Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

khóa luận tốt nghiệp quan điểm của triết học mác lênin về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (371.55 KB, 76 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Chúng ta đang chứng kiến một thế giới thay đổi nhanh chóng đến mức
mà ngay cả những người táo bạo nhất cũng không hề nghĩ tới. Những thay
đổi đó do khoa học và công nghệ đem lại tuy lớn lao nhưng không thể so
sánh với những biến động dữ dội về chính trị - xã hội do sự sụp đổ của hệ
thống các nước XHCN ở Liên Xô và Đông Âu gây nên. Cả sự ra đời và sụp
đổ đó đều liên quan đến một chủ nghĩa, một học thuyết đã chinh phục trái
tim và khối óc hàng tỉ người, đó là học thuyết mang tên chính người đã khai
sinh ra nó, là chủ nghĩa Mác.
Là những nhà biện chứng vĩ đại, Mác, Ăngghen cũng như Lênin không
bao giờ coi tư tưởng của mình, là một hệ thống khép kín, là thứ “nói một lần
cho xong tất cả”. ngược lại các ông bao giờ cũng dành cho những phát biểu
của mình một sự gợi mở rộng rải, dành cho hậu thế phát triển một cách sáng
tạo, năng động. Như Lênin đã nói “chúng ta không thể coi lý luận của Mác
như là một cái gì đó đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng
ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người
XHCN phải phát triển hơn nữa về mọi mặt nếu họ không muốn trở thành lạc
hậu với cuộc sống”.[11.297]
Hơn 150 năm từ khi chủ nghĩa Mác ra đời, lịch sử loài người đã có
nhiều biến đổi lớn lao so với thời Mác. Do vậy cùng với thực tiễn phát triển
của lịch sử, của khoa học cần phải có những tổng kết mới trong tri thức xã
hội, trong khoa học tự nhiên và trong thực tiễn đấu tranh cách mạng để phát
triển chủ nghĩa Mác trong giai đoạn mới.
Trước những biến động ở các nước XHCN, các học giả tư sản đã đỗ tất
cả mọi “tội lỗi“ cho Mác và cho rằng “chủ nghĩa Mác đã chết”, phải thay thế
một chủ nghĩa phi mácxít. Chúng đã tìm mọi cách để bác bỏ xuyên tạc, phủ
nhận nhiều luận điểm của chủ nghĩa Mác, một trong những trọng điểm lý


luận của Mác bị công kích nhiều phía đó là học thuyết Mác về hình thái


kinh tế- xã hội. Trong bối cảnh như vậy, việc nhận thức đúng, bảo vệ, phát
triển và vận dụng một cách sáng tạo học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã
hội đang trở thành một nhiệm vụ chính trị cấp bách cho những nhà mácxít.
Một trong những vấn đề lý luận quan trọng cần được bảo vệ và phát triển là
quy luật về sự phù hợp với quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ lực
lượng sản xuất. Trong di sản lý luận Mác - Lênin, quy luật này có một vị thế
đặc biệt, được coi như là cơ sở của chủ nghĩa duy vật lịch sử, và được đưa
ra để lý giải toàn bộ sự phát triển của lịch sử loài người.
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, nước ta đang chuyển đổi cơ cấu
kinh tế từ tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà
nước theo định hướng XHCN. Việc nhận thức đúng sâu sắc mối quan hệ
giữa các yếu tố của hình thái kinh tế - xã hội, mà nhất là mối quan hệ giữa
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, để có bước đi và cách làm phù hợp
nhằm xây dựng phương thức sản xuất XHCN, là một trong những nhiệm vụ
quan trọng hàng đầu trong tình hình mới của cách mạng Việt Nam.
Vì thế, việc nhận thức đầy đủ quan điểm của triết học Mác - Lênin về
mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là việc
làm rất cần thiết, có ý nghĩa không chỉ về mặt lý luận mà còn cả về mặt thực
tiễn. Đó chính là lý do mà tác giả luận văn chọn nghiên cứu đề tài này.
2. Tình hình nghiên cứu:
Từ trước đến nay, việc nghiên cứu xoay quanh vấn đề này đạt được
những kết quả đa dạng và không kém phần sâu sắc. Dựa trên thế giới quan
triết học Mác, theo quan điểm của Đảng ta đã có rất nhiều những công trình
nghiên cứu thu được nhiều thành công, kết quả đáng kể. Đáng chú ý là các
tác giả và các tài liệu sau:
“Góp vào vấn đề phát triển lực lượng sản xuất của nước ta hiện nay”
Nguyễn Trọng Chuẩn, Tạp chí Triết học, số 2, 1990.

2



“Suy nghĩ về vấn đề lực lượng sản xuất” Lê Lý An, Tạp chí Triết học, số
3, 1989.
“Phát huy yếu tố con người trong lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện
nay”, Tiến sĩ Hồ Anh Dũng Nxb Khoa học xã hội 2002.
“Đổi mới kinh tế - xã hội: thành tựu vấn đề và giải pháp”- Viện khoa
học xã hội Việt Nam; Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1991.
“Những vấn đề lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt
Nam”, Nguyễn Duy Quý, Nxb Chính trị Quốc gia.(...)
Những công trình của các tác giả trên đề cập đến nhiều khía cạnh khác
nhau đã góp phần làm sáng tỏ những vấn đề của triết học Mác-Lênin vào
quá trình xây dựng đất nước theo định hướng XHCN. Kế thừa và phát huy
nội dung những tài liệu đã có, luận văn sẽ đi sâu một số luận điểm của vấn
đề phù hợp với nội dung cũng như kết cấu theo định hướng nghiên cứu đề
tài.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu :
Vấn đề phương thức sản xuất chiếm vị trí quan trọng nhất trong học
thuyết Mác về hình thái kinh tế- xã hội. Nó đã vũ trang cho những nhà
mácxít một thế giới quan về phương pháp luận cách mạng và khoa học. Trên
cơ sở nhận thức đúng vấn đề đó, mục đích chính của luận văn tác giả trình
bày ở đây là: sự vận dụng linh hoạt, sáng tạo của Đảng ta về quan niệm của
triết học Mác - Lênin về phương thức sản xuất trong công cuộc đổi mới đất
nước. Từ mục đích nêu trên đặt ra cho đề tài 3 nhiệm vụ:
Một là, luận văn sẽ làm rõ giá trị khoa học của lý luận hình thái kinh tế xã hội Mác - Lênin. Đây là phương pháp tiếp cận lịch sử xã hội ở đỉnh cao
của khoa học, và cho đến nay nó vẫn là ngọn đèn soi sáng đường đi của
nhân loại và chưa thể có một học thuyết nào vượt qua và thay thế nó.
Hai là, với giá trị của học thuyết Mác, chúng ta sẽ nghiên cứu được xã hội
vận động từ phương thức sản xuất này sang phương thức sản xuất khác, mà
nguyên nhân sâu xa là bắt nguồn từ sự phát triển của lực lượng sản xuất và
3



quan hệ sản xuất, mối quan hệ biện chứng giữa chúng. Chính thế luận văn đã
làm rõ khái niệm phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất
và mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Ba là, từ sự phân tích, thấy rõ tầm quan trọng của những lý luận đó và
vận dụng. Trong công cuộc đổi mới đất nước, quy luật quan hệ sản xuất phù
hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất được Đảng vận dụng
linh hoạt, khoa học, đó là chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH,HĐH
,xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần định hướng theo XHCN nhằm xây
dựng lực lượng sản xuất tiên tiến từng bước thiếi lập quan hệ sản xuất phù
hợp với lực lượng sản xuất, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển để tạo
tiền đề vững chắc cho việc xây dựng phương thức sản xuất CNXH.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài.
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác-Lênin là nền
tảng của chủ nghĩa duy vật lịch sử, là cơ sở phương pháp luận để đi sâu vào
bản chất của quá trình lịch sử, lý giải một cách khoa học nhiều hiện tượng
của đời sống xã hội. Do đó học thuyết hình thái kinh tế - xã hội có nội dung
phong phú và phức tạp.
Do giới hạn của một luận văn tốt nghiệp, tác giả luận văn chỉ đề cập đến
nội dung của khái niệm“ phương thức sản xuất” trong học thuyết Mác về
hình thái kinh xã hội. Từ ánh sáng của nội dung đó, đã soi sáng vào thực
tiễn của đất nước trong việc vận dụng của Đảng vào công cuộc đổi mới đất
nước.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu đề tài.
Luận văn dựa trên cơ sở chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy
vật lịch sử. Luận văn kết hợp những nguyên tắc thống nhất giữa lôgíc và
lịch sử, giữa lý luận và thực tiễn...; Vận dụng linh hoạt các phương pháp cụ
thể như phân tích, khái quát hoá, tổng hợp... để làm sáng tỏ các vấn đề mà
nhiệm vụ nghiên cứu đề tài đặt ra.

6. Ý nghĩa của đề tài:
4


Nghiên cứu về vấn đề về nội dung của khái niệm“phương thức sản xuất”
của Mác- Lênin và sự vận dụng vào nước ta trong công cuộc đổi mới đất
nước không phải hoàn toàn là vấn đề mới mẻ, song bởi vì nội dung này gắn
liền với tính chất thời đại hiện nay là sự quá độ từ CNTB lên CNXH, gắn
liền với con đường XHCN mà Đảng và nhân dân đã lựa chọn. Nên ý nghĩa
và tầm quan trọng của vấn đề đã và đang đặt ra những việc nhận thức đúng,
bảo vệ và vận dụng sáng tạo học thuyết Mác về hình thái kinh tế-xã hội.
Do đó, đề tài của luận văn nhằm khẳng định tính đúng đắn và khoa học
của những luận điểm của Mác, Ăngghen, Lênin về mối quan hệ biện chứng
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong điều kiện hoàn cách lịch
sử mới và sự vận dụng sáng tạo của Đảng ta và công cuộc đổi mới đất nước.
Mặt khác đề tài sẽ là tài liệu tham khảo cho những sinh viên muốn tìm
hiểu thêm về vấn đề này.
7. Kết cấu luận văn:
Đề tài gồm ba phần: mở đầu, nội dung (gồm ba chương) và kết luận.
Cuối luận văn là danh mục tài liệu tham khảo để nghiên cứu đề tài.

5


B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN LÝ LUẬN HÌNH THÁI
KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA MÁC VÀ ĂNGGHEN.
Thực tiễn lịch sử của loài người hơn một thế kỷ qua đã chứng minh
hùng hồn cho tiên đoán của Mác và Ăngghen về quy luật vận động của thời
đại chúng ta từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế

giới. Nhưng từ khi chủ nghĩa xã hội lâm vào thoái trào rồi dẫn đến sự sụp đổ
nhanh chóng của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên xô và Đông Âu thì các
trào lưu cơ hội xét lại đủ màu sắc và các học thuyết triết học và xã hội phi
mác-xít hiện đại ra sức phê phán, bác bỏ, xuyên tạc chủ nghĩa Mác, trong đó
chúng coi học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là một trong những trọng
điểm lý luận mà nó tập trung bác bỏ, phê phán từ nhiều phía. Người ta tuyên
bố nó đã trở nên lạc hậu, muốn nhận thức xã hội hiện đại phải dựa vào các
lý luận khác. Nếu quả như vậy thì phong trào cách mạng mất cơ sở thế giới
quan khoa học và lý tưởng XHCN cũng không còn căn cứ khoa học nữa.
Một số người tỏ ra bối rối hoặc dao động. Có ý kiến đề xuất phải xây dựng
một thứ CNXH phi mác-xít thay cho CNXH mácxít.
Ngoài ra, có quan điểm lại muốn giải thích học thuyết hình thái kinh tế xã hội theo kiểu duy vật máy móc, vụ lợi để chứng minh rằng không nhất
thiết phải làm cách mạng XHCN. Theo quan điểm này thì cứ để xã hội đi
vào con đường TBCN rồi nhờ “ quá trình lịch sử - tự nhiên” như Mác nói,
xã hội sẽ tự chuyển động sang xã hội XHCN.
Hơn lúc nào hết, việc đấu tranh để bảo vệ và phát triển những giá trị
chân chính của chủ nghĩa Mác nói chung và lý luận hình thái kinh tế - xã hội
nói riêng là một yêu cầu chính trị của mỗi đảng viên cộng sản, trước là
những đảng viên, cán bộ làm công tác nghiên cứu và giảng dạy lý luận Mác
- Lê nin. Muốn bảo vệ vững chắc, có căn cứ khoa học cần phải nhận thức lại
những giá trị đích thực, bền vững của nó, đồng thời biết vận dụng sáng tạo
và phát triển nó trong điều kiện của xã hội hiện đại. Chỉ có như vậy chúng
6


ta mới đủ sức phê phán, bác bỏ những quan điểm sai lầm, phủ nhận sạch
trơn mọi giá trị của chủ nghĩa Mác hòng tước đi vũ khí tinh thần cách mạng
của giai cấp vô sản và quần chúng lao động.
1.1. Các phương pháp tiếp cận lịch sử xã hội phi mácxít.
1.1.1. Các quan điểm của các nhà tư tưởng trước Mác.

Thời đại trước Mác, chủ nghĩa duy tâm thống trị trong khoa học xã hội.
Mặc dầu đã có những học giả nghiên cứu về quá trình hình thành và phát
triển xã hội, nhưng không thể giải quyết một cách khoa học vấn đề phân loại
các chế độ xã hội và phân kỳ lịch sử.
Một trong những học giả ấy là Moóc - gan, theo Ăng ghen: Moóc - gan
là người đầu tiên thông hiểu vấn đề đã cố sắp xếp thời tiền sử của loài người
theo một hệ thống nhất định; Chừng nào mà còn chưa có thêm được nhiều
tài liệu khiến người ta cần phải sửa đổi lại, thì cách chia thời kỳ của Moóc gan rõ ràng vẫn còn giá trị.
Moóc- gan đã chia lịch sử loài người thành ba thời đại chính: Thời đại
mông muội, thời đại dã man và thời đại văn minh. Thời đại mông muội Trong thời đại này, việc chiếm hữu những sản vật tự nhiên sẵn có là chính,
những sản vật do tay người tạo ra, thì chủ yếu đều là những công cụ phụ,
giúp cho việc chiếm hữu kia. Thời đại dã man- Trong thời đại này, con
người học được cách chăn nuôi súc vật và làm ruộng, học được những
phương pháp dựa vào hoạt động của con người để tăng gia sản xuất các sản
vật tự nhiên. Thời đại văn minh - Trong thời đại này, con người học tập
được việc tinh chế những sản vật tự nhiên, thời đại công nghiệp chính cống
và nghệ thuật.
Moóc - gan chia mỗi thời đại trong hai thời đại đầu thành giai đoạn thấp,
giữa và cao, tuỳ theo bước tiến đã đạt được trong việc sản xuất những tư
liệu sinh hoạt; Vì như Moóc gan nói: “Sự khéo léo trong việc sản xuất đã có
ý nghĩa quyết định đối với trình độ ưu việt và trình độ thống trị của con
người đối với tự nhiên; trong tất cả các sinh vật, chỉ có con người là đạt đến
7


chỗ gần hoàn toàn làm chủ được việc sản xuất các thức ăn. Tất cả các thời
đại tiến bộ lớn lao của loài người, nhiều hay ít, đều trực tiếp ăn khớp với
những thời đại mở rộng các nguồn sinh sống”[10:23]. Trong tác phẩm:
“Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước” Ăngghen đã
đánh giá cách chia thời đại lịch sử loài người của Mooc - gan : “Bức tranh

về bước phát triển của nhân loại qua các thời đại mông muội và dã man đến
những bước đầu của thời đại văn minh của Moóc - gan, đã bao hàm khá
nhiều những đặc trưng mới, những đặc trưng không thể chối cãi được, bởi vì
những đặc trưng đó đều trực tiếp rút ra từ sản xuất. Tuy nhiên, nếu đem bức
tranh ấy so với bức tranh đang hiện lên ở cuối cuộc hành trình của chúng ta,
thì bức tranh này vẫn nhạt nhẽo và nghèo nàn; chi đến lúc đó chúng ta mới
có thể thấy rõ được bước quá độ từ thời đại dã man đang thời đại văn minh
và sự đối lập lạ lùng giữa hai thời đại ấy”.[10.27]
Tiếp đến, là Phuriê (1772-1824), nhà triết học, nhà kinh tế học người
Pháp, ông chia toàn bộ quá trình lịch sử xã hội thành bốn giai đoạn phát
triển: Giai đoạn mông muội, giai đoạn gia trưởng, giai đoạn dã man và giai
đoạn văn minh. Ông đã phê phán gay gắt những xấu xa của xã hội tư sản, và
cùng với những nhà sáng lập ra chủ nghĩa xã hội không tưởng như
Xanhximông và R.Owen, ông chủ trương xây dựng một xã hội cộng sản chủ
nghĩa tương lai hài hoà trên cơ sở hợp tác, tập đoàn sản xuất theo kiểu công
xã, một xã hội hoà bình, thoả mãn các nguyện vọng hữu nghị, tình yêu, danh
vọng... và lao động là nhu cầu, là nguồn vui của con người.
Như vậy, trước Mác, người ta cũng có nói đến sự phát triển của xã hội
qua các giai đoạn đặc trưng cho những trình độ khác nhau, cũng nói đến
việc xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa tốt đẹp. Họ cho rằng việc xây dựng
chủ nghĩa cộng sản gặp phải ba trở ngại: Sở hữu tư nhân, tôn giáo và hình
thức hôn nhân thời bấy giờ. Nhưng khi đi sâu vào các trở ngại ấy đã làm cho
họ bị thất bại. Sự thất bại ấy của họ là không tránh khỏi. Bởi vì đó chỉ là
những quan điểm lý tưởng về xã hội dựa trên những nguyên tắc công bằng,
8


bác ái, nhân đạo... chứ không xuất phát từ những điều kiện, những quy luật
khách quan về sự phát triển xã hội. Hay nói cách khác, các nhà tư tưởng
trước Mác đã không xuất phát từ “mảnh đất hiện thực” tức là họ đã không

thấy quá trình sản xuất vật chất của con người là động lực sâu xa nhất của
lịch sử - xã hội loài người phát triển từ thấp đến cao.
1.1.2. Một số luận thuyết của các học giả tư sản và sự sai lầm của
chúng.
Trong xu thế công kích chủ nghĩa Mác đang diễn ra ở nhiều nơi, không
ít người đang tìm cách phủ nhận chủ nghĩa Mác bằng cách vượt qua và thay
thế học thuyết hình thái kinh tế - xã hội như một phương pháp triết học, tiếp
cận lịch sử bằng cách tiếp cận khác: khái niệm nền văn minh. Người ta
muốn thay thế mệnh đề bất hủ của chủ nghĩa duy vật lịch sử: Lịch sử xã hội
loài người là lịch sử nối tiếp nhau của những hình thái kinh tế - xã hội bằng
một mệnh đề: Lịch sử như là sự nối tiếp nhau của những làn sóng văn minh.
Trước hết, cần nói rằng, bản thân khái niệm nền văn minh và việc sử dụng
nó không phải là điều gì mới mẻ. Các nhà sử học, khảo cổ học ... từ lâu đã
dùng khái niệm nền văn minh để gọi những phát hiện trong lĩnh vực của
mình : nền văn minh trống đồng, nền văn minh Surrer.v.v...
Khái niệm nền văn minh trở thành mới từ khi nó được dùng như một
cách tiếp cận phổ biến đối với xã hội, và nhất là cho đến Alvin Toffler thì
khái niệm này thực sự được đề cập trong một nội dung lý thuyết tương đối
hoàn chỉnh và được coi là cách thức lý giải quá trình biến đổi của xã hội loài
người. Thực chất của lý thuyết này là ở chỗ nhìn nhận lịch sử xã hội loài
người là sự thay đổi, nối tiếp nhau của ba nền văn minh: nông nghiệp, công
nghiệp và tin học (hay còn gọi là nền văn minh thứ ba). Mỗi một nền văn
minh có những đặc trưng khác nhau về sản xuất, về xã hội, về thông tin và
quyền lực. Sự phát triển của xã hội chính là sự thay thế mang tính chất cách
mạng nền văn minh trước bằng nền văn minh sau cao hơn, trong đó diễn ra
sự thay đổi căn bản trong các lĩnh vực công nghệ, năng lượng của nền sản
9


xuất và thay đổi các thể chế gia đình, giáo dục, cả kiến trúc thượng tầng

chính trị lẫn tâm lý con người.
Điều đáng nói ở đây là, theo quan niệm của Alvin Toffler sự thay thế của
nền văn minh nói trên chính là bản chất của sự phát triển, là quy luật phổ
biến của lịch sử. Những giai đoạn khác nhau của lịch sử ấy được hình dung
dưới dạng ba làn sóng bao trùm lên toàn bộ cuộc sống loài người, cuốn đi và
đem đến mọi hình thức sản xuất, mọi chế độ xã hội, làm biến đổi mọi thể
chế tinh thần, quyết định số phận của mỗi cá nhân. Các nền văn minh kế
tiếp nhau, xung đột nhau, phủ định nhau trong đó những khác biệt về hình
thức sở hữu, những mâu thuẫn giai cấp, những xung đột về ý thức hệ, về
dân tộc, về tôn giáo chỉ là những điều vặt vãnh, là trò đùa của trẻ con. Các
cuộc chiến tranh, các cuộc cách mạng suy cho cùng đều có chung một bản
chất là xung đột giữa hai con đường, là sự lựa chọn giữa hai nền văn minh.
Theo sơ đồ này thì bản chất của lịch sử xã hội loài người cho đến nay, là sự
thay đổi từ xã hội nông nghiệp sang xã hội công nghiệp, và hiện nay lịch sử
xã hội đang ở ngưỡng cửa của cách mạng thứ ba, cuộc cách mạng tạo ra xã
hội siêu công nghiệp. Trong sự vận động này của lịch sử thì sự phân chia
giữa xã hội tư bản và xã hội chủ nghĩa không có gì đáng kể, không có sự
khác nhau về chất.
Với mục đích bảo vệ chủ nghĩa tư bản, thuyết “chủ nghĩa tiến hoá“
người đại diện là Brzezinski (người gốc Ba lan, từng là cố vấn cho tổng
thống Mỹ Catơ) đã “đảo lộn“ tiến trình lịch sử xã hội loài người khi ông
ngang nhiên cho rằng: Chủ nghĩa tư bản hiện đại là tất yếu, là nấc thang cao
nhất của tiến hoá nhân loại. Chủ nghĩa xã hội là mô hình thử nghiệm, là một
nhầm lẫn của lịch sử, đang cần phải sửa chữa, và các nước tư bản đó có
trách nhiệm giúp các nước xã hội chủ nghĩa trở lại đúng con đường tiến hoá
tự nhiên là chủ nghĩa tư bản. Chúng ta nhận thấy rằng phương pháp tiếp cận
này của Brzezinski đã trắng trợn xuyên tạc một cách không có khoa học khi
phủ nhận học thuyết hình thái kinh tế - xã hội , một học thuyết khoa học
10



đúng đắn mà đến nay vẫn còn giữ nguyên giá trị, mà ngay những kẻ phê
phán Mác cũng phải thừa nhận “có sức thuyết phục như bản thân sự thật “.
Theo hướng tư duy đó, tác giả đã trực tiếp phê phán cách tiếp cận theo
hình thái kinh tế - xã hội, và chính Brzezsinski đã không thấy sự phân chia,
sự đối đầu của các nhóm xã hội khác nhau, coi đó là “bản chất tiến hoá” của
văn minh loài người. Mặt khác, tác giả đang cố biện minh cho thế giới tư
bản chủ nghĩa có bao nhiêu nước phát triển cao và có bao nhiêu nước chìm
đắm trong khủng hoảng trì trệ. Để cố tình lảng tránh nguyên nhân sự sụp đổ
chủ nghĩa xã hội là không phải do âm mưu và hành động của chủ nghĩa tư
bản phương Tây. Mà ở đây tác giả muốn nhấn mạnh “nền văn minh” đã sát
hạch chủ nghĩa tư bản lẫn chủ nghĩa xã hội và qua sát hạch chủ nghĩa tư bản
vượt qua được còn chủ nghĩa xã hội thì bị đánh hỏng.
Sai lầm của Brzezinski khi ông chỉ có thể giải thích những biến động có
tính quy luật trên bề mặt của quá trình lịch sử chứ không chỉ ra được cái bản
chất, cái chung nhất, cái tất yếu của quá trình này. Do vậy, cách tiếp cận đó
sẽ là cách tiếp cận tốt với tư cách là một phương pháp của một xã hội học
mô tả và dự báo . Sự vượt quá giới hạn đó, sự định đoạt nó để thay thế phạm
trù hình thái kinh tế - xã hội như một phương pháp luận triết học để nghiên
cứu sự vận động của lịch sử chỉ cho ta một nhận thức sai lệch và phiến diện
về xã hội .
Thuyết “xã hội sau công nghiệp” hay “xã hội tiêu thụ” với các tác giả
tiêu biểu như: A.ron, R Phiastie, Hermamn Kahn... nói rằng: học thuyết Mác
đã lỗi thời, chủ nghĩa tư bản đã biến đổi về chất, ngày nay, với cuộc cách
mạng khoa học công nghệ hiện đại, năng suất lao động xã hội rất cao sẽ đưa
loài người sang một xã hội mới, của cải xã hội hết sức dồi dào, thoả mãn tối
đa nhu cầu mọi người, đó là xã hội sau công nghiệp hay xã hội tiêu thụ.
Thuyết này nhằm đánh lạc hướng quan tâm của mọi người khỏi quan hệ sản
xuất, mâu thuẫn về lợi ích giai cấp, hạ thấp vai trò của giai cấp, xoá bó sứ
mệnh của giai cấp công nhân và chuyên chính vô sản .

11


Trong tác phẩm “Năm 2000” , tác giả người Mỹ là Hermamn Kahn đã
tán dương nước Mỹ đang bước vào xã hội sau công nghiệp và lấy làm hình
mẫu mà tất cả các nước sẽ vươn tới. Ở tác phẩm này, ông đã chia tiến trình
lịch sử nhân loại dựa trên tiêu chuẩn thu nhập quốc dân trên đầu người và
có:


Xã hội trước công nghiệp



Xã hội đang công nghiệp hoá



Xã hội công nghiệp



Xã hội công nghiệp tiên tiến



Xã hội sau công nghiệp

Tuỳ theo góc độ xem xét, với những mục đích nghiên cứu cụ thể đặt ra
mà các học giả đã có những cách nhìn, cách nghiên cứu sự vận động của

lịch sử xã hội một cách khác nhau.Tuy nhiên vấn đề chúng ta cần quan tâm
ở đây là phân biệt rõ: tính khách quan, trung thực của bản thân nghiên cứu,
với ý đồ chủ quan, lợi dụng đưa ra những luận thuyết nhằm xuyên tạc chống
phá học thuyết khoa học của Mác.
Các cách tiếp cận nói trên xuất hiện trong điều kiện cuộc cách mạng
khoa học- kỹ thuật đang diễn ra một cách mạnh mẽ, đã vạch ra được vai trò
và sự tác động của khoa học- kỹ thuật đối với đời sống xã hội, trong đó có
xã hội tư bản hiện đại.
Chính vì thế, khách quan mà xét, các cách tiếp cận đủ màu sắc làm
phong phú thêm cách suy nghĩ của chúng ta về thời đại, nó có tác dụng bổ
sung thêm cho cách tiếp cận hình thái kinh tế - xã hội của Mác.
Mặc dầu có nhiều cách tiếp cận lịch sử xã hội khác nhau và chúng có
một số giá trị nhất định nhưng học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội của
Mác cho đến nay, dù đã chịu bao sự công kích chống phá của kẻ thù vẫn
chứng tỏ là phương pháp tiếp cận lịch sử - xã hội đúng đắn và hoàn thiện
nhất, chưa có một học thuyết nào vượt qua nó. Luận thuyết của các học giả
đưa ra với hy vọng thay thế chủ nghĩa Mác - Lênin “lấp khoảng trống tư
12


tưởng“ của thời đại, giải đáp những vấn đề đặt ra và dự báo tương lai nhưng
ở đó chỉ là ảo tưởng vì các luận thuyết của họ đưa ra nhìn chung mang tính
chất phản khoa học, phản cách mạng.
Thứ nhất: Dựa trên quan điểm kỹ thuật học và phương pháp luận siêu
hình nên các luận thuyết chỉ có thể đi sâu phản ánh một khía cạnh, một lĩnh
vực nào đó của đời sống xã hội. Xét về tổng thể các luận thuyết đó đều duy
tâm siêu hình, không có khả năng phản ánh đúng chân thực các quy luật
vận hành nội tại của đời sống xã hội, không chú ý đến bản chất nguồn gốc,
động lực, sự vận động và phát triển của xã hội loài người.
Các luận thuyết xuất phát từ phương pháp luận duy tâm siêu hình nên

giải chỉ giải thích xã hội ở động cơ tư tưởng, ý chí nguyện vọng của con
người, hoặc quan niệm duy vật tầm thường, siêu hình, máy móc, thuần tuý
dựa vào các điều kiện vật chất tự nhiên thoát ly các quan hệ xã hội hiện
thực. Không phân tích được các sự kiện vô cùng phức tạp của xã hội và
cũng không có khả năng nhìn vào chiều sâu lịch sử xã hội. Mà chúng ta ai
cũng biết rằng: xã hội là một cơ thể sống với nhiều lĩnh vực, nhiều bộ phận,
nhiều mối liên hệ. Chính vậy nên các học giả chỉ nhìn được “bề nổi” của
biến động xã hội và có cái nhìn sai lệnh và phiến diện một mặt nào đó của
xã hội chúng ta.
Thứ hai: Các cách tiếp cận(cách tiếp cận theo nền văn minh, thuyết tiến
hoá ... ) chủ yếu dựa trên sự phát triển của khoa học kỹ thuật, của công nghệ
nên nó không thể hình dung xã hội như một chỉnh thể, nó không chỉ ra được
yếu tố nào làm cơ sở cho tất cả các yếu tố khác trong cơ thể xã hội. Các
cách tiếp cận này cường điệu yếu tố khoa học kỹ thuật, coi nhẹ yếu tố quan
hệ xã hội, nên nó làm lu mờ, xoá nhoà ranh giới giữa các chế độ xã hội khác
nhau. Trên thực tế, bất cứ nền văn minh nào cũng gắn với một chế độ xã hội
nhất định. Sự hạn chế lớn nhất của các cách tiếp cận này là đã đem đồng
nhất tiến bộ khoa học kỹ thuật với tiến bộ xã hội, quy tiến bộ xã hội chỉ còn
tiến bộ của khoa học kỹ thuật.
13


Thuần tuý lấy khoa học kỹ thuật để lý giải sự phát triển, là nó đã phủ
nhận hiện thực mà xã hội con người đang sống. Do tách rời khoa học kỹ
thuật khỏi chế độ xã hội nên các cách tiếp cận đã lảng tránh vấn đề đấu
tranh giai cấp và cách mạng xã hội. Những người bảo vệ cách tiếp cận theo
nền văn minh, thuyết tiến hoá cho rằng cách tiếp cận của họ sẽ tránh được
xung đột đối kháng là hệ quả vốn có của cách tiếp cận hình thái.
Chính những sai lầm trên đã dẫn đến các cách tiếp cận chỉ xem xét mặt
lực lượng sản xuất, thổi phồng vai trò của khoa học công nghệ mà không

thấy mối quan hệ thống nhất hữu cơ giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản
xuất và kiến trúc thượng tầng với ý đồ che đậy mâu thuẫn cơ bản trong lòng
xã hội tư bản là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất,
giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản. Họ đề cao vai trò của trí thức, hạ
thấp vai trò công nhân và chuyên chính vô sản. Họ không thấy rằng chính
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại sẽ làm cho giai cấp công
nhân phát triển về chất, sẽ thực hiện tốt hơn sứ mệnh lịch sử của mình là
xoá bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa và xây dựng xã hội mới cộng sản chủ nghĩa.
Thứ ba: Các học giả tư sản lấy sự kiện các nước Đông Âu và Liên xô
hướng về mô hình của chủ nghĩa tư bản để chứng minh cho học thuyết “chủ
nghĩa tư bản vĩnh viễn” của họ. Trước sự kiện đó, đã làm cho các học giả tư
sản hí hửng, họ kêu la gào thét khi chủ nghĩa xã hội ở Liên xô và Đông Âu
bị sụp đổ. Nhưng thực sự họ đã nhầm lẫn việc những phần tử cơ hội ở Liên
xô và Đông Âu giành được chính quyền và chủ trương đưa các nước này
quay về chủ nghĩa tư bản là sự tha hoá tạm thời của chủ nghĩa xã hội ở các
nước này, chứ đó không phải là xu thế của thời đại. Chính do nhầm lẫn sai
lệch phiến diện đó nên các học giả đã mặc nhiên đưa ra những luận thuyết
khác nhau về cách tiếp cận lịch sử - xã hội để hòng thay thế cách tiếp cận
hình thái kinh tế - xã hội của Mác nhằm mưu đồ về chính trị, bảo vệ vững
chắc chủ nghĩa tư bản, xoá bỏ chủ nghĩa xã hội, đi ngược lại mục tiêu của
thời đại - thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội của loài người.
14


Mục đích sâu xa nhất của các học giả tư sản khi đưa ra luận thuyết của
mình là mưu toan về chính trị bảo vệ lợi ích giai cấp tư sản, bảo vệ chế độ
tư bản, tôn vinh nó, coi nó là lý tưởng cao nhất của loài người và mục đích
để loài người vươn tới. Chúng đề cao “thuyết kỹ trị”, “thuyết hội tụ” giữa
chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, phủ nhận đấu tranh giai cấp và cách
mạng nhằm làm lu mờ giá trị học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội.

Những khác biệt căn bản với chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác , các
cách tiếp cận đã được những học giả sử dụng như một công cụ đắc lực để
chống lại chủ nghĩa Mác - Chủ nghĩa xã hội. Các học giả quá tuyệt đối hoá
cách tiếp cận của mình bằng khuynh hướng tăng lên nhằm hạ thấp, thậm chí
xuyên tạc trắng trợn, loại bỏ trực tiếp cách tiếp cận hình thái kinh tế - xã
hội. Họ thản nhiên cho rằng, lý luận về hình thái kinh tế - xã hội đang mất đi
cả ý nghĩa nhận thức luận lẫn cơ sở bản thể luận ,vì thế nó không thể áp
dụng vào bức tranh thế giới hiện đại.
1.2. Phương pháp tiếp cận lý luận hình thái kinh tế - xã hội của Mác
và Ăngghen.
Với việc phát hiện ra quy luật vận động của các hình thái kinh tế - xã
hội, Mác đã làm một cuộc cách mạng trong nhận thức về đời sống xã hội.
Từ khi học thuyết hình thái kinh tế - xã hội ra đời, nhận thức xã hội
được dựa trên một nền tảng thế giới quan mới - thế giới quan duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử, nó khắc phục được các quan niệm duy tâm siêu
hình, duy vật tầm thường, siêu hình, máy móc. Thế giới quan khoa học của
Mác không chỉ cho phép chúng ta phân tích các sự kiện vô cùng phức tạp
của xã hội đương đại mà còn có khả năng nhìn vào chiều sâu lịch sử quá
khứ đồng thời cũng có cơ sở dự báo cho một xã hội tương lai. Học thuyết
hình thái kinh tế - xã hội lần đầu tiên cung cấp cho chúng ta những tiêu
chuẩn thực sự duy vật về phân kỳ lịch sử và cho phép đi sâu vào bản chất
của quá trình lịch sử, hiểu được logic khách quan của quá trình đó. Học
thuyết này giúp cho việc hiểu được sự vận động của xã hội theo các quy luật
15


khách quan, vạch ra sự thống nhất trong cái muôn màu muôn vẻ của các sự
kiện lịch sử ở các nước khác nhau trong thời kỳ khác nhau. Chính vì thế mà
nó đem lại cho khoa học xã hội sợi dây dẫn đường để phát hiện ra những
mối liên hệ nhân quả, để giải thích chứ không mô tả các sự kiện lịch sử. Nó

là cơ sở khoa học để tiếp cận đúng đắn khi giải quyết những vấn đề cơ bản
của các ngành khoa học xã hội rất đa dạng. Bất kỳ một hiện tượng xã hội
nào, từ hiện tượng kinh tế đến hiện tượng tinh thần, đều chỉ có thể được
hiểu đúng khi gắn với một hình thái kinh tế - xã hội nhất định.
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của Mác là phát minh vạch thời đại
không chỉ chứng minh ở tầm vóc uyên bác về trí tuệ, tư tưởng mà còn thể
hiện một thiên tài về nghệ thuật sử dụng phương pháp nghiên cứu khoa học
mang tính vượt trội so với các nhà bác học cùng thời. Chính vì thế học
thuyết hình thái kinh tế - xã hội vũ trang cho chúng ta phương pháp luận
khoa học để nghiên cứu sự phát triển của xã hội qua các chế độ xã hội khác
nhau do các quy luật khách quan, phổ biến của xã hội chi phối.
Như đã phân tích ở trên một trong những sai lầm căn bản của các cách
tiếp cận của các học giả phương tây là chỉ coi trình độ phát triển của khoa
học - công nghệ, của lực lượng sản xuất là yếu tố quyết định và trực tiếp đối
với mọi sự thay đổi của đời sống xã hội, bỏ qua vai trò của quan hệ sản xuất
và các quan hệ chính trị - xã hội khác, không thấy được xã hội là một chỉnh
thể toàn vẹn, có cơ cấu phức tạp. Mỗi mặt, mỗi yếu tố có vai trò nhất định
và tác động lẫn nhau tạo nên sự vận động của cơ thể xã hội. Trong lời tựa
cuốn “Góp phần phê phán khoa kinh tế-chính trị” (1859) Mác đã trình bày
với logic hết sức sáng tỏ về cấu trúc hình thái kinh tế-xã hội cũng như cơ
chế vận động và biến đổi của nó. “Kết quả chung mà tôi đã đạt được và trở
thành kim chỉ nam cho mọi sự nghiên cứu sau này của tôi có thể trình bày
vắn tắt như sau: Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người
có những quan hệ nhất định, tất yếu, không phụ thuộc vào ý muốn của họtức những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với trình độ phát
16


triển nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất của họ. Toàn bộ những
quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở
hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị và

những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực
đó”[1.14 - 15].
Sau này vào 1888 Ăngghen tóm tắt lại lần nữa quan niệm về hình thái
kinh tế-xã hội của Mác và nhấn mạnh rằng cái cơ sở để cắt nghĩa được lịch
sử là cả phương thức sản xuất lẫn cơ cấu xã hội. Ông viết: “...trong mỗi thời
đại lịch sử, phương thức chủ yếu của sản xuất kinh tế và trao đổi, cùng với
cơ cấu xã hội do phương thức đó quyết định, đã cấu thành cơ sở cho lịch sử
chính trị của thời đại và lịch sử của sự phát triển trí tuệ của thời đại, cái cơ
sở mà chỉ có xuất phát từ đó mới cắt nghĩa được lịch sử”[2.523].
Khi tiếp thu tư tưởng của Mác, Lênin đã nhấn mạnh phương pháp luận
của chủ nghĩa duy vật trong nhận thức xã hội, là ở chỗ là phương pháp đòi
hỏi phải gắn toàn bộ sự phong phú của các quan hệ xã hội vào quan hệ sản
xuất, “coi đó là quan hệ cơ bản, ban đầu và quyết định tất cả mọi quan hệ
khác”; đồng thời, cần xem xét những quan hệ sản xuất trong sự tương ứng
của chúng với trình độ của những lực lượng sản xuất để giải thích sự vận
động của các hình thái kinh tế - xã hội. Điều này được Lênin giải thích như
sau: “... chỉ có đem quy những quan hệ xã hội vào quan hệ sản xuất, và đem
những quan hệ sản xuất vào trình độ những lực lượng sản xuất thì người ta
mới có được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của những
hình thái xã hội là một quá trình của lịch sử- tự nhiên. Và dĩ nhiên là không
có một quan điểm như thế thì không thể có một khoa học xã hội
được”[11.163].s
Quan hệ sản xuất bao giờ cũng tồn tại trên một trình độ nhất định của
lực lượng sản xuất. Hai mặt này thống nhất thành phương thức sản xuất và
hợp thành nền tảng vật chất của mọi hình thái kinh tế- xã hội. Phép biện
chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất xét cho cùng là động lực
17


thúc đẩy sự vận động, phát triển của xã hội và đưa đến sự chuyển biến từ

hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác
Chính vì thế, việc nghiên cứu quy luật phát triển của sản xuất, quy luật
phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, sự thống nhất hữu cơ
giữa chúng trong nội dung của phương thức sản xuất là chiếc chìa khoá
vàng để nhận thức một cách khoa học về quá trình phát triển xã hội loài
người.
CHƯƠNG 2: QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN VỀ
PHƯƠNG THỨC SẢN XUẤT.
2.1. Khái niệm phương thức sản xuất :
Mác đã nêu lên một chân lý hiển nhiên rằng, con người trước hết phải
sống rồi mới nói đến những hoạt động khác như chính trị, văn hoá, tư
tưởng... Muốn tồn tại con người phải có lương thực để ăn, vải để mặc, nhà
để ở và những thứ cần thiết nữa. Những thứ này không có sẵn trong tự nhiên
mà phải do con người sản xuất ra, không có sản xuất thì bất cứ xã hội nào
cũng không thể tồn tại được. Mác nói: “đứa trẻ con nào cũng biết là một
nước sẽ chết đói nếu ngừng lao động, tôi không nói một năm mà ngay trong
một tuần” [7. 563]. Nghĩa là để tồn tại và phát triển, xã hội không ngừng
hoạt động để sản xuất. Đây là hoạt động đặc trưng riêng có của con người,
là điểm” khác biệt căn bản giữa xã hội loài người với xã hội loài vật’’. Sản
xuất xã hội bao gồm sản xuất vật chất, sản xuất ra năng lực tinh thần trí tuệ
và sản xuất ra bản thân con người. Nhưng trong đó, sản xuất vật chất là yếu
tố nền tảng vì chính nó tạo điều kiện vật chất cho sự tồn tại và phát triển xã
hội, đồng thời là động lực thúc đẩy toàn bộ sự vận động xã hội. Sản xuất vật
chất trong mỗi giai đoạn lịch sử được biểu hiện ở phương thức sản xuất nhất
định.
Phương thức sản xuất là khái niệm biểu thị cách thức con người thực
hiện quá trình sản xuất vật chất ở những giai đoạn nhất định của xã hội loài
người.
18



Theo Mác, trong mỗi giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử, cụ thể
hơn trong mỗi chế độ xã hội nhất định, con người tiến hành sản xuất theo
những cách thức sản xuất nhất định. Như Mác đã từng nhấn mạnh: “Những
thời đại kinh tế kinh tế khác nhau không phải ở chúng ra cái gì mà là ở chỗ
chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu nào” [8.187]. Phương thức
sản xuất là cái mà nhờ nó người ta phân biệt sự khác nhau của những thời
đại kinh tế. Nghĩa là mỗi hình thái kinh tế - xã hội có một phương thức sản
xuất đặc trưng của nó. Dựa vào đặc trưng phương thức sản xuất của mỗi
thời đại lịch sử người ta hiểu thời đại lịch sử đó thuộc về hình thái kinh tế xã hội nào.
Phương thức sản xuất giữ vai trò quyết định đối với tính chất, kết cấu xã
hội, quyết định sự vận động và phát triển của xã hội. Lịch sử chứng tỏ rằng,
chế độ sinh hoạt xã hội, thành phần giai cấp của xã hội, những quan điểm
chính trị, pháp quyền, mỹ học và những quan điểm khác cũng như thể chế
phù hợp với những quan điểm ấy, xét đến cùng do phương thức sản xuất
quyết định. Trong tác phẩm “Sự khốn cùng của triết học Mác” viết: “...Do
có được những lực lượng sản xuất mới, loài người thay đổi phương thức của
mình, do thay đổi phương thức sản xuất, cách kiếm sống của mình, loài
người thay đổi tất cả những quan hệ xã hội của mình’’ [7.33-34].
Phương thức sản xuất, cách thức mà con người tiến hành sản xuất chính
là sự thống nhất biện chứng giữa một bên là lực lượng sản xuất với bên là
quan hệ sản xuất.
2.1.1. Khái niệm lực lượng sản xuất.
Thuật ngữ lực lượng sản xuất lần đầu tiên được Mác nêu lên trong tác
phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, Đây là phát hiện hết sức quan trọng, nó soi sáng
toàn bộ hệ thống các phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử đang hình
thành. Những nội dung của khái niệm được Mác phát biểu sâu sắc thêm
trong các tác phẩm “Sự khốn cùng của triết học” , “Lao động làm thuê tư
19



bản” , “Tiền công, giá cả và lợi nhuận”. Và đặc biệt trong bộ “Tư bản” lý
luận về “lực lượng sản xuất” được Mác trình bày rõ ràng và sâu sắc nhất.
Việc phát hiện ra khái niệm lượng sản xuất là công lao to lớn của Mác.
Thông qua việc phân tích các yếu tố của quá trình sản xuất, Mác đã cho
chúng ta cơ sở khoa học để hiểu đúng nội dung khái niệm của lực lượng sản
xuất, là cơ sở khoa học cho việc nhận thức bản chất, động lực sự phát triển
xã hội thông qua lao động của con người.
Giới tự nhiên luôn hiện ra trước mắt con người như những lực lượng mù
quáng, bướng bỉnh với những quy luật “thép” của nó. Để chiếm lĩnh được tự
nhiên, con người không thể xuất phát từ ý muốn chủ quan, mà phải bằng sức
mạnh vật chất. Nếu thừa nhận “lực lượng” là một thể thống nhất các sự vật
hiện tượng tạo thành sức mạnh khiến cho khi tác động vào sự vật, hiện
tượng khác sẽ gây nên những biến đổi nhất định, thì lực lượng sản xuất là
sức mạnh vật chất do xã hội tạo ra và sử dụng nó làm biển đổi tự nhiên phục
vụ cho nhu cầu của mình .
Muốn tồn tại và phát triển, con người phải trao đổi với tự nhiên, duy trì
mối quan hệ khăng khít với tự nhiên, điều đó được Mác khẳng định: “Lao
động trước hết là một quá trình diễn ra giữa con người và giới tự nhiên, một
quá trình trong đó bằng hoạt động của chính mình, con người làm trung
gian, điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ với tự nhiên” [5.260].
Lực lượng sản xuất biểu hiện giữa con người và tự nhiên, nhưng không
phải mọi mối quan hệ giữa con người và tự nhiên đều là lực lượng sản xuất.
Vì con người có rất nhiều mối quan hệ với tự nhiên như quan hệ tình cảm,
quan hệ nhận thức, quan hệ thích nghi và cải tạo... Chỉ có những quan hệ
với tự nhiên mà trong đó có sự tác động quan lại giữa con người và tự
nhiên, làm biến đổi tự nhiên để tạo thành của cải vật chất phục vụ cho nhu
cầu của con người nói chung và qua đó làm thay đổi chính bản thân con
người mới là biểu hiện của lực lượng sản xuất.


20


Hoạt động thực tiễn sản xuất vật chất là cơ sở, động lực và mục đích cho
hoạt động nhận thức của con người ra đời và phát triển, giúp con người
ngày càng đi sâu khám phá thế giới khách quan, làm giàu trí tuệ bằng những
hiểu biết về bản chất của các sự vật hiện tượng mà họ sẽ tiếp tục tác động
biển đổi để tạo thành của cải vật chất.
Phương tiện sản xuất đầu tiên mà con người có và đem nhập vào lực
lượng sản xuất là đầu, mình, chân, tay, nói tóm lại là toàn bộ sức mạnh cơ
bắp của họ. Bản thân con người là một lực lượng sản xuất vật chất. Song
nếu chỉ tiến hành sản xuất bằng các khí quan của mình không thôi, thì loài
người chỉ “nghèo như động vật” và không bao giờ tiến xa hơn động vật.
May thay con người là một sinh vật xã hội có trí tuệ. Nhờ có lao động và
cùng với lao động, ý thức, tư duy của con người được nẩy sinh và phát triển.
Vậy là ngoài sức mạnh cơ bắp, con người còn đem vào lực lượng sản xuất
cả trí tuệ và toàn bộ tâm lý, ý thức của mình. Nhờ được ý thức chỉ đạo nên
hoạt động của đôi bàn tay con người trở nên khéo léo, linh hoạt và uyển
chuyển không có con vật nào bằng.
Con người tham gia vào lực lượng sản xuất bằng sự kết hợp chặt chẽ
giữa sức mạnh cơ bắp và sức mạnh của trí tuệ, do trí tuệ chỉ đạo. Chính vì
vậy mà con người biết vận dụng những thuộc tính cơ học, lý học và hoá học
của các sự vật và của tự nhiên để tạo ra của cải vật chất. Con người đã cải
tạo, biến đổi những sự vật của tự nhiên cho phù hợp với hoạt động sản xuất
của mình để trở thành những phương tiện, công cụ hữu hiệu. Con người là
một động vật biết chế tạo công cụ lao động. Nhờ thế con người đã làm cho
“một vật do bản thân tự nhiên cung cấp đã trở thành một khí quan của sự
hoạt động của con người, khí quan mà con người đem chắt vào những khí
quan của cơ thể mình, và do đó mà kéo dài cái tầm thước tự nhiên của cơ
thể đó...”.

Bằng hoạt động thực tiễn của mình, con người ngày càng tạo thêm
những lực lượng sản xuất bằng chính những vật liệu của tự nhiên. Lực
21


lượng sản xuất là kết quả của năng lực thực tiễn của con người, là “sản
phẩm của hoạt động đã qua”, là quá trình “gom góp từ thế hệ này sang thế
hệ khác”. Kết quả là “mỗi thế hệ sau đã có sẵn lực lượng sản xuất do thế hệ
trước gây dựng nên và được thế hệ mới dùng làm nguyên liệu cho nền sản
xuất mới” [3. 788]. Đúng là “người ta không được tự do lựa chọn những lực
lượng sản xuất của mình” nhưng người ta lại kế thừa được những lực lượng
sản xuất của các thế hệ đi trước để làm cơ sở cho việc duy trì và phát triển
lực lượng sản xuất. Chính vì thế mà lực lượng sản xuất được phát triển liên
tục trong quá trình lao động sản xuất của xã hội.
Qua sự phân tích khoa học của Mác, chúng ta có thể rút ra nội dung cơ
bản của lực lượng sản xuất như sau:
Lực lượng sản xuất là biểu hiện quan hệ của người với giới tự nhiên
trong quá trình sản xuất. Trình độ của lực lượng sản xuất thể hiện trình độ
chinh phục tự nhiên của loài người. Đó là kết quả của năng lực thực tiễn con
người trong quá trình tác động vào tự nhiên tạo ra của cải vật chất bảo đảm
cho sự tồn tại và phát triển của loài người.
Lực lượng sản xuất là một thể thống nhất hữu cơ của yếu tố người và
yếu tố các sự vật, trong đó con người là chủ thể tích cực, sáng tạo và quyết
định , với trí tuệ là chủ đạo, biết vận dụng tri thức khoa học, kỹ thuật chuyên
môn, kỹ năng , kỹ xảo... để chế tạo, cải tiến và sử dụng các tư liệu lao động
mà công cụ lao động là cái năng động nhất nhằm tác động vào những đối
tượng tự nhiên, cải tạo chúng thành những sản phẩm vật chất thoả mãn các
nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Lực lượng sản xuất luôn luôn kế thừa và
phát triển là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Theo quan điểm triết học Mác, lực lượng sản xuất bao gồm các yếu tố

sau:
+ Tư liệu sản xuất do xã hội tạo ra, trước hết là công cụ lao động.
+ Người lao động với những kinh nghiệm sản xuất, thói quen lao động,
biết sử dụng công cụ lao động để tạo ra của cải vật chất.
22


Tư liệu sản xuất bao gồm đối tượng lao động và tư liệu lao động. Đối
tượng lao động là những sự vật mà hoạt động của con người nhằm tác động
vào để biến thành của cải vật chất cho xã hội. Đối tượng lao động bao gồm
hai bộ phận:


Những đối tượng thuần tuý tự nhiên, do tự nhiên cung cấp, trước đó

chưa hề có sự tác động nào của con người.


Những đối tượng lao động do xã hội loài người tạo ra, trước đây là

những sự vật vốn có của tự nhiên cung cấp, nhưng trong quá trình sản xuất
nó đã được tích luỹ một lượng lao động xã hội nhất định, được con người
cải tạo và tiếp tục đưa vào quá trình sản xuất tiếp theo, được gọi là nguyên
liệu.
Điều đó được Mác khẳng định “mọi nguyên liệu đều là đối tượng lao
động, nhưng không phải mọi đối tượng lao động là nguyên liệu. Đối tượng
lao động chỉ trở thành nguyên liệu khi trải qua một sự biến đổi nào đó do
lao động gây ra” [5.60].
Trong tư liệu sản xuất, đối tượng lao động là thành phần thụ động hơn
cả. Chúng còn phải chịu tác động tiếp tục của con người cùng với các

phương tiện, công cụ lao động mới có thể trở thành sản phẩm hàng hoá.
Chất lượng hàng hoá không chỉ phụ thuộc vào năng lực, trình độ lành nghề
của người lao động, mà còn phụ thuộc vào trình độ phát triển của công cụ
lao động.
Công cụ lao động là hệ thống xương cốt và bắp thịt của sản xuất. Trong
quá trình sản xuất, công cụ lao động luôn luôn được cải tiến. Nó là yếu tố
động nhất, cách mạng nhất, có ý nghĩa quyết định năng suất lao động, trực
tiếp dẫn truyền tác động của con người tới đối tượng lao động, làm tăng
hiệu lực tác động của con người. Vì nó luôn luôn giảm nhẹ lao động và tăng
năng suất lao động nên con người thường xuyên cải tiến công cụ và sáng tạo
ra những công cụ mới.

23


Tư liệu lao động dù có tinh xảo, hiện đại đến đâu chăng nữa thì cũng
không phát huy được tác dụng tích cực của nó nếu không kết hợp với lao
động sống. Trong toàn bộ các yếu tố của lực lượng sản xuất thì con người
giữ vị trí số một, là chủ thể tích cực, sáng tạo, có vai trò quyết định nhất.
Con người biết chế tạo ra các phương tiện,công cụ lao động, cải tạo đối
tượng lao động, rồi chính con người quyết định các phương tiện, công cụ
lao động và nguyên vật liệu trong sản xuất.
Con người là chủ thể sáng tạo và là chủ thể sử dụng mọi yếu tố của lực
lượng sản xuất. Con người là yếu tố năng động nhất, quyết định lực lượng
sản xuất. Bởi vì chỉ có yếu tố con người mới có năng lực tự phát triển và tự
hoàn thiện mình. Người lao động tái sản xuất ra sức lao động, và luôn nâng
cao chất lượng của lao động bằng con đường kế thừa các yếu tố xã hội và
phát triển chúng. Điều đó thể hiện ra ở chỗ:
1. Mỗi thế hệ đi sau bao giờ cũng tiếp thu được những lực lượng sản
xuất tích luỹ qua tất cả các thế hệ đi trước trong đó không chỉ có những

công cụ, phương tiện vật chất mà còn có cả kho tàng tri thức khoa học kỹ
thuật và kinh nghiệm sản xuất của tất cả các thế hệ đi trước.
2. Các thế hệ lao động đi trước bao giờ cũng chuẩn bị các điều kiện cho
thế hệ kế tiếp có những năng lực cần thiết để duy trì và phát triển sản xuất.
Họ giáo dục, đào tạo, rèn luyện, thử thách thế hệ đi sau, rồi mới bàn giao
quá trình sản xuất.
Con người làm ra lực lượng sản xuất đến đâu thì đồng thời cũng tự nâng
cao năng lực sản xuất của mình đến đó. Có thể nói, con người là chủ thể và
là động lực chủ đạo quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất, là yếu
tố cơ bản nhất. Không có con người thì không có quá trình sản xuất và cũng
không có lực lượng sản xuất.
Sản xuất vật chất là cơ sở, nền tảng cho sự tồn tại và phát triển của xã
hội loài người. Cơ sở, nền tảng ấy do con người quyết định. Vì thế chúng ta

24


có thể suy rộng ra: Con người là chủ thể quyết định mọi quá trình vận động
và phát triển của lịch sử.
Giữa các yếu tố của lực lượng sản xuất có sự tác động biện chứng. Sự
hoạt động của tư liệu lao động phụ thuộc vào trí thông minh, sự hiểu biết,
kinh nghiệm của con người, đồng thời bản thân những phẩm chất của con
người, những kinh nghiệm và thói quen của họ đều phụ thuộc vào chỗ họ sử
dụng những tư liệu sản xuất nào. Không có nền đại công nghiệp thì không
thể có người công nhân hiện đại. Sự phụ thuộc về trình độ, kinh nghiệm,
thói quen của người sản xuất vào kỹ thuật sản xuất là một trong những biểu
hiện sự phụ thuộc của nhân tố chủ quan vào nhân tố khách quan, nhân tố
con người vào nhân tố vật chất của sản xuất. Hơn nữa, con người không chỉ
sử dụng công cụ hiện có, mà còn sáng chế ra những tư liệu lao động mới.
Những tư liệu lao động này là lực lượng vật chất của tri thức con người.

Những tri thức khoa học, những kinh nghiệm, thói quen của con người đều
cần thiết để hoàn thiện kỹ thuật, phương pháp sản xuất. Như vậy, sự phát
triển của lực lượng sản xuất là sự phát triển của tư liệu lao động thích ứng
với bản thân con người, với sự phát triển văn hoá, khoa học, kỹ thuật của
họ.
Mác cho rằng: Khoa học phát triển mạnh mẽ, tất yếu sẽ dẫn đến thời kỳ
trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Vấn đề này lần đầu tiên được Mác
nêu lên trong tác phẩm “Bản thảo kinh tế những năm 1857 - 1859 - phương
án sơ bộ của bộ “Tư bản“. Dựa trên cơ sở phân tích vai trò của khoa học
trong sự phát triển công nghiệp , Mác đã kết luận: Việc biến khoa học trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp là một quy luật khách quan của sự phát
triển xã hội. Ngày nay, với sự phát triển hết sức mạnh mẽ của khoa học, kỹ
thuật và công nghệ hiện đại, điều dự đoán thiên tài của Mác trở thành hiện
thực.
Ở đây cần hiểu khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp theo
những nghĩa cơ bản sau:
25


×