Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Tiểu luận phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến, vận dụng trong tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.08 KB, 16 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN
Môn: NGUYÊN LÝ MÁC – LÊNIN 1

PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN VÀ VẬN
DỤNG PHÂN TÍCH MỐI LIÊN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ VÀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI

Họ tên sinh viên: Lê Kim Huệ
Lớp: A6 – TC
Giáo viên hướng dẫn: Trần Huy Quang

Hà Nội, ngày 18 tháng 11 năm 2009


TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN
Môn: NGUYÊN LÝ MÁC – LÊNIN 1

PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN VÀ VẬN
DỤNG PHÂN TÍCH MỐI LIÊN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ VÀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI

Họ tên sinh viên: Lê Kim Huệ
Lớp: A6 – TC

Hà Nội, ngày 18 tháng 11 năm 2009




MỤC LỤC
Lời mở đầu
I. Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến
1. Các khái niệm liên quan

Trang
1
2
2

1.1 Biện chứng và phép biện chứng

2

1.2 Phép biện chứng duy vật

2

2. Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến

3

2.1 Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến

3

2.1.1Khái niệm về mối liên hệ, mối liên hệ phổ biến


3

2.1.2 Tính chất của mối liên hệ

4

2.2 Ý nghĩa phương pháp luận

5

II. Vận dụng phân tích mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế và
bảo vệ môi trường sinh thái

6

1. Các khái niệm liên quan

6

2. Mối liên hệ biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi
trường

7

2.1 Vân dụng nguyên lí về mối liên hệ để giải thích mối liên hệ
giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi sinh thái

7

2.2 Biểu hiện của mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ

môi trường

7

3.Hiện trạng việc kết hợp giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi
trường ở nước ta hiện nay

8

Tài liệu tham khảo

11



Lời mở đầu
Trong bất cứ một lĩnh vực nào của cuộc sống đều tồn tại những mối liên
hệ giữa các sự vật, hiện tượng với nhau hay ngay trong một sự vật, hiện
tượng. Mối liên hệ là cái khách quan của sự sống. Muốn hiểu rõ bản chất của
một sự vật, hiện tượng nào đó thì nhất thiết ta phải nhìn nhận, xem xét nó
trong một chỉnh thể và trong mối liên hệ giữa nó với các sự vật, hiện tượng
khác. Vì thế mà mối liên hệ đã trở thành một trong những nguyên lí cơ bản
của phép biện chứng trong triết học. Nó có ý nghĩa lớn về mặt lí luận. Bên
cạnh đó, phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến cũng có ý nghĩa về mặt
thực tiễn to lớn. Mối liên hệ tồn tại trong tất cả các lĩnh vực và nền kinh tế
cũng không phải là một ngoại lệ. Khi xét đến nó, tất yếu phải xét đến mối
liên hệ giữa kinh tế và các yếu tố khác, trong đó có môi trường sinh thái.
Nền kinh tế phát triển, tăng trưởng càng nhanh chóng, một mặt nâng cao đời
sống của con người mặt khác đang gây ra một sức ép vô cùng lớn lên môi
trường sinh thái. Thực tế đã chứng minh mối liên hệ biện chứng giữa kinh tế

và môi trường, giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường. Việc bảo vệ
môi trường và gắn liền giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường đang
là một vấn đề cấp thiết đặt ra cho tất cả các quốc gia trên thế giới trong đó có
Việt Nam. Vấn đề đặt ra trong đề tài mang tính thới sự đặc biệt trước hiện
trạng môi trường đang bị hủy hoại nghiêm trọng như hiện nay. Môi trường
sinh thái là người bạn của con người. Việc con người hủy hoại môi trường
đồng nghĩa với việc hủy hoại chính cuộc sống của con người. Nghiên cứu về
mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường giúp chúng ta có
cái nhìn đúng đắn trong quá trình phát triển để xây dựng một nền kinh tế bền
vững và không hủy hoại môi trường sống của con người.

1


I. Phép biên chứng về mối liên hệ phổ biến
1. Các khái niệm liên quan
Để hiểu rõ về mối liên hệ phổ biến, chúng ta cần làm rõ một số khái
niêm về biện chứng, phép biện chứng cũng như phép biện chứng duy vật.
1.1 Biện chứng và phép biện chứng
Biện chứng là khái niệm dùng để chỉ những mối liên hệ, tương tác,
chuyển hóa và vận động, phát triển theo quy luật của các sự vật, hiên tượng
trong thế giới tự nhiên, đời sống xã hội và tư duy con người.
Biện chứng bao gồm hai loại: biện chứng chủ quan và biện chứng khách
quan. Biện chứng khách quan là biện chứng về thế giới vật chất. Trong khi
đó biện chứng chủ quan là sự phản ánh biện chứng khách quan vào trong tư
duy của con người.
Phép biện chứng là học thuyết nghiên cứu, khái quát biện chứng của thế
giới thành hệ thống các nguyên lý, quy luật nhằm xây dựng hệ thống các
nguyên tắc phương pháp luận của nhận thức và thực tiễn. Như vậy phép biện
chứng thuộc về biện chứng chủ quan. Đồng thời phép biện chứng đối lập với

phép siêu hình (Phương pháp tư duy về sự vật, hiện tượng trong trạng thái
bất biến, cô lập).
1.2 Phép biện chứng duy vật
Phép biện chứng duy vật là một trong ba hình thức cơ bản của phép biện
chứng. Kế thừa có chọn lọc những thành tựu của các nhà khoa học trước đó,
trên cơ sở khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học thời ấy và thực
tiễn lịch sử cũng như thực tiễn xã hội đồng thời khắc phục những hạn chế
của các phép biện chứng có trước, vào giữa thế kỉ XIX, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã sáng lập nên phép biện chứng duy vật. Về sau được
V.I.Lênin phát triển vào đầu thế kỉ XX, đem lại cho phép biện chứng một
hình thức mới về chất. Đây là giai đoạn phát triển cao nhất của phép biện
chứng trong lịch sử triết học. Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu
cơ giữa thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng. Chính vì
vậy, nó đã khắc phục những hạn chế của phép biện chứng chất phác thời cổ
đại cũng như của phép biện chứng duy tâm thời cận đại. Như vậy, phép biện
chứng duy vật là khoa học về những quy luật chung nhất của sự vận động,
phát triển của thế giới tự nhiên, đời sống xã hội và tư duy con người.
Phép biện chứng duy vật có hai đặc trưng cơ bản. Một là, phép biện
chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin là phép biện chứng được xác lập trên nền
tảng của thế giới quan duy vật khoa học. Vì thế phép biện chứng duy vật có
sự khác biệt căn bản với phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức và đồng thời
có sự khác biệt về trình độ phát triển so với nhiều tư tưởng biện chứng từng
có trong lịch sử triết học thời cổ đại. Hai là, trong phép biện chứng duy vật
của chủ nghĩa Mác – Lênin có sự thống nhất giữa nội dung thế giới quan
2


(duy vật biện chứng) và phương pháp luận (biện chứng duy vật), do đó nó
không dừng lại ở việc giải thích thế giới mà còn là công cụ để nhận thức thế
giới và cải tạo thế giới. Cụ thể là trên cơ sở khái quát các mối liên hệ phổ

biến và sự phát triển, các quy luật về sự vận động, phát triển của các sự vât,
hiện tượng trong tự nhiên, xã hội, tư duy, phép biện chứng duy vật cung cấp
những nguyên tắc phương pháp luận chung nhất cho quá trình nhận thức thế
giới và cải tạo thế giới. Với những đặc trưng đó, phép biện chứng giữ vai trò
tạo nên tính khoa học và cách mạng của chủ nhĩa Mác – Lênin, đồng thời nó
cũng là thế giới quan và phương pháp luận chung nhất của hoạt động sáng
tạo trong các lĩnh vực nghiên cứu khoa học.
2. Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến
2.1 Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến
Phép biện chứng duy vật được xây dựng dựa trên cơ sở một hệ thống
những nguyên lí, những phạm trù, những quy luật phản ánh đúng đắn hiện
thực. Trong đó, cùng với nguyên lí về sự phát triển thì nguyên lí về mối liên
hệ phổ biến là một nguyên lí cơ bản của phép biện chứng duy vật. Vì vậy,
Ph. Ăngghen đã định nghĩa: “Phép biện chứng là khoa học về sự liên hệ phổ
biến”.
2.1.1Khái niệm về mối liên hệ, mối liên hệ phổ biến
Khi xem xét các sự vật, hiện tượng, một câu hỏi được đăt ra là: Các sự
vật, hiện tượng và các quá trình khác nhau của thế giới co mối liên hệ qua
lại, ảnh hưởng lẫn nhau hay chúng tồn tại tách rời biệt lập với nhau? Nếu có
thì cái gì quy định mối liên hệ đó?
Trong lịch sử triết học, để trả lời cho những câu hỏi đó có nhiều quan
điểm khác nhau. Những người theo quan điểm siêu hình cho rằng các sự vật,
hiện tượng tồn tại biệt lập, tách rời nhau, không có sự phụ thuộc, ràng buộc,
quy định nhau. Nếu có sự quy định lẫn nhau thì cũng chỉ là những quy định
bề ngoài, mang tính ngẫu nhiên. Tuy nhiên, trong số những người theo quan
điểm siêu hình, có một số cho rằng tồn tại mối liên hệ giữa các sự vật, hiện
song các hình thức liên hệ khác nhau không có khái niệm chuyển hóa cho
nhau. Để trả lời cho câu hỏi cái gì quy định mối liên hệ đó, những người
theo chủ nghĩa duy tâm khách quan và chủ nghĩa duy tâm chủ quan đều cho
rằng cái quy định mối liên hệ là một lực lượng siêu tự nhiên hoặc ở ý thức,

cảm giác của con người.
Trái lại, những người theo quan diểm biện chứng lại cho rằng các sự vật,
hiện tượng, quá trình khác nhau vừa tồn tại độc lập nhưng vừa tác động qua
lại, chuyển hóa lẫn nhau. Những người theo quan điểm duy vật biện chứng
khẳng định tồn tại mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng và tính thống nhất
vật chất của thế giới là cơ sở của mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng.
Các sự vật, hiện tượng tạo thành thế giới dù đa dạng, phong phú, khác nhau
3


bao nhiêu, song chúng đều chỉ là những dạng khác nhau của một thế giới
duy nhất và thống nhất. Nhờ tính thống nhất đó mà chúng không thể tồn tại
biệt lập, tách rời nhau mà tồn tại trong sự vận động qua lại, chuyển hóa lẫn
nhau theo những quan hệ xác định. Trên cơ sở đó, triết học duy vật biện
chứng khẳng định rằng liên hệ là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy
định, tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay
giữa các mặt của một sự vật hiện tượng trên thế giới.
Khái niệm mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ tính phổ biến của các mối
liên hệ của các sự vật, hiện tượng của thế giới. Đồng thời nó cũng dùng để
chỉ các mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật, hiện tượng. Những mối liên hệ phổ
biến nhất là những mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật, hiện tượng của thế
giới, nó thuộc đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng. Chẳng hạn các
mối liên hệ của các mặt đối lập, lượng và chất, khẳng định và phủ định, cái
chung và cái riêng, bản chất và hiện tượng…Như vậy, giữa các sự vật và
hiện tượng của thế giới vừa tồn tại những mối liên hệ đặc thù, vừa tồn tại
những mối liên hệ phổ biến ở một phạm vi nhất định. Đồng thời cũng tồn tại
những mối liên hệ phổ biến nhất. Trong đó những mối liên hệ đặc thù là sự
thể hiện những mối liên hệ phổ biền trong những điều kiện nhất định. Tất cả
những mối liên hệ đặc thù và phổ biến đó tạo nên tính thống nhất trong tính
đa dạng và ngược lại, tính đa dạng trong tính thống nhất của các mối liên hệ

trong giới tự nhiên, xã hội và tư duy.
2.1.2 Tính chất của mối liên hệ
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, mối liên hệ có ba
tính chất cơ bản: tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng phong phú.
- Tính khách quan của mối liên hệ được biểu hiện: Các mối liên hệ là
vốn có của sự vật, hiện tượng. Nó tồn tại độc lập, không phụ thuộc
vào ý thức của con người. Con người chỉ có thể nhận thức và vận
dụng các mối liên hệ đó trong hoạt động thực tiễn của mình.
- Tính phổ biến của mối liên hệ được biểu hiện: Không có bất cứ một
sự vật, hiện tượng hay quá trình nào tồn tại tuyệt đối biệt lập với các
sự vật, hiện tượng, quá trình khác. Bất kì một sự vật, hiện tượng, quá
trình nào, ở bất kì không gian nào và ở bất kì thời gian nào cũng có
mối liên hệ với sự vật, hiện tượng, quá trình khác. Đồng thời, mỗi sự
vật, hiện tượng cũng là một cấu trúc hệ thống, bao gồm những yếu tố
cấu thành với những mối liên hệ bên trong. Các thành phần, yếu tố
này liên hệ mật thiết với các thành phần, yếu tố khác ngay trong cùng
một sự vật, hiện tượng. Như vậy, bất kì một tồn tại nào cũng là một hệ
thống hơn nữa là một hệ thống mở, tồn tại mối liên hệ với hệ thống
khác. Mối liên hệ có trong tất cả các sự vật, hiên tượng, có trong tất cả
các lĩnh vực của tự nhiên, xã hội và tư duy.
4


- Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ được biểu hiện: Các sự vật,
hiện tượng, quá trình khác nhau về chất đều có những mối liên hệ cụ
thể khác nhau, giữ vai trò, vị trí khác nhau với sự tồn tại và phát triển
của nó. Mặt khác, cùng một mối liên hệ nhất định của sự vật nhưng
trong những điều kiện cụ thể khác nhau, ở những giai đoạn khác nhau
trong quá trình vận động và phát triển của sự vật thì cũng có những
tính chất, vai trò khác nhau. Như vậy, không thể đồng nhất tính chất,

vai trò, vị trí cụ thể của các mối liên hệ khác nhau đối với mỗi sự vật
nhất định trong những điều kiện xác định. Có thể chia mối liên hệ
thành nhiều loại: Mối liên hệ bên trong và mối liên hệ bên ngoài, mối
liên hệ chủ yếu và mối liên hệ thứ yếu, mối liên hệ bản chất và mối
liên hệ hiện tượng, mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp…Sự
phân chia từng cặp mối liên hệ chỉ mang tính tương đối vì mỗi loại
liên hệ chỉ là một hình thức, một bộ phận, một mắt xích của mối liên
hệ phổ biến. Mỗi loại mối liên hệ trong từng cặp mối liên hệ có thể
chuyển hóa lẫn nhau tùy theo phạm vi bao quát của mối liên hệ hoặc
do kết quả vận động và phát triển của chính các sự vật. Tuy sự phân
chia thành các loại mối liên hệ chỉ mang tính tương đối, nhưng sự
phân chia đó lại rất cần thiết bởi vì mỗi loại mối liên hệ có vị trí và vai
trò xác định trong sự vận động và phát triển của sự vật. Con người
phải nắm bắt đúng các mối liên hệ đó để có cách tác động phù hợp
nhằm đưa lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động của mình.Quan điểm
về tính phong phú, đa dạng của các mối liên hệ còn bao hàm quan
niệm về sự thể hiện phong phú, đa dạng của các mối liên hệ phổ biến
ở các mối liên hệ đặc thù trong mỗi sự vật, mỗi hiện tượng, mỗi quá
trình cụ thể, trong những điều kiện không gian, thời gian cụ thể.
2.2 Ý nghĩa phương pháp luận
Nghiên cứu nguyên lí về mối liên hệ phổ biến có thể rút ra ý nghĩa về
phương pháp luận như sau:
Vì các mối liên hệ là sự tác động qua lại, chuyển hóa, quy định lẫn nhau
giữa các sự vật, hiện tượng và các mối liên hệ mang tính khách quan và
mang tính phổ biến nên trong hoạt động nhận thức, hoạt động thực tiễn con
người phải tôn trọng quan điểm toàn diện. Quan điểm toàn diện đòi hỏi
chúng ta trong nhận thức và xử lí các tình huống thực tiễn cần phải xem xét
sự vật trong mối quan hệ biện chứng qua lại giữa các bộ phận, các yếu tố,
giữa các mặt của chính sự vật và trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó với
các sự vật khác kể cả mối liên hệ trực tiếp hoặc gián tiếp. Chỉ trên cơ sở đó

mới có thể nhận thức đúng về sự vật và xử lí có hiệu quả các vấn đề của đời
sống thực tiễn. Đồng thời, quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải biết
phân biệt trong mối liên hệ, phải chú ý tới mối liên hệ bên trong, mối liên
5


bản chất, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên và lưu ý tới sự chuyển
hóa của các mối liên hệ để hiểu rõ bản chất của sự vật. Trong hoạt động thực
tiễn, theo quan điểm toàn diện, khi tác động vào sự vật, chúng ta không
những phải chú ý tới những mối liên hệ nội tại của nó mà còn phải chú ý tới
những mối liên hệ của sự vật ấy với các sự vật khác, phải biết sử dụng đồng
bộ các biện pháp, các phương tiện khác nhau để tác động nhằm đem lại hiệu
quả cao nhất. Quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện, siêu
hình.
Vì các mối liên hệ có tính đa dạng, phong phú nên trong cả hoạt động
nhận thức và hoạt động thực tiễn, con người còn phải tôn trọng quan điểm
lịch sử - cụ thể. Quan điểm lịch sử - cụ thể đòi hỏi chúng ta trong việc nhận
thức và xử lý các tình huống trong hoạt động thực tiễn cần phải chú ý đến
hoàn cảnh lịch sử cụ thể, môi trường cụ thể trong đó sự vật sinh ra, tồn tại và
phát triển. Tức là phải xác định rõ vị trí, vai trò khác nhau của mối liên hệ cụ
thể trong những tình huống cụ thể để từ đó có được những giải pháp đúng
đắn và có hiệu quả trong việc xử lý các vấn đề thực tiễn. Như vậy trong nhận
thức và thực tiễn, không những cần phải tránh và khắc phục quan điểm
phiến diện, siêu hình mà còn phải tránh quan điểm chiết trung, ngụy biện.
II. Vận dụng phân tích mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ
môi trường sinh thái
1. Các khái niệm liên quan
Kinh tế là tổng thể những hoạt động của con người nhằm thỏa mãn nhu
cầu vật chất có liên quan đến sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu thụ hàng hóa
và dịch vụ. Kinh tế cũng là hoạt động tạo ra của cải, vật chất. Nền kinh tế

đang ngày càng trở nên đa dạng cả về nội dung và hình thức. Một nền kinh
tế có các chiều hướng cơ bản: tăng trưởng, suy giảm, ổn định. Trong đó tăng
trưởng kinh tế là sự tăng lên về số lượng, chất lượng, tốc độ và quy mô sản
lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Sự tăng trưởng được so
sánh theo các thời điểm gốc sẽ phản ánh tốc độ tăng trưởng. Tăng trưởng
kinh tế là chiều hướng tích cực đối với một nền kinh tế. Vì thế tăng trưởng
kinh tế có vai trò to lớn đối với một quốc gia. Nó không những là tiền đề góp
phần nâng cao đời sống của người dân mà còn thể hiện trình độ phát triển
của đất nước, khẳng định vị thế của quốc gia trên trường quốc tế. Kinh tế
tăng trưởng, phát triển là tiền đề của sự phát triển về khoa học kĩ thuật, an
ninh quốc phòng…
Môi trường sinh thái nói chung là toàn bộ những điều kiện vô sinh và
hữu sinh bao quanh sinh vật, ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của mọi
sinh vật trong đó có con người. Nói cách khác, môi trường sinh thái là toàn
bộ các điều kiện vô cơ, hữu cơ của các hệ sinh thái ảnh hưởng đến hoạt động
6


sản xuất và mọi hoạt động khác của xã hội loài người. Nó là những điều kiện
tự nhiên, xã hội trong đó con người hay mọi sinh vật tồn tại, phát triển trong
quan hệ với con người. Bảo vệ môi trường sinh thái là giữ gìn để môi trường
không suy thoái và có những hoạt động nhằm nâng cao chất lượng môi
trường.
2. Mối liên hệ biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường
sinh thái
2.1 Vận dụng nguyên lí về mối liên hệ phổ biến để giải thích mối liên hệ
giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi sinh thái
Như chúng ta đã biết mối liên hệ tồn tại trong mọi sự vật, hiện tượng,
trong tất cả các lĩnh vực của tự nhiên, xã hội, tư duy của con người. Vì thế
giữa kinh tế và môi trường, giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường

cũng có mối liên hệ chặt chẽ. Môi trường sinh thái là những điều kiện tự
nhiên, xã hội trong đó con người hay một sinh vật tồn tại và phát triển trong
mối quan hệ với con người. Tăng trưởng kinh tế cũng nhằm cải thiện, phát
triển đời sống của con người. Vì vậy, giữa môi trường sinh thái và tăng
trưởng kinh tế có mối liên hệ biện chứng chặt chẽ. Mặc dù môi trường sinh
thái được sinh ra và tồn tại trong tự nhiên nên có thể nói nó tồn tại khách
quan độc lập với ý thức con người. Tuy nhiên khi xét về sự phát triển của
môi trường thì sự phát triển ấy lại phụ thuộc hoàn toàn vào ý thức của con
người. Con người có thể tác động vào môi trường sinh thái theo hai chiều
hướng: tích cực hoặc tiêu cực, tức là làm cho môi trường tốt lên hoặc xấu đi.
Trong khi đó, tăng trưởng kinh tế được sinh ra, tồn tại và phát triển hoàn
toàn phụ thuộc vào con người nên nó tồn tại một cách chủ quan. Môi trường
chịu tác động trực tiếp của của con người, tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào
con người. Như vậy, tăng trưởng kinh tế và môi trường có mối liên hệ với
nhau. Mối liên hệ ấy thông qua một thực thể là con người. Muốn nhìn nhận
đúng đắn về vấn đề này ta cần phải áp dụng phương pháp luận về quan điểm
toàn diện và quan điểm lịch sử-cụ thể..
2.2 Biểu hiện của mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường
sinh thái
Như đã nói ở trên, tăng trưởng kinh tế là sự tăng lên về số lượng, chất
lượng, tốc độ và quy mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất
định. Một nền kinh tế muốn tăng trưởng được phải phát huy một cách có
hiệu quả tiềm lực bên trong( nội lực) và tiềm lực bên ngoài( ngoại lực). Bên
cạnh các yếu tố như: vốn đầu tư, khoa học kĩ thuật, hợp tác giữa các quốc
gia…thì tăng trưởng kinh tế phụ thuộc nhiều vào môi trường sinh thái. Cụ
thể là muốn tăng trưởng kinh tế thì con người phải khai thác tài nguyên từ
môi trường. Tất cả các lĩnh vực, các ngành nghề trong hoạt động kinh tế
muốn tiến hành được thì bằng cách này hay cách khác, trực tiếp hay gián
7



tiếp đều phải khai thác tài nguyên của môi trường. Trong ngành nông
nghiệp, lâm nghiệp, đất đai, nguồn nước…của môi trường là các yếu tố chủ
chốt. Trong ngư nghiệp, môi trường sinh thái biển đảo, sông ngòi… là cơ sở
để khai thác nguồn lợi thủy hải sản. Trong công nghiệp: công nghiệp khai
thác – ngành công nghiệp có lịch sử lâu đời là ngành khai thác trực tiếp
nguồn lợi từ môi trường (khai thác các khoáng sản, kim loại…). Công
nghiệp khai thác là tiền đề cho các ngành công nghiệp khác. Trong ngành
dịch vụ: tất cả các loại hình dịch vụ như du lịch, giao thông vân tải…đều
phụ thuộc nhiều vào môi trường sinh thái. Môi trường được con người khai
thác nhằm phục vụ cho lợi ích của con người. Nhưng tài nguyên của môi
trường không phải là vô hạn. Nếu chỉ tập trung vào việc làm cho nền kinh tế
tăng trưởng mà không chú ý đến bảo vệ môi trường thì sớm muộn tăng
trưởng kinh tế cũng phải dừng lại. Ngược lại nếu gắn liền tăng trưởng kinh
tế với bảo vệ môi trường đồng nghĩa với việc cuộc sống của con người được
nâng cao mà không chịu sự đe dọa từ môi trường. Khi kinh tế tăng trưởng
thì nguồn ngân sách của một quốc gia sẽ dồi dào hơn. Do đó quốc gia đó sẽ
có điều kiện để thực hiện các chính sách, đầu tư cho các công trình, xây
dựng cơ sở hạ tầng nhằm mục đích bảo vệ môi trường. Như vậy, bảo vệ môi
trường giúp tăng trưởng kinh tế một cách bền vững. Tăng trưởng kinh tế
không tránh khỏi sự ảnh hưởng đến môi trường. Nhưng nếu tăng trưởng kinh
tế kết hợp với chính sách về môi trường đúng đắn và phù hợp thì tăng trưởng
kinh tế sẽ tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện việc bảo vệ môi trường.
3. Thực trạng việc kết hợp giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường ở
nước ta hiên nay
Mối liên hệ mật thiết, chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vê môi
trường sinh thái tồn tại đối với bất cứ một nền kinh tế của một quốc gia nào
trên thế giới. Việt Nam chúng ta cũng không phải là một ngoại lệ. Việt Nam
được thiên nhiên ưu đãi với tài nguyên phong phú thuận lợi để phát triển
kinh tế. Cùng với đó đặt môi trường nước ta vào nguy cơ bị suy thoái nếu

không có chính sách bảo vệ đúng đắn. Từ khi thực hiện đường lối đổi mới
cùng chính sách công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, kinh tế Việt Nam
không ngừng tăng trưởng. Đặc biệt trong những năm gần đây, nền kinh tế
nước ta đã có nhiều khởi sắc, đạt nhiều thành tựu to lớn. Năm 1990, quy mô
GDP của nước ta là 131,968 tỉ đồng, tốc độ tăng trưởng là 5,10%, GDP/
người là 105 USD. Năm 1995, quy mô GDP là 195,568 tỉ đồng, tốc độ tăng
trưởng là 9,54 %, GDP/ người là 288 USD. Như vậy trong 5 năm từ 1990
đến 1995, tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng 1,9 lần còn GDP/ người tăng 2,7
lần. Trong các năm từ 2000 đến 2008, tốc độ tăng trưởng kinh tế giữ ở mức
từ 6 đến 8% / năm. Như vậy có thể khẳng định rằng Việt Nam có một nền
kinh tế tăng trưởng khá ổn định. Kinh tế tăng trưởng ở nước ta kéo theo
8


những áp lực lên môi trường sinh thái. Tài nguyên thiên nhiên đang bị khai
thác một cách quá tải dẫn đến cạn kiệt. Theo tin từ Bộ Tài nguyên môi
trường, hiện nay tình trạng khai thác trái phép, gây lãng phí tài nguyên
khoáng sản diễn ra khá phổ biến trên một số lĩnh vực như sắt, titan, crômit,
thiếc… Do đặt nặng mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, không ít doanh nghiệp đã
vi phạm quy trình khai thác, góp phần gây ô nhiễm môi trường. Việc xây
dựng ồ ạt các nhà máy, các khu công nghiệp cũng khiến cho môi trường bị
suy thoái. Tình trạng quy hoạch các khu công nghiệp chưa gắn với vấn đề xử
lý chất thải, nước thải nên ô nhiễm môi trường ở các khu công nghiệp đang
ở mức báo động. Trong tổng số 183 khu công nghiệp trong cả nước, có trên
60% chưa có hệ thống xử lý nước thải tập trung. Các đô thị chỉ có khoảng
60% - 70% chất thải rắn được thu gom, cơ sở hạ tầng thoát nước và xử lý
nước thải, chất thải nên chưa đáp ứng yêu cầu về bảo vệ môi trường... Có
một thực tế là khoảng 80% doanh nghiệp hiện nay còn thờ ơ với nhiệm vụ
bảo vệ môi trường. Việt Nam thiếu những chính sách và quy định bảo vệ
môi trường nghiêm ngặt và do đang thu hút mạnh các nguồn vốn đầu tư để

phát triển nên dễ mắc vào "cạm bẫy": trở thành nơi tiếp nhận nhiều ngành
công nghiệp "bẩn". Kết quả nghiên cứu mới đây của Viện Nghiên cứu Chiến
lược - Chính sách công nghiệp về nhu cầu bảo vệ môi trường tại 18 ngành
và lĩnh vực kinh tế cho thấy: các ngành sản xuất tác động lớn đến môi
trường nước gồm rượu - bia - nước giải khát, thủy sản, giấy, dệt may...; ảnh
hưởng đến môi trường không khí như xây dựng, cơ khí, giao thông, điện và
khai thác khoáng sản...; thải ra nhiều chất thải rắn như y tế, đóng tàu, xi
măng... nếu không được kiểm soát kỹ về công nghệ, vận hành trong quá
trình sản xuất thì sẽ gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Gần đây một số
vụ việc gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng ở các nhà máy, các khu công
nghiệp bị phanh phui là hồi chuông cảnh báo về tình trạng môi trường ở
nước ta. Không chỉ trong công nghiệp, nhiều ngành kinh tế khác cũng đang
tác động tiêu cực tới môi trường. Với tình trạng này, chính chúng ta đang
phải gánh chịu những hậu quả. Theo một nghiên cứu về các chỉ số môi
trường ổn định do Trường Đại học Yale (Hoa Kỳ) thực hiện trong năm
2006, Việt Nam đứng thứ hạng thấp nhất trong số 8 nước Đông Nam Á.
Báo cáo về thay đổi khí hậu của Ngân hàng Thế giới trong năm 2007 cũng
cho thấy Việt Nam là một trong hai quốc gia sẽ chịu ảnh hưởng lớn nhất của
tình trạng băng tan. Nếu nhiệt độ tiếp tục tăng, Việt Nam sẽ mất 17% sản
lượng nông nghiệp. Các chuyên gia dự báo Khu kinh tế Dung Quất tại Việt
Nam có thể thấp hơn mực nước biển. Theo đánh giá sơ bộ, nhu cầu đầu tư
bảo vệ môi trường tại 18 ngành và lĩnh vực này, dự báo đến năm 2020 lên
tới hơn 124.000 tỷ đồng (tương đương với 7,6 tỷ USD). Theo PGS-TS Phan
Đăng Tuất dự báo tổn thất kinh tế do ô nhiễm môi trường thời điểm 2010 sẽ
9


là 0,3% GDP và đến 2020 sẽ là 1,2% GDP. Tuy nhiên, không phải nước ta
không có những biện pháp nào để bảo vệ môi trường. Chỉ có điều những
biện pháp này còn chưa thực sự hiểu quả và đồng bộ.

Muốn môi trường được bảo vệ thì mỗi quốc gia cần đặt ra cho mình
những chiến lược cụ thể: hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ môi
trường, nghiêm khắc trừng trị những hành vi gây ô nhiễm môi trường; tích
cực tham gia kí kết các hiệp ước về bảo vệ môi trường; đẩy mạnh hợp tác
giữa các quốc gia trong vấn đề này; đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao ý thức
ngươì dân và các doanh nghiệp trong việc bảo vệ môi trường…
Tóm lại, phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến trong triết học
Mác- Lênin là vô cùng đúng đắn, phản ánh tinh chất khách quan của các sự
vật, hiện tượng. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến có ý nghĩa to lớn cả về
mặt lí luận và thực tiễn. Vận dung nguyên lí trên chúng ta thấy được mối
liên hệ chặt chẽ, không thể tách rời giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi
trường. Mối liên hệ này phản ánh vai trò to lớn của môi trường sinh thái với
nền kinh tế. Một môi trường trong lành và được bảo vệ giúp cho tăng trưởng
kinh tế bền vững. Ngược lại nếu con người làm ô nhiễm môi trường thì
không chỉ kinh tế mà còn cả cuộc sống của con người cũng sẽ bị ảnh hưởng
nghiêm trọng. Vì thế mà việc bảo vệ môi trường là hết sức quan trọng và cần
thiết. Hi vọng rằng con người sẽ nhận thức rõ rang mối liên hệ này và sớm
có những biên pháp hiệu quả nhất đẻ bảo vệ môi trường, để môi trường mãi
là người bạn thân thiết của con người.

10


Tài liệu tham khảo
- Bộ giáo dục và đào tạo - Giáo trình “ Những nguyên lí cơ bản của chủ
nghĩa Mác-Lênin” – Nhà xuất bản chính trị quốc gia – Hà Nội –
Năm2009.
- Bộ giáo dục và đào tạo – Giáo trình “Triết học Mác-Lênin” – Nhà xuất
bản chính trị quốc gia – Hà Nội – Năm2006.
- />- />- />- />- />

11


12



×