Tải bản đầy đủ (.doc) (68 trang)

cử nhân triết học Những tư tưởng mỹ học cơ bản của i kant

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (307.91 KB, 68 trang )

MỤC LỤC
Trang
A. PHẦN MỞ ĐẦU.................................................................................................2
1. Lí do chọn đề tài...................................................................................................2
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.................................................................................3
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài.............................................................................4
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu..........................................................5
5. Đóng góp của khóa luận......................................................................................5
6. Kết cấu của khóa luận..........................................................................................5
CHƯƠNG 1..............................................................................................................7
KHÁI LƯỢC VỀ SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN MỸ HỌC CỦA
I.KANT.....................................................................................................................7
1.1 Điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.....................................................7
1.2. Các giai đoạn phát triển của tư tưởng mỹ học I.Kant....................................22
CHƯƠNG 2............................................................................................................35
MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG MỸ HỌC I.KANT.............................35
2.1 Phán đoán thẩm mỹ..........................................................................................35
2.2 Quan niệm của I.Kant về cái đẹp.....................................................................39
2.3. Quan niệm của I.Kant về cái cao cả...............................................................52
2.4 Quan niệm của I.Kant về thiên tài...................................................................60
C. KẾT LUẬN.......................................................................................................64
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................66


A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước hiện nay, gắn liền với sự
phát triển kinh tế, khoa học, công nghệ là việc xây dựng nền văn hóa mới
vừa tiến bộ vừa mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc. Trước những biến đổi
sâu sắc của vấn đề hội nhập, việc bồi dưỡng, đào tạo về tư tưởng đạo đức
cho mỗi cá nhân và toàn xã hội là vấn đề được quan tâm, chú trọng hàng


đầu.
Cùng với chiến lược phát triển đất nước trong lĩnh vực kinh tế –
chính trị – xã hội, Đảng và Nhà nước luôn coi giáo dục thẩm mỹ là một
trong những nội dung quan trọng, cơ bản về chiến lược con người. Giáo
dục thẩm mỹ là một môi trường tốt để tạo ra các cá nhân phát triển hài hòa
toàn diện. Ở môi trường ấy, con người được quan tâm phát triển trên tất cả
các mặt, đặc biệt là khoa học thẩm mỹ. Khoa học thẩm mỹ không chỉ giúp
con người trau dồi những khái niệm chung về cái xấu – cái đẹp, cái bi – cái
hài và cái cao cả… mà còn giúp mỗi cá nhân nhận thức được giá trị đạo
đức được kết tinh trong thẩm mỹ.
Trên thực tế, mỹ học là một khoa học mới mẻ và ngày càng đóng vai
trò quan trọng trong đời sống xã hội. Việc nghiên cứu và nắm vững những
tư tưởng, nguyên lý mỹ học khoa học, đúng đắn giúp con người có khả
năng thưởng thức, hiểu biết, đánh giá và sáng tạo ra cái đẹp cho cuộc sống,
bản thân và xã hội càng trở nên cấp thiết. Trong tiến trình hội nhập quốc tế
hiện nay, vai trò giáo dục thẩm mỹ rất quan trọng. Nhưng để công tác giáo
dục thẩm mỹ thực hiện tốt chức năng của mình là vấn đề không hề đơn
giản. Nó không phải là trách nhiệm của riêng một cá nhân hay một ngành
giáo dục nghệ thuật nào mà đòi hỏi sự toàn tâm, toàn ý chung tay góp sức
của gia đình, cộng đồng và toàn xã hội.
I.Kant (1724 – 1804) là một trong những nhà tư tưởng lỗi lạc của triết
2


học cổ điển Đức nói riêng và hệ thống triết học nói chung. Với những cống
hiến vô cùng quan trọng, ông không chỉ là nhà triết học lớn mà còn là nhà
mỹ học lớn của nhân loại. Trong lĩnh vực mỹ học, I.Kant được suy tôn là
ông tổ của chủ nghĩa lãng mạn. Những tư tưởng của ông không chỉ có giá
trị nhân văn sâu sắc mà còn để lại nhiều ảnh hưởng cho nhiều khuynh
hướng nghệ thuật sau này, đặc biệt là khuynh hướng lãng mạn.

Trong mỗi thời đại, sự phát triển của mỗi quốc gia luôn gắn liền với
dòng chảy của các nền văn hóa lớn trên thế giới. Với phương châm “hòa
nhập nhưng không hòa tan”, Việt Nam luôn chú trọng tới việc gìn giữ và
phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Để làm được điều
đó, mỗi cá nhân phải có lập trường vững vàng và nhận thức thẩm mỹ sâu
sắc, không dễ dàng dao động bởi những trào lưu mới, tiêu cực. Vì vậy,
những giá trị tư tưởng mỹ học mà I.Kant để lại là tài sản quý giá để chúng
ta rèn luyện và tiếp thu trong quá trình hội nhập hiện nay.
Với cách tiếp cận vô cùng mới mẻ và đưa ra được những kiến giải hết
sức thú vị. I.Kant và những tư tưởng mỹ học của ông luôn là một đề tài
nhận được nhiều sự quan tâm, chú ý của nhiều học giả. Cho tới nay đã và
đang có rất nhiều tác giả và những công trình khoa học nghiên cứu về
I.Kant, những công trình ấy ngày càng được các học giả bổ sung và hoàn
thiện hơn nữa.
Từ những lí do nêu trên, tôi chọn vấn đề “Những tư tưởng mỹ học cơ
bản của I.Kant” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Mỹ học của I.Kant cũng như triết học của ông là đối tượng nghiên cứu
của rất nhiều tác giả và nhiều công trình khoa học. Tuy nhiên, những
nghiên cứu đó phần lớn chỉ dừng lại ở mức độ khái quát, nghiên cứu những
nội dung cơ bản của mỹ học và được trình bày trong các giáo trình triết học
lịch sử, lịch sử mỹ học nói chung hoặc trong các tập bài giảng dùng cho
3


sinh viên chuyên ngành mỹ học nói riêng mà chưa có công trình nào
nghiên cứu chuyên sâu về mỹ học. Có thể nêu lên một số tác giả cùng với
công trình nghiên cứu về mỹ học I.Kant như:
– Tìm hiểu Mỹ học Mác – Lênin, NXB Văn hóa, Hà Nội, 1979.
– Lê Ngọc Trà, Nguyên lý mỹ học Mác – Lênin, NXB Văn hóa thông

tin, Hà Nội, 1984.


Đỗ Văn Khang, Mỹ học Mác – Lênin, NXB Đại học và Trung

học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1985.


Như Thiết, Đưa cái đẹp vào cuộc sống, NXB Sự thật, Hà Nội,
1986.

– Lê Văn Dương, Lê Đình Lục, Lê Hồng Văn, Giáo trình mỹ học đại
cương, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.
– Đỗ Văn Khang, Chính luận về I.Kant và nhận thức luận hiện đại,
NXB Chính trị quốc gia, TP Hồ Chí Minh, 2004.
– Trần Thái Đỉnh, Triết học I.Kant, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2005.
Các công trình nghiên cứu trên đã có nhiều đóng góp to lớn trong việc
nghiên cứu tư tưởng mỹ học của I.Kant.
Trong quá trình thực hiện khóa luận này, tác giả đã có những tiếp thu, kế
thừa những thành tựu của những công trình nghiên cứu trên. Trên cơ sở đó,
tác giả muốn tiếp cận vấn đề những tư tưởng mỹ học cơ bản của I.Kant, đặc
biệt là tư tưởng của ông về phạm trù cái đẹp, cái cao cả và bản chất của nghệ
thuật.
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
Mục đích của đề tài:
– Làm rõ những tư tưởng mỹ học cơ bản của I.Kant và vị trí mỹ học
trong hệ thống triết học của ông.
4



Nhiệm vụ của đề tài:
– Làm sáng tỏ sự hình thành và phát triển những tư tưởng mỹ học của
I.Kant.
– Đi sâu vào phân tích những quan niệm của I.Kant về phán đoán
thẩm mỹ, về cái đẹp, cái cao cả và nghệ thuật.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của đề tài:


Đề tài được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật

biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Phương pháp nghiên cứu của đề tài:
– Phương pháp luận biện chứng duy vật với những nguyên tắc khách
quan, toàn diện, phát triển và lịch sử cụ thể. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng
một số phương pháp nghiên cứu cụ thể sau: Quy nạp và diễn dịch, phân
tích và tổng hợp, thống nhất logic và lịch sử…
5. Đóng góp của khóa luận
Khóa luận góp một phần nhỏ vào việc nghiên cứu và làm sáng tỏ tư
tưởng của I.Kant về những phạm trù mỹ học cơ bản như cái đẹp, cái cao cả
và bản chất của nghệ thuật… Qua đây, khóa luận có thể sử dụng làm tư liệu
tham khảo cho sinh viên chuyên ngành triết học cũng như những người
quan tâm tới lĩnh vực này.
6. Kết cấu của khóa luận
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, khóa
luận gồm có 2 chương với 6 tiết và 67 trang.
Chương 1: Khái lược về sự hình thành và phát triển của mỹ học I.Kant.
1.1.Điều kiện kinh tế - chính trị, văn hóa – xã hội
1.2. Các giai đoạn phát triển của tư tưởng mỹ học I.Kant
5



Chương 2: Một số nội dung cơ bản trong mỹ học I.Kant
2.1. Phán đoán thẩm mỹ.
2.2. Quan niệm của I.Kant về cái đẹp.
2.3.Quan niệm của I.Kant về cái cao cả.
2.4. Quan niệm của I.Kant về thiên tài.

6


B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
KHÁI LƯỢC VỀ SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN MỸ
HỌC CỦA I.KANT
1.1 Điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội
Vào những năm nửa cuối thế kỉ XVIII và đầu thế kỉ XIX, tình hình xã
hội Tây Âu có nhiều biến động dữ dội. Các cuộc cách mạng tư sản nổ ra liên
tiếp ở nhiều nơi, tiêu biểu nhất là cuộc cách mạng tư sản ở Anh và Pháp đã
gây nên những biến động vô cùng lớn lao trên tất cả các mặt của đời sống xã
hội.
Những biến đổi to lớn về các mặt kinh tế, chính trị và xã hội do cuộc
cách mạng tư sản đem lại ở Anh và Pháp đã ảnh hưởng rất mạnh mẽ đối
với toàn châu Âu. Tình hình ấy đã thúc đẩy chủ nghĩa tư bản phát triển, mở
ra xu thế mới của thời đại – xu thế Tư bản chủ nghĩa với những ưu thế đặc
biệt của nó mà loài người từ trước tới nay chưa từng biết đến.
Chủ nghĩa tư bản đã được thiết lập ở một số nước Tây Âu như Italia,
Anh, Pháp…, đem lại một nền sản xuất phát triển chưa từng có trong lịch
sử, tỏ ra ưu việt hơn hẳn so với tất cả các chế độ xã hội trước đó. Những
thành tựu kinh tế và văn hóa thời kì này mà đỉnh cao là Cách mạng công

nghiệp ở Anh càng khẳng định sức mạnh của con người trong nhận thức và
cải tạo thế giới. Cùng với Cách mạng tư sản Pháp làm rung chuyển cả châu
Âu, chúng đánh dấu sự mở đầu của nền văn minh công nghiệp trong lịch sử
nhân loại.
Thêm vào đó, những tiến bộ đáng kể của khoa học, nhất là các ngành
khoa học tự nhiên ngày càng chứng tỏ sự hạn chế của phương pháp tư duy
siêu hình thống trị trong tư tưởng Tây Âu suốt thế kỉ XVII – XVIII. Việc
phát minh ra điện và cách sử dụng điện năng góp phần tạo ra bước nhảy vọt
7


trong sự phát triển của sản xuất từ công trường thủ công đến sản xuất cơ
khí, đồng thời chứng thực những phát triển đầu tiên của khoa học về sự bảo
toàn và biến hóa năng lượng và vật chất của vũ trụ. Phát minh của Lavoarê
ra ôxy và bản chất của sự cháy đã đánh đổ thuyết nhiên tố, mở ra giai đoạn
phát triển mới của hóa học. Những công trình nghiên cứu của Lamác,
Linnơ, việc phát triển ra tế bào của Lơvenhúc… đòi hỏi phải có cách lý giải
mới về bản chất của sự sống.
Chính sự tác động của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật là động lực
cho lực lượng sản xuất phát triển nhảy vọt. Những phát minh mà cách
mạng khoa học kĩ thuật được ứng dụng vào trong sản xuất làm tăng năng
suất lao động gấp nhiều lần so với trước đây. Nhiều công cụ lao động được
cải tiến và hoàn thiện nhằm thúc đẩy sản xuất. Với việc sáng chế ra máy tự
kéo sợi và máy in đã làm cho công nghệ dệt, công nghệ ấn loát đặc biệt
phát triển, nhất là ở Anh.
Sự ra đời của động cơ hơi nước (chủ yếu là than) và máy móc cơ khí
(chủ yếu là ngành dệt) đã tạo cơ sở cho sự gia tăng mạnh trong năng suất
sản xuất. Sự phát triển của các dụng cụ máy móc bằng sắt trong hai thập kỉ
đầu tiên của thế kỉ XIX đã tạo điều kiện cho việc sản xuất thêm các máy
móc chế tạo sử dụng trong các ngành công nghiệp khác. Điều đó chứng tỏ

ưu thế vượt trội của phương thức tư bản chủ nghĩa so với phương thức sản
xuất phong kiến. Các hiệu ứng của nó lan khắp Tây Âu và ảnh hưởng tới
toàn bộ thế giới.
Đồng thời với sự phát triển của sản xuất và thương nghiệp, trong xã
hội Tây Âu thời kì này, sự phân hóa giai cấp ngày càng rõ rệt. Tầng lớp tư
sản xuất hiện bao gồm các chủ xưởng công trường thủ công, xưởng thợ,
chủ thuyền buôn… Vai trò và vị trí của họ trong kinh tế và xã hội ngày
càng lớn. Hàng loạt nông dân từ nông thôn di cư đến các thành phố, trở
thành người làm thuê cho các công trường xưởng thợ. Họ là tiền thân của
8


giai cấp công nhân sau này. Các tầng lớp xã hội trên đại diện cho một nền
sản xuất mới, cùng với nông dân đấu tranh chống chế độ phong kiến đang
suy tàn.
Cùng với nhiều biến cố lịch sử khác, những sự kiện trên cho thấy:
bước sang thời phục hưng và cận đại, sự phát triển của phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa đã trở thành một xu thế lịch sử mà không có gì có thể
ngăn cản nổi. Sự quá độ từ chế độ phong kiến sang chế độ tư bản là nền
tảng thực tiễn xã hội của triết học Tây Âu thời phục hưng và cận đại.
Vào nửa cuối thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX, đứng trước những biến
động lớn lao của tình hình thế giới, đặc biệt là các nước Tây Âu, nước Đức
vẫn bình lặng, không hề có sự lay chuyển nào. Về cơ bản, Đức vẫn là một
nhà nước phong kiến cát cứ bao gồm trên 31 tiểu vương quốc tách biệt
nhau và bốn thành phố tự trị (Brêmen, Hămbua, Liubêch, Phrăngphua trên
bờ sông Maisơ) với những lãnh địa cha truyền con nối điển hình. Cơ quan
tối cao của Liên bang là Hội nghị Liên bang bao gồm đại diện các tiểu
vương quốc không có mối liên hệ vững chắc, không có quyền lực thực tế.
Liên bang Đức không có cơ quan lập pháp và hành pháp chung, không có
quân đội , tài chính và ngoại giao chung. Toàn bộ quyền lực tập trung trong

tay giai cấp quý tộc phong kiến của từng vương quốc. Cho nên, trên thực
tế, Liên bang Đức vẫn nằm trong tình trạng bị chia cắt về hành chính, thuế
quan, đo lường và tiền tệ. Tình trạng đó gây nhiều trở ngại đối với sự phát
triển của đất nước.
Nói về thời kì lịch sử đó, Ăngghen đã nói như sau “Không một ai cảm
thấy mình dễ chịu. Thủ công nghiệp, thương nghiệp, công nghiệp và nông
nghiệp trong nước đều bị giảm tới mức thấp nhất. Nông dân, người làm
nghề thủ công, chủ xưởng chịu hai tầng đau khổ vì chính sách ăn bám và vì
tình hình làm ăn khó khăn. Giai cấp quý tộc và các ông hoàng thấy rằng
mặc dù chúng đã bóp nặn đến cùng những thần dân của chúng nhưng số
9


thu của chúng khó mà đua kịp số chi ngày càng tăng lên. Mọi việc đều bi
đát và cả nước đều công phẫn. Không có giáo dục, không có những phương
tiện tác động đến ý thức quần chúng, không có tự do báo chí, không có dư
luận xã hội, không có cả đến sự buôn bán nhỏ nào tới các nước khác.
Không có gì cả ngoài sự đê tiện và ích kỉ. Tinh thần ham lợi thấp kém, hèn
hạ thảm hại thấm nhuần trong toàn dân. Tất cả đều hư nát, lung lay sắp sửa
đổ và cũng không thể hy vọng được một sự thay đổi tốt, vì rằng trong dân
tộc không có một lực lượng nào đủ sức để có thể dọn đi được cái tử thi đã
rữa của cái chế độ lỗi thời ấy” [20, 561 – 562].
Tuy nhiên, do sự tiến bộ kĩ thuật ở châu Âu, kinh tế công thương
nghiệp Đức bắt đầu phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa. Năm 1822,
cả nước Đức mới có hai máy hơi nước, đến năm 1847 đã sử dụng 1139
máy. Năm 1825, đường xe lửa đầu tiên được khánh thành, mười năm sau
chiều dài đường lên tới 2300 km. Giới tư bản Đức bỏ vốn vào các ngành
công nghiệp nặng, đặc biệt là khai mỏ và hóa chất. Các trung tâm công
nghiệp mới xuất hiện: Ranh Vetxphalen, Sơlêdiên, Xắcxôni…
Trong khoảng ba mươi năm (1818 – 1848), dân số Béclin tăng gần gấp

hai lần. Năm 1834 “Đồng minh quan thuế” được thành lập gồm 18 quốc
gia Đức, tạo điều kiện thuận lợi nhất định cho sự phát triển công thương
nghiệp.
Trong khi đó, nông thôn vẫn duy trì quan hệ bóc lột phong kiến. Giai
cấp quý tộc phong kiến nắm quyền thống trị về kinh tế và chính trị, chi
phối mọi hoạt động trong nước. Do ảnh hưởng của sự du nhập kĩ thuật vào
nông thôn, một bộ phận ruộng đất được chuyển sang kinh doanh theo kiểu
TBCN. Trong những ấp trại này, người ta sử dụng các loại máy nông
nghiệp, phân bón hóa chất và tuyển công nhân làm thuê. Tuy vậy mọi hình
thức bóc lột phong kiến vẫn không bị bãi bỏ.
Nền kinh tế chủ yếu ở trình độ thủ công lạc hậu, những di tích của chế
10


độ nông nô, phường hội, chuyên chế phản động đều là những lực cản kìm
hãm sự phát triển lên tư bản chủ nghĩa của Đức. Ngoài ra, nước Đức còn
chịu sự tác động của những mối liên hệ từ bên ngoài làm cho nước Đức
không có điều kiện để phát triển thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa trong
lòng chế độ phong kiến và làm cho nước Đức rơi vào tình trạng cực kì bi
đát về kinh tế – chính trị – xã hội.
Những biến chuyển kinh tế dẫn đến sự thay đổi về phân bố lực lượng
giai cấp trong xã hội. Giai cấp quý tộc phong kiến vẫn giữ địa vị thống trị
trong bộ máy nhà nước. Đặc biệt là triều đình vua Phổ Phriđrich Vinhem
III có ảnh hưởng to lớn đối với các tiểu quốc vương khác. Vinhem III
(1770 – 1840) không chịu thực hiện những điều đã hứa hẹn trước đây về
việc ban hành hiến pháp, vẫn ngoan cố tăng cường quyền lực của chế độ
quân chủ chuyên chế phong kiến. Do đó, tình trạng đất nước bị chia cắt với
quyền lực vô hạn của các tiểu vương quốc là một trở ngại lớn đối với sự
phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Giai cấp tư sản Đức ra đời và lớn lên cùng với sự phát triển của công

thương nghiệp. Đặc biệt là ở miền Tây Nam giáp nước Pháp, kinh tế Tư
bản chủ nghĩa phát triển mạnh nên giai cấp tư sản ở đây có thế lực đáng kể.
Cuộc cách mạng tháng Bảy năm 1830 ở Pháp và cuộc cải cách tuyển cử
năm 1832 ở Anh càng thôi thúc giai cấp tư sản Đức bước vào đấu tranh.
Mục tiêu của họ là chống lại chế độ quân chủ phong kiến và tiến hành
thống nhất đất nước.
Giới trí thức, sinh viên, tiểu tư sản và tư sản dân chủ Đức có thái độ
cấp tiến hơn. Họ đòi hỏi một nền dan chủ thực sự và thiết lập chế độ dân
chủ cộng hòa. Tháng 5 năm 1832, sinh viên dẫn đầu nhiều cuộc biểu tình ở
các thành phố lớn. Ngoài sinh viên và trí thức còn có nhiều thợ thủ công và
dân nghèo thành thị gia nhập “Hội nhân quyền”. Năm 1834, “Hội nước
Đức trẻ” được thành lập. Cương lĩnh của hội đề ra việc thành lập nước Đức
11


thống nhất, thực hiện quyền bình đẳng chính trị và xã hội, xóa bỏ đặc
quyền phong kiến, ban hành quyền tự do kinh doanh công thương nghiệp,
tự do báo chí và hội họp.
Đông đảo nông dân Đức sống trong tình trạng vô cùng cực khổ, gánh
nặng tô thuế và các thứ nghĩa vụ phong kiến đè nặng lên đời sống của họ.
Họ mong muốn có ruộng để cày cấy, nhưng phần lớn đất đai tập trung
trong tay bọn qúy tộc. Bên cạnh những người tiểu nông và tá điền, đã bắt
đầu xuất hiện công nhân nông nghiệp. Tình trạng của họ cũng chẳng sáng
sủa gì hơn vì họ vừa bị bóc lột giá trị thặng dư vừa phải đóng góp nghĩa vụ
phong kiến. Do đó, nông dân nhiều lần nổi dậy đấu tranh chống bọn quý
tộc địa chủ, nhưng vì thiếu tổ chức và lãnh đạo nên không thể tránh khỏi
thất bại.
Giai cấp công nhân ra đời và lớn mạnh theo sự phát triển của nền công
nghiệp. Đó là một giai cấp mới trong xã hội, tham gia tích cực vào cuộc
đấu tranh chống chế độ chuyên chế phong kiến. Đời sống của công nhân

Đức rất khổ cực, mức sống thấp hơn nhiều so với công nhân Anh và Pháp.
Ngày lao động kéo dài 14 – 16 giờ, tiền lương rất thấp, nhất là đối với lao
động phụ nữ và trẻ em, điều kiện ăn ở thiếu thốn. Vì vậy, có rất nhiều cuộc
biểu tình và đấu tranh của công nhân.
Do sự chuyển biến về kinh tế và chính trị, những mâu thuẫn cơ bản của
xã hội Đức ngày càng bộc lộ rõ. Bước vào giai đoạn cuối của chế độ phong
kiến, mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản với chế độ quân chủ chuyên chế và
mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân cùng đông đảo quần chúng nhân dân lao
động với giai cấp quý tộc phong kiến càng trở nên sâu sắc. Điều đó phản
ánh mâu thuẫn giữa sức sản xuất tư bản chủ nghĩa ngày càng phát triển với
quan hệ sản xuất phong kiến lạc hậu đang kìm hãm sức sản xuất. Yêu cầu
lịch sử đặt ra cho nước Đức lúc bấy giờ là phải lật đổ nền quân chủ chuyên
chế phong kiến, thống nhất nước Đức và xây dựng một nhà nước cộng hòa
12


dân chủ, giải phóng giai cấp nông dân và tạo điều kiện phát triển chủ nghĩa
tư bản. Đó chính là nhiệm vụ cơ bản của một cuộc cách mạng dân chủ tư
sản.
Tuy nhiên, nước Đức giữa thế kỉ XIX lại xuất hiện một mâu thuẫn
mới. Giai cấp công nhân Đức ngày càng lớn mạnh và bước đầu tiến hành
đấu tranh giành quyền lợi cho mình. Mâu thuẫn giữa tư bản với công nhân
đã tác động mạnh mẽ vào sự phát triển của tình hình. Vụ mất mùa và cuộc
khủng hoảng thương nghiệp năm 1847 làm cho nước Đức gặp nhiều khó
khăn. Đời sống nhân dân lao động càng thêm khổ cực.
Cùng thời gian đó chính phủ Phổ lâm vào tình trạng khủng hoảng vê
tài chính, thiếu tiền, buộc phải tìm đến giai cấp tư sản để vay. Nhưng giai
cấp tư sản dưới sự lãnh đạo của các đại biểu tư sản miền sông Ranh bắt nhà
vua phải chấp nhận điều kiện chính trị mới cho vay tiền. Chính phủ Phổ
không chấp nhận điều khoản thỏa thuận. Điều đó đã gây nên sự căm phẫn

trong giai cấp tư sản và tầng lớp nhân dân.
Nhiệm vụ chính của cuộc cách mạng là thống nhất đất nước, xóa bỏ sự
cách biệt về chính trị và kinh tế giữa các vương quốc, thống nhất quốc gia
dân tộc. Đảm nhiệm sứ mệnh lịch sử này, chỉ có giai cấp tư sản mới có thể
lãnh đạo cuộc đấu tranh thống nhất đất nước. Trong quá trình đấu tranh họ
đòi bãi bỏ quyền phong kiến với quý tộc nhưng lại không nghĩ đến việc lật
đổ chế độ chuyên chế. Họ muốn tự do đề đạt ý kiến nên đòi quyền tự do
báo chí, diễn đàn và hội họp. Họ muốn lập một chính phủ toàn nước Đức
để có thị trường nội địa chung, bảo đảm quyền lợi trên thị trường quốc tế.
Nhưng họ không chủ trương thống nhất nước Đức bằng con đường cải
cách, thiết lập chế độ lập hiến mà các vương quốc vẫn giữ nguyên quyền
hạn cũ. Giai cấp tư sản Đức không muốn nổ ra một cuộc cách mạng, bởi vì
chính họ không thể nào quên được cuộc khởi nghĩa của những công nhân
dệt ở Sơlêdiên và cuộc cách mạng tháng Hai ở Pháp.
13


Về kinh tế, giai cấp tư sản Đức chủ trương ưu tiên phát triển ngành
thương mại, thủ công nghiệp và trong sản xuất theo lối công trường thủ
công (những xí nghiệp lớn Tư bản chủ nghĩa) ở Đức hầu như chưa có vào
nửa cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX) bắt buộc phải phục vụ cho bọn
phong kiến đang thống trị ở Đức lúc bấy giờ. Trong khi thị trường bên
trong phát triển còn rất yếu, và việc buôn bán trên thị trường còn rất hạn
chế thì khách hàng chủ yếu là tầng lớp thống trị và số đông quan lại. Vô
hình chung, giai cấp tư sản trong mỗi nhà nước Đức nhỏ ấy đã bị ràng buộc
vào những khách hàng ấy.
Mác nói rằng: “Nếu nước Đức đi theo sự phát triển của những dân
tộc hiện đại chỉ bằng những hoạt động tư tưởng trừu tượng, không tham gia
tích cực vào những cuộc chiến đấu thực sự của sự phát triển đó, thì mặt
khác, Đức phải chịu đựng nỗi đau khổ mà lại không được cùng hưởng

những nỗi vui sướng và sự thỏa mãn bộ phận của sự phát triển ấy” [ 19,
424]
Ám chỉ những nhà tư tưởng của giai cấp tư sản Đức, Mác cho rằng, cái
mà các dân tộc khác đã làm trong thực tiễn thì người Đức chỉ có suy nghĩ về
nó mà thôi. Điều đó đã phản ánh một cách sâu sắc những mâu thuẫn trong sự
phát triển kinh tế và chính trị của nước Đức nửa cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ
XIX. Mác đã viết rằng “Giống như các dân tộc cổ đại đã cảm sống tiền sử
của họ trong trí tưởng tượng, trong thần thoại, thì chúng ta, những người
Đức chúng ta cảm sống cái lịch sử tương lai của chúng ta trong tư tưởng,
trong triết học. Chúng ta là những người đương thời của thế kỉ này về mặt
triết học, mà lại không phải là những người đương thời về mặt lịch sử. Triết
học Đức là sự kế tục của lịch sử Đức trong ý niệm” [19, 419].
Có thể nói các cuộc cách mạng xã hội thế kỉ XVII – XVIII mở đường
cho sự phát triển các tư tưởng xã hội tiến bộ. Hầu hết các đại biểu của nó
như I.Kant, Hêghen… đều xuất thân từ những tầng lớp thượng lưu trong xã
14


hội. Nhận thấy sự trì trệ của xã hội Đức phong kiến thời đó, được sự cổ vũ
của giai cấp tư sản nhiều nước nhất là cách mạng tư sản Pháp (1789 –
1794), họ thể hiện nguyện vọng tiến bộ của giai cấp tư sản đấu tranh vì một
trật tự xã hội mới ở Đức, nhằm đem lại sự phồn thịnh và thống nhất nước
Đức. Lênin nhận xét “cũng giống như ở Pháp hồi thế kỉ XVIII, cách mạng
triết học Đức hồi thế kỉ XIX cũng đi trước cuộc cách mạng chính trị”.
Nhưng khác với giai cấp tư sản Pháp vốn triệt để cách mạng, giai cấp tư
sản Đức ngay từ đầu đã muốn thỏa hiệp với tầng lớp phong kiến quý tộc
Phổ đang thống trị thời đó, giữ lập trường cải lương trong việc giải quyết
những vấn đề phát triển đất nước. Phản ánh sự nhu nhược đó của giai cấp
tư sản, bất chấp phương pháp biện chứng của mình khẳng định sự phát
triển tất yếu của hiện thực, vẫn ca ngợi, tô vẽ cho nhà nước Phổ phong kiến

thối nát, với những bất công và tệ nạn xã hội của nó. Và nói chung, trong
thế giới quan của các nhà triết học cổ điển Đức đã thể hiện khá rõ mâu
thuẫn về tư tưởng giữa tính cách mạng và khoa học với sự bảo thủ, cải
lương về lập trường chính trị - xã hội. Nhưng điều đó không làm lu mờ sứ
mạng lịch sử mà triết học cổ điển Đức thực hiện là đem lại một cách nhìn
mới về thực tiễn xã hội và tiến trình lịch sử nhân loại.
Hầu hết những nhà lí luận của giai cấp tư sản Đức là những nhà tư
tưởng cổ điển Đức và I.Kant cũng thuộc một trong số những đại biểu đó.
Người ta biết rằng, những người Đức tiên tiến đã rất phấn khởi chào đón
cuộc cách mạng Pháp năm 1789. Sinh viên trường đại học Tubingơ (trong
số này có cả Hêghen) đã trồng cây Tự do. Sinlơ đã dịch bài Mácxâye ra
tiếng Đức. Nhưng khi quân đội Pháp, sau khi đánh tan quân Phổ, đã chiếm
đóng tả ngạn sông Ranh năm 1792 và khi Hội nghị quốc ước được triệu tập
ở Maisơ để tuyên bố sát nhập cộng hòa Maisơ vào Pháp thì phong trào ấy
không được giai cấp tư sản trong những nước Đức khác ủng hộ và nó đã bị
quân đội Phổ đàn áp một cách dễ dàng. Đến khi cách mạng tư sản Pháp đưa
Lui XVI lên đoạn đầu đài, dựng lên chính quyền của những người
15


Giacôbanh, thì những người tư sản Đức lúc đầu là những người bạn đầy
nhiệt tình của cách mạng, bây giờ lại trở thành kẻ thù tàn nhẫn của nó. Một
bộ phận quan trọng của giai cấp tư sản Đức cùng với giai cấp quý tộc rất
tức giận về những sự “khủng khiếp” của cách mạng, nghĩa là sự chuyên
chính Giacôbanh, mặc dù họ vẫn tha thiết đến những cải cách ở trong nước
họ.
Giai cấp tư sản Đức không thống nhất do nước Đức bị chia xẻ ra làm
nhiều mảnh, bản thân giai cấp tư sản là một giai cấp yếu hèn và nhút nhát.
Nó muốn nước Đức cũng áp dụng những cải cách tư sản đã được thực hiện
ở bên bờ sông Ranh nhưng lại sẵn sàng thỏa mãn ngay với những cải cách

nửa vời mà những đại gia sáng suốt nhất của tầng lớp quý tộc đã bắt đầu thi
hành trong một vài nước Đức riêng biệt.
Những nhà lý luận của giai cấp tư sản Đức vẫn đặt hi vọng của họ vào
sự tiến triển tự phát của các biến cố và sáng kiến của “những tầng lớp trên”
trong xã hội. Điều đó đẩy tới sự phát triển của chủ nghĩa tư bản và sự thống
nhất nước Đức một cách khách quan. Mác đã đưa ra lời huấn thị rất sâu sắc
“lý luận Đức của cách mạng Pháp” [18, 38]. Lời huấn thị này có thể đem
áp dụng với thời kì hoạt động đầu tiên của cả những đại diện khác của triết
học cổ điển Đức như Phichtơ, Sêlinh, Hêghen. Nhưng lý luận Đức của cách
mạng Pháp lại khác những quan điểm của những nhà Khai sáng Pháp bởi
vì: Những triết gia Đức khi phản ánh quá trình phát triển của cách mạng
Pháp trong quan điểm của họ, lại coi rằng những kết quả chính trị thực tiễn
và luật pháp mà cuộc cách mạng 1789 – 1794 đã giành được, về căn bản
không thực hiện được ở Đức. Ví dụ như trong triết học I.Kant thì nền cộng
hòa chỉ là một định đề của lí tính thực tiễn, chỉ là một nghĩa vụ mà những
người có thiện ý phải noi theo, nhưng trên thực tế thì nền cộng hòa lại là lý
tưởng không thể đạt được. Cách giải thích cuộc cách mạng tư sản Pháp như
vậy đã phản ánh một sự yếu ớt thực sự về kinh tế và chính trị của nước

16


Đức, đã phản ánh sự phát triển độc đáo của giai cấp đó.
Không chỉ những quan điểm chính trị xã hội mà cả những quan điểm
triết học của những nhà tư tưởng của giai cấp tư sản Đức cuối thế kỉ XVIII
cũng đã khác về căn bản với những quan điểm xã hội chính trị và về căn
bản với những nhà lý luận của giai cấp tư sản cách mạng Pháp. Nếu như
những quan điểm của những nhà Khai sáng Pháp hồi thế kỉ XVIII thường
dẫn tới sự hủy bỏ chế độ cũ bằng con đường cách mạng thì những nhà lý
luận tư sản Đức hồi cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX lại đặt lí tưởng của họ

vào chỗ hòa giải giữa chế độ cũ với chế độ mới bằng con đường cải lương.
Các nhà Khai sáng Pháp và triết học duy tâm Đức về căn bản vẫn thừa
nhận phải có những cải cách xã hội nhưng phương pháp thực hiện của họ
lại hoàn toàn khác nhau. Những nhà duy vật Pháp tin tưởng sâu sắc rằng,
nếu không có sự can thiệp một cách có ý thức vào quá trình lịch sử thì trật
tự xã hội mới không thể thắng lợi được. Tất cả hi vọng của họ đều đặt vào
sự cải tổ lại xã hội về mặt chính trị cho phù hợp với những “yêu cầu của lí
trí và của bản chất con người”. Còn những nhà tư tưởng Khai sáng Đức thế
kỉ XVIII thì lại đặt hi vọng của chính họ vào sự phát triển “tự nhiên” của
đời sống xã hội và do chỗ yếu hèn, bảo thủ của giai cấp tư sản Đức nên họ
phủ nhận sự cải tạo xã hội bằng cách mạng. Thái độ phản đối dùng con
đường cách mạng để cải cách nước Đức theo lối tư sản là một trong những
đặc điểm chủ yếu của những quan điểm xã hội và cách mạng thủ cựu của
những nhà triết học tư sản Đức.
Vào thời kì hoạt động cuối cùng của những nhà tư tưởng Đức (Sinlơ,
Phichtơ, Sêlinh, Hêghen) khi mà họ đã trở thành kẻ thù của lí tưởng cách
mạng Pháp thì trong những quan điểm xã hội chính trị phản động của họ,
đã bộc lộ rõ rệt rằng: những nhà tư tưởng bảo thủ của giai cấp tư sản hèn
nhát Đức đã phục tùng lợi ích và tâm trạng của bọn địa chủ quý tộc phản
động.
17


Do giai cấp tư sản Đức yếu hèn, không đủ năng lực nắm chính quyền,
nên những nhà lý luận của giai cấp này không những nhà duy vật Pháp mà
là những nhà duy tâm sáng tạo ra hệ thống triết học rất trừu tượng, thuần
túy, tách khỏi đời sống hiện thực, phủ nhận con đường cách mạng cải tạo
hiện thực. Địa vị hèn kém về kinh tế và chính trị của giai cấp tư sản Đức,
sự sợ hãi của họ trước những cuộc đấu tranh cách mạng kiên quyết chống
chế độ phong kiến… tất cả những biểu hiện trên được phản ánh trong

những hệ thống triết học duy tâm của I.Kant, Phichtơ, Sêlinh, Hêghen.
Có thể nói, tư tưởng triết học Đức nửa cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ
XIX là sự kế tục và phát triển tất yếu của những trào lưu tư tưởng triết học
tiên tiến của thế kỉ XVII – thế kỉ XVIII. Những nhà tiền bối về mặt lịch sử
của triết học Đức là những nhà tư tưởng lỗi lạc như nhà triết học toán học
Pháp Đềcactơ, nhà duy vật Hà Lan Spinôda, nhà triết học và khoa học Đức
Lépnít, những nhà Khai sáng Đức cuối thế kỉ XVIII như Létxinh, Sinlơ,
Gớt…
Đức vốn là quốc gia có truyền thống văn hóa phát triển cao. Đất nước
này đã sản sinh ra nhiều nhà tư tưởng, nhà thơ, nhà văn, nhà khoa học nổi
tiếng thế giới. Chính trong thời kì này đã xuất hiện những thiên tài lỗi lạc.
Nền văn hóa Đức một mặt đã tiếp thu đầy đủ các di sản quý báu của nền văn
hóa Đức truyền thống. Mặt khác, nền văn hóa ấy còn chịu sự tác động của
văn hóa thời kì Phục hưng và tư tưởng Khai sáng ở Châu Âu thế kỉ XVIII.
Những nhà Khai sáng đánh giá cao tiếng nói mỗi dân tộc Đức và chỉ
trích tập quán thời Trung cổ, bắt buộc rằng những tư tưởng khoa học và
triết học phải được trình bày bằng tiếng La tinh. Làm cho số đông nhân dân
không hiểu được. Họ cũng công kích thần học, chống lại triết học kinh viện
và bênh vực cho sự suy nghĩ độc lập như các nhà Khai sáng Pháp. Dù
không đứng vững trên lập trường của chủ nghĩa vô thần, nhưng trong hoàn
cảnh của nước Đức lạc hậu như thế thì sự phê phán của họ đối với tôn giáo
18


đã đóng vai trò tiến bộ và góp phần làm sụp đổ hệ tư tưởng và những đặc
quyền của đẳng cấp phong kiến. Những nhà Ánh sáng Đức còn đóng vai
trò tích cực trong địa hạt mỹ học. Họ chống lại một cách kiên quyết những
đại biểu phản động của chủ nghĩa lãng mạn, những người đã tâng bốc thời
Trung cổ, tuyên truyền chủ nghĩa thần bí và thần học. Những nhà Ánh sáng
Đức đã gắn liền nghệ thuật với đời sống và cho nghệ thuật là sự thể hiện

của thế giới quan nhân đạo chủ nghĩa.
J.G.Hécde (1744 – 1803) là nhà tư tưởng, nhà nghệ thuật vĩ đại của
Đức. Những tư tưởng của ông đã góp phần quan trọng trong việc chuẩn bị
tư tưởng cho trào lưu Khai sáng Đức. Ông là một trong những người đầu
tiên đã đấu tranh cho sự hình thành và phát triển ý thức dân tộc của nhân
dân Đức, chống lại khuynh hướng tôn giáo chủ nghĩa “chỉ ưa sùng ngoại”
của giai cấp quý tộc. Chính Hécde đã nêu lên tư tưởng rất quan trọng coi
thi ca dân gian có ý nghĩa lớn lao đối với sáng tác văn học. Nguyện vọng
của Hécde khi nghiên cứu lý luận nghệ thuật theo quan điểm hiện thực là
nhìn thấy mối liên hệ giữa nghệ thuật và đời sống.
Bên cạnh Hécde, những nhà đại diện cho các ngành văn nghệ, soạn
kịch và sân khấu như Létxinh, Sinlơ và Gớt là niềm kiêu hãnh cho nhân
dân Đức nói riêng và nhân loại tiến bộ nói chung. Là những nhà bách khoa,
các ông không chỉ thành công trong lĩnh vực nghệ thuật mà còn thành công
trong những lĩnh vực như khoa học và triết học Đức.
Létxinh (1729 – 1781) là nhà văn hóa lớn của dân tộc Đức. Ông đã có
công lao to lớn trong việc đấu tranh chống hệ tư tưởng phong kiến và phát
triển nền văn hóa nhân đạo nửa cuối thế kỉ XVIII. Không những vậy, ông
còn công kích những đặc quyền đẳng cấp, đã kêu gọi đấu tranh chống lại
chế độ nông nô và đã phát triển những quan điểm mỹ học tiên tiến. Cũng
như mọi nhà Khai sáng khác, Létxinh tuyên bố rằng quyền của con người
là được hưởng đời sống vui sướng và hạnh phúc trên trái đất. Tuy chưa đạt
19


tới chủ nghĩa vô thần triệt để nhưng ông đã bác bỏ uy quyền của “thánh
kinh”, mạt sát giới tăng lữ, coi những cái đó là thành trì của sự dốt nát và
của chủ nghĩa ngu dân. Những tư tưởng tiến bộ ngày càng được phát triển
xa hơn nữa trong các tác phẩm của Sinlơ và Gớt. Theo Séccnưxepski thì
hai ông đã hoàn thành sự nghiệp của Létxinh, là những đại biểu ưu tú nhất

của dân tộc Đức và của nền văn hóa nhân loại.
Sinlơ (1759 – 1805) là nhà thơ và nhà soạn kịch lỗi lạc không chỉ với
nước Đức mà còn với văn học thế giới. Ông đã kiên quyết vạch mặt chế độ
chuyên chế phong kiến, những đặc quyền đẳng cấp. Bằng ngòi bút sắc sảo
của mình, Sinlơ đã tấn công vào những quan niệm lạc hậu của chế độ
phong kiến, đóng vai trò tiến bộ trong sự nghiệp văn hóa nhân đạo chủ
nghĩa Đức và góp phần thúc đẩy tinh thần chống phong kiến trong các tầng
lớp tiên tiến của giới tri thức Đức. Cũng như những nhà Khai sáng tư sản
khác, Sinlơ tin tưởng sâu sắc rằng có thể hủy bỏ chế độ phong kiến nông nô
bằng sức mạnh của lí trí và giáo dục. Ông có thiện cảm với thời Di – rông –
đanh trong cách mạng Pháp, chống lại cuộc đấu tranh chống nền tảng
phong kiến. Trong mỹ học của Sinlơ, những quan điểm siêu hình trà trộn
với những yếu tố biện chứng duy tâm. Về mặt này, Sinlơ là người kế tục
mỹ học của I.Kant và là nhà tiền bối của Hêghen trong việc giải quyết
nhiều vấn đề thuộc về khoa học mỹ học.
Cùng với tên tuổi của Hécde và Létxinh, Gớt được biết đến là một tên
tuổi lỗi lạc của lịch sử triết học và lịch sử văn hóa Đức. Ông là lãnh tụ của
thi ca Đức và là nhà bách khoa xuất chúng. Gớt đã đưa ra nhiều tư tưởng
tiến bộ như kêu gọi mọi người nên sống một cách tự nhiên giản dị và nên
trừ bỏ những tập quán phong kiến lỗi thời. Những quan điểm về mỹ học
của ông thể hiện sự cố gắng của mình để xây dựng chủ nghĩa hiện thực
trong nghệ thuật. Đồng thời, Gớt cũng nêu lên nhiều dự đoán có tính chất
biện chứng trong lĩnh vực mỹ học.

20


Ngoài ra, những tác phẩm của Gớt về mặt khoa học tự nhiên cũng rất đặc
sắc. Những nghiên cứu của ông về thực vật học chứa đựng những dự đoán
xuất sắc đối với sự phát triển của giới thực vật. Trong khoa học giải phẫu so

sánh, Gớt đã có một phát minh xuất sắc. Ông khám phá ra xương giữa hai
xương hàm của người. Cái đó chứng minh sự liên hệ lịch sử giữa người với
động vật. Về địa chất học, ông chống lại thuyết thảm họa, theo thuyết đó thì
sự phát triển của trái đất bị gắn liền với những biến cố ngẫu nhiên, vô cớ.
Những biến cố này thường diễn ra theo chu kì làm thay đổi bộ mặt của trái đất
và phá hủy mối liên hệ giữa những giai đoạn khác nhau của đời sống trên trái
đất. Gớt chống lại những nhà kinh viện và đưa ra đề xuất phải nghiên cứu
hiện thực bằng cách xuất phát từ những quy luật sẵn có của nó. Điều này
chứng tỏ, ông đã đứng trên lập trường duy vật.
Bên cạnh những thành tựu về văn hóa, Tây Âu thời kì này còn đạt
nhiều thành tựu về khoa học tự nhiên. Việc phát minh ra điện, bản chất về
sự sống sau sự sụp đổ của học thuyết Phơlôdistôn, khoa học tự nhiên mặc
dù vẫn chưa bác bỏ được những “vật chất không có trọng lượng” khác như
là nhiệt, ánh sáng, tiếng động nhưng đã bắt đầu tiến tới chỗ khám phá ra
được rằng: nhiệt, ánh sáng, điện nói chung là tính muôn vẻ về chất của tự
nhiên, đều là những hình thức độc đáo của sự vận động của vật chất. Trong
hóa học, nhờ luật cấu tạo hóa học của các vật thể và nhất là nhờ quan hệ
giản đơn và phức tạp do Đantôn khám phá ra ở Anh, người ta đã giải thích
được rằng, những thay đổi về chất của các vật thể đều phải tùy thuộc vào
sự cấu tạo về lượng của chúng. Sự phân tích những quá trình hóa học dần
dần cũng làm lay chuyển quan niệm máy móc một chiều, coi vận động chỉ
là một sự chuyển dịch giản đơn của các vật thể, quan niệm này đã thống trị
trong khoa học lúc đó. Sự phát triển của khoa học về điện lại càng góp
phần là cho vấn đề sáng rõ thêm, những phát minh đó là: sự phát minh ra
điện âm và điện dương với tính cách là hai hình thái phân cực nhưng nằm
trong sự thống nhất bên trong của điện.
21


Quan niệm về sự phát triển ngày càng thâm nhập vào khoa học tự

nhiên. Năm 1755, I.Kant nêu ra giả thuyết nổi tiếng về sự phát sinh ra vũ
trụ. Ăngghen cho rằng, theo giả thuyết đó thì trái đất và hệ thống mặt trời
được coi như đã xuất hiện trong thời gian. “Phát minh của I.Kant đã khởi
điểm cho sự tiến bộ sau này. Nếu trái đất đã là kết quả của một quá trình
phát triển, thì trạng thái địa chất, địa lí và khí hậu ngày nay của nó, giới
thực vật và động vật của nó cũng phải như thế và trái đất phải có lịch sử
không chỉ trong không gian – dưới hình thức cái này xếp cạnh cái kia – mà
còn cả trong thời gian – dưới hình thức cái này sau cái khác” [2, 8]
Bên cạnh đó là sự nghiên cứu của nhà bác học lỗi lạc Curie về những
vật hóa thạch của động vật và thực vật nằm trong lòng trái đất đã chứng
minh, rằng trong giới động thực vật cũng có sự phát triển trong suốt quá
khứ địa chất của trái đất. Ở Pháp, Xanh Hylerơ và Buyp phông bênh vực
cho quan niệm tiến hóa luận của ông, thuyết này đã bắt chước về nhiều mặt
lý thuyết về sự phát triển sau này trong sinh học. Sự bác bỏ con người về
mặt sinh học đã giáng một đòn nặng vào quan niệm siêu hình cũ về vật chất
hữu cơ. Lật đổ thuyết đó là công lao của nhà bác học Đức Vônphơ. Ông trở
thành viện sĩ của Viện Hàn Lâm khoa học Nga. Nhưng Ăng ghen đã vạch
ra, vào đầu thế kỉ XIX các khoa học địa chất học, bào thai học, sinh lý học
thực vật và động vật, hóa học hữu cơ đã xây dựng đến mức độ đầy đủ…
Những phát minh khoa học trên chứng tỏ rằng, vào nửa cuối thế kỉ
XVIII đầu thế kỉ XIX, khoa học tự nhiên đã tạo ra cơ sở cho sự hình thành,
xây dựng phép biện chứng trở thành phương pháp luận triết học trong
nghiên cứu tự nhiên, xã hội.
1.2. Các giai đoạn phát triển của tư tưởng mỹ học I.Kant
I.Kant sinh ngày 22 tháng 04 năm 1724 tại Konigsberg, lúc đó là Phổ,
nay là Kaliningrad thuộc Nga và gần như sống suốt đời ở đó. I.Kant là
người con thứ tư của Johann Geore Kant (1683 – 1746), làm nghề chế biến
22



đai da và bà Anna Regina (1697 – 1737) thuộc họ Reuter. Ông có tám anh
chị em, nhưng chỉ bốn người đạt tuổi thành niên. Gia đình ông rất sùng đạo
với bà mẹ có một cái nhìn rất phóng khoáng về giáo dục. Tư tưởng của
I.Kant chịu ảnh hưởng lớn từ những người trong gia đình.
Năm 1732, I.Kant nhập học tại trường Friedrichskolle. Mùa thu năm
1740, ông đã bắt đầu chương trình cao học tại Albertina, đại học tại
Konigsberg. Mặc dù đăng kí bộ môn thần học nhưng I.Kant lại rất quan
tâm đến khoa học tự nhiên. Giáo sư bộ môn Luân lí học và Siêu hình học
Martin Knutzen giúp ông làm quen với học thuyết của Leibniz và Niutơn.
Năm 1748 I.Kant tạm đình chỉ chương trình học vì tác phẩm của ông “Tư
duy về sự cảm kích chân chính các lực có sức sống” không được vị thầy
sùng kính của mình là Knutzen công nhận là luận án tốt nghiệp.
Từ năm 1750 – 1753, ông rời Konigsberg đến Daniel Ernst Andersch
và mưu sinh bằng cách dạy học tại gia. Năm 1750, I.Kant trở thành một
nhà truyền đạo tại Judtschen, thuộc Gumbinnen, một thuộc địa Thụy Sĩ bao
gồm những dân di cư nói tiếng Pháp. Tại đây, I.Kant được mọi người trong
giáo khu biết đến là một giáo phụ. Sau đó, đến khoảng năm 1753, ông làm
thầy giáo tại gia ở trại điền của thiếu tá Bernhard Friedrich von Hulsen tại
Grob – Arnsdorf thuộc thành phố Mohrunger.
Chỗ làm việc thứ ba của ông nằm gần Konigsberg, tại gia đình
Keyserlingk ở lâu đài Waldbung – Capustigall. Gia đình này cũng giúp ông
gia nhập vào giới quý tộc tại Konigsberg.
Năm 1754, I.Kant trở về Konigsberg và tiếp tục chương trình đào tạo
đại học của mình (Knutzen lúc đó đã qua đời). Chỉ một năm sau đó, năm
1755 ông công bố tác phẩm quan trọng đầu tiên của mình với nhan đề
Thông sử tự nhiên và Thiên thể luận. Cũng trong năm đó ông được bổ
nhiệm phó giáo sư tại Konigsberg và bắt đầu dạy nhiều bộ môn. Ông dạy
các môn như luân lí, siêu hình, nhân loại, triết học đạo đức, địa lý học,
23



khoa học tự nhiên, toán, vật lý, lực, sư phạm và luật tự nhiên. Các giáo
trình rất được hâm mộ, trong đó có cả Johann Gottfried Hécde người đã
tham dự giáo trình trong những năm 1762 – 1764.
Năm 1762, ông đã từ chối lời mời của những trường đại học danh
tiếng với mức lương hậu hĩnh và những cơ hội nhậm chức để gắn bó suốt
đời với trường đại học Konigsberg. Trong hai năm 1786 và 1788, I.Kant là
hiệu trưởng trường đại học Konigsberg.
Năm 1787, ông được cử vào Học viện khoa học Phổ tại Berlin. 15 năm
cuối đời được đánh dấu bởi sự xung đột với Bộ kiểm tra chế độ với người
đứng đầu là vị bộ trưởng Bộ văn hóa giáo dục mới là Johann Christoph von
Wollner. I.Kant tiếp tục dạy học đến năm 1796 nhưng nhận chỉ thị là không
nên công bố các tác phẩm tôn giáo vì chúng bao hàm nội dung tư tưởng
Thần giáo tự nhiên, phản kháng thuyết Tam vị nhất thể vì như vậy không
phù hợp với Thánh kinh. Người bạn của ông, nhà phát hành của nguyệt san
Berlinischen Monatsschrift tại Berlin Johann Erich Biester, kiến nghị với
nhà vua về vấn đề này nhưng bị khước từ.
I.Kant thường được miêu tả là một vị giáo sư cứng nhắc, ép mình vào
một thời khóa biểu hằng ngày, luôn tập trung vào công việc vì rất có tinh
thần trách nhiệm. Ông còn là một người chơi bài khá giỏi thời sinh viên,
ông thậm chí còn kiếm tiền thêm bằng cách đánh billard. Ở những nơi hội
họp viếng thăm, ông được xem là một người ăn mặc hợp thời trang và tạo
ấn tượng của một người rất am tường sách vở và nhớ được vô số những
mẫu chuyện ngắn thú vị. Những mẫu chuyện đó thường được ông kể một
cách tỉnh khô với một thái độ khôi hài thật sự. Ông là người rất đam mê
nghệ thuật. Bản thân ông đã có nhiều tư tưởng quan trọng làm tiền đề cho
các chủ thuyết nghệ thuật thiên về hình thức sau này. Ông cho rằng, trong
mọi ngành mỹ thuật thì cái cốt yếu là ở trong hình thức có tính hợp mục
đích cho sự quan sát và phán đoán, là nơi sự sung sướng đồng thời là văn
24



hóa, đưa tâm hồn đến với những ý niệm làm cho tâm hồn tiếp nhân được
niềm vui sướng và thích thú một cách tràn trề chứ không phải trong chất
liệu cảm giác.
I.Kant còn góp ý cho những người bạn của mình, chẳng hạn như
Johann Gottfried Hécde được I.Kant cho là không làm việc đủ vì “bị lôi
kéo bởi một xoáy ốc phân tán giao lưu”. Chỉ khi bước vào tuổi 40 và sau
khi nhận thức được là phải giữ gìn sức lực, ông mới giữ thời gian biểu đều
đặn. Sáng sớm thức dậy lúc 5giờ và đi ngủ lúc 22 giờ10. Ông thường mời
bạn đến ăn trưa cùng và rất thích xã giao, nhưng lại tránh những chủ đề
triết học. Ngoài ra ông đi dạo mỗi ngày vào đúng 4 giờ chiều.
I.Kant sống gần như suốt đời tại Konigsberg. Và suốt đời sống độc
thân, ông qua đời ngày 12 tháng 04 năm 1804, thọ gần 80 tuổi.
I.Kant đã để lại cho nền triết học cổ điển Đức nói riêng và triết học
Đức nói chung nhiều tác phẩm có giá trị. Ngoài bộ ba tác phẩm nổi tiếng
là: Phê phán lí tính thuần túy (1781), Phê phán lí tính thực tiễn (1788) và
Phê phán năng lực phán đoán (1790), I.Kant còn là tác giả của nhiều tác
phẩm khác như Lịch sử tự nhiên đại cương và thuyết bầu trời (1755) và
Tiểu luận về mọi siêu hình học tương lai có quyền được tự coi là khoa học
(1783)…
Thế giới quan của I.Kant phát triển qua hai thời kì chính, mặc dù giữa
chúng có sự thống nhất nhất định. Ở “thời kì tiền phê phán” (1746 – 1770)
Kant chủ yếu nghiên cứu về các vấn đề toán học và khoa học tự nhiên với
nhiều phát minh nổi tiếng về các lĩnh vực này. Từ năm 1770 trở đi bắt đầu
“thời kì phê phán”, đây là thời kì ông có nhiều đóng góp to lớn cho kho
tàng triết học cổ điển Đức và triết học thế giới nói chung.
• Thời kì tiền phê phán:
Trong những tác phẩm của ông vào lúc gọi là “thời kì trước phê phán”


25


×