Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

Luận văn các công cụ kinh tế trong quản lý và bảo vệ môi trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (288.95 KB, 46 trang )

ĐẶT VẤN ĐỂ


Từ nhiều thập kỷ qua, con người đã nhận thức rằng môi trường đóng vai trò
đặc biệt quan trọng đối với đời sống con người, sinh vật và sự phát triển kinh tế,
văn hoá- xã hội của đất nước. Bởi vì môi trường không chỉ cung cấp các nguồn tài
nguyên đầu vào cho sản xuất, tiện nghi sinh hoạt cho con người mà còn là noi chứa
và hấp thụ chất thải do chính sản xuất và con người tạo ra.

“Kinh nghiệm phát triển trên thế giới cho thấy rằng tăng trưởng kinh tế bao
giờ cũng làm tăng sức ép và gây ra nguy cơ huỷ hoại môi trường” 1. Vì vậy mà môi
trường hiên nay đang là vấn đề nóng bỏng của mọi quốc gia dù đó là quốc gia phát
triển hay đang phát triển như Việt Nam. Sự ô nhiễm môi trường, suy thoái và
những sự cố môi trường diễn ra ngày càng ở mức độ cao, đang đặt con người trước
sự trả thù ghê gớm của thiên nhiên. Bảo vệ môi trường ngày nay đã trở thành một
trong những chính sách quan trọng của Đảng và Nhà nước ta. Bằng những biện
pháp và chính sách khác nhau, Nhà nước ta đang can thiệp mạnh mẽ vào các hoạt
động của cá nhân, tổ chức xã hội để bảo vệ môi trường, ngăn chặn việc gây ô
nhiễm, sự cố và suy thoái môi trường. Trong những biện pháp, chính sách mà Nhà
nước ta sử dụng cũng như nhiều nước trên thế giới, Nhà nước ta đã áp dụng các
công cụ hữu hiệu của mình trong đó công cụ kinh tế đóng vai trò đặc biệt quan
trọng.

Quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá cũng như hội nhập nền kinh tế thế
giới ở nước ta diễn ra mạnh mẽ và kéo theo hàng loạt những thách thức về môi
trường. Như vậy các vấn đề về môi trường sẽ ngày càng trở nên gay gắt và phức
tạp. Việc giải quyết, tổ chức sẽ không tránh khỏi những xung đột với phát triển
kinh tế- xã hội. Áp dụng công cụ kinh tế trong quản lý và bảo vệ môi trường góp
phần giải quyết những xung đột đó

1 Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương - Đổi mới quản lý kinh tế và môi trường sinh thái - NXB


Chính Trị - Quốc Gia - Hà Nội 1997

1


Vì những lý do trên, đựơc sự nhất trí của Ban giám hiệu, Khoa pháp luật kinh tế trường Đại học Luật Hà nội em tiến hành thực
hiện đề tài luận văn tốt nghiệp: “ Các công cụ kinh tế trong quản lý và bảo vệ môi trường”.

CHƯƠNG I

Sự CẦN THIẾT PHẢI ÁP DỤNG CÁC CÔNG cụ KINH TẾ
TRONG QUẢN LÝ VÀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG.

1. Khái niệm về công cụ kinh tế.

1.1.

Một sô'đặc trưng cơ bản của công cụ kinh tế.

Bàn về các công cụ kinh tế các nhà nghiên cứu đã đưa ra rất nhiều các định nghĩa khác nhau. Để làm sáng tỏ đặc trưng
cơ bản của công cụ kinh tế em đưa ra một số định nghĩa sau:

Công cụ kinh tế là những phương tiện chính sách nhằm thay đổi chi phí và lợi ích của những hoạt động kinh tế thường
xuyên tác động đến môi trường (Tổ chức, cá nhân khai thác và sử dụng), tăng cường ý thức trách nhiệm trước việc gây ra sự
huỷ hoại môi trường. Các doanh nghiệp (hoạt động sản xuất kinh doanh) trong quá trình thường phải chú ý tới hai vấn đề: Lợi
ích kinh tế và vấn đề bảo vệ môi trường. Như vậy thì ngoài phải chi phí cho những khoản khác đương nhiên họ phải mất một
khoản tài chính nhất định chi phí cho bảo vệ môi trường. Điều này đã làm ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế của nhà doanh nghiệp.
Tại Điều 7- luật bảo vệ môi trường đã quy định: “ Tổ chức cá nhân sử dụng thành phần môi trường vào mục đích sản xuất,
kinh doanh trong trường họp cần thiết phải đóng góp tài chính cho việc bảo vệ môi trường”, và cụ thể tại Điều 8 Nghị định số
175- CP ngày 18/10/1994 quy định việc các tổ chức, sản xuất kinh doanh có trách nhiệm đóng góp tài chính bảo vệ môi trường

và bồi thường thiệt hại do có hành vi gây tổn hại môi trường.

Như vậy việc áp dụng các công cụ kinh tế sẽ làm thay đổi chi phí và lợi ích kinh tế và đương nhiên điều đó đã tăng
cường ý thức trách nhiệm trong việc bảo vệ môi trường của doanh nghiệp.

Công cụ kinh tế sử dụng sức mạnh thị trường để đề ra các quyết định nhằm đạt tới các mục tiêu môi trường, từ đó sẽ có
cách ứng xử hiệu quả chi phí cho bảo vệ môi trường. Do phải chi phí cho việc bảo vệ môi trường nên đã làm cho lợi ích kinh tế
không cao. Vậy muốn đảm bảo được lợi ích kinh tế thì doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh phải tăng giá thành sản
phẩm và chỉ có tăng giá thành sản phẩm thì mới đảm bảo được lợi ích kinh tế cũng như đáp ứng được vấn đề bảo vệ môi
trường.

“Công cụ kinh tế đơn giản là con đường mà chính phủ có thể thay đổi hành vi ứng xử của mọi người thông qua việc lưạ


chọn những phương thức kinh tế khác nhau hoặc giảm thiểu chi phí trên thị trường nhằm mục tiêu môi trường” 2. Dựa vào công
cụ kinh tế, Chính phủ đưa ra các loại mức phí cho việc bảo vệ môi trường, tương ứng với mỗi loại hành động, mức độ của
hành động tác động đến môi trường : dựa vào đó mà các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh có thể lựa chọn những
phương thức kinh tế sao cho phù họp giữa mức phí mình phải đóng góp vói hành động sản xuất kinh doanh tác động đến môi
trường. Tuy nhiên sự lựa chọn cũng nằm trong giới hạn cho phép: phải phù họp vói những chuẩn mực, giói hạn cho phép cũng
như việc đánh giá tác động môi trường của doanh nghiệp. Như vậy việc áp dụng các công cụ kinh tế sẽ tạo khả năng lựa chọn
phương thức kinh tế sao cho phương thức kinh tế đó phù họp với điều kiện của doanh nghiệp đó( điều kiện về tác động đánh
giá môi trường, về tiêu chuẩn môi trường).

Công cụ kinh tế là biện pháp cung cấp những tín hiệu thị trường để giúp cho những người ra quyết định ghi nhận hiệu
quả môi trường trong việc lựa chọn của họ. Cơ quan quản lý và bảo vệ môi trường dựa vào phương thức kinh tế cũng như việc
lựa chọn hành động(mức phí phải đóng cho việc bảo vệ môi trường), tác động đến môi trường để từ đó có thể ghi nhận, nhận
biết được hậu quả về môi trường mà hành động của doanh nghiệp đó tác động tới. Để từ đó có cách xử lý cũng như việc khắc
phục hậu quả do các hành động tác động tới môi trường của doanh nghiệp đó.

Như vậy trong bốn định nghĩa trên chúng ta có thể rút ra hai đặc trưng cơ bản để làm sáng tỏ thêm nội dung của công

cụ kinh tế, của phương tiện chích sách:

Một là: Công cụ kinh tế hoạt động thông qua giá cả, chúng nâng giá của các hoạt động làm tổn hại đến môi trường lên
hoặc hạ giá của các hành động bảo vệ môi trường xuống. Như trên đã phân tích các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh thì để
cấu thành sản phẩm- giá trị sản phẩm- thì ngoài tính toán đến lợi ích kinh tế họ phải chú ý đến lợi ích môi trường. Nghĩa là họ
phải có những chi phí nhất định trong việc bảo vệ môi trường. Như vậy để đảm bảo được lợi ích kinh tế thì doanh nghiệp phải
tăng giá thành tăng giá thành sản phẩm. Nếu hành động tác động đến môi trường của doanh nghiệp làm ô nhiễm môi trường
càng nhiều thì chi phí cho bảo vệ môi trường càng lớn, điều đó dẫn đến giá thành sản phẩm cao. Ngược lại hành động tác động
tói môi trường của doanh nghiệp càng ít ảnh hưởng tới môi trường thì chi phí cho bảo vệ môi trường càng ít và giá thành sản
phẩm không cao so vói sản phẩm của doanh nghiệp ảnh hưởng xấu tói môi trường.

Hai là: Công cụ kinh tế tạo khả năng lựa chọn cho các tổ chức và cá nhân hành động sao cho phù họp với điều kiện của
họ. Nhà nước sử dụng công cụ kinh tế để áp dụng mức phí cần thiết tương ứng với hành động cũng như mức độ tác động tới
môi trường của doanh nghiệp. Nghĩa là khi đảm bảo đủ điều kiện về tiêu chuẩn môi trường, đánh giá tác động của môi trường
thì doanh nghiệp được phép hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực nào và điều kiện kinh doanh ra sao... Phù hợp với lĩnh vực
kinh doanh và điều kiện kinh doanh là mức chi phí mà doanh nghiệp đó phải đóng góp cho việc bảo vệ môi trường. Rõ ràng sử
dụng các cộng cụ kinh tế trong quản lý và bảo vệ môi trường nhà nước ta đã tạo khả năng lựa chọn hành động kinh doanh khi
mà doanh nghiệp đó đảm bảo được tiêu chuẩn môi trường và đánh giá tác động môi trường.

Như vậy cộng cụ kinh tế tương phản với các quy định “điều hành và kiểm soát”(CAC- a command- and- coutrol). Điều
hành là việc đề ra các quy tắc xử sự bắt buộc các doanh nghiệp phải tuân theo. Kiểm soát là việc kiểm tra những hành động
2 Bộ Khoa học công nghệ và môi trường - Giới thiệu về công cụ kinh tế và khả năng áp dụng trong quản lý môi trường ở Việt Nam


phải tuân thủ và buộc phải chịu trách nhiệm về hành động không đúng vói những quy định đó. Đó là hai mặt của phương tiện
chính sách “điều hành và kiểm soát”, được tiến hành thông qua những cơ chế ra lệnh cho các hành động môi trường, nếu
không tuân thủ các quy chế đã ban hành. Nghĩa là trong trường hợp này, các doanh nghiệp không có cơ hội lựa chọn hành
động cũng như mức phí đóng góp cho bảo vệ môi trường. Ngược lại các công cụ kinh tế duy trì một tập hợp tương đối rộng rãi
các hành động môi trường. Tuy nhiên các hành động này vẫn mang tính pháp lý- nghĩa là phải đáp ứng được những chuẩn
mức, giói hạn cho phép đã được quy định cụ thể bằng văn bản pháp lý- và như vậy sẽ xác định hậu quả khác nhau đối vói sự

lựa chọn khác nhau và bắt buộc phải phục tùng những hậu quả xảy ra. Khi đã lựa chọn hành động tác động làm ảnh hưởng tói
môi trường thì doanh nghiệp đó bắt buộc phải đóng góp tài chính cho bảo vệ môi trường nghĩa là phải chịu trách nhiệm (pháp
lý) trước hậu quả mà doanh nghiệp đó gây ra.

Ví dụ: Có một tiêu chuẩn phát thải nào đó nằm trong một quy định điều hành và kiểm soát. Quy định pháp lý yêu cầu
(“điều hành”) những người gây ô nhiễm phải đáp ứng tiêu chuẩn phát thải. Tiêu chuẩn này phụ thuộc vào hành động và mức
độ tác động đến môi trường của doanh nghiệp và đã được quy định cụ thể. Nếu những doanh nghiệp gây ô nhiễm không tuân
thủ những quy định về tiêu chuẩn môi trường cũng như tiêu chuẩn phát thải thì như vậy có nghĩa là doanh nghiệp đó đã phạm
luật và tuỳ thuộc vào mức độ vi phạm mà phải chịu trách nhiệm hành chính (Nghị định số 26/CP ngày 26/4/1996 quy định xử
phạt vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường), chịu trách nhiệm hình sự (Từ điều 182 đến điều 191- Bộ luật hình sự) và các
hình thức kiểm tra, kiểm soát khác. Ngược lại một phí phát thải cho phép những người gây ô nhiễm lựa chọn mức độ thải ra
trong giói hạn mà công cụ kinh tế đã quy định và như thế vẫn không vi phạm pháp luật. Công cụ kinh tế sẽ tạo khả năng lựa
chọn hành động tác động cũng như mức độ phát thải tác động đến môi trường tuy nhiên mức thải này phải đảm bảo về tiêu
chuẩn môi trường (chuẩn mức và giói hạn cho phép) mà pháp luật đã quy định cho doanh nghiệp đó. Tuy nhiên doanh nghiệp
đó có thể cân nhắc lựa chọn xem nên trả tiền nhiều hơn hoặc ít hơn phí môi trường. Chỉ có sức mạnh của pháp luật mói có thể
yêu cầu và bắt buộc họ trả tiền, nhưng cho phép sự lựa chọn của họ chỉ dao động trong phạm vi những giới hạn đã được xác
lập.

1.2.

Khái niệm vê công cụ kinh tế.

"Công cụ kinh tế là một trong những phương tiện chính sách được áp dụng để đạt tới mục tiêu môi trường thành công"3

Công cụ kinh tế là việc Nhà nước áp dụng các chính sách dựa trên cơ sở lợi ích kinh tế của doanh nghiệp nhằm khuyến
khích các hành vi thân thiện với môi trường.

2. Sự cần thiết của các công cụ kinh tế trong quản lý và bảo vệ môi trường.

Nền kinh tế phát triển ngày càng cao, điều đó dẫn tới sự ô nhiễm, suy thoái và những sự cố môi trường diễn ra ngày

càng ở mức độ cao, đang đặt con người trước sự trả thù ghê gớm của thiên nhiên. Đối với thế giới nói chung và Việt nam nói
riêng thì đây là vấn đề cấp bách cần giải quyết và có những chính sách hữu hiệu cần thiết phải bảo vệ môi trường cũng như các
nguồn tài nguyên thiên nhiên.

3 Bộ Khoa học công nghệ và môi trường - Cục Môi trường - giới thiệu về các công cụ kinh tế và khả năng áp dụng trong quản lý môi trường ở Việt Nam


Môi trường có tầm quan trọng đặc biệt đối với đời sống con người, sinh vật và sự phát triển kinh tế văn hoá, xã hội của
đất nước và của nhân loại. Bởi vậy mà vấn đề bảo vệ môi trường ngày nay đã trở thành một trong những chính sách quan trọng
của Đảng và Nhà nước ta. Bằng những biện pháp và chính sách khác nhau Nhà nước ta đang can thiệp mạnh mẽ vào các hoạt
động của cá nhân, tổ chức trong xã hội nhằm bảo vệ các yếu tố của môi trường, ngăn chặn việc gây ô nhiễm, suy thoái và sự cố
môi trường. Trong những biện pháp và chính sách đó, cũng như nhiều nước trên thế giói nhà nước ta đã áp dụng các công cụ
hữu hiệu trong đó công cụ kinh tế đóng vai trò đặc biệt quan trọng.

Nói cho cùng thì mục tiêu hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp là tìm kiếm lơị nhuận. Vì lợi nhuận
doanh nghiệp có thể bằng mọi cách lẩn tránh việc thực hiện trách nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ môi trường trong đó bao gồm các
trách nhiệm về đánh giá tác động môi trường , không thực hiện đúng trách nhiệm về tiêu chuẩn môi trường , mặc dù các trách
nhiệm này đã được cụ thể hoá bằng các trách nhiệm hành chính.

Để đảm bảo tối đa về lợi ích kinh tế nên lợi ích về môi trường của cộng đồng, lợi ích phát triển lâu dài của Quốc gia bị
các tổ chức, cá nhân này xem nhẹ, thậm chí có lúc bị bỏ qua bỏi mục tiêu tăng trưởng kinh tế được đặt lên hàng đầu và coi
khoản đầu tư cho công tác bảo vệ môi trường là khoản đầu tư bắt buộc và không sinh lời thậm chí còn giảm khả năng cạnh
tranh do phải tăng chi phí đầu vào của quá trình sản xuất. Như vậy các quyết định hành chính cũng chỉ đề ra và không được
quản lý chặt chẽ, đặc biệt là nó không có tính mềm dẻo. Vì vậy việc sử dụng các công cụ kinh tế đối với các cá nhân, tổ chức
trong quản lý và bảo vệ môi trường là cần thiết và cần tiến hành có hiệu quả.

Xét về cả lý luận và thực tiễn, bất kỳ một nền kinh tế nào cũng cần có vai trò quản lý của nhà nước. Nền kinh tế thị
trường với sự đa dạng về các chủ thể , các quan hệ kinh tế, nhất là từ khi nhà nước ta mở cửa nền kinh tế thì các nhà đầu tư
nước ngoài đã ồ ạt đâù tư vào Việt Nam. Điều này đã làm cho sự đa dạng về chủ thể cần quản lý cũng như việc bảo vệ và quản
lý môi trường của nhà nước đối vói các chủ thể này. Sự đa dạng về phương thức kinh tế , hình thức pháp lý...cùng vói xu

hướng tìm kiếm tối đa lợi nhuận đã ảnh hưởng không nhỏ tới các nguồn tài nguyên thiên nhiên và môi trường. Để thực hiện
được chức năng của mình trong quản lý và bảo vệ môi trường, cũng như các lĩnh vực khác Nhà nước không thể không sử dụng
công cụ hữu hiệu nhất của mình đó là pháp luật hay cụ thể hơn đó là pháp luật về môi trường. Với tư cách là một hệ thống các
quy phạm điều chỉnh hành vi xử sự của con người, pháp luật môi trường đóng vai trò to lớn trong việc quản lý và bảo vệ môi
trường. Pháp luật về môi trường đề ra các quy tắc xử sự mà mọi người phải tuân theo khi khai thác, sử dụng các thành phần
môi trường. Ngoài ra pháp luật về môi trường còn có những quy định cấm tác động đến một số thành phần môi trường ...Nó
thể hiện quan điểm của nhà nước trong việc khuyến khích các chủ thể tham gia quản lý và bảo vệ môi trường. Pháp luật môi
trường cũng quy định chức năng quyền hạn của các cơ quan quản lý và bảo vệ môi trường. Pháp luật môi trường muốn thực thi
và đạt hiệu quả cao thì không thể thiếu các công cụ kinh tế tác động đến. Bởi vì pháp luật môi trường đơn thuần là các “ mệnh
lệnh, kiểm tra” mà thôi. Pháp luật quy định các quy tắc xử sự và buộc họ phải tuân theo, đồng thời nếu đơn thuần chỉ dựa vào
công cụ pháp luật thì cơ quan quản lý và bảo vệ môi trường cũng chỉ đến mức kiểm tra và khi các tổ chức cá nhân có hành vi
sai phạm thì cũng chỉ chịu trách nhiệm hành chính hoặc hình sự hoặc các hình thức khác. Như vậy thì hậu quả môi trường đã
xảy ra rồi, công cụ kinh tế chính là biện pháp phòng ngừa việc gây ô nhiễm môi trường cũng như suy thoái môi trường. Hơn
nữa điều này nó bó buộc đối với các doanh nghiệp, các doanh nghiệp buộc phải tuân theo các quy định đó. Nhưng khi áp dụng
các công cụ kinh tế thì người gây ô nhiễm được lựa chọn mức độ tác động đến môi trường, tuy nhiên sự lựa chọn này phải nằm
trong giới hạn mà các công cụ kinh tế đã quy định. Áp dụng các công cụ kinh tế trong quản lý và bảo vệ môi trường là tác
động tới chi phí và lợi ích kinh tế của doanh nghiệp, đánh vào kinh tế - tài chính thì các chủ thể mới tuân theo đúng tất cả các
quy định của pháp luật môi trường. Rõ ràng để thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình, để đảm bảo tính khả thi của pháp luật
môi trường thì Nhà nước ta không thể không sử dụng các công cụ kinh tế.


ở Việt Nam, công cụ kinh tế như một phương tiện chính sách quản lý và bảo vệ môi trường là điều hoàn toàn mói mẻ
bỏi vì từ lâu chúng ta chỉ sử dụng công cụ pháp lý hay cụ thể hơn là công cụ hành chính để quản lý và bảo vệ môi trường .
Trước thòi kỳ đổi mói, Nhà nước quản lý đất nước chủ yếu bằng mệnh lệnh chỉ huy từ một trung tâm gần giống như “ điều
hành và kiểm soát”. Mặc nhiên nền kinh tế cũng vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung, lúc này mọi quy định đều được
thể hiện bằng việc ra mệnh lệnh. Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Nhà nước ta tiến hành công cuộc đổi mói cùng với
nó là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa . Mặc dù tàn
dư của chế độ cũ còn khá nặng nề, nhưng chúng ta đã từng bước đổi mói nhìn nhận khôn khéo và khách quan hơn trong việc
quản lý và điều hành nền kinh tế đất nước. Dùng mệnh lệnh kiểm soát là đưa ra những quy định cứng nhắc và bắt buộc các tổ
chức, cá nhân tác động đến môi trường phải tuân theo những chuẩn mực nhất định, điều đó dẫn đến tình trạng thiếu linh hoạt

trong việc lựa chọn phương thức kinh tế cũng như điều kiện hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Đó chính là
nhược điểm của công cụ hành chính, vì vậy áp dụng các công cụ kinh tế vào quản lý và bảo vệ môi trường là việc cần thiết
trong thời kì nền kinh tế mở như nước ta hiện nay.

Thực tiễn cho thấy trong bảo vệ môi trường các nước tư bản Phương tây cũng sử dụng các quy định pháp lý (CAC)“mệnh lệnh, kiểm soát” để quản lý và bảo vệ môi trường nhưng kinh nghiệm đã rút ra: Nếu chỉ dùng mệnh lệnh kiểm soát thì
không đạt được hiệu quả như mong muốn vì:

Các cơ quan quản lý môi trường nói chung thường xuyên phải đối mặt với sự cắt giảm ngân sách cho nên đã giảm dần
năng lực quản lý môi trường. Không áp dụng các công cụ kinh tế nghĩa là ngân sách dùng cho bảo vệ và quản lý môi trường
mất đi một phần không nhỏ và điều đó ảnh hưởng tới ngân sách của cơ quan quản lý, dẫn đến năng lực quản lý không cao.

Sự quan tâm tới quản lý môi trường mang tính cứng nhắc, thiếu linh hoạt, không tạo ra sự lựa chọn cho các chủ thể có
hành động tác động tới môi trường, vì thế không tạo cơ hội cho các doanh nghiệp hoạt động, “điều hành- kiểm soát” trở thành
ưu tiên cao hơn phương tiện chính sách thông qua giá cả.

Như vậy một câu hỏi đặt ra là tại sao phương tiện chính sách thông qua giá cả lại có tính linh hoạt và mềm dẻo để cho
mọi cá nhân, các doanh nghiệp có thể hưởng ứng giá mong muốn lại không được đưa vào áp dụng, như vậy công cụ kinh tế đã
được áp dụng chen lẫn công cụ pháp lý.

Khi nghiên cứu vấn đề là áp dụng các công cụ kinh tế trong những quy định pháp lý (CAC) các nhà nghiên cứu đã rút
ra được ba điều thuận lợi sau:


+ Tăng hiệu quả chi phí: Hệ thống công cụ kinh tế thường đạt được với thành công cùng với mục tiêu môi trường như
là các quy định “điều hành và kiểm soát” (CAC) nhưng ở mức chi phí thấp hơn. Áp dụng các công cụ kinh tế sẽ chi phí thấp
hơn trong công tác bảo vệ và quản lý môi trường và đạt được hiệu quả cao. Việc sử dụng giá cả và cung cấp tính linh hoạt
trong việc ứng phó với tín hiệu giá cả cho phép mọi người và các doanh nghiệp tìm kiếm chi phí thấp nhất trong khả năng lựa
chọn của họ, đảm bảo cho việc chi phí môi trường ở mức tối thiểu từ đó sẽ đảm bảo được lợi ích kinh tế của các doanh nghiệp.
Đây là điều thuận lợi đáng kể trong công tác quản lý và bảo vệ môi trường của các nhà quản lý cũng như các chủ thể có hành
động tác động đến môi trường.


+ Khuyến khích nhiều hơn cho việc đổi mới: áp dụng công cụ kinh tế cơ quan quản lý không ra lệnh cho chiến lược
kiểm soát mà những người gây ô nhiễm phải chịu trách nhiệm. Trước khi có hành động tác động tới môi trường thì các chủ thể
phải có trách nhiệm lập báo cáo đánh gía tác động môi trường, đặc biệt hơn là trong quá trình hoạt động sản xuất nếu cần đổi
mới về một lĩnh vực nào đó chẳng hạn như thay đổi dây truyền công nghệ và có tác động đến môi trường cao hơn thì họ vẫn
không phạm luật miễn là họ phải báo cáo với cơ quan quản lý và bảo vệ môi trường và được cơ quan này cho phép khi có đủ
điều kiện về đánh gía tác động môi trường và tiêu chuẩn môi trường. Công cụ kinh tế có thể cung cấp tiếp tục hoạt động kinh
tế, tích cực để phát triển và lựa chọn chi phí kiểm soát hiệu quả, sự lựa chọn này không theo quy ước đã định sẵn.

+ Khả năng tiếp nhận và sử lý thông tin tốt hơn: “Công cụ kinh tế cơ bản là dựa vào thị trường cân nhắc đến hiệu quả
chi phí cho phép đạt được các mục tiêu môi trường với chi phí thống nhất” 4. Áp dụng các công cụ kinh tế dựa vào mức phí
phải nộp cũng như việc đánh giá tác động môi trường cơ quan quản lý có thể ghi nhận được hậu quả của hành động tác động
tới môi trường của các doanh nghiệp, từ đó mà xử lý, khắc phục hậu quả. Đặc biệt nó đảm bảo được tính khả thi về khả năng
tiếp nhận thông tin. Chẳng hạn một quy định điều hành và kiểm soát (CAC) cần phải kéo theo đảm bảo chắc chắn giảm ô
nhiễm đạt thành công khi có chi phí rẻ nhất, nhưng điều đó sẽ yêu cầu mọi người thành lập các quy chế có thông tin về những
công nghệ khác nhau và các chi phí của việc áp dụng các công nghệ này đối với các nguồn ô nhiễm khác nhau.

Ngoài ra áp dụng các công cụ kinh tế trong quản lý và bảo vệ môi trường còn một số thuận lợi khác như: Tăng hiệu quả
môi trường. Do phải có những chi phí cho việc bảo vệ môi trường nên ngoài việc tính toán đến lợi ích kinh tế nên nhà sản xuất
kinh phải chú ý tới việc bảo vệ môi trường.
4 Bộ khoe học công nghệ môi trường - Cục Môi trường giới thiệu về các công cụ kinh tế và khả năng áp dụng trong quản lý môi trường ở Việt Nam


Để giảm chi phí cũng như tăng lợi ích kinh tế thì nhà sản xuất kinh doanh phải chọn phương án nào mà mức độ gây ô nhiễm
đến môi trường là thấp nhất, như vây đương nhiên công tác quản lý và bảo vệ môi trường có hiệu quả cao. Một thuận lợi nữa là
áp dụng các công cụ kinh tế trong công tác quản lý và bảo vệ môi trường sẽ tạo ra sự linh hoạt và mềm dẻo đối vói các nhà sản
xuất kinh doanh có hành động tác động tới môi trường.

“Các công cụ kinh tế tạo ra sức hút mạnh mẽ đối vói người gây ô nhiễm vì rằng chúng mang lại hiệu quả kinh tế cao
hơn so vói những quy định có tính pháp lý trong điều hành và kiểm soát” 5. Có thể người gây ô nhiễm phát thải ở mức cao hơn

nhưng nằm trong khuôn khổ mà các công cụ kinh tế cho phép, như thế người gây ô nhiễm vẫn không vi phạm quy định điều
hành và kiểm soát. Đó là điều vô cùng thuận lợi đối vói người gây ô nhiễm. Để làm sáng tỏ hơn ưu điểm của các công cụ kinh
tế ta hãy xem xét một số ví dụ cụ thể:

Giả sử có hai người làm phát thải một dạng làm ô nhiễm không khí. Một người có thể giảm 10 tấn chất thải ở mức chi
phí 2 triệu USD hoặc 20 tấn ở mức chi phí 5 triệu USD. Nhưng vì sự khác nhau của nhân tố công nghệ nên người gây ô nhiễm
thứ hai sẽ chi phí 5 triệu USD để giảm 10 tấn chất thải. Nếu mục tiêu cần phải đạt là giảm 20 tấn chất thải thì mỗi người gây ô
nhiễm phải giảm 10 tấn. Tổng chi phí của cả hai người gây ô nhiễm là 7 triệu USD. Cách tiếp cận này có tính phổ biến khi áp
dụng cách “điều hành và kiểm soát” theo quy định. Mục đích của việc giảm 20 tấn chất thải có thể đạt được bằng việc chi phí 5
triệu USD nếu chỉ có người gây ô nhiễm thứ nhất giảm 20 tấn. Con đường đạt tới chi phí thấp hơn này đối với 20 tấn chất thải
chỉ có thể có được nếu như ta áp dụng công cụ kinh tế. Đây là một điều cực kỳ hợp lý bởi khi có sự khác nhau về nhân tố công
nghệ, điều đó cũng có nghĩa là lượng chất thải thải ra cũng khác nhau và đương nhiên chi phí cho việc bảo vệ môi trường là
khác nhau. Tuy nhiên điều này cũng đã được ghi nhận trong báo cáo đánh giá tác động môi trường của chủ thể gây ô nhiễm.

Những thuận lợi của việc áp dụng các công cụ kinh tế vừa nêu không chỉ mang tính chất lý thuyết, mà còn có hiệu quả
áp dụng vào thực tiễn.

Như ta đã biết “các công cụ kinh tế được xây dựng dựa trên các nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế thị trường vói mục
đích điều hoà các xung đột giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường” 6. Các công cụ kinh tế sẽ tạo điều kiện để các tổ chức,
cá nhân (các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh) chủ động kế hoạch bảo vệ môi trường và tuân thủ pháp luật thông
qua việc lồng ghép chi phí bảo vệ môi trường vào chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm.

Như vậy từ những lý luận và thực tiễn trên chúng ta thấy để đạt được hiệu quả và mục đích trong quản lý và bảo vệ môi
trường thì việc áp dụng các công cụ kinh tế là vô cùng quan trọng và cần thiết.

5 PTS. Nguyễn Thế Chinh - AD các công cụ kinh tế để nâng cao năng lực quản lý môi trường ở Hà Nội - NXB Chính trị quốc gia - Hà Nội 1999
6 Bộ Khoa học công nghệ môi trường - Cục môi trường - Giới thiệu về các công cụ kinh tế và khả năng áp dụng trong quản lý môi trường ở Việt Nam


CHƯƠNG II

CÁC LOAI CÔNG CỤ KINH TẾ
1. Đặt vấn đề:

Như chúng ta đã biết với nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa thì các quan hệ kinh tế là rất đa dạng, đặc biệt từ khi chúng ta mở cửa nền kinh tế thì các doanh nghiệp, chính
phủ nước ngoài đã ồ ạt đầu tư vào Việt Nam vói những hình thức đầu tư khác nhau, phương thức sản xuất khác nhau. Điều đó
đòi hỏi không thể chỉ áp dụng một loại công cụ trong công tác quản lý và bảo vệ môi trường mà nó đòi hỏi sự phối họp chặt
chẽ, chen lẫn nhau giữa các loại công cụ mà đặc biệt là các công cụ kinh tế.

Các công cụ kinh tế bao gồm rất nhiều loại, kinh nghiệm của các nước đã chỉ ra rằng không thể chỉ áp dụng một loại
biện pháp, một loại công cụ giản đơn hoặc một vài biện pháp, một vài công cụ đơn lẻ nào đó là có thể điều chỉnh được sự đa
dạng về chủ thể cũng như phương thức sản xuất nhằm quản lý và bảo vệ môi trường. Rõ ràng phải có sự tiếp cận được chính
sách đồng bộ các loại công cụ kinh tế. ở đây do thòi gian có hạn nên em chỉ nêu ra một số loại công cụ cơ bản để phân biệt
ranh giới giữa các loại công cụ kinh tế và các phương tiện khác của phương tiện chính sách. Dựa vào sức mạnh thị trường hoặc
đánh giá một số dạng đã áp dụng thành công trong quản lý và bảo vệ môi trường, các quốc gia đưa ra 7 loại công cụ kinh tế cơ
bản sau: Chính sách tài trợ của nhà nước; chính sách thuế; phí môi trường; hệ thống đặt cọc- hoàn trả; giấy phép chuyển
nhượng; nhãn môi trường; bảo hiểm môi giới, và ngoài ra con có những cộng cụ khác cũng đã được nhà nước ta áp dụng có
hiệu quả.

2. Các loại công cụ kinh tế.
2.1.

Chính sách tài trợ của Nhà nước.

Tại Điều 3- Luật bảo vệ môi trường (có hiệu lực ngày 10/1/1994) quy định: “...Nhà nước có chính sách đầu tư, khuyên
khích và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của tổ chức, cá nhân trong nước, ngoài nước, đầu tư dưới nhiều hình thức, áp dụng tiến bộ
khoa học và công nghệ vào việc bảo vệ môi trường”. Như vậy, Nhà nước sẽ có chính sách hỗ trợ cho các tổ chức, cá nhân một
khoản tiền dưới nhiều hình thức như trợ giúp, cho vay với lãi suất ưu đãi, cấp không hoàn lại...nhằm khuyến khích giúp đỡ họ
và làm thay đổi hành vi của họ, giúp họ hướng tới hoặc lựa chọn nhũng hành vi không có hoặc có hại ít hon tới môi trường.
Đây là một chính sách được áp dụng rộng rãi và có hiệu quả. Với nhũng khoản tài chính “tài trợ” của nhà nước thì các tổ chức,



cá nhân sẽ có những xúc tiến nhất định nhằm hạn chế đến mức tối thiểu mức gây ô nhiễm môi trường hoặc có thể không gây ô
nhiễm môi trường. Trong quá trình quản lý và bảo vệ môi trường thì chính sách tài trợ của nhà nước là công cụ hữu hiệu và có
thể điều chỉnh được hành vi của người gây ô nhiễm. Ngoài ra Nhà nước còn có chính sách khác như ban hành kỳ phiếu vay và
cho vay, bãi bỏ hoặc giảm thuế một số mặt hàng nào đó. Tại Điều 32- Nghị định số 175/CP ngày 18/10/1994 về hướng dẫn thi
hành Luật bảo vệ môi trường quy định: Nguồn tài chính cho nhiệm vụ bảo vệ môi trường ngoài các khoản như phí bảo vệ môi
trường do các tổ chức, cá nhân sử dụng thành phần môi trường, các khoản thu như phạt vi phạm hành chính...thì còn có ngân
sách nhà nước dành cho hoạt động bảo vệ môi trường. Như vậy các nguồn tài chính này được cấp từ ngân sách nhà nước, quỹ
môi trường. Để đảm bảo các nguồn tài trợ này thì ngoài ngân sách nhà nước, Nhà nước ta cũng có những chính sách như
khuyên khích các tổ chức, xã hội đóng góp cho bảo vệ môi trường. Rõ ràng chính sách tài trợ của nhà nước là loại cộng cụ hữu
hiệu nhằm đạt mục tiêu môi trường.

2.2.

Chính sách thuế.

Trong quá tình hoạt động sản xuất kinh doanh, ngoài một số doanh nghiệp đơn thuần chỉ sử dụng thành phần môi
trường (như nhà máy lắp ráp ô tô, xe máy) thì chủ yếu các doanh nghiệp vừa sử dụng thành phần môi trường, vừa khai thác sử
dụng tài nguyên. Hoặc có những doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong việc khai thác tài nguyên (như khai thác đá, khai
thác dầu khí), tuy vậy trong quá trình khai thác thì ít nhiều doanh nghiệp vẫn có hành vi tác động đến thành phần môi trường
như khí thải, tiếng Ồn... Như vậy thông qua bản chất các công cụ kinh tế, nói đến chính sách thuế thường được chia làm hai
loại: Thuế tài nguyên và thuế môi trường.

- Thuế tài nguyên: "Thuế tài nguyên là loại thuế gián thu, thu từ các hoạt động khai thác tài nguyên do người sử dụng
tài nguyên đóng góp”7. Từ trước đến nay, tình trạng khai thác bừa bãi, sử dụng lãng phí tài nguyên thiên nhiên ở nước ta cũng
như ở các nước khác trên thế giói rất phổ biến dẫn đến các nguy cơ cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và suy thoái môi trường.
Trước thực tế trên, việc phát triển và cải tiến các loại thuế sử dụng, khai thác tài nguyên thiên nhiên sẽ có vai trò cốt yếu như
một công cụ kinh tế hạn chế những nhu cầu không quan trọng lắm và xác định mức tối đa khi sử dụng và khai thác tài nguyên
thiên nhiên, từ đó có cơ chế quản lý điều hành các hoạt động kỹ thuật tài nguyên thiên nhiên trong khả năng tái tạo, đảm bảo

và khuyên khích những hoạt động hướng đến mục tiêu phát triển bền vững. Có nhiều cách tiếp cận khác nhau để có thể phận
định các loại thuế tài nguyên song áp dụng các văn bản luật môi trường thì cách tiếp cận theo đối tượng đánh thuế là thông
dụng. Theo cách tiếp cận này ta có một số loại thuế tài nguyên cơ bản sau:

+ Thuế sử dụng các nguồn nước: Đây là loại thuế đánh vào các tổ chức, cá nhân có hành động khai thác, sử dụng tài
nguyên nước. Tuy nhiên tuỳ từng địa bàn với điều kiện kinh tế khác nhau mà mức thuế có thể khác nhau, thậm chí được miễn
giảm. Điều 7- Luật tài nguyên nước (có hiệu lực từ ngày 1/1/1999) quy định:

“l.TỔ chức, cá nhân khai thác sử dụng tài nguyên nước có nghĩa vụ tài chính và đóng góp công sức kinh phí cho việc
xây dựng các công trình bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, phòng, chống và khắc phục hậu quả do tài nguyên nước
gây ra.

7 Ths. Nguyễn Vãn Phương - Trường Đại học Luật Hà Nội - Tập tài liệu giảng dạy


2. Nhà nước thực hiện chính sách miễn giảm thuế tài nguyên nước, phí tài nguyên nước đối vói địa bàn có điều kiện
kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn”.

+ Thuế đánh vào sử dụng khoáng sản: Khoáng sản là tài nguyên hầu hết không tái tạo được là tài sản quan trọng của
quốc gia, phải được quản lý, khai thác và sử dụng hợp lý tiết kiệm và có hiệu qủa. Bởi vậy mà ngày 20/3/1996 Quốc hội đã
thông qua luật khoáng sản và có hiệu lực ngày 1/9/1996 ( Ví dụ Điều 32 Luật dầu khí quy định: “Tổ chức cá nhân khai thác
dầu khí phải nộp thuế tài nguyên”).

+ Thuế đánh vào sử dụng đất: Điều 79 Luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật đất đai (có hiệu lực từ ngày
15/10/1993) đã quy định nghĩa vụ của người sử dụng đất là phải nộp thuế sử dụng đất, thuế chuyển quyền sử dụng đất, nộp tiền
sử dụng đất khi được giao đất theo quy định của pháp luật.

+ Thuế đánh vào sử dụng rừng: Rừng là tài nguyên quý giá của đất nước, có khả năng tái tạo, là bộ phận quan trọng của
môi trường sinh thái và có giá trị to lớn đối với nền kinh tế quốc dân. Bởi vậy mà Nhà nước đã quy định các tổ chức, cá nhân
sử dụng rừng vào mục đích hoạt động sản xuất kinh doanh đều phải nộp thuế sử dụng rừng.


Mục đích của thuế tài nguyên là nhằm hạn chế những nhu cầu không quan trọng lắm và xác lập mức tôí đa về sử dụng
tài nguyên thiên nhiên, khuyên khích những hành vi bảo đảm cuộc sống bền vững. Thông qua những mức thuế suất khác nhau,
Nhà nước định hướng việc sử dụng các loại tài nguyên của doanh nghiệp. Với những tài nguyên không khuyến khích sử dụng,
để bảo vệ môi trường, Nhà nước sẽ áp dụng mức thuế suất cao.

- Thuế môi trường: Tại Điều 7- Luật bảo vệ môi trường có quy định “tổ chức, cá nhân sử dụng thành phần môi trường
vào mục đích sản xuất kinh doanh trong trường họp cần thiết phải đóng tài chính cho việc bảo vệ môi trường”. Cụ thể tại Điều
8- Nghị định 175- CP ngày 18/10/1994 về hướng dẫn thi hành luật bảo vệ môi trường cũng quy định việc đóng góp tài chính
cho việc bảo vệ môi trường đối với các tổ chức, cá nhân sử dụng thành phần môi trường. Theo điều luật này thì tổ chức, cá
nhân sử dụng thành phần môi trường phải trong trường họp cần thiết mà trường hợp cần thiết là trường hợp mà tổ chức, cá
nhân có hành động tác động đến môi trường và gây ra ô nhiễm nhất định đã được dự liệu trong luật, và như vậy nghĩa là tổ
chức, cá nhân đó phải đóng thuế môi trường. Thuế môi trường là khoản đóng góp của các thể nhân và pháp nhân khi sử dụng
thành phần môi trường. Như vậy trong trường hợp này, thuế sử dụng các thành phần môi trường sẽ có xu hướng tăng thêm thu
nhập cho ngân sách quốc gia. Bên cạnh đó thuế sử dụng các thành phần môi trường còn có mục đích giảm khai thác tài nguyên
thiên nhiên, sử dụng tài nguyên một cách tiết kiêm và có hiệu quả, nhất là tài nguyên thiên nhiên không tái tạo. Cũng như phí
môi trường, nếu dựa vào đối tượng đánh thuế thì thuế môi trường bao gồm các loại cơ bản sau:

+ Thuế ô nhiễm bầu không khí. Không khí là nguồn tài nguyên vô cùng quan trọng và hết sức cần thiết, bởi vậy với bất
cứ hành động nào tác động làm ô nhiễm đến mức độ nhất định đối với môi trường không khí thì có trách nhiệm phải đóng góp
thuế ô nhiễm bầu không khí. Kết quả khảo sát của Bộ Khoa học Công nghệ Môi trường cho thấy môi trường không khí ở các


khu dân cư trong cả nước đang tiếp tục bị ô nhiễm, tuy nhiên với những mức độ khác nhau, phổ biến là ô nhiễm do bụi. Do
hoạt động của nhiều xí nghiệp công nghiệp, tình trạng ô nhiễm không khí đặc biệt nghiêm trọng ở các khu đô thị lớn và các
khu công nghiệp tập trung, vượt nhiều lần so với tiêu chuẩn cho phép. Do vấn đề phức tạp như vậy nên Nhà nước ta đã và đang
xúc tiến nhằm xây dựng những quy định về thuế bảo vệ môi trường đối vói những hành động tác động làm ô nhiễm đến bầu
không khí.

+ Thuế ô nhiễm nguồn nước: Nước là tài nguyên đặc biệt quan trọng, là thành phần thiết yếu của cuộc sống và môi

trường, quyết định sự tồn tại, phát triển bền vững của đất nước, mặt khác nó cũng có thể gây ra tai hoạ cho con người và môi
trường. Bởi vậy mà nhà nước ta có quy định chặt chẽ việc khai thác, sử dụng và đặc biệt là những hành động tác động làm ô
nhiễm nguồn nước. Mục đích là nhằm bảo vệ nguồn nước trong lành, hạn chế những hành động gây ô nhiễm đến nguồn nước,
điều chỉnh để trở thành hành động gây ô nhiễm ít hoặc không gây ô nhiễm đến nguồn nước.

+ Thuế chất thải: chất thải là nguồn gây ô nhiễm nguy hiểm đến môi trường, nó có thể gây ô nhiễm bầu không khí,
cũng có thể gây ô nhiễm nguồn nước. Tuỳ thuộc vào mục đích sản xuất kinh doanh, nghành kinh doanh mà có rất nhiều loại
chất thải như rác thải, chất thải bệnh viện, động vật chết, các chất thải khai khoáng (như đất, đá, bùn) ; chất thải nông nghiệp
(như phân động vật, các loại rác thải mùa màng.v.v...) đặc biệt là nguồn ô nhiễm do các chất độc hại (sản xuất thuốc trừ sâu,
nhựa...). Đó là những chất khó loại bỏ và phá huỷ bằng các biện pháp sinh học. Bởi vậy mà Nhà nước ta đã có những chính
sách quy định cụ thể việc đánh thuế đối với các tổ chức, cá nhân hoạt động sản xuất kinh doanh có hành động thải các chất gây
ô nhiễm môi trường.

+ Thuế đánh vào sản phẩm: “Là loại thuế đánh vào các sản phẩm mà trong khi chế tạo, trong và sau khi sử dụng có thể
gây ô nhiễm”. Ví dụ như: Phân bón...Thực tế loại thuế này làm tăng giá thành sản phẩm. Như đã phân tích, để nhà sản xuất
kinh doanh phải chi phí một phần tài chính cho việc bảo vệ môi trường. Phần tài chính này ít hay nhiều phụ thuộc vào mức độ
gây ô nhiễm môi trường cũng như sử dụng thành phần môi trường, vậy để đảm bảo lợi ích kinh tế nhà sản xuất phải nâng giá
thành sản phẩm. Như vậy thuế đánh vào sản phẩm thực chất nó đã nằm ở giá bán sản phẩm.

Thuế môi trường thường được áp dụng đối vói các sản phẩm, đặc biệt là những sản phẩm có khả năng gây ô nhiễm môi
trường khi con người chế tạo, sử dụng nó. Chẳng hạn áp dụng cho xăng pha chì hoặc các loại hoá chất như: Phân bón...

Thuế môi trường dùng để khuyến khích bảo vệ và nâng cao hiệu xuất sử dụng các yếu tố môi trường gây ra ô nhiễm
vượt quá tiêu chuẩn quy định, trực tiếp làm giảm lợi nhuận của họ. Nghĩa là ngoài các khoản chi phí khác thì nhà sản xuất kinh
doanh phải chi phí cho bảo vệ môi trường trong đó có thuế môi trường bỏi vì họ đã có hành vi gây ô nhiễm môi trường (sử
dụng thành phần môi trường). Nguyên tắc đánh thuế phải lớn hơn chi phí để giải quyết chất phế thải và khắc phục ô nhiễm.
Quy định việc đánh thuế như thế đồng nghĩa vói việc Nhà nước ta coi trọng tầm quan trọng của môi trường, nhằm giảm bớt
những hành động tác động gây ô nhiễm môi trường hoặc giảm mức gây ô nhiễm môi trường xuống. Như vậy biện pháp đánh
thuế môi trường sẽ gây sức ép buộc nhà sản xuất phải cải tiến kỹ thuật, nâng cao hiệu xuất sử dụng nhiên liệu hoặc phải thay
thế nhiên liệu ít gây ô nhiễm hơn, đặc biệt để giảm mức gây ô nhiễm môi trường nghĩa là chi phí cho môi trường ít hơn thì các

doanh nghiệp phải áp dụng kỹ thuật chống ô nhiễm như áp dụng kỹ thuật sử lý chất thải ngay.


Do sử dụng thành phần môi trường nên các tổ chức, cá nhân bắt buộc phải nộp thuế, nó không mang tính chất đối giá
và hoàn trả trực tiếp cho người sử dụng các thành phần môi trường bởi vì mục đích của việc đánh thuế môi trường là nhằm bảo
vệ môi trường, nhằm giữ cho môi trường trong lành, phục vụ sự nghiệp phát triển lâu bền của đất nước.

2.3.

Phí môi trường.

Từ kinh nghiệm của các nước và thực tế ở Việt Nam trong những năm qua thấy rằng muốn bảo vệ môi trường một cách
hiệu quả cần phải có sự tiếp cận chính sách đồng bộ: Luật pháp, hành chính, giáo dục.. .và đặc biệt là kinh tế. Khía cạnh kinh
tế của bảo vệ môi trường- tức là áp dụng các công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường đang được sử dụng rộng rãi ở nước ta, và
đã có hiệu quả rõ rệt nhằm thay đổi hành vi môi trường của các đối tượng gây ô nhiễm. Ngoài ra phí bảo vệ môi trường còn có
mục đích khác là tạo thêm nguồn thu cho ngân sách nhà nước để đầu tư, khắc phục cải thiện môi trường. Hiện nay nước thải,
khí thải và các loại chất thải rắn của các cơ sở sản xuất kinh doanh, các nhà hàng dịch vụ, các hộ gia đình, các loại phương tiện
giao thông đang là nguồn gây ô nhiễm chính môi trường đất, nước và không khí. Để có vốn đầu tư, khắc phục và cải thiện môi
trường cũng như khuyến khích các đối tượng gây ô nhiễm có biện pháp kiểm soát và giảm thiểu ô nhiễm, nhà nước ta đã xây
dựng chương trình thu phí bảo vệ môi trường như một giải pháp sử dụng công cụ kinh tế bảo vệ môi trường.Trong các công cụ
kinh tế đó có phí môi trường. Phí môi trường do vậy đã trở thành một trong những công cụ kinh tế quan trọng trong ngăn ngừa
và bảo vệ môi trường ở Việt Nam. “Phí là khoản của thu ngân sách nhà nước nhằm bù đắp một phần khoản chi đầu tư, bảo
dưỡng các công trình công cộng và duy trì các hoạt động của nhà nước”.

Phí môi trường được coi là một công cụ kinh tế để góp phần bảo vệ môi trường bởi vì nó được áp dụng với hai mục
đích: Một là tăng nguồn thu nhập để chi cho các hoạt động cải thiện môi trường sinh thái. Hai là khuyến khích người gây ô
nhiễm giảm lượng chất ô nhiễm thải ra môi trường. Như vậy phí môi trường là những khoản tiền phải trả cho việc sử dụng môi
trường với tư cách là nơi chứa đựng chất thải. Thực hiện nguyên tắc “trả tiền tiêu dùng”, Nhà nước quy định phí và lệ phí tuỳ
theo mục đích sử dụng và hoàn cảnh.


Như vậy căn cứ vào đối tượng thu phí chúng ta có thể chia phí môi trường ra làm các loại sau:

+ Phí đánh vào nguồn ô nhiễm.

+ Phí đánh vào người sử dụng.


+ Phí đánh vào sản phẩm.
2.3.1.

Phí đánh vào nguồn ô nhiễm:

Phí đánh vào nguồn ô nhiễm là phí phải trả cho việc thải các chất gây ô nhiễm vào môi trường (môi trường nước, không
khí, đất hoặc gây tiếng ồn ảnh hưởng tói môi trường xung quanh). Người xả thải phải chi trả một khoản tiền nhất định cho mỗi
đơn vị chất gây ô nhiễm do việc phát thải ra môi trường, nghĩa là phí đánh vào nguồn gây ô nhiễm được xác định trên cơ sở
khối lượng và hàm lượng (nồng độ) chất gây ô nhiễm. Như vậy để tránh phải trả loại phí này các doanh nghiệp hoạt động sản
xuất kinh doanh phải giảm lượng chất thải độc hại ra môi trường. Mục đích của việc áp dụng loại phí này là nhằm khuyến
khích các tác nhân gây ô nhiễm giảm lượng chất gây ô nhiễm thải ra môi trường, hướng tói hành vi thân thiện, bảo vệ môi
trường của doanh nghiệp. Ngoài ra nó còn tăng thêm nguồn thu nhập cho chính phủ để sử dụng vào việc cải thiện chất lượng
môi trường.

Ví dụ: Có ba doanh nghiệp A, B, c đều xả khí thải vào môi trường không khí- phù họp vói năng lực sản xuất, phụ
thuộc vào số lượng và chất lượng khí thải mà các doanh nghiệp phải trả những khoản phí tương ứng là 80 triệu đồng/tháng; 50
triệu đồng/tháng và 30 triệu đồng/tháng. Từ đó chi phí cho bảo vệ môi trường của các doanh nghiệp là 2000 đồng/sản phẩm.
Mức phí môi trường phải bảo đảm: Tổng chi phí cho đầu tư và vận hành hệ thống xử lý khí thải tính trên một sản phẩm thấp
hơn chi phí cho một sản phẩm khi phải trả phí môi trường, cụ thể trong trường hợp này là thấp hơn 2000 đồng/sản phẩm. Để
giảm chi phí, doanh nghiệp A đầu tư hệ thống xử lý khí thải. Vì vậy doanh nghiệp A sẽ lợi thế hơn trong quá trình cạnh tranh
và các doanh nghiệp B và c cũng sẽ tìm cách giảm lượng khí thải để không phải trả phí môi trường. Từ đó, lợi ích kinh tế của
doanh nghiệp và lợi ích về môi trường của cộng đồng cũng được đảm bảo. Do việc xác định một cách đúng đắn mức phí môi
trường là rất quan trọng và khó khăn nên điều kiện để áp dụng loại phí này là nguồn phát thải tĩnh tại, ít thay đổi và phải có hệ

thống kiểm tra hữu hiệu.

Tóm lại phí đánh vào nguồn ô nhiễm có thể được áp dụng đối với các trường họp sau:

- Nguồn thải ô nhiễm là tĩnh tại.

- Các tác nhân gây ô nhiễm có các chi phí giảm ô nhiễm cận biên

khác.

- Có khả năng hình thành và duy trì hệ thống kiểm soát gây ô nhiễm.


- Có tác động làm các tác nhân gây ô nhiễm giảm mức ô nhiễm hoặc thay đổi hành vi gây ô nhiễm của mình.

- Có tác động khuyến khích đổi mói công nghệ.

Nhìn chung thì phí đánh vào nguồn gây ô nhiễm được sử dụng rộng rãi đối vói vấn đề ô nhiễm nước, nhất là các chất
gây ô nhiễm nguồn nước mặt. Tuy nhiên việc áp dụng loại phí này đối vói chất gây ô nhiễm không khí có phần phức tạp do rất
khó kiểm soát lượng ô nhiễm thải ra để tính mức thu phí. (Đối với chất thải rắn thì phí gây ô nhiễm chỉ được áp dụng hạn chế ở
một số nước như Mỹ, Hà Lan dưới dạng thuế đánh vào chất thải độc hại và phí sử dụng phân bón quá mức quy định).

Với việc áp dụng loại công cụ kinh tế là phí môi trường, nhà nước ta đã điều chỉnh được các hành vi tác động gây ô
nhiễm môi trường, hướng các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh tới hành động thân thiện vói môi trường, hơn nữa
nó tạo nguồn thu nhằm xậy dựng hệ thống bảo vệ và quản lý môi trường được tốt hơn.
2.3.2.

Phí đánh vào người sử dụng.

Phí đánh vào người sử dụng là khoản phí phải trả cho dịch vụ thu gom và xử lý chất thải (như hệ thống thoát nước; thu

gom rác thải...). Có quốc gia gọi khoản tiền phải nộp khi có chất thải là thuế môi trường, có quốc gia gọi là phí đánh vào người
sử dụng. Các khoản thu này dùng để bù đắp cho hoạt động của hệ thống thu gom, xử lý chất thải. Loại phí này chủ yếu được
dùng để áp dụng đối với các loại chất thải có thể kiểm soát (kiểm soát được số lượng, chất lượng thải ra của người sử dụng).
Dựa vào đó ta có hai cách thu phí chủ yếu là thu theo số lượng và chất lượng chất thải hoặc thu theo mức cố định đối với tổ
chức và cá nhân, hiện nay loại phí này ở Việt Nam gọi là phí vệ sinh.

Các khoản thu từ phí này được dùng để góp phần bù đắp chi phí bảo đảm cho hệ thống thu gom và xử lý chất thải hoạt
động. Do đó mục đích chính của loại phí này là nhằm tăng nguồn thu cho Chính Phủ và đối tượng thu là những cá nhân hay
đơn vị trực tiếp sử dụng hệ thống dịch vụ công cộng.
2.3.3.

Phí đánh vào sản phẩm.

“Phí đánh vào sản phẩm là khoản tiền phải trả khi hàng hoá được sử dụng có nguy cơ ảnh hưởng lớn tới môi trường” 8.
Thông thường vói hàng hoá nhập khẩu người ta sử dụng thuế môi trường, vói hàng sản xuất trong nước, người ta sử dụng hình
thức phí đánh vào sản phẩm.

Là loại phí được áp dụng đối với những loại sản phẩm gây tác hại tới môi trường một khi chúng được sử dụng trong
8 Tha. Nguyễn Vã Phương - Trường Đại học Luật Hà Nội - Tập bài giảng


quá trình sản xuất, tiều dùng hay phế thải của chúng, cụ thể là những sản phẩm chứa chất độc hại mà vói khối lượng lớn nhất
định, chúng sẽ gây tác hại tói môi trường chẳng hạn như các chất kim loại nặng. Giống như phí đánh vào nguồn gây ô nhiễm
vừa đề cập ở phần trên, phí đánh vào sản phẩm nhằm hai mục đích là khuyến khích giảm ô nhiễm bằng giảm việc sử dụng, tiêu
dùng các sản phẩm bị đánh phí và mục đích thứ hai là tăng nguồn thu cho Chính Phủ. Sở dĩ phải đánh phí đối với cc sản phẩm
gây tác hại đến môi trường là để có nguồn tài chính xây dựng hệ thống xử lý việc ô nhiễm của các sản phẩm gây tác hại tới
môi trường khi chúng được sử dụng (trong sản xuất, tiêu dùng).

Mức thu phí do đó sẽ tuỳ thuộc vào mục tiêu đối với loại phí này là gì. Đối với mục đích tăng nguồn thu cho Chính Phủ
thì “mức phí được xác định dưa vào tổng mức thu dự định sẽ thu hàng năm và số sản phẩm sẽ được tiêu thụ”. Còn đối với mục

đích khuyên khích giảm ô nhiễm thì “mức thu phí được xác định dựa vào các nhân tố như: Độ co giãn về giá cả của đường cầu
sản phẩm bị đánh phí, khả năng tồn tại sản phẩm thay thế ít gây ô nhiễm hơn và mục tiêu muốn giảm lượng ô nhiễm”.

Phí đánh vào sản phẩm có thể được sử dụng thay cho phí gây ô nhiễm môi trường nếu vì lý do nào đó người ta không
thể trực tiếp tính được phí đối với các chất gây ô nhiễm, loại phí này có thể đánh vào sản phẩm nguyên liệu đầu vào.

Tuy nhiên phí đánh vào sản phẩm chỉ đạt đựơc hiệu quả tối ưu khi trên thị trường có sản phẩm có khả năng thay thế với
đặc điểm là sản phẩm này có khả năng thay thế hoặc ảnh hưởng ít tới môi trường. Bởi vì mục đích của việc đánh phí là nhằm
khuyến khích giảm ô nhiễm bằng việc sử dụng sản phẩm tiêu dùng có ảnh hưởng ít tới môi trường. Vậy chỉ khi nào có sản
phẩm thay thế (ít ảnh hưởng hoặc không ảnh hưởng tới môi trường) thì người sử dụng sản phẩm mới thay thế và không hoặc ít
sử dụng sản phẩm có ảnh hưởng tới môi trường.

Có thể nói đây là công cụ hữu hiệu trong nền kinh tế thị trường hiện nay, nhằm thay đổi hành vi môi trường của các đối
tượng gây ô nhiễm cũng như hưởng thu môi trường trong lành. Mặt khác, công cụ kinh tế này cũng đem lại cho ngân sách Nhà
nước một nguồn thu đáng kể. Phí bảo vệ môi trường cũng có thể coi là một trong những công cụ kinh tế có khả năng sử dụng
hữu hiệu trong thòi kỳ công nghiệp hoá- hiện đại hoá ở Việt Nam hiện nay. Với cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc thu phí bảo
vệ môi trường đang từng bước được xây dựng và hình thành, phí bảo vệ môi trường sẽ đem lại những kết quả mong muốn
trong công tác bảo vệ môi trường ở Việt nam hiện nay.

2.4.

Hệ thống đặt cọc- hoàn trả (ký quỹ hoàn trả).

Hệ thống đặt cọc hoàn trả là hệ thống áp đặt sự đặt tiền trước ở vào lúc hàng hoá được mua và số tiền đó sẽ được trả lại
khi hàng hoá đã được quay vòng sử dụng.

Khi có các hoạt động có nguy cơ ảnh hưởng xấu tới môi trường, chủ doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh phải
đặt cọc một khoản tiền nhằm bảo đảm việc thực hiện các biện pháp khôi phục môi trường. Có như vậy thì vấn đề bảo vệ môi
trường mói được đảm bảo, tránh tình trạng môi trường không được khôi phục. Hơn nữa công cụ kinh tế này áp dụng sẽ nâng
cao trách nhiệm cũng như xử lý vi phạm được dễ dàng hơn. Khi chủ doanh nghiệp không khôi phục môi trường thì nhà nước



sẽ sử dụng số tiền này để thuê các tổ chức, cá nhân khác tiến hành khôi phục môi trường.

Mặc dù hệ thống này thường đựơc áp dụng mang tính truyền thống đối vói các đồ uống (như đồ uống giải khát) nhưng
nội dung của nó đã được giảm bớt đối với những thứ ít có giá trị để nhường chỗ cho những thứ có giá trị hơn. Bởi vì khi nhưng
sản phẩm này có giá trị nhỏ, thậm chí là rất nhỏ nên khi áp dụng hệ thống đặt cọc- hoàn trả rất khó kiểm tra việc có gây ô
nhiễm môi trường hay không và thường là bỏ qua. Hệ thống đặt cọc hoàn trả có thể được áp dụng cho bất kỳ sản phẩm nào, mà
chúng đòi hỏi một sự tập trung cao để tái sử dụng, tái quay vòng, nhằm đảm bảo an toàn cho việc đặt cọc và hạn chế bớt những
hàng hoá ít có giá trị mà lại có thể gây ra mức ô nhiễm nhiều hơn. Ví dụ như: những chuyến tầu thuỷ vận chuyển xe ô tô;
những Container thuốc trừ sâu; dầu hoả và những hàng hoá trang thiết bị khác dễ xảy ra tai nạn bất thường.

Như vậy “đặt cọc hoàn trả là việc người tiêu dùng phải đặt cọc một số tiền nhằm cam kết việc trả lại bao bì đóng gói
cho cơ sở tái chế hoặc người sử dụng lại, hoặc người trung gian” 9. Chẳng hạn người tiêu dùng vật liệu xây dựng là xi măng thì
khi sử dụng hết xi măng, người tiêu dùng có thể trả lại bao bì xi măng để nhận lại một khoản tiền nhất định. Tuy nhiên hiện
nay ở Việt Nam công cụ kinh tế này chưa được giải thích một cách rõ ràng và vô hình chung nhà sản xuất đã tính cả vào giá
thành sản phẩm, tất nhiên nguồn tài chính đó sẽ phải đóng góp cho việc bảo vệ, quản lý môi trường.

2.5.

Giấy phép môi trường có thể chuyển nhượng.

Giấy phép môi trường có thể chuyển nhượng (hay còn gọi là quota ô nhiễm) là loại giấy phép xả thải mà người được
cấp có quyền chuyển nhượng số lượng, chất lượng xả thải của cơ sở mình cho người khác.

Giả dụ ta muốn giảm thực sự các mức thải nhưng do có điều bất chắc nên ta không thể hoàn toàn dựa vào một phí phát
thải. Đồng thòi ta cũng muốn tránh áp đặt những chi phí cao cho những xí nghiệp giảm được mức thải nhiều nhất. Trong
trường hợp này ta phải đưa ra các giấy phép thải có thể chuyển nhượng, nghĩa là mỗi doanh nghiệp phải có một giấy phép vói
các mức thải nhất định. Bên nhận chuyển nhượng cũng chỉ nhận chuyển nhượng mức thải sao cho đúng số lượng, chất lượng
mức thải đã ghi trong giấy phép.


Mục đích của giấy phép chuyển nhượng là khuyến khích doanh nghiệp giảm lượng chất thải, về mặt kinh tế thì loại
công cụ này không có tính chất thu ngân sách nhà nước cũng như quỹ bảo vệ môi trường mà nó là công cụ kinh tế nhằm bảo
vệ môi trường bằng việc khuyến khích các doanh nghiệp giảm lượng chất thải, ở một số quốc gia phát triển thì giấy phép
chuyển nhượng có tính ưu điểm hơn thuế ở chỗ nó ràng buộc các nhà sản xuất trước khi bước vào hoạt động sản xuất kinh
9 Tha. Nguyễn Vã Phương - Trường Đại học Luật Hà Nội - Tập bài giảng


doanh phải tìm cách ngăn ngừa ô nhiễm, hoặc giảm ô nhiễm xuống mức thấp nhất.

2.6.

Nhẫn môi trường.

Nhãn môi trường được cấp cho các sản phẩm mà quá trình sản xuất hoặc tiêu dùng nó ít hoặc không sinh ra các chất có
hại cho môi trường hoặc bản thân sản phẩm không có hoặc có ít những chất có hại cho môi trường so với những sản phẩm
cùng loại khác.

Mục đích của việc cấp nhãn môi trường cho các sản phẩm nhằm đẩy mạnh sản xuất và tiêu dùng các sản phẩm phù họp
với môi trường. Người tiêu dùng sản phẩm tuỳ thuộc vào thành phần môi trường cũng như điều kiện sống, nhận biết được việc
ảnh hưởng đến môi trường của sản phẩm mà lựa chọn việc sử dụng. Nhưng khi sản phẩm đã có nhãn môi trường thì người tiêu
dùng hoàn toàn có thể tin cậy và sẵn sàng sử dụng sản phẩm. Đương nhiên công cụ này đã kích thích việc sử dụng sản phẩm
của người tiêu dùng. Thay bằng việc tuyên truyền về những sản phẩm có hại cho môi trường, người ta cấp nhãn môi trường
cho những sản phẩm mà trong quá trình sản xuất hoặc tiêu dùng nó ít, thậm chí không gây ô nhiễm đến môi trường.

Tuy nhiên việc dán nhãn chỉ có tác dụng khi khống chế được số lượng tối đa sản phẩm được dán nhãn trong một nhóm
sản phẩm. Động lực cạnh tranh, sức hấp dẫn của nhãn môi trường sẽ mất đi khi tất cả sản phẩm cùng loại đều được dán nhãn
môi trường.

2.7.


Bảo hiểm môi trường.

Hoạt động kinh doanh bảo hiểm là việc doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro trên cơ sở người được bảo hiểm đóng
một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường hay trả tiền bảo hiểm khi xảy ra trường họp thuộc
trách nhiệm bảo hiểm.

Mục đích của bảo hiểm môi trường là nhằm bảo đảm các khoản kinh phí cần thiết để khắc phục môi trường khi hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp gặp phải những rủi ro về mặt môi trường. Khi doanh nghiệp đã nộp một khoản
tiền gọi là tiền phí bảo hiểm thì khi rủi ro xảy ra gây ảnh hưởng tới môi trường thì lúc này người phải khắc phục môi trường
không phải là doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh- người gặp phải rủi ro- mà là doanh nghiệp bảo hiểm. Nhà nước có
thể quy định hình thức bảo hiểm môi trường bắt buộc và bảo hiểm môi trường tự nguyện áp dụng đối với các đối tượng có hoạt
động khác nhau.

2.8.

Một số công cụ kinh tế khác.

2.8.1.

Bộ tiêu chuẩn ISO 14000.


Bộ tiêu chuẩn ISO 14000 do tổ chức tiêu chuẩn Quốc tế ban hành năm 1993 bao gồm năm nội dung chính: Hệ thống
quản lý môi trường; kiểm tra đánh giá môi trường; đánh giá kết quả hoạt động của môi trường; ghi nhãn môi trường; đánh giá
chu trình sống của sản phẩm. Ngoài những nội dung trên đăng ký ISO 14000 là thêm một phương thức chỉ ra cho khách hàng
biết rằng công ty từ trước đến nay vẫn được công nhận là hoàn thành tốt các kế hoạch môi trường.

Các khía cạnh môi trường trong tiêu chuẩn của sản phẩm ISO 14000 là tiêu chuẩn quản lý môi trường và cũng là một
công cụ quản lý môi trường của doanh nghiệp. Khi áp dụng Bộ tiêu chuẩn ISO 14000, doanh nghiệp phải cam kết mọi quy

định của pháp luật hiện hành và khi đạt yêu cầu của tiêu chuẩn thì sẽ được cấp chứng chỉ đạt ISO 14001, tiêu chuẩn tự quản lý
môi trường trong bộ tiêu chuẩn ISO 14000. Như vậy bộ tiêu chuẩn bảo đảm việc thực thi pháp luật môi trường của doanh
nghiệp và trong chừng mực nào đó môi trường sẽ được bảo vệ tốt hơn. Rõ ràng bộ tiêu chuẩn ISO 14000 là công cụ kinh tế rất
hữu hiệu, nó thúc đẩy hoạt động bảo vệ môi trường vì lợi ích kinh tế.
2.8.2.

Trách nhiệm pháp lý khi có hành vi vi phạm pháp luật môi trường.

Trách nhiệm pháp lý này quy định những người gây ô nhiễm phải chi

trả một số tiền do đã làm tổn hại tới môi trường hoặc phải chi trả một số tiền để tu tạo lại cảnh quan môi trường. Tại Điều 7Luật bảo vệ môi trường quy định: “.. .Tổ chức, cá nhân gây tổn hại tới môi trường do hoạt động của mình phải bồi thường thiệt
hại theo quy định của pháp luật. Trách nhiệm pháp lý này còn đựơc quy định cụ thể tại các văn bản luật về tài nguyên như:
Luật tài nguyên nước (Điều 23); Luật khoáng sản (Điều 64); Luật dầu khí (Điều 5). Trách nhiệm pháp lý này cũng được quy
định tại Điều 1- Nghị định số 26/CP ngày 26/4/1996 quy định xử phạt vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường: “Mọi hành vi
cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy tắc quản lý

Nhà nước về bảo vệ môi trường (dưới đây gọi là vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường) của các tổ chức, cá nhân mà chưa
đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính.. .Tổ chức, cá nhân có hành vi vi
phạm hành chính về bảo vệ môi trường gây thiệt hại về vật chất phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

Quy định pháp lý đối vói môi trường thì ngoài trách nhiệm hành chính, bồi thường thiệt hại, Nhà nước ta còn quy định
cả trách nhiệm hình sự đối vói môi trường (từ Điều 182 đến Điều 191- Bộ luật hình sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam).
2.8.3.

Đóng góp tài chính cho bảo vệ môi trường.

Đây là loại công cụ được dùng vói mục đích là tăng nguồn thu nhập để xây dựng các công trình công cộng, chương
trình quản lý để bảo vệ môi trường. Đóng góp tài chính trong đó có ở các công cụ khác như thuế, phí.. .nhưng các công cụ đó
việc đóng góp tài chính chỉ nhằm khuyến khích các doanh nghiệp giảm lượng chất thải cũng như những tác động gây ô nhiễm



môi trường. Đóng góp tài chính là chương trình đặc biệt bằng việc vận động, tuyên truyền các tổ chức, cá nhân trong nước và
nước ngoài đóng góp tài chính cho công tác bảo vệ môi trường. Như vậy có nghĩa là ngoài nguồn tài chính của các tổ chức, cá
nhân trong nước thì Việt Nam cũng vận động các tổ chức, cá nhân nước ngoài và thế giới viện trợ tài chính cho mình nhằm
bảo vệ môi trường sinh thái chung. Thông thường tiền viện trợ của nước ngoài đựơc giành để phát triển và bảo vệ môi trường
ở các nước có thu nhập thấp, vì vậy số tiền viện trợ này rất nhỏ bé, chỉ tương đương 1,1% tổng thu nhập quốc dân ở các nước
nhận viện trợ. Nhằm đảm bảo việc bảo vệ môi trường sinh thái chung thì quỹ môi trường thế giới được hình thành trên cơ sở
Hiệp ước của 25 nước vào tháng 11 năm 1990 để tài trợ cho những dự án đầu tư theo bốn mục tiêu bảo vệ môi trường. Đó là
nguồn tài trợ quốc tế mà chúng ta có thể tranh thủ.

Ngày 26/6/2002 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 82/2002-QĐ-TTg về việc thành lập, tổ chức và hoạt
động của quỹ bảo vệ môi trường. “Việc thành lập một thể chế tài chính mói, chuyên quản lý các nguồn vốn dành riêng cho
mục tiêu bảo vệ môi trường và các nguồn tài nguyên thiên nhiên được đề cập như một trong những ưu tiên giải quyết”. Vói
nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền” và “người hưởng thụ phải trả tiền”, quỹ cho phép thực hiện cách tiếp cận mới,
khác vói phương pháp hành chính- mệnh lệnh vẫn thường được sử dụng trong quản lý chất lượng môi trường và giảm thiểu ô
nhiễm. Ngoài ra, bằng cách tạo điều kiện cho cơ quan chính quyền các cấp, các doanh nghiệp, cộng đồng dân cư hoặc cá nhân
mỗi công dân có khả năng tiếp cận dễ dàng hơn các nguồn tài chính để giải quyết các vấn đề môi trường. Quỹ có thể làm tăng
vai trò và trách nhiệm của họ trong việc thực thi các hoạt động phòng chống, giảm thiểu ô nhiễm, bảo vệ các nguồn tài nguyên
thiên nhiên. Quan trọng hơn nữa quỹ bảo vệ môi trường là công cụ đắc lực trong việc khắc phục các hạn chế trong hệ thống
cấp phát tài chính cho môi trường hiện nay.
2.8.4.

Chính sách giá cả và tiêu chuẩn.

Dùng chính sách giá cả buộc các doanh nghiệp chuyển đổi kỹ thuật chi phí nhiều và gây ô nhiễm sang kỹ thuật chi phí
ít hơn, ít gây ô nhiễm hơn. Nâng cao tiêu chuẩn môi trường lên, vượt khả năng hiện có của doanh nghiệp.
2.8.5.

Chính sách thưởng phạt về môi trường.


Đây là công cụ kinh tế nhằm khuyên khích các tổ chức, cá nhân có hành động thân thiện và tích cực trong công tác
quản lý và bảo vệ môi trường.

ở Việt Nam và các nước khác hàng năm có giải thưởng cho các ngành công nghiệp sản xuất ra sản phẩm có chất lượng
tốt, tiết kiệm nhiên liệu, làm cho môi trường tốt hơn, khuyên khích mở rộng phong trào “người tiêu thu xanh”.

Như vậy qua phân tích ta thấy các công cụ kinh tế đang ngày càng được nhiều nước sử dụng trong đó có Việt Nam. Tuy
nhiên cần cân nhắc một cách cặn kẽ để các công cụ này phù họp với hệ thống tài chính, tập quán, truyền thống và năng lực của
hệ thống hành chính, thể chế của nước ta hiện nay. Việc sử dụng các công cụ kinh tế trong quản lý và bảo vệ môi trường chính
là sử dụng sức mạnh của thị trường để bảo vệ tài nguyên môi trường, đảm bảo cân bằng sinh thái.


Ví dụ ngày 5/6/2002, Hội bảo vệ thiên nhiên và môi trường Việt nam trao tặng giải thưởng “Vì sự nghiệp bảo vệ môi trường
2002” cho tập thể Hội sinh viên Việt nam, Tạp chí “Con đường xanh” và những cá nhân xuất sắc như GS Đặng Hữu (Trưởng
ban khoa giáo Trunng ương, nguyên Bộ trưởng Bộ khoa học công nghệ môi trường), GS Lê Quý An (Chủ tịch Hội bảo vệ tài
nguyên và môi trường Việt nam). Trên thế giói có giải thưởng Global 500 của UNEP năm 2001, giải thưởng Sasakawa năm
2001


.

CHƯƠNG III
VAI TRÒ, ĐIỂU KIỆN ÁP DỤNG CÁC CÔNG cụ KINH TẾ
TRONG QUẢN LÝ VÀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG ở VIỆT NAM

1. Vai trò của công cụ kinh tế trong quản lý và bảo yệ môi trường.

Công cụ kinh tế là một trong những công cụ quan trọng để bảo vệ môi trường. Nó đã đang được áp dụng rộng rãi ở các
nước trên thế giới trong đó có Việt Nam. Qua thực tiễn kiểm nghiệm ở một số nước đã chứng tỏ công cụ kinh tế có tác dụng

sau:

- Điều chỉnh hành vi môi trường một cách tự động do mức thải có quan hệ một cách tự động đối với thuế (tức là cái giá
của sự gây ô nhiễm).

- Tính hiệu quả về chi phí khi với một mức thải nhất định thì thuế, phí chất thải đảm bảo đạt được mục tiêu chi phí tối
thiểu.

- Khuyến khích hành vi bảo vệ môi trường. Do công cụ kinh tế không chỉ có tác dụng trực tiếp và lâu dài đối với hành
vi gây ảnh hưởng tới môi trường của doanh nghiệp mà còn có tác dụng sâu xa tới quá trình nghiên cứu, triển khai, thay đổi kỹ
thuật và công nghệ sản xuất có lợi cho môi trường.

- Gia tăng nguồn thu nhập phục vụ trở lại cho bảo vệ môi trường và đóng góp ngân sách cho Nhà nước.

- Duy trì và chuyển giao hợp lý nguồn lực do định giá các nguồn tài nguyên môi trường, là thành tố quan trọng cho
phát triển bền vững và góp phần tích cực cho việc sử dụng hiệu quả các nguồn lực cũng như chuyển giao chúng cho các thế hệ
tương lai. Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam khi phát triển kinh tế chủ yếu dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên
thì việc đánh giá các nguồn tài nguyên môi trường là một công cụ chủ chốt cho phát triển bền vững.

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, vai trò của các công cụ kinh tế trong việc quản lý và bảo vệ môi trường ở Việt
Nam có khác nhau trong mỗi giai đoạn phát triển nền kinh tế đất nước. Nhìn chung tác dụng của công cụ kinh tế được thể hiện
rõ rệt từ khi Việt nam áp dụng nền kinh tế thị trường và trong quá trình hội nhập nền kinh tế hiện nay.


1.1.

Vai trò của công cụ kinh tế trong nền kinh tế thị trường.

Như chúng ta đã biết Việt Nam bắt đầu quá trình đổi mói một cách toàn diện từ sau Đại hội đại biểu toàn Quốc lần thứ
VI của Đảng năm 1986. Nó đánh dấu một bước ngoặt về quan điểm cũng như chủ chương và chính sách phát triển kinh tế

nước ta. Áp dụng các công cụ kinh tế để quản lý và bảo vệ môi trường đối vói các doanh nghiệp cùng vói chính sách kinh tế
mói mà cơ cấu kinh tế nhiều thành phần nhờ vậy đã hình thành và phát triển vói nhiều hình thức tổ chức kinh doanh khác nhau.
Quản lý môi trường thông qua các công cụ hành chính có một vai trò rất quan trọng khi mà tình trạng môi trường đã và đang bị
ô nhiễm nặng nề, bằng các quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính, cơ quan Nhà nước buộc các tổ chức, cá nhân tuân
thủ các quy định của pháp luật về môi trường. Trong trường họp tổ chức, cá nhân không tuân thủ thì cơ quan Nhà nước có thể
áp dụng các bịên pháp cưỡng chế phù họp với hành vi vi phạm, hậu qủa và nhân thân của người vi phạm. Tuy nhiên trong nền
kinh tế thị trường khi áp dụng các công cụ hành chính đã gặp phải rất nhiều khó khăn như: Sự yếu kém trong quản lý Nhà
nước về môi trường; sự mâu thuẫn giữa mục đích tìm kiếm lợi nhuận của doanh nghiệp và mục tiêu đảm bảo chất lượng môi
trường của cộng đồng. Bởi vì tìm kiếm lợi nhuận là mục đích của doanh nghiệp. Vì lợi nhuận doanh nghiệp có thể bằng mọi
cách lẩn tránh việc thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm bảo vệ môi trường kể cả các trách nhiệm đã được cụ thể hoá bằng các
quyết định hành chính. Ngày nay vấn đề bảo vệ môi trường được đặt ra cấp thiết hơn bao giờ hết vì lý do ô nhiễm đã đến mức
báo động. Các biện pháp hay côgn cụ hành chính vốn có hiệu quả nhất định nhưng trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị
trường có định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta thì công cụ kinh tế có vai trò đặc biệt quan trọng. Chỉ khi coi trọng các công
cụ kinh tế trong sự kết hợp vói công cụ mệnh lệnh hành chính khôgn chỉ trong hoạt động kinh tế, mà cả trong công cuộc bảo
vệ môi trường thì mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá để xây dựng xã hội công banừg văn minh như trong Nghị quyết đại
hội đảng IX mói có thể thực hiện được. Trong nền kinh tế thị trường, việc đơn thuần chỉ áp dụng công cụ hành chính trong
quản lý và bảo vệ môi trường không mang được hiệu quả tối ưu, và như vậy công cụ kinh tế đã đóng góp vào những gì mà
công cụ hành chính khi áp dụng còn hạn chế.

Trong nền kinh tế thị trường có rất nhiều doanh nghiệp mới thuộc các loại hình thức pháp lý của khu vực kinh tế ngoài
quốc doanh đã ra đòi. Các doanh nghiệp nhà nước đã được cơ cấu lại như đăng ký lại, thí điểm cổ phần hoá, sáp nhập, liên
doanh vói nước ngoài thành lập tổng công ty theo hướng tập đoàn kinh doanh lớn. Các khu chế xuất, khu công nghiệp tập
trung lớn đã và đang được hình thành tạo ra động lực mói cho việc khai thác, huy động nguồn lực tiềm năng để thúc đẩy kinh
tế phát triển, tạo môi trường cạnh tranh cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Đó là điều mà các nhà quản lý và
bảo vệ môi trường cũng như các nhà nghiên cứu cần lựa chọn các công cụ kinh tế cho phù họp với tình hình kinh tế xã hội
trong cơ chế này.


Trong khu vực hoạt động tư nhân, áp dụng công cụ kinh tế trong quản lý và bảo vệ môi trường sẽ khuyên khích sự phát
triển công nghệ và tri thức chuyên sâu về kiểm soát ô nhiễm, bởi vì muốn chi phí cho môi trường ít hơn, tăng hiệu quả sản

xuất, đảm bảo được lợi ích kinh tế thì các doanh nghiệp phải áp dụng công nghệ cũng như tri thức chuyên sâu trong sản xuất
kinh doanh.
Áp dụng các công cụ kinh tế sẽ loại bỏ được một yêu cầu của Chính phủ về lượng lớn thông tin chi tiết phục vụ cho việc xác
định mức độ kiểm soát khả thi và thích họp nhất đối với mỗi doanh nghiệp và sản phẩm

.Áp dụng các công cụ kinh tế còn nâng cao tính mềm dẻo trong công nghệ kiểm soát ô nhiễm bởi vì khi mà doanh
nghiệp chưa có khả năng kiểm soát được môi trường- gây ra mức độ ô nhiễm thấp nhất thì vẫn có thể hoạt động sản xuất kinh
doanh chỉ có điều chi phí cho bảo vệ môi trường lớn, dẫn đến hiệu quả kinh tế không cao. Hơn nữa sự mềm dẻo còn thể hiện ở
chỗ việc chi phí cho bảo vệ môi trường là lớn hay nhỏ còn tuỳ thuộc vào mức độ gây ô nhiễm môi trường của doanh nghiệp.
Dựa vào đó mà có những doanh nghiệp vẫn có thể hoạt động sản xuất kinh doanh bỏi mức gây ô nhiễm môi trường là có thể
chấp nhận được, nghĩa là đúng tiêu chuẩn môi trường và đánh giá tác động môi trường.

Có thể nói trong cơ chế thị trường công cụ kinh tế là một công cụ hữu hiệu, nó làm thay đổi hành vi môi trường của các
đối tượng gây ô nhiễm cũng như hưởng thụ môi trường trong lành. Mặt khác những công cụ kinh tế này cũng đem lại cho ngân
sách nhà nước một nguồn thu đáng kể đặc biệt là công cụ chính sách thuế và phí bảo vệ môi trường. Phí bảo vệ môi trường có
thể coi là một trong những công cụ kinh tế có khả năng sử dụng hữu hiệu nhất trong thòi kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở
Việt Nam.

Áp dụng các công cụ kinh tế sẽ đảm bảo được sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp bỏi vì các công cụ kinh tế luôn có
tính mềm dẻo, tạo khả năng lựa chọn hành vi tác động đến môi trường của các đối tượng gây ô nhiễm.

Áp dụng các công cụ kinh tế sẽ tạo động lực bảo vệ môi trường trong cạnh tranh. Vì lợi ích kinh tế, nhiều doanh nghiệp
đã đầu tư hàng trăm tỷ đồng để đổi mới công nghệ, giảm thiểu ô nhiễm, xử lý chất thải.

1.2.

Trong quá trình hội nhập nền kinh tế.

Chương trình hội nhập nền kinh tế với thế giới ở Việt Nam được đánh dấu bằng sự ban hành Luật đầu tư nước ngoài.



Kể từ khi ban hành đến nay, Luật đầu tư nước ngoài đã ba lần đựơc sửa đổi cùng với hàng loạt các văn bản hướng dẫn thi
hành, văn bản dưới luật đã bước đầu tạo môi trường hấp


×