thoả
đáng phụ thuộc trực tiếp vào kết quả lao động, có tác dụng khuyến khích
nhiệt tình lao động; Chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khoẻ của nhân dân.
Trước mắt là tập trung sức nâng cao chất lượng các hoạt động y tế và đạt
được những tiến bộ rõ rệt trong việc chăm sóc sức khoẻ của nhân dân; Từng
bước xây dựng chính sách bảo trợ xã hội xã hội chủ nghĩa đối với toàn dân,
theo phương châm “nhà nước và nhân dân cùng làm”, tạo lập nhiều hệ thống
và hình thức bảo trợ xã hội cho những người có công với cách mạng và
những người gặp khó khăn. Điều chỉnh, bổ sung các chính sách, nhất là các
vấn đề quan hệ tới lợi ích thiết thân của mỗi giai cấp và tầng lớp xã hội.
Như vậy, chủ trương của Đại hội VI về lĩnh vực xã hội, tập trung vào
các vấn đề: lao động và việc làm; ổn định và nâng cao đời sống nhân dân;
thực hiện kế hoạch hoá gia đình, chăm lo người có công với cách mạng,
phòng chống các tệ nạn xã hội... Trong đó, tư duy mới của Đảng thể hiện
thông qua các chủ trương: giải quyết chính sách xã hội là nhiệm vụ gắn bó
hữu cơ với đổi mới kinh tế; vấn đề lao động, việc làm được giải quyết gắn
với phát triển nhiều thành phần kinh tế; nâng cao đời sống của nhân dân gắn
với thực hiện ba chương trình kinh tế lớn.
Đại hội Đảng lần thứ VII (6-1991) và Hội nghị đại biểu toàn quốc
giữa nhiệm kỳ Khoá VII (1-1994) chủ trương tăng cường xây dựng các luật
nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của người lao động, vừa khuyến khích đầu tư
phát triển, vừa hạn chế bất công xã hội. Từng bước nhận thức rõ hơn về
nhiều hình thức phân phối, bên cạnh phân phối theo lao động, còn có chính
thức phân phối theo nguồn vốn đóng góp vào sản xuất kinh doanh. Đẩy
mạnh đào tạo tay nghề, mở rộng hệ thống dịch vụ tư vấn lao động; có chính
sách ưu đãi hợp lý về nhiều mặt để tạo điều kiện cho người nghèo vươn lên
làm đủ sống và trở thành khá giả. Khuyến khích làm giàu chính đáng đi đôi
với tích cực xoá đói giảm nghèo. Có chính sách ưu đãi hợp lý về tín dụng,


13


Khoá luận tốt nghiệp

về thuế, đào tạo nghề nghiệp để tạo điều kiện cho người nghèo có thể tự
mình vươn lên [6, 47]... Nâng cao trách nhiệm của toàn xã hội trong vấn đề
giải quyết bất công xã hội. “Có chính sách điều tiết hợp lý đối với những
người giàu; động viên các doanh nghiệp; các tổ chức, cá nhân tự nguyện
tham gia các hoạt động nhân đạo, ái hữu, từ thiện, giúp đỡ những nạn nhân
chiến tranh, những người bị thiên tai, những người tàn tật, già cả, neo đơn,
không có khả năng lao động” [6, 48].
Từ thực tế triển khai thực hiện chính sách xã hội, Đại hội VIII của
Đảng (6-1996) đã tổng kết thành các quan điểm định hướng xây dựng và
phát triển xã hội như: Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công
bằng xã hội trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển. Công bằng
xã hội phải thể hiện ở cả khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn ở khâu
phân phối kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ
hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình; Khuyến khích làm giàu hợp
pháp đi đôi với tích cực xoá đói giảm nghèo; Phát huy truyền thống tốt đẹp
của dân tộc “uống nước nhớ nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa”, nhân hậu, thuỷ
chung; Các vấn đề xã hội đều giải quyết theo tinh thần xã hội hoá. Nhà nước
giữ vai trò nòng cốt, đồng thời động viên mỗi người dân, các doanh nghiệp,
các tổ chức trong xã hội..., cũng tham gia giải quyết những vấn đề xã hội...
[7,113-114].
Các quan điểm cơ bản nêu trên đã định hình tổng thể tư duy lý luận
của Đảng về giải quyết các vấn đề xã hội trong thời kỳ đổi mới. Nó vừa
thích ứng với nhu cầu tạo động lực cho sự phát triển bền vững, vừa hướng
tới giá trị công bằng và tiến bộ xã hội.
Thực hiện quan điểm chỉ đạo của Đại hội VIII, các chính sách xã hội

có sự đổi mới. Chính sách lao động và việc làm đã gắn kết với quá trình
chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, phát triển sản xuất. Chính sách xoá đói giảm
nghèo được đặc biệt coi trọng với việc hình thành Chương trình quốc gia
theo Quyết định 133 của Thủ tướng chính phủ (23-7-1998). Ưu đãi người có

14


Khoá luận tốt nghiệp

công được luật hoá bằng Pháp lệnh do Quốc hội ban lệnh với những chế độ
trợ cấp ưu đãi đặc biệt. Bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân được
đảm bảo bằng mở rộng mạng lưới y tế đến cộng đồng dân cư, thực hiện chế
độ bảo hiểm y tế. Phòng và chống tệ nạn xã hội được đảm bảo bằng luật
pháp; Mở rộng các hoạt động đền ơn đáp nghĩa đối với những người có
công với nước, đảm bảo cho người có công và gia đình có mức sống bằng
hoặc cao hơn mức trung bình của xã, phường nơi cư trú...[ 7, 38-39]
Đại hội Đảng lần thứ IX (4-2001) và các Hội nghị Trung ương Khoá
IX đã cụ thể hoá và bổ sung các quan điểm về chính sách xã hội của Đại hội
VIII, với những nội dung cơ bản:
- Giải quyết chính sách xã hội phải gắn liền với quá trình xây dựng
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt là “phát
triển thị trường lao động; người lao động được tìm và tạo việc làm ở mọi nơi
trong nước; đẩy mạnh xuất khẩu lao động với sự tham gia của các thành
phần kinh tế”
- Trong giải quyết các chính sách xã hội, Nhà nước vừa là người điều
tiết, vừa là nhà đầu tư.
- Coi trọng công bằng trong hưởng thụ các dịch vụ xã hội, đặc biệt là
công bằng trong thụ hưởng dịch vụ giáo dục và chăm sóc y tế, với việc tạo
cơ hội cho những đối trọng, những vùng còn khó khăn có cơ hội được chăm

sóc tốt hơn.
- Xã hội hoá việc giải quyết các vấn đề xã hội, động viên toàn xã hội
tham gia giải quyết các vấn đề xã hội.
- Thực hiện các chính sách xã hội hướng vào phát triển và lành mạnh
hoá xã hội. [8,192-193]
Đại hội lần thứ X của Đảng (4-2006), trong khi khẳng định những
thành tựu đạt được là cơ bản, đồng thời cũng chỉ rõ những hạn chế trong
việc tổ chức thực hiện một số chính sách xã hội như: Kết quả xoá đói giảm
nghèo chưa thật vững chắc, nguy cơ tái nghèo còn lớn; khoảng cách về thu
15


Khoá luận tốt nghiệp

nhập, mức sống giữa các tầng lớp nhân dân, giữa các vùng có xu hướng
chênh lệch rõ ràng; nhu cầu về việc làm ở thành thị và nông thôn chưa được
đáp ứng tốt; tội phạm và tệ nạn xã hội có chiều hướng tăng... Để khắc phục
tình trạng trên, Đại hội X đề ra chủ trương “Thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội ngay trong từng buớc và từng chính sách phát triển”.
Những vấn đề xã hội đã được Đại hội Đảng lần thứ X nhận thức và
giải quyết toàn diện cả ở góc độ mục tiêu và hệ thống giải pháp trong tổng
thể các chính sách phát triển, mà ở đó con người thực sự là trung tâm, là
động lực và mục tiêu của phát triển xã hội bền vững.
1.1.6. Nội dung, vai trò của chính sách xã hội
* CSXH bao gồm những nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất: Tái tạo tiềm năng nhân lực của đất nước thông qua các
chính sách về dân số, giáo dục, y tế, bảo hộ lao động, tổ chức nghỉ ngơi,
giải trí cho tầng lớp nhân dân, khắc phục các tệ nạn xã hội, bảo đảm an
toàn xã hội.
Thứ hai: Góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng nền tảng vững

chắc của xã hội với các chính sách về nhà ở, bảo vệ môi trường, sự phát
triển của văn hóa, giáo dục, khoa học, nghệ thuật, hệ thống các tổ chức dịch
vụ nhằm mục đích phục vụ cuộc sống tốt đẹp của con người.
Thứ ba: Giáo dục nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân
tài cho đất nước, tạo thêm nhiều việc làm và thu nhập cho các tầng lớp
nhân dân, đặc biệt là thanh niên; đào tao và đào tạo lại người lao động để
tiếp thu công nghệ mới, kỹ thuật hiện đại, không ngừng nâng cao năng suất
lao động.
Thứ tư: Tạo điều kiện cho xã hội ngày càng có nhiều khả năng và biết
tiêu thụ những sản phẩm vật chất, tinh thần một cách đúng đắn, tiết kiệm,
phù hợp với trình độ phát triển sức sản xuất của đất nước và những chuẩn
mực đạo đức, pháp lí của chế độ mới- xã hội chủ nghĩa.

16


Khoá luận tốt nghiệp

Thứ năm: Tạo sự hình thành mô hình lối sống mới với những đặc
điểm chủ yếu vì sự phát triển toàn diện của con người, hài hòa với sự phát
triển của cộng đồng, bảo vệ những giá trị lịch sử, văn hóa truyền thống tốt
đẹp của dân tộc, không ngừng tiếp thu tinh hoa trí tuệ và văn hóa của nhân
loại.[19, 6-7]
*Vai trò của chính sách xã hội
Chính sách xã hội có vai trò to lớn đối với sự phát triển xã hội, cụ thể:
Nó bao trùm tất cả các mặt, các lĩnh vực hoạt động của đời sống con
người, các nhóm người và toàn bộ cộng đồng dân cư. Nó luôn có vị trí hàng
đầu trong hệ thống chính sách kinh tế- xã hội của Nhà nước.
Vị trí quan trọng của chính sách xã hội được quy định bởi vị trí quan
trọng của con người trong xã hội. Nó giải quyết những vấn đề xã hội, tạo

điều kiện và khai thác triệt để tiềm lực con người cho sự phát triển. Vai trò
này ngày càng to lớn khi đất nước thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và nhân loại bước vào thời đại khoa học, kỹ thuật, công nghệ.
CSXH là cầu nối giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng
xã hội. Tăng trưởng và phát triển kinh tế là một cơ sở để tạo ra sự tiến bộ xã
hội, nhưng chỉ đạt được khi phải thông qua các chính sách xã hội.
CSXH còn là công cụ hữu hiệu để Đảng và Nhà nước ta phát triển
định hướng xã hội chủ nghĩa. Nó là công cụ chủ yếu để thực hiện ngày một
tốt hơn sự công bằng và tiến bộ xã hội.
CSXH là một công cụ để thực hiện cơ chế thị trường có sự quản lí
của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều đó được thể hiện:
Khắc phục và hạn chế các khuyết tật của kinh tế thị trường về phân
tầng xã hội và phân hóa giàu nghèo, tạo điều kiện cho nhóm thiệt thòi có
điều kiện vươn lên hòa nhập với cộng đồng.
Thực hiện công bằng trong phân phối, thu nhập trên nguyên tắc theo
lao động.

17


Khoá luận tốt nghiệp

Tạo những cơ hội như nhau cho tất cả các chủ thể xã hội phát huy mọi
tiềm năng, tham gia lao động, các sự nghiệp giáo dục đào tạo, văn hóa, y tế,
thể dục, thể thao và những hoạt động chính trị xã hội khác.
Tạo lập nếp sống lành mạnh, văn minh, duy trì và phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc, góp phần bảo đảm sự phát triển bền vững và nhân văn của
đất nước.[19, 7-8]
1.4.


Việc làm và người khuyết tật

1.2.4. Quan niệm về việc làm và chính sách giải quyết việc làm
* Quan niệm về việc làm
Việc làm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với mỗi người vì nhờ nó
con người có điều kiện tạo thu nhập để đảm bảo các nhu cầu vật chất, tinh
thần của mình và các thành viên trong gia đình, đồng thời là điều kiện để
con người tham gia vào các hoạt động xã hội, quan hệ xã hội, qua đó khẳng
định vai trò, giá trị xã hội của mình.
Theo quan niệm của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), người có việc
làm là người làm việc trong các lĩnh vực, ngành nghề, dạng hoạt động có
ích, không bị pháp luật cấm, đem lại thu nhập để nuôi sống bản thân và gia
đình, đồng thời góp một phần cho xã hội.
Theo chương II, Điều 13, Bộ luật lao động, việc làm được định nghĩa:
“Mọi hoạt động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều thừa
nhận là việc làm”. Với định nghĩa này, việc làm được hiểu đầy đủ hơn, làm
thay đổi nhận thức chật hẹp trước đây, tạo yếu tố thuận lợi về tâm lý, tránh
sự mặc cảm hoặc thái độ không đúng với một số công việc cần thiết trong
đời sống hàng ngày.
Đối lập với việc làm là thất nghiệp. Theo Tổ chức Lao động quốc tế,
thất nghiệp là tình trạng tồn tại khi một số người trong lực lượng lao động
muốn làm việc, nhưng không thể tìm được việc làm ở mức tiền công đang
thịnh hành.

18


Khoá luận tốt nghiệp

Giải quyết việc làm là một trong những chính sách quan trọng đối

với mỗi quốc gia, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển có lực
lượng lao động lớn như Việt Nam; giải quyết việc làm cho người lao động
trong sự phát triển của thị trường lao động là tiền đề quan trọng để sử
dụng có hiệu quả nguồn lao động, góp phần tích cực vào việc hình thành
thể chế kinh tế thị trường, đồng thời tận dụng lợi thế để phát triển, tiến
kịp khu vực và thế giới.
Nhận thức được điều đó nhiều năm qua Nhà nước và toàn xã hội đã
hết sức quan tâm giải quyết việc làm cho người lao động. Cùng với hệ thống
chính sách, cơ chế, phương tiện bảo đảm, Nhà nước còn quy định nhiều văn
bản pháp luật về việc làm. Điều 55 Hiến pháp năm 1992 ghi rõ: “Lao động
là quyền và nghĩa vụ của công dân. Nhà nước và xã hội có trách nhiệm tạo
ngày càng nhiều việc làm cho người lao động”. Tại nhiều điều khoản của Bộ
Luật lao động, trách nhiệm của Nhà nước, của các cơ quan, tổ chức, đơn vị
kinh tế trong vấn đề giải quyết việc làm, hỗ trợ cho người lao động khi mất
việc làm v.v…được xác định rất cụ thể, cùng với việc tự do lựa chọn việc
làm của người lao động.
* Khái niệm và vai trò của chính sách việc làm
- Khái niệm: Chính sách việc làm là một trong những chính sách xã
hội cơ bản nhất của mọi quốc gia nhằm góp phần đảm bảo an toàn, ổn định
và phát triển xã hội. Hội nghị Thượng đỉnh Copenhagen tháng 3/1995 đã coi
mở rộng việc làm là một trong những nội dung cơ bản nhất của chiến lược
phát triển xã hội của các nước trên thế giới đến năm 2010.
CSVL là tổng thể các quan điểm, tư tưởng, các mục tiêu, các giải pháp
và công cụ nhằm sử dụng lực lượng lao động và tạo việc làm cho lực lượng
lao động đó. Nói cách khác, chính sách việc làm là sự thể chế hóa pháp luật
của Nhà nước trên lĩnh vực lao động và việc làm, là hệ thống các quan điểm,
phương hướng, mục tiêu và các giải pháp giải quyết việc làm cho người lao
động.

19



Khoá luận tốt nghiệp

CSVL thực chất là một hệ thống các chính sách chung có quan hệ và tác
động đến việc mở rộng và phát triển việc làm cho lực lượng lao động của
toàn xã hội, như các chính sách: khuyến khích phát triển các lĩnh vực, những
ngành, nghề có khả năng thu hút nhiều lao động; chính sách tạo việc làm
cho những đối tượng đặc biệt (người tàn tật, người già, đối tượng tệ nạn xã
hội…); chính sách hợp tác và xuất khẩu lao động đi nước ngoài.
[19,54-55]
-Vai trò của chính sách việc làm:
CSVL là một vấn đề nhạy cảm, vừa có ý nghĩa về mặt kinh tế, vừa có
ý nghĩa về mặt chính trị, xã hội. Việc hoạch định và thực hiện không tốt
chính sách này sẽ dẫn đến những hậu quả, những thiệt hại trực tiếp cả về
kinh tế (không sử dụng hết tiềm năng lao động để phát triển kinh tế- xã hội),
lẫn chính trị và xã hội cho đất nước (thất nghiệp tăng thì tệ nạn xã hội cũng
tăng, thất nghiệp đồng hành với đói nghèo).
CSVL có mối quan hệ biện chứng với các chính sách khác như chính
sách dân số, chính sách giáo dục-đào tạo, chính sách cơ cấu kinh tế…Chẳng
hạn giáo dục- đào tạo tốt thì cơ hội có việc làm tăng; hay giảm tốc độ tăng
dân số là công cụ chủ yếu để khắc phục tình trạng thất nghiệp về lâu dài,…
Như vậy thực hiện tốt CSVL, nguồn nhân lực được sử dụng có hiệu
quả thì hiện tượng thất nghiệp sẽ giảm đi làm cho chính sách bảo hiểm xã
hội sẽ giảm được chi phí cho các trợ cấp thất nghiệp. Ngược lại, khi CSVL
chưa được giải quyết tốt, nạn thất nghiệp sẽ tăng lên cùng với nó là tình
trạng đói nghèo, các tệ nạn xã hội sẽ dễ dàng phát sinh. Khi đó, gánh nặng
đối với các chính sách về bảo trợ xã hội, an sinh xã hội sẽ tăng lên thậm chí
còn gây ra bất ổn định về chính trị, xã hội.
1.2.5. Vấn đề việc làm của người khuyết tật ở Việt Nam


20


Khoá luận tốt nghiệp

Có thể nói mối liên hệ giữa khuyết tật, nghèo đói và tình trạng bị cô
lập với xã hội là không thể phủ nhận. Việc từ chối các cơ hội việc làm công
bằng cho NKT chính là một trong những nguyên nhân gốc rễ dẫn đến tình
trạng bị đói nghèo và phân biệt đối xử cho nhiều trong số những NKT. Có
nhiều bằng chứng cho thấy người khuyết tật dễ vấp phải những bất lợi, bị
đứng ngoài lề và bị phân biệt đối xử trên thị trường lao động và cả ở những
nơi khác nữa. Hậu quả là NKT không có việc làm cao hơn tỉ lệ những người
khác. Kể cả khi họ có việc làm thì đó cũng thường là những việc không
thuộc thị trường lao động chính thức với đồng lương rất thấp và những vị trí
đòi hỏi kỹ năng thấp, có ít hoặc không có cơ hội thăng tiến trong nghề
nghiệp. Người lao động khuyết tật thường được làm việc ít hơn những người
khác. Chính những điều này vô tình đã đẩy NKT ra ngoài xã hội làm cho họ
không thể hòa nhập được.
1.2.2.1. Một số quan niệm về người khuyết tật trên thế giới và Việt Nam
Khái niệm NKT, cơ sở xác định ai được công nhận là NKT và từ đó
được bảo vệ bởi hệ thống luật pháp liên quan phụ thuộc rất nhiều mục tiêu
mà luật hoặc các chính sách cụ thể đó theo đuổi. Do vậy không có một khái
niệm chung nào về NKT có thể được áp dụng cho tất cả các văn bản pháp
luật về lao động xã hội.
Sau đây là một số quan niệm về người khuyết tật trên thế giới và Việt
Nam:
-

Ở Trung Quốc, Luật của Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về


bảo vệ người khuyết tật ban hành năm 1990 định nghĩa: NKT là người bị
“mất khả năng về nhìn, nghe, nói hoặc thể chất, mất khả năng về trí não, rối
loạn tâm thần, khuyết tật bị đa tật và các dạng khuyết tật khác”
- Ở Đức, sách số chín của Bộ Luật Xã hội định nghĩa: NKT là người có
các chức năng về thể lực, trí lực hoặc tâm lí tiến triển không bình thường so
với người có cùng độ tuổi trong thời gian trên 6 tháng và sự không bình

21


Khoá luận tốt nghiệp

thường này là nguyên nhân dẫn đến việc họ bị hạn chế tham gia vào cuộc
sống xã hội.
- Ở Ấn Độ, Luật về NKT ban hành năm 1995 (về cơ hội bình đẳng, bảo
vệ quyền và đảm bảo cho người khuyết tật tham gia mọi hoạt động xã hội)
định nghĩa: khuyết tật bao gồm những tình trạng mù, nghe kém, lành bệnh
phong, thính lực kém, suy giảm khả năng vận động, chậm phát triển về trí óc
và mắc bệnh tâm thần.
- Ở Nam Phi, Luật bình đẳng việc làm của Nam Phi định nghĩa người
khuyết tật là “người bị suy giảm về khả năng thể lực hoặc trí lực trong một
thời gian dài hoặc tiếp diễn nhiều lần, khiến người đó bị hạn chế đáng kể về
khả năng tham gia hoặc phát triển trong nghề nghiệp.[18,20]
- Ở Việt Nam:
Người tàn tật là người không bình thường về sức khỏe do các khuyết
tật, hoặc do bệnh tật làm hủy hoại, rối loạn các chức năng của cơ thể, hoặc
do hậu quả của những chấn thương dẫn đến những khó khăn trong đời sống
và cần được xã hội quan tâm giúp đỡ, bảo vệ.
Người tàn tật là người bị mất toàn phần hay một phần khả năng, điều

kiện để tự phục vụ mình, học tập và tham gia lao động, họ phải tự vận động
di chuyển, giao tiếp và tự kiểm soát hành vi của mình
Những người bị què cụt, đui mù, câm điếc, những người bị rối loạn chức
năng cơ thể, những người bị liệt toàn thân hay một phần…. là những người
tàn tật do sự sai lệch rõ ràng so với thể trạng bình thường của một con người
[10, 89-90]
Ngày 01/01/2011 Luật người khuyết tật bắt đầu có hiệu lực đã đưa ra
cách giải thích thuật ngữ về người khuyết tật như sau:
NKT là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị
suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh
hoạt, học tập gặp khó khăn.
Dạng tật và mức độ khuyết tật
22


Khoá luận tốt nghiệp

Dạng tật bao gồm:
Khuyết tật vận động;

Khuyết tật nghe, nói;

Khuyết tật nhìn;

Khuyết tật thần kinh, tâm thần;

Khuyết tật trí tuệ;

Khuyết tật khác.


Người khuyết tật được chia theo mức độ khuyết tật sau đây:
NKT đặc biệt nặng là người do khuyết tật dẫn đến không thể tự thực
hiện việc phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày;
NKT nặng là người do khuyết tật dẫn đến không thể tự thực hiện một
số việc phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày;
NKT nhẹ là người khuyết tật không thuộc hai trường hợp trên.
Định nghĩa về người khuyết tật dù một hay nhiều định nghĩa, đều nhất
thiết phải phản ánh một thực tế là người khuyết tật có thể gặp các rào cản do
yếu tố môi trường hoặc con người trong khi tham gia vào thị trường việc
làm mở như hiện nay.
1.2.2.2.Các nhân tố ảnh hưởng đến việc làm của người khuyết tật
* Về chủ quan:
-

Tự ti, mặc cảm: là những người ngại hòa nhập với cộng đồng xã hội.

Phần lớn người khuyết tật thường tự ti mặc cảm nên ngại đi học. Vì vậy đã
làm cho trình độ học vấn của NKT ngày càng thấp kém, phần lớn người
khuyết tật không biết chữ. Không những thế đại đa số NKT học nghề chưa
đến nơi đến chốn vì gia đình không quan tâm đến nhu cầu đi học và có việc
làm của con, hoặc sợ con khổ, hoặc không tin con mình có thể làm việc
được. Chính điều này đã tạo ra một rào cản thật sự cho NKT trong việc tìm
kiếm việc làm. Họ rất khó vượt qua được điều này nếu như không có sự
giúp đỡ, quan tâm của người khác và hơn hết là của toàn xã hội.
- Sức khỏe: hầu hết những NKT đều có sức khỏe không tốt. Họ bị khiếm
khuyết về cơ thể nên sức khỏe không thể như người bình thường. Đây cũng
là điều hạn chế rất lớn đến khả năng tìm dược việc làm của NKT. Họ không
thể nhanh nhẹn như những người khác nên hiệu quả công việc sẽ không
23



Khoá luận tốt nghiệp

bằng được người bình thường. Mặt khác, họ cũng thường xuyên ốm đau nên
rất cần có người kề bên để chăm sóc. Chính những điều này đã tạo ra sự e
ngại cho các nhà tuyển dụng khi tuyển lao động là NKT.
- Thiếu những kỹ năng xã hội cần thiết: họ không biết cách tiếp cận với
các chính sách hỗ trợ, các trung tâm dạy nghề và giới thiệu việc làm, hoặc
các nguồn vốn ưu đãi. Thậm chí sau khi học nghề và có chứng chỉ của các
trung tâm dạy nghề, NKT vẫn thiếu thông tin về nhà tuyển dụng, không biết
đến chính sách việc làm cho người tàn tật, hoặc không đáp ứng yêu cầu của
nhà tuyển dụng. Những người đã có việc làm thì gặp khó khăn trong việc
bố trí việc làm phù hợp với thể trạng và dạng tật nên khó phát huy được hết
khả năng, ít được tập huấn thêm nên khó thăng tiến và lương thấp.
- Những gia đình có người khuyết tật: Có một đứa con khuyết tật thường
là một cú sốc lớn cho các bậc cha mẹ. Họ thường không hề chuẩn bị cho
điều này và bối rối trước những thử thách sắp đến. Phản ứng của họ thường
là “Tôi đã làm gì sai thế này?” hoặc “Tôi đã làm gì mà phải nên tội thế này!”
Những gia đình có người thân mới trở thành NKT cũng trải qua
những đau đớn và bối rối tương tự. Đặc biệt hơn, mất đi một phần hay
nguồn thu nhập chính từ người thân giờ đã trở thành khuyết tật, mất cả một
công lao động để phải chăm sóc cho NKT này, và những thay đổi trong tâm
tính của người mới bị khuyết tật làm cho sự tàn tật trở thành một “tai họa”
cho cả gia đình. Mọi người, cả NKT lẫn các thành viên khác của gia đình,
đều mệt mỏi và thay đổi.
Những bậc cha mẹ và các thành viên trong những gia đình này thường
không biết phải làm gì hoặc tìm đến ai khi cần. Và thái độ thương hại hay
tội nghiệp của những người thân quen càng làm cho họ đau khổ hơn. Họ hết
sức cần những hỗ trợ thích hợp để không cảm thấy đơn độc hay bị bỏ rơi
trong tình huống bất ngờ nhưng sẽ gắn bó lâu dài với cuộc sống của họ và

cả gia đình.

24


Khoá luận tốt nghiệp

* Về khách quan:
- Định kiến xã hội: các thành viên của xã hội cũng thường lệnh lạc về
cách nhìn thẩm mỹ, họ cho rằng NKT và người không khuyết tật không
xứng đôi vừa lứa (như đôi đũa lệch). Nguy hiểm hơn, có người cho rằng
NKT không có khả năng tình dục hoặc sinh con, hoặc khuyết tật là di truyền
nên sẽ sinh ra những đứa con dị tật. Không những thế xã hội rất có thành
kiến khi nhắc đến NKT. Họ cho rằng đây là những người vô tích sự chẳng
làm được gì; khả năng làm việc không có năng suất, hiệu so với người bình
thường; thời gian làm việc cũng không nhiều hơn, NKT không thể làm tăng
ca so điều kiện sức khỏe… Những điều này cũng là nguyên nhân khiến
người khuyết tật cảm thấy mình thật lẻ loi giữa cuộc đời, cảm giác mặc cảm,
tự ti lại càng tăng lên. Họ không đủ tự tin để vượt qua được những định kiến
quá khắc nghiệt của xã hội.
- Môi trường đi lại, sinh hoạt chưa thuận tiện: NKT có thể vượt qua
được rào cản tâm lý về những khiếm khuyết của mình nhưng không thể
vượt qua được những rào cản bằng bêtông từ các công trình công cộng – Đó
cũng là thực trạng khiến người khuyết tật lo ngại khi hòa nhập cộng đồng.
Các công trình công cộng thường không được không được xây dựng hay sửa
chửa theo Quy Chuẩn Tiếp Cận của Bộ Xây dựng nên người khuyết tật luôn
phải đối mặt với rào cản như bậc tam cấp và nhà vệ sinh không phù hợp.
Đồng thời, người khuyết tật luôn gặp khó khăn về phương tiện đi lại mà hệ
thống xe buýt sẵn có lại khó sử dụng vì thiếu bộ phận nâng xe lăn, thái độ
phục vụ chưa tốt (nhân viên xã hội thường gắt gỏng, không dừng hẳn để

người khuyết tật lên xuống xe an toàn). Điều này làm cho NKT rất khó khăn
trong việc đi lại, làm giảm rất đáng kể khả năng xin được việc làm của
NKT.
- Các doanh nghiệp còn thiếu thông tin về người khuyết tật: do thiếu
thông tin về NKT nên các doanh nghiệp vẫn còn kỳ thị, chưa tin vào khả
năng của người khuyết tật. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần người kiêm

25


×