TIỂU LUẬN
PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT – HỌC THUYẾT VỀ
MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN VÀ SỰ PHÁT TRIỂN
LỜI NÓI ĐẦU
Phép biện chứng là một khoa học triết học, là một trong những phương
pháp chung nhất giúp con người nhận thức về sự vật, hiện tượng hay nhận thức về
thế giới xét trên nhiều phương diện thì phép biện chứng là một hiện tượng có ý
nghĩa thế giới quan rộng lớn như bản thân triết học lịch sử phép biện chứng đã
được hình thành và phát triển lâu đời có thể nói từ thời cổ đại khi mà triết học ra
đời, đỉnh cao của nó là phép biện chứng duy vật hay biện chứng Macxít.
Phép biện chứng duy vật Macxít là sự kế thừa những giá trị thức tinh hoa
của nhân loại từ xưa cho đến thời điểm nó ra đời, dựa trên truyền thống tư tưởng
biện chứng của nhiều thế kỷ phép biện chứng Macxít đã vạch ra những đặc trưng
chung nhất của biện chứng khách quan, nghiên cứu những quy luật phổ biến của
sự vận động và phát triển của hệ nhiên, của xã hội loài người và của tư duy công
lao to lớn và vĩ đại của Marx và Ph.Angghen là đã xây dựng cho loài người một
phương pháp nhận thức thế giới khoa học, nó là chìa khóa để giúp con người nhận
thức và chinh phục thế giới. Nắm vững và vận dụng đúng đắn những nguyên lý,
những quy luật cũng như phương pháp luận của phép biện chứng duy vật là nhân
tố cơ bản để hình thành một thế giới quan khoa học.
Việc học tập, nghiên cứu sự hình thành và phát triển của phép biện chứng
trong lịch sử là một nhu cầu hết sức cần thiết. Nó không những cho phép ta nắm
vững nội dung những nguyên lý, những quy luật, những cặp phạm trù phản ánh
quá trình con người nhận thức thế giới, phản ảnh nguồn gốc của sự vận động cách
thức cũng như khuynh hướng của sự phát triển của mọi sự vật, hiện tượng trong
thế giới khách quan của phép biện chứg duy vật mà còn giúp chúng ta thấu suốt
những nguyên tắc, phương pháp luận từ các nguyên lý, các học thuyết đó. Đồng
thời qua đó cũng giúp chúng ta nắm được bức tranh toàn cảnh, hiểu được nguồn
gốc ra đời, sự hình thành và phát triển của quá trình đấu tranh gay gắt với những tư
tưởng của phép siêu hình cũng như phép biện chứng duy tâm để khẳng định vị trí
to lớn của nó trong nhận thức và cải tạo thế giới của con người.
Hiện nay nước ta đang tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới, tiến hành công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước việc nghiên cứu phép biện chứng một cách
tường tận, có hệ thống nhất là nắm vững bản chất của phép biện chứng duy vật
Macxít càng là một nhu cầu bức thiết để đổi mới tư duy. Tiếp thu và vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Marx – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối
của Đảng là biện chứng chủ quan phản ánh biện chứng khách quan của thực tiễn
cách mạng Việt Nam. Nó đang là định hướng tư tưởng và là công cụ tư duy nhạy
bén để đưa cách mạng nước ta tiến lên giành thắng lợi trên con đường công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng XHCN. Điều này đã thôi thúc tôi đến
với đề tài “Phép biện chứng duy vật – học thuyết về mối liên hệ phổ biến và sự
phát triển”
Với sự hiểu biết của một sinh viên không chuyên ngành triết học, còn hạn
chế trong thời gian đầu tư để hoàn thành tiểu luận chắc chắn có sự sai sót. Rất
mong sự đóng góp của quý thầy cô.
CHƯƠNG I: PHÉP BIỆN CHỨNG VÀ NHỮNG HÌNH THỨC LỊCH
SỬ CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG
I. Phép biện chứng là gì?
Phép (phương pháp) là thuật ngữ bắt nguồn từ tiếng HyLạp là methodos là
cách thức mà con người tiến hành làm một việc gì đó để đạt được mục đích của
mình. Tuy nhiên theo nghĩa khoa học thì phương pháp được hiểu là hệ thống
những nguyên tắc, yêu cầu được rút ra từ tri thức về các quy luật khách quan để
điều chỉnh hoạt động nhận thức và thực tiễn nhằm đạt được mục đích nhất định.
Trong triết học, khi giải quyết mặt thứ hai trong mối quan hệ giữa vật chất
và ý thức, trả lời cho câu hỏi con người có khả năng nhận thức được thế giới hay
không thì có 2 ý kiến khác nhau:
+ Phái bất khả tri: cho rằng con người không có khả năng nhận thức được
thế giới bởi lẽ họ cho rằng nhận thức vận động và phát triển cho nên tại một điểm
nhất định thì sự vật A là A nhưng lại không phải là A khi con người nhận thức
được sự vật thì cũng là lúc sự vật đã biến đổi để trở thành các khác nó.
+ Phái khả tri: thì cho rằng con người có khả năng nhận thức được thế giới
khách quan, bởi lẽ con người biết sử dụng những phương pháp cách thức khoa học
để nhận thức phương pháp là phạm trù gắn liền với hoạt động có ý thức của con
người, phản ánh hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Do đó
phương pháp là một trong những yếu tố quyết định thành công hay thất bại trong
hoạt động nhận thức và cải tạo hiện thực. Trên cơ sở những điều kiện khách quan
đã có, phương pháp càng đúng đắn thì kết qủa đạt được càng cao và ngược lại.
Tuy nhiên, chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, quan niệm hoàn toàn
khác nhau về nguồn gốc và bản chất của phương pháp chủ nghĩa duy tâm cho rằng
phương pháp là những nguyên tắc do lý trí con người tự ý đặt ra để tiện cho hoạt
động nhận thức và hành động, họ xem phương pháp như là một phạm trù thuần
túy, chủ quan trái lại với chủ nghĩa duy tâm. Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng
định rằng phương pháp hình thành không phải một cách chủ quan, tuỳ tiện mà nó
phụ thuộc và đối tượng nghiên cứu và mục đích đặt ra để tiếp cận đối tượng và giải
quyết nhiệm vụ đặt ra, chủ thể phải nghiên cứu đối tượng và mục đích cần đạt tới
một cách khách quan. Nghĩa là phải vạch rõ những tính chất, chỉ tiêu về số lượng
và chất lượng….Từ đó nhận thức rõ những quy luật của nó. Chỉ trên cơ sở đó, và
sau đó thì chủ thể mới xác định được phải nghiên cứu và hành động như thế nào,
cần phải sử dụng phương tiện, công cụ, biện pháp gì cho thích hợp.
Trong thực tế có 3 phương pháp sau:
Phương pháp ngành: Là phương pháp nhận thức được dùng cho một ngành
nào đó tuỳ thuộc vào tính chất đặc thù của ngành đó. Chẳng hạn: phương pháp
toán học, phương pháp vật lý học…
Phương pháp chung: Là phương pháp nhận thức được sử dụng chung trong
một số ngành nhất định, chẳng hạn phương pháp phân tích, phương pháp quy
nạo…
Phương pháp chung nhất là phương pháp mà bất cứ ngành nào cũng phải sử
dụng, hoạt động nào cũng phải sử dụng. Đó chính là những phương pháp trong
triết học ở góc độ triết học thì tri thức triết học là tri thức chung nhất đó chính là
phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình (hay còn gọi là phép biện
chứng và phép siêu hình)
Lịch sử phát triển của triết học là sự phát triển của tư duy triết học gắn liền
với cuộc đấu tranh của hai phương pháp tư duy biện chứng và siêu hình. Biện
chứng và siêu hình là hai mặt đối lập trong phương pháp tư duy. Chính cuộc đấu
tranh lâu dài của hai phương pháp này đã góp phần quan trọng thúc đẩy tư duy
triết học phát triển và được hoàn thiện dần với thắng lợi của tư duy biện chứng duy
vật.
Đặc trưng của phương pháp siêu hình là nhìn nhận sự vật hiện tượng, nhận
thức đối tượng, nhận thức đối tượng trong trạng thái hoàn toàn không có sự vận
động, biến đổi và phát triển. Bản thân mỗi sự vật là một hệ cô lập, tách rời và hoàn
toàn không có sự liên hệ gì với các sự vật, hiện tượng khác trong thế giới khách
quan chính vì vậy trong tác phẩm “Chống Đuyring” Ph.Angghen đã chỉ ra hạn chế
của phương pháp siêu hình “chỉ thấy những sự vật cá biệt mà không thấy mối liên
hệ giữa các sự vật đó, chỉ thấy sự tồn tại của các sự vật mà không thấy sự ra đời và
biến đi của sự vật, chỉ thấy trạng thái tĩnh của sự vật mà không thấy trạng thái
động của sự vật, chỉ thấy cây mà không thấy rừng”. Angghen nhận xét tư duy của
nhà siêu hình chỉ dựa trên những phản đề tuyệt đối không thể dung hòa được, họ
nói có là có, không là không. Đối với họ, một sự vật hoặc là tồn tại hoặc là không
tồn tại, một hiện tượng không thể vừa là chính nó lại vừa là cái khác nó.
Tóm lại, quan điểm siêu hình là quan điểm luôn xem xét sự vật trong trạng
thái biệt lập, ngưng đọng, tĩnh tại với tư duy cứng nhắc. Với tư cách đó tư duy siêu
hình chỉ có ý nghĩa trong những giới hạn hết sức chật hẹp, nếu vượt ra ngoài giới
hạn đó, tư duy siêu hình sẽ mắc sai lầm.
Đặc trưng của phương pháp biện chứng là nhận thức đối tượng trong mối
liên hệ, nhận thức đối tượng trong trạng thái vận động và phát triển không ngừng.
Như vậy, đối lập với phươngpháp siêu hình thì phương pháp tư duy biện chứng là
tư duy linh hoạt, mềm dẻo. Nó thừa nhận trong những trường hợp cần thiết, bên
cạnh cái “hoặc là… hoặc là” còn có cái “vừa là… vừa là” nữa.
Chẳng hạn, một vật hữu hình trong một lúc vừa là nó, vừa không phải là nó,
một cái tên đang bay trong mỗi lúc vừa ở vị trí A lại vừa không ở vị trí A; cái
khẳng định và cái phủ định loại trừ nhau lại vừa không thể lìa nhau.
Theo V.I. Lênin, phép biện chứng là “học thuyết về sự phát triển dưới h2nh
thức hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện“. Với tư cách là một học
thuyết hoàn chỉnh và sâu sắc như vậy, học thuyết này (khác với quan niệm siêu
hình về sự phát triển). Xem “sự phát triển… là sự thống nhất giữa các mặt đối lập
(sự phân đôi của cái thống nhất thành những mặt đối lập bài trừ lẫn nhau và mối
quan hệ lẫn nhau giữa các mặt đối lập ấy)” “Theo nghĩa đen, phép biện chứng”
V.I.Lênin đã định nghĩa phép biện chứng là “Học thuyết vạch ra những mặt
đối lập làm thế nào mà có thể và thường là (trở thành) đồng nhất… tại sao lý trí
con người không nên xem những mặt đối lập ấy là chết, cứng đờ, mà là sinh động,
có điều kiện năng động, chuyển hóa lẫn nhau.”
Như vậy, toàn bộ vấn đề của phép biện chứng là vấn đề lý giải về sự phát
triển, về tính chất mâu thuẫn của tự nhiên và tư duy, về sự đấu tranh và đồng nhất
(thống nhất) của các mặt đối lập,về các vấn đề gắn liền với nó (vấn đề sự thống
nhất và mối quan hệ qua lại, về sự phủ định, về tính chất tiệm tiến của sự phát
triển…)
II. CÁC TÌNH THỨC LỊCH SỬ CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG
Trong hoạt động của mình, dù muốn hay không, dù nhận thức được hay
không nhận thức được thì con người cũng buộc phải sử dụng đến phương pháp
siêu hình. Tuy nhiên như đã nói ở trên, do tính chất hạn chế của phương pháp siêu
hình, nếu chỉ sử dụng đơn thuần phương pháp này thì không mang lại hiệu quả tối
ưu trong hoạt động nhận thức, mà muốn phản ánh đúng hiện thực thì phải sử dụng
đến phương pháp biện chứng. Nhưng biện chứng được hiểu là gì. Theo sự phát
triển và hoàn thiện dần của mình thì biện chứng cũng được hiểu theo những cách
thức khác nhau.
Thời cổ đại, biện chứng được hiểu là nghệ thuật tranh cãi. Cứ hai người
tranh cãi với nhau nếu người nào dồn được đối phương vào thế bị thì được gọi là
nhà biện chứng. Biện chứng còn được hiểu theo nghĩa khác là ngụy biện. (Nguỵ là
che đậy, biện là lời nói) tức là dùng ngôn ngữ hoặc lời nói của mình để che đậy
bản chất của sự vật không cho người khác nhận ra.
Ví dụ: Cái lưng màu đen, dùng lời nói phát biểu và chứng minh rằng nó
màu trắng mà đối tượng nghe không thể bác bỏ hay phủ nhận được thì gọi là ngụy
biện hay biện chứng.
Thời cổ đại, ở Phương Tây có nhà ngụy biện giỏi nhất là Dênôn (khoảng
490-430 trước CN) là nhà triết học thuộc trường phái Elê. Ong có rất nhiều cách
ngụy biện mà ông gọi là các “nghịch lý” chẳng hạn như “sự lưỡng phân”, “Asin
và con rùa”, “mũi tên”, “sân vận động”… Ong có thể chứng minh A = 2, chứng
minh vận độnglà đứng im…
Ví dụ, một mũi tên muốn bay từ A đến B thì nó phải đi qua điểm giữa của
A và B là C, muốn đi đến điểm C thì phải đi qua điểm giữa của A và C là D; và
muốn đi đến điểm D thì phải đi qua điểm giữa của A và D là E… Cứ như thế,
Dênôn cho rằng phải đi qua điểm giữa giữa hai điểm là vô hạn, mà vô hạn thì
không vật nào có thể bay qua được, vì nếu đi qua được thì đã là hữu hạn rồi. Do
đó, vật đứng im mãi mãi không chuyển động gì hết.
Tiếp sau đó, biện chứng còn được hiểu là hùng biện, không xuyên tạc tri
thức, không xuyên tạc sự thật mà bằng tri thức thực có, khả năng tự có chinh phục
người khác bằng lời nói diễn đạt của mình.
Như vậy, các nhà triết học Hi Lạp cổ đại hiểu phép biện chứng như là nghệ
thuật tiến hành đàm thoại, tranh luận triết học để sao cho có thể thông qua sự xung
đột giữa các ý kiến trái ngược nhau mà phát hiện ra chân lý hay nói cách khác đó
là nghệ thuật phát hiện và phát minh chân lý. Cùng với quá trình phát triển của
mình, phép biện chứng theo nghĩa này cũng đã trở thành phương pháp nghiên cứu
các vấn đề khoa học trong đó có cả các vấn đề triết học.
* Từ thời Hêghen trở đi, biện chứng được hiểu là phương pháp. Đó là
phương pháp nhận thức sự vật, hiện tượng, nhận thức đối tượng trong trạng thái
vận động và phát triển. Như vậy, nếu hiểu biện chứng là phương pháp như vậy thì
cho đến nay, khi mà biện chứng đã trở thành phương pháp tư duy, khoa học để
nhận thức thế giới trên cơ sở một thế giới quan khoa học thì nó có 3 hình thức sau:
Biện chứng tự phát (thời cổ đại)
Biện chứng duy tâm
Biện chứng duy vật
BIỆN CHỨNG TỰ PHÁT (THỜI CỔ ĐẠI)
Hình thức thứ nhất của phép biện chứng được thể hiện trong triết học thời
cổ đại. Những quan niệm và tư tưởng biện chứng đã chiếm một vị trí đáng kể trong
thế giới quan triết học của người Hylạp cổ đại. Về thực chất, những quan niệm và
tư tưởng biện chứng đó đã xuất hiện cùng với triết học. Phép biện chứng tự phát đã
xuất hiện, ngay từ khi triết học cổ đại ra đời, như Ph. Anghen đã khẳng định:
“Những nhà triết học cổ đại đều là những nhà biện chứng bẩm sinh”
Biểu hiện của phép biện chứng thời cổ đại có thể lấy ngay trong tư tưởng
triết học của các nhà triết học Phương Tây lẫn phương Đông. Tuy nhiên, việc sử
dụng phương pháp biện chứng để giải thích cũng như nhận thức thế giới ở thời kỳ
này chỉ mới mang tính tự phát chứ chua đạt đến trình độ tự giác.
Nhà triết học phương Tây đầu tiên có thể nói đến là Talét (khoảng 624 –547
trước CN). Ong đã đồng nhất thế giới này với một vật thể cụ thể là nước. Ong cho
rằng yếu tố đầu tiên tạo nên thế giới, bản nguyên của thế giới là nước: “Thế giới
này không gì khác nước, vạn vật đều bồng bền trên nước”, những thứ trên thế giới
đều do sự chuyển hóa của nước mà thành, và khi phân hủy lại biến thành nước.
Theo Talet, vật chất (nước) tồn tại vĩnh viễn, còn mọi vật do nó tạo ra thì biến đổi
không ngừng, sinh ra và chết đi. Toàn bộ thế giới là một chỉnh thể thống nhất,
trong đó mọi vật biến đổi không ngừng mà nướccc là nền tảng. Như vậy, quan
niệm triết học của Talet giải thích và nhận thức thế giới tuy mang tính mộc mạc
thô sơ, là kết quả của sự quan sát trực tiếp chưa có sự hiện diện của ý thức và tư
duy nhưng đã chứa đựng những mầm mống của yếu tố biện chứng, tự phát.
Nhà biện chứng tiêu biểu của phương Tây thời này có thể nói đến là
Hêraclit (khoảng 540 –480 trước CN) ông cho rằng bản nguyên của thế giới này là
lửa, nó là cơ sở duy nhất và phổ biến của tất cả mọi sự vật hiện tượng tự nhiên.
Hêraclit cho rằng thế giới này vạn vật là ngọn lửa lung linh lúc bùng cháy, lúc tắt
đi, lửa biến thành vạn vật rồi vạn vật laị quay về với lửa như con người đem vàng
để lấy hàng hóa và ngược lại.
Như vậy, phép biện chứng của Hêraclit tuy chưa được trình bày dưới dạng
một hệ thống các luận điểm khoa học nhưng hầu như các luận điểm cốt lõi của
phép biện chứng đã được ông đề cập đến. Theo Heraclit vật chất là vận động vĩnh
viễn, không có sự vật hiện tượng nào của thế giới đứng im tuyệt đối mà trái lại, tất
cả đều trong trạng thái biến đổi và chuyển hóa thành cái khác, và ngược lại “chúng
ta không thể tắm hai lần trên cùng một dòng sông”, “ngay cả mặt trời cũng mỗi
ngày một mới”.
Các mâu thuẩn trong sự vật hiện tượng là sự tồn tại Phổ biến. Điều đó thể
hiện trong những phỏng đoán của ông về vai trò của các mặt đối lập trong sự
biến đổi phổ biến của tự nhiên, về “sự trao đổi của các mặt đối lập”. Sự vận
động, phát triển không ngừng của thế giới do quy luật khách quan (ông cụ là
Logos) quy định Logos. Khách quan là trật tự khách quan của mọi cái đang
diễn ra trong vũ trụ, còn Logos chủ quan là từ ngữ, lời nói, học thuyết, suy
nghĩ của con ngừơi.
Lý luận nhận thức của Hêraclit mang tính duy vật và biện chứng sơ khai
nhưng về cơ bản là đúng đắn . Marx và Ph.Anghen đã đánh giá một cách đúng đắn
giá trị thuyết học của Hêraclit coi ông là đại biểu xuất sắc của phép biện chứng Hy
Lạp.
Tư tưởng biện chứng thời cổ đại đó còn có thấy ở nhiều triết gia khác như
Đêmôcrit (Khoảng 460-370 trước CN), Xôcrat (Khoảng 469-399 trước CN)…
Đêmôcrit đã xây dựng lý thuyết về vũ trụ học, thuyết này được xây dựng trên cơ
sở lý luận nguyên tử về cấu tạo của vật chất thấm nhuần tinh thần biện chứng tự
phát.
Ở phương Đông, tư tưởng biện chứng thời cổ đại có thể tìm thấy trong
thuyết Ngũ Hành và Thuyết Am Dương của người Trung Quốc. Theo thuyết Ngũ
hành thì có 5 yếu tố hay 5 hành chất đầu tiên của vũ trụ gồm : kim, mộc, thủy, hỏa,
thổ. Tất cả vũ trụ, vạn vật đều do 5 khí ấy mà biến hóa ra. Các yếu tố của Ngũ
hành không tồn tại tĩnh bị động mà chúng là những yếu tố hoạt động (hành), liên
hệ, tương tác, thâm nhập, chuyển hóa lẫn nhau. Các âm dương gia đã chia sự tác
động lẫn nhau của Ngũ hành thành hai quá trình mâu thuẩn, thống nhất nhau là:
tương sinh, tương khắc.
“Ngũ hành tương sinh” là quá trình các yếu tố tác động, chuyển hóa lẫn
nhau tạo ra sự biến chuyển liên hoàn trong vũ trụ, vạn vật. “Ngũ hành tương khắc”
là quá trình các yếu tố trong ngũ hành đối lập, tạo ra sự ràng buộc, chế ước lẫn
nhau giữa chúng. Đối với các vấn đề xã hội, thuyết này cho rằng quá trình lịch sử
loài người cũng bị 5 thế lực này chi phối và tuân theo sự biến đổi của Ngũ hành
Trái với thuyết Ngũ hành chủ yếu đi giải thích vũ trụ thì thuyết
Am dương đi sâu vào lý giải nguồn gốc và sự biến đỗi của vạn
vật trong thế giới. Thuyết này cho rằng, nguồn gốc biến hóa của
mọi sự vật, hiện tượng trong vũ trụ là sự liên hệ, tác động giữa
hai thế lực “âm” ”dương” trong thái cực “Âm” “dương” được
coi là hai thế lực cơ bản trong vũ trụ biểu thị và chi phối vạn vật
trong thế giới, từ tự nhiên đến xã hội; từ nhỏ đến lớn; từ đơn
giản đến phức tạp…
trong thái cực “âm”, “dương” là hai thế lực, hai mặt hòan toàn đồng đẳng
với nhau, vừa đối lập nhau, đun đẩy nhau và chế ước liên hệ, tương tác nhau. Có
mặt “âm” mới có mặt “dương”, trong “âm” có “dương” và ngược lại trong
“dương” có “âm”. Chính sự liên hệ tác động qua lại lẫn nhau giữa hai mặt là “âm”
và “dương” trong một thể thống nhất là thái cực đã tạo nên trời đất, bốn mùa, các
yếu tố cơ bản của vạn vật và làm nảy sinh ra vạn vật trong thế giới khiến cho sự
vật hiện tượng vận động, biến hóa không ngừng.
PHÉP BIỆN CHỨNG DUY TÂM
Đây là hình thức thứ hai của phép biện chứng, được thể hiện trong tư tưởng
triết học của Hêghen (1770-1831) ông là một nhà biện chứng lỗi lạc người Đức,
hạt nhân biện chứng trong triết học của ông sau này đã được Marx và Ph.Anghen
tiếp thu có chọn lọc để xây dựng thành phép biện chứng duy vật. Công lao lịch sử
to lớn của Hêghen là đã nâng phép biện chứng từ tự phát lên trình độ tự giác, từ
tản mạn , rời rạc lên thành hệ thống lý luận chặt chẽ xong lại được đặt trên cơ sở
duy tâm, thần thánh nên không thể trở thành học thuyết khoa học. Chính vì vậy,
Marx đã ví học thuyết của Hêghen như cái thau chứa nước ối của người đàn bà đẻ
mà trong đó có chứa đứa bé
Hêghen đã xây dựng một hệ thống triết học hết sức đồ sộ gồm 3 bộ phận:
Khoa học Logich (hay Logic học): tìm hiểu các quy luật của tư duy
Triết học tự nhiên: tìm hiểu các sự vật, hiện tượng, các quá trình tự
nhiên dưới hình thức duy tâm
Triết học tinh thần: tìm hiểu các hiện tượng tự nhiên, cá lĩnh vực của
đời sống xã hội, trình bày lịch sử của con người và sự tự nhận thức
của con người
Hêghen là người tìm hiểu các quy luật về con người, về tự
nhiên và xã hội nhưng theo trật tự của một nhà duy tâm, cho
rằng việc tìm hiểu các quy luật tư duy là cơ sở để tìm hiểu các
quy luật của tự nhiên và xã hội theo Hêghen, chính tư duy con
người thiết định, quy định nên thế giới tự nhiên chứ không phải
thế giới tự nhiên quy định nên tư duy con người
Hêghen kết hợp tồn tại với tư duy là một và cho ngọn nguồn xuất phát thực
thể đầu tiên của thế giới chính là tư duy, ý thức nhưng là “ý niệm tuyệt đối” hay
tinh thần vũ trụ. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật cho rằng ý niệm là sự phản ảnh
của thế giới vật chất hiện thực vào trong ý thức con người. Nhưng Hêghen đã tách
nó ra khỏi con người, làm cho nó thành đấng tối cao sáng tạo ra tự nhiên và nhân
loại. Ong cho rằng tất cả mọi sự vật hiện tượng trên thế giới và ý thức của cá nhân
của nhân loại đều nằm trong ý niệm tuỵêt đối, là sự thể hiện ý niệm tuyệt đối
Y niệm tuyệt đối là một thực thể tinh thần, tồn tại trước giới tự nhiên. Nó tự
thiết định bản thân nó và phân biệt với bản thân nó. Theo Hêghen, ý niệm tuyệt đối
trong sự vận động biện chứng, đạt tới sự phát triển đầy đủ ngay từ trước khi giới tự
nhiên xuất hiện. Nó đã mang trong lòng sự qui định sau này. Sự phát triển biện
chứng đó của ý niệm tuyệt đối khi đạt tới đầy đủ thì “tha hóa” (theo ông tha hóa có
nghĩa là vận động và phát triển) thành giới tự nhiên, giới tự nhiên lại tha hóa thành
xã hội, rồi xã hội lại tha hóa quay về với ý niệm tuyệt đối nhưng không phải dưới
hình thức ban đầu mà nó ở mức độ cao hơn.
Dựa vào thành tựu của khoa học tự nhiên đương thời, Hêghen thừa nhận
giới tự nhiên nằm trong quá trình vận động và phát triển từ vô cơ – hữu cơ – con
người. Con người có khả năng phản ánh giới tự nhiên và khi con người phản ánh
được đầy đủ giới tự nhiên thì cũng có nghĩa là lúc ý thức con người đã quay trở về
điểm khởi đầu của nó là ý niệm tuyệt đối. Ý thức của mỗi cá nhân được khảo sát
coi như là sự tái diễn tư duy của toàn nhân loại, trải qua các giai đoạn phát triển
tiền thủy, sinh vật đến con người
Như vậy, điểm khởi đầu là “tinh thần” và điểm kết thúc cũng là tinh thần,
chỉ có khác là điểm khởi đầu là “tinh thần thế giới” hay “ý niệm tuyệt đối” còn
điểm kết thúc là “tinh thần thế giới” tồn tại ở mỗi cá nhân con người có thể nói, lần
đầu tiên trong lịch sử nhân loại Hêghen đã trình bày một cách có hệ thống khoa
học những nội dung cơ bản của phép biện chứng.
Trong logic học của mình, Hêghen không chỉ trình bày các phạm trù như:
lượng – chất, phủ định, mâu thuẩn… mà còn nói đến cả các quy luật như “lượng
đổi dẫn đến chất đổi và ngược lại”, “phủ định của phủ định”. Tuy nhiên, cần lưu ý
là phép biện chứng của Hêghen là biện chứng duy tâm, vì nó đề cập đến quy luật
vận động và phát triển của tư duy, của khái niệm theo ông những khái niệm (hay
tư duy) này không khác nhau mà còn làm trung giới cho nhau, tức là có liên hệ với
nhau và mỗi khái niệm đều phải trải qua một quá trình phát triển được thực hiện
trên cơ sở của 3 nguyên tắc:
Chất và lượng quy định lẫn nhau, những chuyển hóa về lượng sẽ dẫn
đến những biến đổi về chất và ngược lại (thuyết về tồn tại).
Sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập với tư cách là nguồn
gốc và động lực của sự phát triển (thuyết về bản chất) khi nghiên cứu nguyên tắc
này, Hêghen đã đưa ra và giải quyết một cách biện chứng mối liên hệ chuyển hóa
giữa bản chất và hiện tượng, nguyên nhân và kết quả.
Phủ định của phủ định với tính cách là sự phát triển diễn ra theo chiều
xoáy ốc (học thuyết về khái niệm). Trong khi lý giải nguyên tắc này, Hêghen đã
giải quyết một cách biện chứng mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, giữa logic
và lịch sử.
PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
Đây là hình thức thứ ba của phép biện chứng. Có thể nói phép biện chứng
duy vật là phương pháp nghiên cứu thế giới hay nhận thức đối tượng một cách
khoa học. Phép biện chứng duy vật do Marx và Ph.Anghen sáng lập trên cơ sở kế
thừa những tri thức tinh hoa nhất của nhân loại đến thời điểm đó và đặc biệt là kế
thừa trực tiếp phép biện chứng trong tư tưởng triết học cuả Hêghen . Marx và
Ph.Anghen đã cố gắng gạt bỏ các duy tâm ra khỏi tư tưởng, triết học của Hêghen
chọn lọc tính biện chứng trong đó để xây dựng nên một phương pháp khoa học
trên cơ sở một thế giới quan khoa học. Bằng sự kế thừa có chọn lọc và phát huy
sáng tạo phép biện chứng duy tâm của Hêghen, hai ông đã xây dựng nên phép biện
chứng duy vật. Phép biện chứng Marx mà có thể nói cho đến nay, kể từ Marx và
Ph.Anghen phôi thai, phép biện chứng duy vật luôn thể hiện tính khoa học, tiên
phong của nó.
CHƯƠNG II. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG HỌC
THUYẾT VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN VÀ PHÁT TRIỂN
Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa lý luận và phương
pháp. Hệ thống các quy luật, phạm trù của nó không chỉ phản ánh đúng đắn thế
giới khách quan mà còn chỉ ra những cách thức để định hướng cho con người
trong nhân thức thế giới và cải tạo thế giới.
Phép biện chứng duy vật không chỉ khái quát những thành tựu của tất cả các
khoa học cụ thể, mà còn kết tinh những tinh hoa trong quá trình phát triển tư tưởng
triết học của nhân loại. Phép biện chứng duy vật trình bày một cách có hệ thống,
chặt chẽ tính chất biện chứng của thế giới thông qua những phạm trù và những quy
luật chung nhất của thế giới (tự nhiên, xã hội và tư duy). Nội dung của phép biện
chứng duy vật rất phong phú và đa dạng nhưng tóm lại được khái quát qua hai
nguyên lý: Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự vận động và phát
triển. Hai nguyên lý này được cụ thể hóa qua các quy luật. Các quy luật này được
chia thành các quy luật cơ bản và các quy luật không cơ bản(hay các cặp phạm trù
cơ bản). Các quy luật cơ bản chỉ về nguồn gốc của sự phát triển (quy luật mâu
thuẩn); chỉ ra cách thức sự phát triển(quy luật lượng đổi dần đến chất đổi) và chỉ ra
khuynh hướng của sự phát triển (quy luật phủ định của phủ định). Các quy luật này
cụ thể hóa đặc trưng thứ hai của phép biện chứng đó là sự vận động và phát triển
của sự vật. Các quy luật không cơ bản (hay các cặp phạm trù cơ bản) chúng đề cập
đến tính đa dạng của các mối liên hệ, là sự cụ thể hóa nguyên lý về mối quan hệ
phổ biến, cụ thể hóa về sự liên hệ trong biện chứng chúng bao gồm:
Cái chung và cái riêng
Nguyên nhân và kết quả
Tất nhiên và ngẫu nhiên
Nội dung và hình thức
Bản chất và hiện tượng
Khả năng và hiện thực.
Trong khi vạch ra những tính chất biện chứng chung nhất của thế giới,
thông qua những phạm trù, những quy luật chung nhất của sự vận động và phát
triển của cả tự nhiên, xã hội và tư duy, phép biện chứng rút ra những quan điểm,
nguyên tắc xuất phát để chỉ đạo việc hoạch định phương pháp cho mọi hoạt động
của con người . Đi sâu vào từng nguyên lý, phạm trù và quy luật của phép biện
chứng duy vật, chúng ta càng thấy rõ sự thống nhất chặt chẽ giữa lý luận và
phương pháp của phép biện chứng duy vật.
I. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của các sự vật và hiện tượng
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật khái quát
bức tranh toàn cảnh chằng chịt những mối liên hệ của thế giới (tự nhiên, xã hội và
tư duy). Tính chất vô hạn của thế giới cũng như tính chất có hạn của mỗi sự vật,
hiện tượng quá trình chỉ có thể giải thích được trong mối liên hệ phổ biến và được
quyết định bởi rất nhiều mối liên hệ có vai trò và vị trí khác nhau. Sự liên hệ phổ
biến là đặc trưng phổ quát nhất của thế giới.
Phương pháp siêu hình coi như các sự vật và hiện tượng trong thế giới là
những cái tồn tại và tách rời nhau, giữa chúng không có mối liên hệ, ràng buộc quy
định và chuyển hoá lẫn nhau, nếu có chỉ là những mối liên hệ ngẫu nhiên, rời rạc
hời hợt bên ngoài. Chẳng hạn theo họ thì giới tự nhiên vô cơ không có quan hệ
với giới tự nhiên hữu cơ, xã hội loài người chỉ là tổng số đơn giản các cá thể riêng
lẻ, nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính của con người tách rời nhau.
Phương pháp siêu hình trước hết phổ biến rộng rãi trong khoa học tự nhiên
và sau đó là trong triết học suốt các thế kỷ XVII – XVIII, khi mà khoa học tự
nhiên còn bị hạn chế ở phương pháp sưu tầm tài liệu nghiên cứu tách rời từng bộ
phận riêng rẽ. Chính quan niệm này đã dẫn tới những sai lầm về thế giới quan triết
học, dựng lên ranh giới giả tạo giữa các sự vật và hiện tượng . Vì vậy phương pháp
siêu hình không có khả năng phát hiện ra cái chung, cái bản chất quy luật của sự
vận động và phát triển của các sự vật và hiện tượng trong thế giới.
Trên cơ sở kế thừa các giá trị tư tưởng về biện chứng trong kho tàng lý luận
của nhân loại đồng thời khái quát những giá trị mới nhất của khoa học tự nhiên thế
kỷ XIX, phép biện chứng duy vật đã phát hiện ra nguyên lý về mối liên hệ phổ
biến của các sự vật và hiện tượng trong thế giới, coi đây là đặc trưng cơ bản của
phép biện chứng duy vật.
Khái niệm liên hệ phổ biến nói lên rằng các sự vật và hiện tượng muôn hình
muôn vẻ trong thế giới không có cái nào tồn tại một cách cô lập, biệt lập với các sự
vật khác mà chúng là một thể thống nhất, trong đó các sự vật khác mà chúng là
một thể thống nhất, trong đó các sự vật và hiện tượng tồn tại bằng cách tác động
nhau, ràng buộc nhau, quy định và chuyển hóa lẫn nhau góp phần quy định sự tồn
tại và phát triển của nhau, tự bản thân mỗi sự vật, hiện tượng không thể tự quyết
định sự tồn tại và phát triển của chính nó. Điều đó là dễ hiểu vì vật chất biểu hiện
sự tồn tại của mình bằng vận động, mà vận động thì có nghĩa là liên hệ Ph.Anghen
viết:”Tất cả thế giới mà chúng ta nghiên cứu được là một hệ thống, một tập hợp
gồm các vật thể khắng khít với nhau…”
Mối liên hệ này chẳng những diễn ra ở mọi sự vật và hiện tượng trong tự
nhiên, trong xã hội, trong tư duy mà còn diễn ra đối với các mặt, các yếu tố, các
quá trình của mỗi sự vật và hiện tượng. Ví dụ: Trong giới tự nhiên, giữa động vật
và thực vật, giữa cơ thể sống và môi trường có quan hệ với nhau; trong đời sống xã
hội, giữa các cá nhân, các tập đoàn người, giữa cá quốc gia có quan hệ với nhau…
Mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng có tính khách quan, là các
vốn có của các sự vật và hiện tượng, nó bắt nguồn từ tính thống nhất
vật chất của cả thế giới biểu hiện trong các quá trình tự nhiên, xã hội
và tư duy. Mối liên hệ giữa các sự vật và hiện tượng này khách quan
vì nó không phụ thuộc vào ý thức con người, tồn tại ngoài ý thức con
người.
Mối liên hệ giữa các sự vật và hiện tượng còn có tính đa dạng(riêng
biệt) sự vật khác nhau, ở những không gian và thời gian khác nhau
thì sẽ có những mối liên hệ khác nhau. Ngay chính bản thân mỗi sự
vật ở những nơi khác nhau sẽ có mối liên hệ khác nhau, vào những
thời điểm khác nhau sẽ có mối liên hệ khác nhau.
Như vậy, theo quan điểm của khoa học hiện đại thì mỗi sự vật đều được xem
là một hệ thống nghĩa là bao hàm trong sự vật ấy nhiều bộ phận, nhiều yếu tố,
nhiều mặt, phần tử hợp thành và giữa chúng có mối liên hệ với nhau tạo thành
một chỉnh thể thống nhất. Chính những mối liên hệ mới tạo nên chất lượng của hệ
thống (cách liên hệ khác nhau sẽ tạo nên những sự vật khác nhau, cho nên mối liên
hệ khác nhau sẽ tạo nên những chất lượng khác nhau và do đó tạo nên các sự vật
khác nhau). Nhận thức sự vật là nhận thức các thuộc tính của nó, nhưng các thuộc
tính của các sự vật chỉ biểu hiện thông qua những mối quan hệ của nó với các sự
vật khác, do đó nhận thức sự vật chính là nhận thức các mối liên hệ của sự vật.
Sự vật có vô số những mối liên hệ và do đó có vô số các thuộc tính (vì có
mối liên hệ bên trong, liên hệ bên ngoài, mối liên hệ không gian, thời gian…) và
những mối liên hệ này có vai trò, vị trí khác nhau. Các khoa học cụ thể nghiên cứu
những mối liên hệ trong những phạm vi nhất định (chẳng hạn vật lý học, hóa học
nghiên cứu mối liên hệ của quá trình phân giải các chất hữu cơ, vô cơ…) còn phép
biện chứng chỉ nghiên cứu những mối liên hệ phổ biến, nghĩa là những mối liên hệ
có trong tất cả các sự vật. Những mối liên hệ phổ biến nhất này được thể hiện
trong những phạm trù của phép biện chứng.
Từ nguyên lý về sự liên hệ phổ biến, ta rút ra được phương pháp luận là:
Phải quán triệt phương pháp toàn diện là nguyên tắc phương pháp luận chung nhất
chỉ đạo mọi hoạt động và suy nghĩ của con người. Nội dung chính của nguyên tắc
này là:
+Khi xem xét các sự vật hiện tượng cần phải tính đến tất cả các mặt
của mối liên hệ kể cả những mắc, những khâu trung gian trong điều kiện không
gian, thời gian nhất định.
+Trong vô vàn các mối liên hệ phải xác định đâu là mối liên hệ cơ
bản, chủ yếu.
+Chống lại cách xem xét cào bằng, dân trải chống lại cách xem xét
siêu hình phiến diện, đồng thời chống lại thuật phiến diện (quy cái thứ yếu thành
cái chủ yếu, cái không cơ bản thành cái cơ bản), đặt sự vật hiện tượng trong điều
kiện không gian, thời gian nhất định.
II. Nguyên lý về sự vận động và phát triển:
Trong phép biện chứng duy vật, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến gắn liền
với nguyên lý về sự phát triển. Hai nguyên lý này thống nhất hữu cơ với nhau, bởi
vì liên hệ cũng có nghĩa là vận động, không có vận động sẽ không có sự phát triển
nào.
Mọi sự vật ở trạng thái động nằm trong khuynh hướng chung là sự phát
triển, nguồn gốc của sự phát triển là sự đấu tranh giữa các mặt đối lập để giải quyết
mâu thuẩn nội tại của sự vật. Cách thức của sự phát triển là lượng của sự vật biến
đổi dẫn đến chất của sự vật biến đổi và ngược lại. Khuynh hướng của sự phát triển
là theo đường tròn xoáy ốc đi lên là quá trình phủ định của phủ định.
Cần phân biệt khái niệm vận động và khái niệm phát triển. Mọi sự vật đều
có quá trình hình thành tồn tại và biến đổi từ trạng thái này sang trạng thái khác.
Sự biến đổi, chuyển hóa này là vô cùng, vô tận với những tính chất và khuynh
hướng khác nhau. Có những biến đổi làm cho sự vật mới ra đời nhưng cũng có sự
biến đổi dẫn đến sự tan rã, tiêu vong của các vật thể, vật chất, hoặc caí lạc hậu thay
thế cái tiến bộ …đây chính là khái niệm vận động nói chung.
Tuy nhiên khái niệm phát triển không bao quát mọi sự vận động nói chung.
Nó chí khái quát xu hướng chung của vận động, xu hướng vận độnglà đi lên, cái
mới ra đời thay thế cho cái cũ. Sự vận động đi lên có thể diễn ra theo các chiều
hướng từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn
thiện… tùy theo các lĩnh vựa khác nhau của thế giới vật chất và sự phát triển thể
hiện khác nhau.
Trong giới vô cơ, sự phát triển biểu hiện dưới hình thức biến đổi của các
yếu tố và hệ thống vật chất, sự tác động lẫn nhau giữa chúng trong những điều
kiện nhất định làm xuất hiện các hợp chất phức tạp. Chẳng hạn sự tác động lẫn
nhau giữa các nguyên tử, phân tử dẫn đến sự hình thành các hợp chất hóa học.
Trong sinh vật, sự phát triển của chúng thể hiện ở khả năng thích nghi trước sự
biến đổi phức tạp của môi trường, ở sự hoàn thiện. Không ngừng quá trình trao đổi
chất, ở sự tái sinh ra chính mình đã dẫn đến sự xuất hiện ngày càng phong phú các
giống loài mới. Trong xã hội, sự phát triển thể hiện ở sự thay thế nhau ngày càng
cao hơn của các phương thức sản xuất…
Như vậy, sự phát triển và đổi mới là hiện tượng diễn ra không ngừng trong
tự nhiên, trong xã hội và cả trong tư duy mà nguồn gốc của nó là sự đấu tranh giữa
các mặt đối lập trong bản thân sự vật và hiện tượng. Song không nên hiểu sự phát
triển này lúc nào cũng diễn ra một cách đơn giản. Xét trong trường hợp cá biệt, có
những vận động đi lên tuần hoàn, thậm chí đi xuống nhưng xét cả quá trình trong
phạm vi rộng lớn thì vận động đi lên là khuynh hướng thống trị. Vì vậy, phép biện
chứng khẳng định rằng phát triển là khuynh hướng chung của sự vận động và phát
triển của sự vật hiện tượng.
Đối với phép biện chứng, quan điểm siêu hình phủ nhận sự phát triển, họ
tuyệt đối hóa sự ổn định của sự vật hiện tượng. Nếu có phát triển thì theo họ đơn
thuần đó chỉ là sự tăng lên hay giảm đi về mặt lượng, là sự tuần hoàn, lặp đi lặp lại
chứ không có sự thay đổi về chất, không có sự ra đời của cái mới và nguồn gốc
của chúng nằm ở bên ngoài sự vật hiện tượng.
Như vậy, quan điểm biện chứng khác với quan điểm siêu hình ở chỗ: Nó
xem xét quá trình phát triển như là một quá trình tiến lên thông qua những bước
nhãy vọt, cái cũ mất đi, cái mới ra đời. Nó vạch ra nguồn gốc bên trong của sự vận
động và phát triển, đó là cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập bên trong của sự vật
và hiện tượng.
Từ nội dung của nguyên lý này, ta rút ra phương pháp luận là đòi hỏi con
người khi nghiên cứu một sự vật hiện tượng nào đó phải có quan điểm phát triển,
muốn nhận thức cái gì phải đặt nó trong trạng thái động, nằm trong khuynh hướng
chung là sự phát triển. Phải tìm ra được nguồn gốc, cách thức, khuynh hướng cụ
thể của sự phát triển.
Nguyên lý của sự phát triển của phép biện chứng duy vật phản ánh đặc
trưng biện chứng phổ quát của thế giới. Mọi sự vật hiện tượng luôn vận động, biến
đổi không ngừng và về phương diện bản chất của mọi sự vận động, biến đổi của
thế giới có xu hướng phát triển.
Lý luận về các cặp phạm trù và quy luật của phép biện chứng duy vật như là
sự cụ thể hóa thêm nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển. Ở đây cần
phân biệt nguyên lý với các cặp phạm trù cơ bản và quy luật của phép biện chứng
duy vật. Nguyên lý của phép biện chứng là quan niệm bao quát những tính chất
chung nhất của thế giới. Còn các cặp phạm trù và quy luật là lý luận nghiên cứu
các mối liên hệ và khuynh hướng phát triển trong thế giới của các sự vật hiện
tượng và quá trình cụ thể. Chính vì thế, các cặp phạm trù và các quy luật của phép
biện chứng duy vật. Nguyên lý của phép biện chứng là quan niệm bao quát những
tính chất chung nhất của thế giới còn các cặp phạm trù và quy luật là lý luận
nghiên cứu các mối liên hệ và khuynh hướng phát triển trong thế giới của các sự
vật, hiện tượng và quá trình cụ thể. Chính vì thế, các cặp phạm trù và các quy luật
của phép biện chứng duy vật cho ta phương pháp luận thực hiện quan điểm toàn
diện và quan điểm phát triển gắn liền với quan điểm lịch sử cụ thể trong việc nhận
thức và hoạt động thực tiễn.
Ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật có ý nghĩa phương pháp
luận chỉ đạo mọi hoạt động của con người để thực hiện quan điểm toàn diện, quan
điểm phát triển và quan điểm lịch sử cụ thể về phương tiện vạch ra nguồn gốc
động lực, cách thức và xu hướng phát triển tiến lên của các sự vật hiện tượng trên
thế giới.
* Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập (gọi tắt là quy
luật mâu thuẫn) là hạt nhân của phép biện chứng. Quy luật này vạch ra nguồn gốc,
động lực của sự phát triển, phản ánh quá trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn bên
trong sự vật.
Mỗi sự vật là một chỉnh thể bao gồm những mặt, những yếu tố khác
nhau, liên kết với nhau tạo thành. Trong đó có những mặt, những yếu tố, những
khuynh hướng ngược chiều nhau gọi là những mặt đối lập cứ hai mặt đối lập thì
tạo nên một mâu thuẫn những mặt đối lập này vừa thống nhất với nhau đến một
mức độ nhất định và trong những điều kiện nhất định thì mâu thuẫn được giải
quyết, khi đó sự vật chuyển hoá, là cho sự vật mới ra đời sẽ có những mặt đối lập
mới những mâu thuẫn mới… Qúa trình thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối
lập vừa được hình thành đến một lúc nào đó thì mâu thuẫn lại được giải quyết, sự
vật lại được chuyển hoá… Như vậy, đấu tranh giữa các mặt đối lập để giải quyết
mâu thuẫn nội tại của sự vật là nguồn gốc của sự phát triển.
* Quy luật về lượng của sự vật thay đổi dẫn đến chất của sự vật thay
đổi (hay còn gọi là quy luật lượng chất) Quy luật này chỉ ra cách thức của sự phát
triển. Mỗi một sự vật là một thể thống nhất giữa chất và lượng. Trong đó chất của
sự vật tương đối ổn định còn lượng của sự vật thường xuyên biến đổi hơn lượng
của sự vật biến đổi. Đến một mức độ nhất định và trong những điều kiện nhất định
thì chất sẽ thay đổi theo, khi đó sự vật được chuyển hoá, sự vật mới ra đời và sẽ có
chất mới. Lượng mới. Lượng lại thường xuyên biến đổi để đến một lúc nào đó chất
lại thay đổi theo, sự biến đổi về lượng này khác hẳng sự biến đổi của lượng cũ cả
về tốc độ quy mô, khunh hướng… điều này do chất quy định. Như vậy, cách thức
của sự phát triển là lượng của sự vật biến đổi dần đến chất của sự vật biến đổi và
ngược lại. Đó chính là cơ sở phương pháp luận chung cho mọi cơ chế phát triển
với 3 yêu cầu.
- Thường xuyên và tăng cường tích luỹ về lượng để tạo điều kiện cho
sự thay đổi về chất. Chống chủ nghĩa chủ quan duy ý chí muốn đốt cháy giai đoạn.
- Khi lượng được tích luỹ đến giới hạn độ, phải mạnh dạn thực hiện
bước nhảy vọt cách mạng. Chống thái độ bảo thủ trì trệ.
- Vận dụng linh hoạt các hình thức nhảy vọt để đẩy nhanh quá trình
phát triển.
- Cần phải xác định biện pháp cụ thể để thay đổi chất của sự vật hiện
tượng có thể dùng các biện pháp sau:
- Thay đổi các yếu tố cấu thành nên sự vật (tăng hoặc giảm về số
lượng các yếu tố cấu thành…)
+ Giữ nguyên số lượng các yếu tố và phải thay đổi chất lượng của các
yếu tố.
+ Cần phải thay đổi cấu trúc của sự vật hiện tượng (cách thức liên hệ
giữa các yếu tố cấu thành).
+ Thay đổi các yếu tố cấu thành nên sự vật (tặng hoặc giảm về số
lượng các yếu tố cấu thành…)
+ Giữ nguyên số lượng các yếu tố và phải thay đổi chất lượng của các
yếu tố.
+ Cần phải thay đổi cấu trúc của sự vật hiện tượng (cách thức liên hệ
giữa các yếu tố cấu thành).
+ Thay đổi mối quan hệ giữa sự vật đó với các sự vật khác, nhất là
thay đổi cơ chế của mối quan hệ.
+ Thay đổi chức năng của các yếu tố, của toàn bộ sự vật với tư cách là
một hệ thống.
+ Thay đổi môi trường tồn tại của sự vật hiện tượng kể cả môi trường
tự nhiên và môi trường xã hội.
Và cũng cần phải xác định trong đời sống xã hội chất lượng tự nhiên
và chất lượng xã hội của sự vật khi nào cần nhấn mạnh cái này hay cái kia tuỳ vào
từng điều kiện cụ thể.
* Quy luật phủ định của phủ định: Quy luật này chỉ ra khuynh hướng
của sự phát triển. Quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng không phải diễn ra
theo đường thẳng mà là một đường quanh co được biểu diễn bằng đường xoáy ốc
đi lên. Đây là quá trình phủ định của phủ định, trong đó cái mới ra đời thay thế cái
cũ và cứ thế hết một chu kỳ sự vật lặp lại dường như cái cũ và cứ thế hết một chu
kỳ sự vật lặp lại dương như cái ban đầu nhưng ở mức độ cao hơn. Đó chính là cơ
sở phương pháp phủ định biện chứng, chỉ đạo mọi phương pháp luận của phương
pháp phủ định biện chứng. Chỉ đạo mọi phương pháp suy nghĩ và hoạt động của
con người. Phủ định biện chứng đòi hỏi phải có tính kế thừa nhưng kế thừa phải có
tính chọn lọc, cải tạo, phê phán, chồng kế thừa nguyên si, máy móc và phủ định
sạch trơn, chủ nghĩa hư vô đối với quá khứ.
Tóm lại, có thể nói phép biện chứng duy vật là phương pháp xem xét đối
tượng về nhận thức thế giới một cách khoa học với một hệ thống những nguyên lý,
những quy luật, những cặp phạm trù đã phản ánh một cách cụ thể và khoa học nhật
sự tồn tại cũng như quá trình vận động và phát triển của thế giới nói chung từ giới
tự nhiên, xã hội và tư duy con người, chỉ rõ những nguồn gốc, cách thức và
khuynh hướng phát triển của mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan. Từ
đó giúp con người rút ra được những phương pháp luận quan trọng chỉ đạo mọi
hoạt động nhận thức cũng như thực tiễn của con người. Như V.I.Lênin nói: “Phép
biện chứng duy vật là học thuyết về mối liên hệ phổ biến và phát triển”.
III. Sự vận dụng cụ thể phép biện chứng duy vật trong công cuộc đổi
mới ở Việt Nam hiện nay.
Quá trình đổi mới trước hết phải đảm bảo quan điểm toàn diện trên 4 lĩnh
vực cơ bản: Kinh tế, đời sống xã hội; chính trị và tinh thần. Trong đó lấy kinh tế
làm trọng tâm. Trọng điểm. Quan điểm toàn diền đồng thời phải đi sâu vào từng
lĩnh vực một, từng cơ chế một, đổi mới trọng tâm của từng lĩnh vực. Trong lĩnh
vực chính trị, tập trung đổi mới hệ thống chính trị qua 3 yếu tố cơ bản: Đảng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận tổ quốc tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và
Nhà nước trong lĩnh vực tinh thần tập trung đỗi mới về văn hoá vì văn hoá là nền
tảng tinh thần của đời sống xạ hội, văn hoá vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự
phát triển xã hội. Kế đó là đổi mới về giáo dục vì giáo dục liên quan đến toàn bộ
đời sống xã hội, liên quan đến từng cá nhân trong xã hội chính vì thế giáo dục
được xem là quốc sách hàng đầu do đó phải đổi mới cả về nội dung, phương
hướng mục tiêu… đổi mới cả về hình thức đào tạo của các trường đặc biệt là các
trường dân lập.
Quan điểm phát triển: Trong quá trình đổi mới phải chấp nhận những bước
lùi từ những bước lùi ấy làm cơ sở cho sự phát triển
Quan đimể lịch sử cụ thể: phải tính đến từng điều kiện lịch sử cụ thể của
mỗi dân tộc, mỗi quốc gia, mỗi địa phương cụ thể.
Quy luật mâu thuẫn: phải xác định được các mâu thuẩn trong xã hội, về bản
chất là mâu thuẫn giữa các thực thể xã hội mang lợi ích trái ngược nhau. Trong khi
xây dựng mâu thuẩn xã hội cần xác định mâu thuẫn cơ bản. Đó là mâu thuẫn giữa
cái cũ và cái mới đan xen với nhau. Cái cũ mất đi nhưng chưa mất hẵn và cái mới
ra đời nhưng chưa hoàn chỉnh. Cái mất đi và cái nảy sinh cũng là quá trình biện
chứng mất đi có thể có sự phát triển ở một khía cạnh nào đó còn cái nảy sinh đồng
thời cũng có khía cạnh thụt lùi.
Đất nước ta đang thực hiện hai mục tiêu chiến lược xây dựng và bảo vệ tổ
quốc, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội theo quy luật lượng chất: tích luỹ về
vốn, nguồn nhân lực, tích luỹ về trình độ nhận thức. Đảng đã đưa ra chiến lược
“tiết kiệm là quốc sách hàng đầu”, phải nắm bắt thời cơ thực hiện bước nhảy kịp
thời đồng thời đi tắt đón đầu một cách cải thiện.
Quy luật phủ định của phủ định: loại bỏ cái lợi thời lạc hậu, tiếp thu cái tiến
bộ. Về kinh tế: gạt bỏ tính chất tự phát của nền kinh tế thị trường (về mục đích)
nhưng vẫn giữ lại cơ chế thị trường (về bản chất) theo định hướng xã hội chủ nghĩa
dựa trên sự tôn trọng quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường với mục đích
là nền dân chủ xã hội chũ nghĩa. Trong khi đổi mới về kinh tế gạt bỏ tính trì trệ của
nền sản xuất bao cấp, không phát huy tính tích cực, sáng tạo của người lao động
nhưng vẫn giữ lại tinh thần tương thân tương trợ, giữ lại kế hoạch vĩ mô dựa trên
cơ sở thị trường bằng những hoạt động thực chất của người lao động dựa trên nhu
cầu thực chất của xã hội.
KẾT LUẬN
Phép biện chứng đã xuất hiện lâu đời cùng với lịch sử phát triển của triết
học. Có thể nói từ khi xã hội loài người xuất hiện và con người thể hiện khát vọng
nhận thức và chinh phục thế giới thì cũng là lúc mà phép biện chứng bắt đầu phối
thai ra đời.
Trong quá trình hình thành tồn tại và phát triển của mình, cùng với sự hoàn
thiện dần của con người về năng lực nhận thức và từ sự duy trì phép biện chứng
cũng ngày càng được hoàn thiện hơn so với phép biện chứng tự phát vào thời cổ
đại thì đến nay phép biện chứng đã được xây dựng trên một thế giới quan khoa
học. Đó chính là phép biện chứng duy vật Mácxit thành quả to lớn và vĩ đại của
Marx và Anghen.
Phép biện chứng duy vật macxit có một nội dung cực kỳ phong phú và đa
dạng, nó bao gồm hệ thống những nguyên lý, những quy luật và những cặp phạm
trù chi phối quá trình hình thành tồn tại và phát triển của mọi sự vật hiện tượng
trong thế giới khách quan, từ các quy luật tự nhiên, đến các quy luật xã hội và cả
hoạt động tư duy của con người.
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến chỉ ra rằng tất cả mọi sự vật trong thế
giới khách quan đều có mối liên hệ, tác động qua lại, ràng buộc và qui định nhau,
quyết định sự tồn tại và phát triển của nhau. Nguyên lý về sự vận động và phát
triển chỉ ra rằng vận động và phát triển là bản chất của mọi sự vật mọi hiện tượng
trong thế giới khách quan Nguyên lý đó đã chỉ ra nguồn gốc của sự phát triển là
quá trình đấu tranh và giải quyết các mâu thuẩn nội tại trong bản thân mỗi sự vật;
cách thức của sự phát triễn là từ lượng của sự vật biến đổi dần đến chất cuảe sự vật
biến đổi và khuynh hướng phát triển là phát triển theo đường tròn xoáy ốc từ dưới
đi lên, đó là quá trình phủ định của phủ định.
Tóm lại, phép biện chứng duy vật như Ph.Angghen đã nói là học thuyết về
mối liên hệ phổ biến và sự phát triển sâu sắc nhất, hoàn bị nhất… vì vậy, Đảng và
Nhà nước ta hiện nay đã vận dụng vào công cuộc đổi mới đất nước là một quy luật
tất yếu khách quan của sự phát triển.
MỤC LỤC
Lời giới thiệu
Chướng I: Phép biện chứng và những hình thức lịch sử của phép biện
chứng.
I. Phép biện chứng là gì?
II. Các hình thức lịch sử của phép biện chứng.
Chương II. Phép biện chứng duy vật – học thuyết về mối liên hệ phổ biến
và sự phát triễn.
I. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
II. Nguyên lý về sự vận động và phát triển.
III. Sự vận động dụng cụ thể phép biện chứng duy vật trong công cuộc đổi
mới ở Việt Nam hiện nay.
Mục lục
Tài liệu tham khảo.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Triết học (Dùng cho nghiên cứu Sinh và học viên cao học không thuộc
chuyên ngành triết học) tập 1,2,3. nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội
1999.
2. Triết học Marx.Lênin (Đề cương bài giảng dùng trong trường đại học và
cao đẳng) tập 1,2. Nhà xuất bản giáo dục 1997.
3. Lịch sử phép biện chứng (viện triết học – viện hành lâm khoa học Liên
Xô) tập 1,2,3 và 4.
4. Giáo trình trường Đảng cao cấp Nguyễn Ai Quốc (Triết học Mác –
Lênin, phần chủ nghĩa duy vật biện chứng,). Nhà xuất bản sách giáo khoa
Mac- Lênin, 1981.