Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Tiểu luận vấn đề phát huy nhân tố con người trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế xã hội ở quảng bình hiện nayi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (231.74 KB, 32 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài khoá luận
Triết học đã nghiên cứu nhiều vấn đề, song vấn đề trung tâm của
nó, vấn đề con người vẫn luôn được đề cao. Điều đó thể hiện ngay trong
định nghĩa: “Triết học là hệ thống những lý luận chung nhất của con
người về thế giới, về vai trò của con người trong thế giới ấy”. Việc tìm
hiểu, nghiên cứu về thế giới chung quy lại đều phục vụ việc tìm hiểu
con người, phát triển con người. Xã hội loài người càng phát triển thì
vấn đề con người càng được đánh giá cao và tìm hiểu sâu sắc. Ví dụ như
thời cổ đại người ta tôn thờ những thế lực siêu nhiên, con người chỉ là
kẻ tôi tớ phụng sự ý trời. Nhưng đến thời hiện đại, con người đã trở
thành những kẻ chinh phục thế giới bằng trí tuệ và năng lực của mình. Ở
mỗi nấc thang phát triển của loài người, vấn đề con người lại được nhìn
nhận ở những khía cạnh, mức độ khác nhau. Ở thời đại hiện nay, vấn đề
con người là vấn đề trung tâm, quyết định đối với sự phát triển của một
đất nước. Và với Việt Nam thì vấn đề này càng trở nên cấp thiết do Việt
Nam đang trong quá trình đổi mới, thực hiện sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước theo xu hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ sở lý
luận của sự nghiệp đổi mới đó chính là tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ
nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nan cho mọi hoạt
động của toàn Đảng, toàn dân ta.
Trong thực tiễn của những năm qua, với việc áp dụng quan điểm
của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và triết học Mác - Lênin nói riêng
về vấn đề con người trong quá trình đổi mới, thực hiện sự nghịêp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo xu hướng xã hội chủ nghĩa; Việt
Nam đã đạt được những thành tựu to lớn rất đáng hoan nghênh. Vì vậy
1


việc khai thác, nghiên cứu triết học Mác-Lênin về vấn đề con người là
một nhiệm vụ hết sức quan trọng và cấp bách. Trong khi đó, trước yêu


cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, sự tác động của cơ chế
thị trường đang bộc lộ nhiều bất cập về con người cho sự phát triển đất
nước. Làm thế nào để phát huy có hiệu quả vai trò nhân tố con người
trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam hiện nay nói chung và
với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội ở Quảng Bình nói riêng? Đây là
vấn đề lý luận và thực tiễn quan trọng đang được nghiên cứu một cách
có hệ thống, cơ bản, kịp thời nhằm tìm kiếm giải pháp phù hợp. Do đó
để đánh giá đúng con người Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế - xã hội hiện nay phải dựa
trên những quan điểm, góc nhìn của triết học Mác - Lênin. Bởi nội dung
triết học Mác - Lênin về con người đề cập đến nhiều vấn đề đó là: Bản
chất của con người là tổng hoà của các mối quan hệ xã hội, mối quan hệ
giữa cá nhân và xã hội, vai trò của quần chúng nhân dân và cá nhân
trong lịch sử...Việc nắm vững và vận dụng tốt quan điểm triết học Mác Lênin về con người ở nước ta hiện nay là một công việc cực kỳ quan
trọng và cấp bách nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá. Đó là sự hiểu biết sâu sắc và vận dụng linh hoạt quan
điểm, tư tưởng của triết học Mác - Lênin nhằm xây dựng và phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao và chuẩn bị những con người có đầy đủ
năng lực và đạo đức cách mạng để phục vụ mục tiêu dân giàu nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đặc biệt với Quảng Bình là
một tỉnh ở khu vực Bắc Trung Bộ có nền kinh tế - xã hội còn nghèo,
điều kiện xây dựng và phát triển gặp nhiều khó khăn, trở ngại nên yêu
cầu của việc nghiên cứu đề ra những mục tiêu, chính sách đúng đắn để
phát triển đưa nền kinh tế - xã hội ở Quảng Bình đi lên là một nhiệm vụ
hết sức quan trọng và cấp bách.

2


Với ý nghĩa đó, tôi chọn: “Vấn đề phát huy nhân tố con người

trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội ở Quảng Bình
hiện nay” làm đề tài khoá luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của khoá luận
Vấn đề nghiên cứu con người Việt Nam từ lâu đã được đề cập đến
và là mối quan tâm chung của nhiều ngành khoa học, kể cả một số
ngành khoa học tự nhiên, công nghệ và các ngành khoa học xã hội nhân
văn. Từ mỗi góc độ của mình, các nhà khoa học chuyên ngành đã tiếp
cận được ở mức độ tương đối sâu sắc về các vấn đề liên quan đến con
người Việt Nam, tính cách dân tộc Việt Nam, đến việc giáo dục và phát
triển con người Việt Nam trong thời đại mới. Các công trình nghiên cứu
tiêu biểu như Xã thôn Việt Nam (Nxb Văn Sử Địa, Hà Nội, 1959) và
Tìm hiểu tính cách dân tộc (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1963) của
GS. Nguyễn Hồng Phong, Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc
Việt Nam của GS. Trần Văn Giàu (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1980);
…đã tập trung vào nghiên cứu những đặc điểm và giá trị của con người
Việt Nam truyền thống, từ giác độ của khoa học lịch sử, dân tộc học.
Các công trình đó đã hệ thống hoá và khái quát hoá hệ tư tưởng, hệ
thống đạo đức và tính cách của con người Việt Nam trong truyền thống
(bao gồm các mặt tích cực, tiêu cực). Từ đó các nhà nghiên cứu đã đặt
ra yêu cầu cấp thiết phải kế thừa và phát huy những giá trị, loại bỏ
những phản giá trị trong truyền thống để xây dựng, phát triển con người
Việt Nam trong điều kiện xã hội mới.
Trong thời kỳ đổi mới, thời kỳ đẩy mạnh quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI
(1986) đến nay, chúng ta đã thu được nhiều thành tựu mới trong việc
nghiên cứu con người Việt Nam. Chúng ta đã tìm hiểu, khám phá sâu
sắc hơn con người Việt Nam nhằm động viên, khai thác mạnh mẽ, hiệu
quả các tiềm năng của mỗi con người, mỗi tập thể lao động và của cả
3



cộng đồng dân tộc Việt Nam vào tiến trình đưa nước ta sớm ra khỏi tình
trạng kém phát triển, trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện
đại, vì mục tiêu “dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn
minh” tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, cũng như mở ra khả
năng mới để con người Việt Nam được phát triển phong phú, tự do, toàn
diện trong mối quan hệ hài hoà giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội
và tự nhiên. Thời gian qua đã có nhiều kết quả nghiên cứu trực tiếp hoặc
gián tiếp liên quan đến đề tài “Vấn đề phát huy nhân tố con người
trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội ở Quảng Bình
hiện nay”, là cơ sở cung cấp các nguồn tư liệu, số liệu giúp cho việc
thực hiện đề tài được thuận lợi và thành công nhất.Trước hết là các kết
quả nghiên cứu về con người Việt Nam được thể hiện qua các đề tài
nghiên cứu thuộc chương trình nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước giai
đoạn từ những năm 1990 đến nay: Chương trình nghiên cứu mang mã số
KX.07 “Con người là mục tiêu và động lực của phát triển kinh tế - xã
hội” (giai đoạn 1991 - 1995); chương trình khoa học xã hội mã số
KHXH - 04 “Phát triển văn hoá, xây dựng con người trong thời kỳ
CNH, HĐH đất nước” (giai đoạn 1996 - 2000); chương trình nghiên cứu
mang mã số KX05 “Phát triển văn hoá, con người và nguồn nhân lực
trong thời kỳ CNH, HĐH” (2001 - 2005); chương trình nghiên cứu
trọng điểm cấp Nhà nước mang mã số KX.03/06 - 10 “Xây dựng con
người và phát triển văn hoá Việt Nam trong tiến trình đổi mới và hội
nhập quốc tế” (2006 - 2010). Nhiều công trình nghiên cứu đã được xuất
bản thành sách phản ánh kết quả nghiên cứu của các đề tài thuộc chương
trình khoa học cấp Nhà nước nói trên. Tiêu biểu là các công trình: Các
giá trị truyền thống và con người Việt Nam hiện nay do GS. Phạm Huy
Lê và GS. TSKH Vũ Minh Giang (chủ biên), Chương trình KX07, Đề
tài KX07 - 02, Hà Nội, tập I - 1994, tập II - 1996; Công trình Về phát
triển toàn diện con người thời kỳ CNH, HĐH do GS, VS. Phạm Minh

4


Hạc chủ biên (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001)…Các công trình
này đã đề cập đến các phương hướng nghiên cứu con người, nguồn nhân
lực và phát triển nguồn lực con người Việt Nam cả trên bình diện lý
luận và thực tiễn; xác nhận tầm quan trọng của nhân tố con người trong
sự nghiệp đổi mới; phân tích thực trạng phát triển con người, phát triển
nguồn nhân lực và định hướng phát triển con người, phát triển nguồn
nhân lực trong thời kỳ xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế. Bên cạnh việc nghiên cứu về
con người Việt Nam nói chung, cũng đã có nhiều đề tài, sách báo, tạp
chí…bàn đến vấn đề con người Quảng Bình, các bài viết này chủ yếu
bàn về con người với tư cách là nguồn lực quan trọng, là mục tiêu trong
quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Quảng Bình hiện nay.
Với việc thực hiện nghiên cứu đề tài “Vấn đề phát huy nhân tố con
người trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội ở Quảng
Bình hiện nay” một mặt kế thừa kết quả nghiên cứu về con người Việt
Nam của các nhà nghiên cứu đi trước, mặt khác tập trung nghiên cứu
nội dung phát huy nhân tố con người trong mối tương quan với phát
triển văn hoá, kinh tế - xã hội ở Quảng Bình trong điều kiện đẩy mạnh
quá trình CNH, HĐH hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của đề tài là tiến hành nghiên cứu cơ bản, có hệ thống và
sâu hơn quan điểm triết học Mác - Lênin về con người. Từ đó vận dụng
những giá trị của triết học Mác - Lênin để làm sáng tỏ một số vấn đề có
tính quy luật nhằm phát huy nhân tố con người trong quá trình xây dựng
và phát triển kinh tế - xã hội ở Quảng Bình hiện nay. Để đạt được mục
đích trên, đề tài có các nhiệm vụ sau:
- Trình bày và làm rõ quan điểm của triết học, nhất là triết học

Mác-Lênin về vấn đề con người.

5


- Phân tích đặc điểm và vai trò của con người trong việc phát triển
kinh tế-xã hội hiện nay ở Quảng Bình. Từ đó đưa ra những giải pháp
chủ yếu nhằm phát huy nhân tố con người một cách có hiệu quả nhất,
thúc đẩy nền kinh tế - xã hội tỉnh nhà ngày một phát triển nhanh hơn,
bền vững hơn.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quán triệt quan điểm, đường lối đổi mới
của Đảng và Nhà nước, thành tựu khoa học hiện đại về vai trò con
người.
Vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, các phương pháp
cơ bản: Lôgic - lịch sử, quy nạp - diễn dịch, phân tích - tổng hợp...các
phương pháp cụ thể như: thống kê, so sánh...
5. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của khoá luận
- Quan điểm của triết học Mác - Lênin về con người.
- Con người Quảng Bình hiện nay trong quá trình xây dựng và phát
triển nền kinh tế - xã hội.
6. Đóng góp của khoá luận
Hệ thống hoá, xác định rõ khái niệm: con người, phát huy nhân tố
con người và một số khái niệm khác, từ đó khái quát giá trị lý luận và
thực tiễn của quan điểm triết học Mác - Lênin về con người. Làm nổi
bật đặc điểm, vai trò của con người ở Quảng Bình hiện nay trong quá
trình xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội.
7. Kết cấu của khoá luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, phần nội dung của khoá luận có 2
chương, 6 tiết.


6


Chương 1
KHÁI LUẬN CHUNG VỀ CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC
1.1 Quan niệm về con người trong triết học trước Mác
Có nhiều khoa học nghiên cứu về con người, và tiếp cận theo cách
riêng của mình. Tuy nhiên, nếu có khoa học chuyên ngành nhận thức
con người bằng cách chia hệ thống thành yếu tố thì ngược lại, triết học
nghiên cứu con người bằng cách tổng hợp các yếu tố thành hệ thống.
Trong sự phát triển của triết học, có nhiều quan niệm khác nhau về
bản chất con người. Các nhà triết học thời cổ đại xem con người là vũ
trụ thu nhỏ. Triết học tôn giáo xem con người là một thực thể nhị
nguyên, là sự kết hợp giữa tinh thần và thể xác. Các học thuyết triết học
duy tâm tuyệt đối hoá hoạt động của đời sống tinh thần, điển hình là hệ
thống triết học duy tâm của Hê-ghen. Ông cho rằng con người là hiện
thân của ý niệm tuyệt đối, là bước cuối cùng của cuộc diễn hành của ý
niệm tuyệt đối trên trái đất. Phơ-bách, một nhà triết học duy vật siêu
hình, đã tuyệt đối hoá mặt sinh học của con người, chia cắt con người
khỏi đời sống xã hội. Vì vậy, ông cũng không giải thích được nguồn gốc
thực sự của ý thức con người.
Như vậy, triết học trước Mác về căn bản đã giải thích bản chất con
người trên lập trường duy tâm, do đó, không giải thích được nguồn gốc,
bản chất thật sự của tồn tại người. Mặc dù vậy, nó vẫn đóng góp được
những thành tựu làm tiền đề cho khoa học nghiên cứu về con người.
1.2 Quan niệm về con người trong triết học Mác - Lênin
1.2.1 Bản chất con người
 Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật và
mặt xã hội

Là động vật cao cấp nhất, tinh hoa của muôn loài, con người là
sản phẩm của quá trình phát triển hết sức lâu dài của thế giới tự nhiên.
7


Tuy nhiên, cần khẳng định rằng, mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy
nhất quy định bản chất con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa
con người với thế giới loài vật là phương diện xã hội của nó.
Với phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác nhận thức
vấn đề con người một cách toàn diện, cụ thể, trong toàn bộ tính hiện
thực xã hội của nó, mà trước hết là lao động sản xuất ra của cải vật chất.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã nêu lên vai trò của lao động sản xuất ở con
người: “Có thể phân biệt con người với súc vật, bằng ý thức, bằng tôn
giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt
đầu bằng sự tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản
xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình - đó là một bước tiến do tổ
chức cơ thể của con người quy định. Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt
của mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật
chất của mình”[16,29]. Thông qua hoạt động sản xuất vật chất, con
người đã làm thay đổi, cải biến giới tự nhiên: “Con vật chỉ sản xuất ra
bản thân nó, còn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên” [19,
137].
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và
phát triển của con người luôn luôn bị quyết định bởi ba hệ thống quy
luật khác nhau, nhưng thống nhất với nhau. Hệ thống các quy luật tự
nhiên như quy luật về sự phù hợp cơ thể với môi trường, quy luật về sự
trao đổi chất, về di truyền, biến dị, tiến hoá...quy định phương diện sinh
học của con người. Hệ thống các quy luật tâm lý hình thành và vận động
trên nền tảng sinh học của con người như hình thành tình cảm, khát
vọng, niềm tin, ý chí. Hệ thống các quy luật xã hội quy định quan hệ xã

hội giữa người với người.
Với phương pháp luận duy vật biện chứng, chúng ta thấy rằng
quan hệ giữa mặt sinh học và mặt xã hội, cũng như nhu cầu sinh học và
nhu cầu xã hội trong mỗi con người là thống nhất. Mặt sinh học là cơ sở
8


tất yếu tự nhiên của con người, còn mặt xã hội là đặc trưng bản chất để
phân biệt con người với loài vật. Nhu cầu sinh học phải được “nhân
hoá” để mang giá trị văn minh con người, và đến lượt nó, nhu cầu xã hội
không thể thoát ly khỏi tiền đề của nhu cầu sinh học. Hai mặt trên thống
nhất với nhau, hoà quyện vào nhau để tạo thành con người viết hoa, con
người tự nhiên - xã hội.
 Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng
hoà các quan hệ xã hội
Một con người bao hàm trong nó ba quan hệ: quan hệ với tự nhiên,
quan hệ với xã hội và quan hệ với bản thân con người đó. Quan hệ với
tự nhiên trong đời sống hàng ngày được biểu hiện qua các hoạt động có
tính xã hội như lao động chế biến, đánh bắt, nuôi trồng… Chính vì vậy
có thể nói quan hệ con người với con người là mối quan hệ bản chất,
quy định bản chất con người.
Để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, C.Mác đã nêu lên
luận đề nổi tiếng trong tác phẩm Luận cương về Phoiơbắc: “Bản chất
con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng
biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những
quan hệ xã hội” [16, 11]. Luận đề này khẳng định rằng, không có con
người trừu tượng, thoát ly mọi điều kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội. Con
người luôn luôn cụ thể, xác định, sống trong một điều kiện lịch sử cụ thể
nhất định, một thời đại nhất định. Trong điều kiện lịch sử đó, bằng hoạt
động thực tiễn của mình, con người tạo ra những giá trị vật chất và tinh

thần để tồn tại và phát triển cả thể lực và tư duy trí tuệ. Chỉ trong toàn
bộ các mối quan hệ xã hội đó con người mới bộc lộ toàn bộ bản chất xã
hội của mình.
 Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử
Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn
tại con người. Bởi vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến
9


hoá lâu dài của giới hữu sinh. Song, điều quan trọng là ở chỗ con người
không chỉ là sản phẩm mà còn là chủ thể của lịch sử, tạo nên lịch sử cho
mình một cách có ý thức. C.Mác đã khẳng định: “Cái học thuyết duy vật
chủ nghĩa cho rằng con người là sản phẩm của những hoàn cảnh và của
giáo dục...cái học thuyết ấy quên rằng chính những con người làm thay
đổi hoàn cảnh và bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo
dục”[16, 10]. Qua đó Mác khẳng định, tự bản thân con người làm thay
đổi điều kiện sống của mình, Con người lao động, tác động vào giới tự
nhiên làm thay đổi môi trường sinh thái, tạo ra của cải vật chất phục vụ
đời sống, làm thay đổi điều kiện kinh tế - xã hội.
1.2.2 Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội
 Khái niệm cá nhân
Xét về mặt xã hội, cá nhân là một thực thể xã hội, cá nhân là cá thể
người được hình thành và phát triển trong lịch sử, là chủ thể của lao
động của mọi quan hệ xã hội và là chủ thể của nhận thức. Cá nhân là
một con người hoàn chỉnh trong sự thống nhất của những khả năng
riêng có của người đó với chức năng xã hội mà người đó thực hiện.
Trong mối quan hệ với xã hội, cá nhân thể hiện là một chỉnh thể đơn
nhất, độc đáo có vai trò chủ thể trong lịch sử.
Với tư cách là một thực thể có tâm lý, ý thức, mỗi cá nhân có một
bản sắc độc đáo riêng. Bản sắc độc đáo ấy thể hiện qua “nhân cách” của

cá nhân. Nhân cách là toàn bộ những năng lực và phẩm chất của cá nhân
tạo thành một chỉnh thể đóng vai trò chủ thể tự ý thức, tự đánh giá, tự
khẳng định, tự điều chỉnh mọi hoạt động của mình. Nhân cách không
phải là cái trời phú cho, cũng không phải là cái bẩm sinh của cơ thể sinh
học. Nhân cách được hình thành và phát triển phụ thuộc vào các yếu tố
như: yếu tố sinh học, yếu tố môi trường, hoạt động của cá nhân.
 Quan hệ giữa cá nhân và xã hội

10


Theo quan điểm của triết học Mác - Lênin, trong bất cứ giai đoạn
nào, cá nhân cũng không thể tách rời khỏi xã hội. Quan hệ cá nhân - xã
hội luôn vận động, biến đổi và phát triển, trong đó sự thay đổi càng rõ
khi có sự thay thế hình thái kinh tế - xã hội này bằng hình thái kinh tế xã hội khác.
Quan hệ giữa cá nhân và xã hội biến đổi trong sự phát triển của
lịch sử. Điều đó không chỉ liên quan đến trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất, trình độ văn hoá, văn minh mà liên quan tới sự thay đổi
của phương thức sản xuất, của hình thái kinh tế - xã hội. Chỉ khi cách
mạng làm thay đổi hình thái kinh tế - xã hội thì quan hệ cá nhân và xã
hội mới có sự thay đổi căn bản.
Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội có những nội dung thống nhất
với quan hệ giữa cá nhân và tập thể, chúng đều dựa trên cơ sở lợi ích,
biểu hiện mối quan hệ giữa cái bộ phận với cái toàn thể, giữa khách
quan và chủ quan.
Mặt khách quan biểu hiện ở trình độ phát triển của xã hội về nhiều
mặt. Mặt chủ quan biểu hiện ở năng lực nhận thức và vận dụng quy luật
xã hội phù hợp với mục đích của con người. Do vậy, việc tổ chức các
hoạt động xã hội có vai trò to lớn trong việc kết hợp giữa mặt khách
quan và mặt chủ quan sao cho xã hội được tiến bộ và mỗi cá nhân được

tồn tại và phát triển nhân cách một cách hài hoà.
1.2.3 Vai trò của quần chúng nhân dân và cá nhân trong lịch sử
 Khái niệm
Quần chúng nhân dân là bộ phận có cùng chung lợi ích căn bản,
bao gồm những thành phần, những tầng lớp và những giai cấp, liên kết
lại thành tập thể dưới sự lãnh đạo của một cá nhân, tổ chức hay đảng
phái nhằm giải quyết những vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội của một
thời đại nhất định.

11


Vĩ nhân là những cá nhân kiệt xuất có khả năng thâu tóm, nắm
bắt được những vấn đề cơ bản nhất, tiếp cận và đạt được những thành
tựu nhất định của nhận thức khoa học và thực tiễn như hoạt động chính
trị, khoa học, kỹ thuật...
Lãnh tụ là những vĩ nhân kiệt xuất, người lãnh đạo, định hướng và
thống nhất hoạt động của quần chúng nhân dân, có những phẩm chất cơ
bản về tri thức, đạo đức và khả năng tập hợp quần chúng...
 Quan hệ giữa quần chúng nhân dân với lãnh tụ
Thứ nhất, tính thống nhất giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ.
Thứ hai, quần chúng nhân dân và lãnh tụ thống nhất trong mục
đích và lợi ích của mình.
Thứ ba, sự khác biệt giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ biểu hiện
trong vai trò khác nhau của sự tác động đến lịch sử.
1.3 Một số vấn đề về con người trong quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá
Thứ nhất, trong công cuộc đổi mới đất nước, trong điều kiện mới
của khu vực vào thế giới, con người Việt Nam vẫn luôn gắn bó mật thiết
với những giá trị văn hoá truyền thống, với những phẩm giá của dân tộc

mà điểm nổi bật là tinh thần yêu nước, ý thức độc lập dân tộc, tự lực, tự
cường, đoàn kết vì đại nghĩa dân tộc. Biểu hiện của điểm mạnh này là
thái độ tích cực của mỗi công dân trước vận mệnh của Tổ quốc, trước
các chuyển đổi về kinh tế, xã hội hiện nay.
Thứ hai, con người Việt Nam vẫn luôn thể hiện đức tính cần cù,
sáng tạo, trong mọi hoạt động. Đức tính này là một giá trị đặc trưng,
chiếm vị trí xứng đáng trong bảng giá trị về nhân cách của con người
Việt Nam. Thái độ tích cực của con người Việt Nam trong định hướng
và lựa chọn giá trị này là điều kiện hết sức thuận lợi cho công tác giáo
dục, từ giáo dục truyền thống, lối sống đến giáo dục đạo đức, nhân cách

12


con người hiện đại…nhằm phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước.
Thứ ba, nét đặc trưng của đời sống tinh thần, của phẩm giá của con
người Việt Nam là truyền thống cộng đồng, lòng nhân ái, những tình
cảm vị tha và khoan dung…vẫn được giữ vững, phát huy trong điều
kiện mới của đất nước. Những giá trị mang tính nền tảng cốt lõi ấy là cơ
sở để phát triển tính nhân văn và xây dựng văn hoá Việt Nam hiện đại,
tiên tiến, mang bản sắc dân tộc. Có thể khẳng định rằng, đây là một
thuận lợi căn bản để chúng ta thực hiện chương trình văn hoá trong toàn
xã hội đối với các thế hệ con người Việt Nam hiện nay và mai sau.
Thứ tư, con người Việt Nam vẫn giữ được truyền thống hiếu học,
tôn sư trọng đạo và sự hình thành, phát triển các giá trị mới của văn hoá
và con người đã chứng minh sự kết hợp giữa truyền thống với hiện đại
trong thời kỳ đổi mới và đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước.
Thứ năm, trong công cuộc đổi mới, mô hình gia đình truyền thống

đang có những biến đổi lớn, phức tạp do sự tác động của kinh tế hàng
hoá, cơ chế thị trường, do những biến đổi của xã hội đang quá độ lên
chủ nghĩa xã hội…Tuy vậy, những giá trị tinh thần, đạo lý của gia đình
truyền thống vẫn được giữ vững, có ảnh hưởng tích cực trong đời sống
gia đình Việt Nam, vẫn là nhân tố quan trọng đảm bảo sự ổn định và
phát triển bền vững của xã hội.
Chương 2
XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở QUẢNG
BÌNH HIỆN NAY VỚI VIỆC PHÁT HUY NHÂN TỐ CON
NGƯỜI

13


2.1 Khái quát về tình hình Quảng Bình trong thời kỳ hiện nay
Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Bình lần thứ XIV đã đề ra nhiệm vụ,
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010 là: “…, phát huy
mọi nguồn lực, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, phát triển kinh tế - xã hội nhanh và vững chắc, đưa tỉnh ta ra khỏi
tình trạng tỉnh nghèo, phấn đấu đến năm 2010 cơ bản đạt trình độ phát
triển ngang mức trung bình của cả nước…”. Hội đồng nhân dân tỉnh đã
ra Nghị quyết số 39/2005/NQ-HĐND ngày 9/12/2005 về nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010. Trên cơ sở đó, UBND tỉnh đã
tổ chức triển khai các giải pháp chỉ đạo thực hiện kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Bình thời kỳ 2006 - 2010.
Thời kỳ này, mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức,
đặc biệt năm 2008 và năm 2009, cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu gây
nhiều biến động khó lường, năm 2007 và năm 2010 chịu ảnh hưởng
nặng nề của thiên tai, lũ lụt và những khó khăn của nền kinh tế trong
nước, trong tỉnh, nhưng được sự quan tâm giúp đỡ của Chính phủ, các

bộ, ngành Trung ương, sự chỉ đạo sát đúng của Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân
dân, UBND tỉnh và sự nỗ lực phấn đấu của các ngành, các cấp nên nền
kinh tế của tỉnh vẫn phát triển ổn định, tốc độ tăng trưởng khá, các chỉ
tiêu cơ bản hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch; cơ cấu kinh tế
chuyển dịch đúng hướng, chất lượng, hiệu quả nền kinh tế từng bước
được nâng lên; cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội được cải thiện rõ rệt; các
lĩnh vực văn hoá - xã hội có nhiều tiến bộ, đời sống nhân dân từng bước
được cải thiện, công tác xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm và thực
hiện các chính sách xã hội đạt kết quả khá; an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội tiếp tục được giữ vững; công tác quản lý tài nguyên môi
trường được tăng cường.
2.1.1 Kinh tế
Về tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
14


Tốc độ tăng trưởng bình quân 5 năm 2006 - 2010 đạt 10,7% là giai
đoạn có mức tăng trưởng kinh tế cao nhất từ trước đến nay, cao hơn
2,14% so với thời kỳ 2001 - 2005. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu
nội bộ từng ngành kinh tế tiếp tục có bước chuyển biến tích cực: tỷ
trọng nông, lâm, ngư nghiệp, tăng dần tỷ trọng công nghiệp - xây dựng
và các ngành dịch vụ; tăng tỷ trọng chăn nuôi trong nông nghiệp, sản
xuất nông nghiệp từng bước gắn với thị trường và chế biến.
Công tác quy hoạch
Công tác quy hoạch đạt được nhiều kết quả, nhận thức và tầm nhìn
quy hoạch ngày càng được nâng lên. Đã tích cực phối hợp với các Viện
nghiên cứu, các nhà tư vấn trong nước và quốc tế trong việc xây dựng
quy hoạch nhằm nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, đảm bảo tầm
nhìn xa, có trọng tâm, trọng điểm nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh
tế - xã hội, nhất là đáp ứng yêu cầu kêu gọi, thu hút các dự án đầu tư vào

địa bàn tỉnh.
Nông, lâm, ngư nghiệp
Giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp thời kỳ 2006 - 2010 tăng
bình quân hàng năm 5,45%. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp có bước chuyển
dịch đáng kể. Bộ mặt nông nghiệp, nông thôn ngày càng khởi sắc; các
yếu tố của một nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển.
Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân hàng năm 19,0%/năm,
là mức cao nhất từ trước đến nay. Ngành công nghiệp bước đấu đã được
khẳng định là ngành trọng tâm có bước tiến khá rõ nét trong việc cơ cấu
lại sản xuất, đổi mớí công nghệ hiện đại. Đã hình thành được một số
ngành công nghiệp chủ lực như: sản xuất vật liệu xây dựng, mà trọng
tâm là xi măng, gạch ngói, sản xuất bia, chế biến gỗ…Cơ sở hạ tầng các
khu, cụm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp được đầu tư khá đồng bộ.
Cơ cấu sản xuất công nghiệp có sự chuyển đổi phù hợp, tỷ trọng công
15


nghiệp nhà nước giảm, tỷ trọng công nghiệp ngoài nhà nước tăng, các
cơ sở công nghiệp ngoài nhà nước được khuyến khích phát triển.
Các ngành dịch vụ
Các ngành dịch vụ phát triển mạnh đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu
cầu phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao đời sống nhân dân trên địa
bàn tỉnh. Giá trị tăng thêm ngành dịch vụ tăng bình quân hàng năm thời
kỳ 2006 - 2010 là 11,6%.
Đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng
Nhờ việc tập trung huy động mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển,
hệ thống kết cấu hạ tầng của tỉnh từng bước được hình thành đồng bộ
bao gồm đường sắt, đường bộ, đường thuỷ và đường hàng không; từ
đồng bằng đến miền núi, vùng cao. Nhiều công trình, dự án trọng điểm,

quy mô lớn được đưa vào khai thác sử dụng góp phần thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội nhanh.
Kinh tế đối ngoại và xúc tiến đầu tư
Hoạt động kinh tế đối ngoại tiếp tục thu được nhiều kết quả, quan
hệ hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế được mở rộng, đặc biệt là
quan hệ hợp tác với các tỉnh lân cận của nước bạn Lào và vùng Đông
Bắc Thái Lan.
Tài nguyên môi trường
Công tác quản lý sử dụng đất theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất giai đoạn 2001 - 2010 đã thực hiện có hiệu quả.
Công tác quản lý, bảo vệ môi trường ngày càng được chú trọng,
chất lượng công tác thẩm định đánh giá tác động môi trường được nâng
lên.
Công tác quản lý tài nguyên khoáng sản, tài nguyên nước tiếp tục
được tăng cường, từng bước khắc phục tình trạng khai thác khoáng sản
trái phép. Đã hoàn thành Quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến

16


khoáng sản; quy hoạch thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên nước đến
năm 2020.
2.1.2 Văn hoá - xã hội
Giáo dục - đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
Giáo dục - đào tạo tiếp tục được sự quan tâm đầu tư của toàn xã
hội. Chất lượng giáo dục - đào tạo đã có sự chuyển biến tương đối toàn
diện, cả ở diện đại trà và mũi nhọn. Mạng lưới trường, lớp tiếp tục được
sắp xếp hợp lý, đội ngũ giáo viên được bổ sung về số lượng, nâng cao
về chất lượng. Công tác hướng nghiệp, dạy nghề phổ thông được quan
tâm, công tác kiểm tra, đánh giá, thi cử có nhiều cải tiến, đổi mới theo

hướng nghiêm túc, khách quan; công tác phổ cập giáo dục được đẩy
mạnh.
Khoa học và công nghệ
Hoạt động khoa học - công nghệ tiếp tục được đẩy mạnh, các đề
tài nghiên cứu khoa học đã đóng góp các luận cứ khoa học phục vụ
hoạch định các chủ trương, chính sách, quy hoạch, góp phần thúc đẩy
phát triển kinh tế - xã hội và sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
trên địa bàn tỉnh.
Văn hoá, thể thao và thông tin truyền thông
Sự nghiệp phát triển văn hoá chuyển biến tích cực, góp phần tích
cực trong việc tuyên truyền chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng,
Nhà nước. Nhiều hoạt động văn hoá, lễ hội được gắn với các phong trào,
chương trình hành động trên các lĩnh vực đã khơi dậy lòng tự hào về
truyền thống cách mạng của quê hương, đất nước. Các hoạt động được
tổ chức thiết thực góp phần quảng bá hình ảnh Quảng Bình với cả nước
và bạn bè quốc tế.
Giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo và thực hiện chính
sách xã hội

17


Trên cơ sở triển khai tốt các chương trình kinh tế trọng điểm, công
tác xoá đói giảm nghèo được các cấp, các ngành triển khai tích cực và
đã trở thành phong trào sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân, doanh
nghiệp. Đã tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ nghèo vay vốn giải quyết
việc làm. Nhờ đó đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện, đời sống vật
chất và tinh thần được nâng lên, đặc biệt là đồng bào dân tộc, vùng núi,
vùng sâu, vùng xa. Tỷ lệ hộ nghèo giảm rõ rệt, bình quân hàng năm
giảm 3,99%.

2.1.3 Quốc phòng - an ninh
Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, an ninh quốc gia và trật tự
an toàn xã hội, tạo điều kiện thuận lợi đẩy mạnh công cuộc đổi mới,
phát triển kinh tế - xã hội. Lực lượng vũ trang địa phương đã chủ động
đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù
địch; xử lý kịp thời, có hiệu quả các tình huống gây mất ổn định trên địa
bàn; thực hiện tốt vai trò nòng cốt trong bảo vệ an ninh chính trị, trật tự
an toàn xã hội, phòng chống lụt bão - tìm kiếm cứu nạn; tích cực phòng
ngừa và đẩy lùi tệ nạn xã hội, ngăn ngừa tai nạn giao thông; bảo đảm an
toàn tuyệt đối cho các hoạt động lễ hội trong các ngày lễ lớn của dân
tộc, của tỉnh.
2.2 Đặc điểm và vai trò của nhân tố con người Quảng Bình
trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội hiện nay
2.2.1 Đặc điểm của nhân tố con người Quảng Bình trong quá
trình phát triển kinh tế - xã hội hiện nay
Từ xa xưa, Quảng Bình đã là mảnh đất địa linh nhân kiệt, nơi sinh
ra nhiều nhân tài cho quê hương, đất nước, tiêu biểu là: Nguyễn Hữu
Cảnh, Võ Nguyên Giáp, Hàn Mặc Tử, Dương Văn An…Ngày nay, con
người Quảng Bình là những con người năng động, có tài, có năng lực;
nhiều người giữ vị trí lãnh đạo quan trọng của đất nước, nhiều người có
mức học hàm học vị cao, nhiều tài năng trẻ trong các lĩnh vực toán học,
18


vật lý…Mặc dù cuộc sống ngày càng phức tạp, nhiều vấn đề nảy sinh
làm ảnh hưởng đến đời sống, phẩm chất của con người, vậy nhưng con
người Quảng Bình vẫn giữ được nét đặc điểm truyền thống tốt đẹp của
con người Việt Nam, và bên cạnh đó là sự tiếp thu những cái mới làm
cho con người ngày một năng động, sáng tạo hơn. Đây chính là thuận
lợi lớn đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Quảng Bình. Để

phát huy tốt nhất nguồn lực nhân tố con người, trước hết chúng ta phải
đi sâu tìm hiểu đặc điểm của con người Quảng Bình trong giai đoạn hiện
nay:
Thứ nhất, có nguồn lao động dồi dào với 425.171 người chiếm
52.51% dân số, trong đó tỷ lệ lao động trẻ tương đối cao, phần lớn đã
được qua đào tạo Đây là một tiền đề quan trọng tạo điều kiện tiếp thu
các kiến thức kỹ năng nghề nghiệp, kể cả những ngành nghề mới. Lực
lượng lao động có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ được đào tạo chưa
cao. Theo điều tra dân số thời điểm 1/4/1999 có 10.720 người có trình
độ từ cao đẳng trở lên, trong đó 4.676 cao đẳng, 6.042 đại học và trên
đại học. Lực lượng lao động đã qua đào tạo gần 33.000 người chiếm 8%
số lao động.
Thứ hai, người Quảng Bình có truyền thống hiếu học, thông minh
cần cù lao động, là quê hương “hai giỏi” đã được Bác Hồ khen ngợi.
Truyền thống đó cần được nuôi dưỡng và phát huy làm cơ sở cho việc
nắm bắt, tiếp thu và vận dụng một cách nhanh chóng, sáng tạo những
phát minh, sáng kiến khoa học của nhân loại phục vụ cho quá trình phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh nhà.
Thứ ba, trình độ dân trí ngày càng được nâng cao. Trong thời đại
công nghệ phát triển như hiện nay, buộc tỉnh ta phải có những chính
sách phát huy tiềm năng con người để nâng cao trình độ cho nguồn nhân
lực. Tuy nền giáo dục tỉnh ta chưa phát triển cao nhưng nó đang tích cực
đổi mới theo hướng thúc đẩy thực hành, bám sát thực tiễn hơn.
19


Thứ tư, năng động, sáng tạo, chủ động nắm bắt thời cơ. Bước vào
thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, Quảng Bình đang đứng trước nhiều cơ
hội và nhiều thách thức. Con người Quảng Bình cần chủ động nắm bắt
thời cơ làm giàu cho bản thân và xã hội. Đặc biệt trong giới doanh nhân

đã có nhiều gương sáng tạo, năng động, chỉ đi từ đơn giản, “khác người”
mà làm nên sự nghiệp. Giới trẻ Quảng Bình hôm nay rất năng động,
thâm nhập vào tất cả các lĩnh vực từ khi còn rất sớm. Họ là những người
chủ tương lai của tỉnh nhà, của đất nước và họ đang tự hoàn thiện mình
để đưa lại cho Quảng Bình một gương mặt mới, Quảng Bình vừa đậm
đà bản sắc dân tộc, vừa mang hơi hướng hiện đại.
Nhưng bên cạnh đó, nguồn nhân lực ở Quảng Bình có những hạn
chế, những điểm yếu kém sau đây:
Thứ nhất, số người lao động được đào tạo quá ít, đây là trở ngại lớn
nhất khi tiến hành phát triển kinh tế - xã hội, đổi mới bộ mặt tỉnh nhà.
Thứ hai, đội ngũ cán bộ khoa học trẻ quá ít, vì vậy việc chuẩn bị
cho đội ngũ trí thức kế cận sẽ gặp không ít khó khăn.
Thứ ba, việc bố trí sử dụng cán bộ còn nhiều việc bất hợp lý giữa
các vùng, các ngành.
Thứ tư, thể chất, sức khoẻ của thanh niên còn rất nhiều hạn chế. Sự
phát triển về phương diện sinh lý và thể lực dường như chững lại.
Thứ năm, người lao động tỉnh ta nói chung chưa có nếp lao động
công nghiệp, quen theo kiểu sản xuất nhỏ, lao động giản đơn còn gò bó
trong nếp sống phương đông, cha truyền con nối.
2.2.2 Vai trò của nhân tố con người Quảng Bình trong quá
trình phát triển kinh tế - xã hội hiện nay
Nói đến phát triển kinh tế - xã hội là nhằm mục đích phát triển
nhanh và bền vững tất cả các lĩnh vực như công nghiệp, nông nghiệp,
dịch vụ...,tiếp cận và ứng dụng có hiệu quả các khoa học - công nghệ
tiên tiến, hiện đại để phát triển toàn diện con người, nâng cao đời sống
20


xã hội. Ở Quảng Bình, việc phát triển kinh tế - xã hội cũng không ngoài
mục đích nói trên, nhằm mục đích đưa tỉnh nhà phát triển đi lên để bắt

kịp với nhịp độ phát triển chung của nền kinh tế - xã hội cả nước và rút
ngắn sự tụt hậu so với thế giới.
Về mặt kinh tế, nguồn lực con người xem xét chủ yếu dưới góc độ
là lực lượng lao động cơ bản của xã hội, cả trong hiện tại và tương lai.
Nó chủ yếu cần được quan tâm về mặt chất lượng con người bao gồm cả
thể chất và tinh thần, sức khoẻ và trí tuệ, năng lực và phẩm chất, tức là
toàn bộ năng lực sáng tạo, năng lực hoạt động thực tiễn của con người.
Vai trò của người lao động được V.I.Lênin nhấn mạnh là lực lượng sản
xuất hàng đầu của nhân loại. Con người là một đầu vào trực tiếp của quá
trình sản xuất. Nếu người lao động có kỹ năng lao động, trình độ khoa
học - kĩ thuật thì hiển nhiên là năng suất lao động sẽ cao hơn. Con người
là chủ thể khai thác, sử dụng các nguồn lực khác, chỉ khi kết hợp với
con người, các nguồn lực khác mới phát huy tác dụng. Mặt khác, con
người lại là khách thể, là đối tượng khai thác các năng lực thể chất và trí
tuệ cho sự phát triển. Vậy con người vừa là chủ thể vừa là khách thể của
các quá trình kinh tế - xã hội, là nguồn lực của mọi nguồn lực. Trong
các yếu tố phát triển bền nhanh và bền vững thì nguồn lực con người là
yếu tố cơ bản nhất. Bởi lẽ nguồn lực con người Quảng Bình với đức tính
cần cù, sáng tạo khi đã có trình độ văn hoá, kỹ thuật, nghiệp vụ cao, có
tay nghề vững sẽ là yếu tố quyết định để tạo ra phương pháp và công
nghệ hiện đại. Nguồn lực con người là điều kiện, là yếu tố quyết định
hàng đầu. Sự kết hợp thống nhất biện chứng giữa con người với công
nghệ tiên tiến sẽ là động lực cơ bản của tăng trưởng kinh tế.
Trên đây con người được xem xét là phương tiện, là động lực cơ
bản và bền vững của sự tăng trưởng kinh tế. Kinh tế tăng trưởng mang
lại sự giàu có về vật chất, suy cho cùng, không ngoài mục đích đáp ứng

21



tốt hơn các nhu cầu sống của bản thân con người. Vậy, con người không
chỉ là động lực mà còn là mục tiêu cuối cùng của phát triển kinh tế.
Về mặt xã hội, tỉnh ta chủ trương phải thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội, xoá đói giảm nghèo, lấy chỉ số phát triển con người làm
mục tiêu cao nhất của sự phát triển xã hội. Ở đây, vị trí trung tâm của
con người nổi lên với tư cách là mục tiêu cao nhất của sự phát triển xã
hội. Mục tiêu của phát triển bền vững chủ yếu không phải là tạo ra nhiều
hàng hóa, của cải mà nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống con người,
không phân biệt tầng lớp, chủng tộc, giới tính, vùng miền. Sẽ là không
công bằng và cũng không thể thực hiện được việc quan tâm tới các thế
hệ tương lai trong việc thoả mãn các nhu cầu của họ nếu chúng ta lại bỏ
qua nhu cầu của các thế hệ con người hiện nay. Khi con người còn chưa
được đáp ứng những nhu cầu trước mắt, họ sống trong nghèo đói, đó là
nguy cơ lớn đe dọa môi trường tự nhiên. Cạm bẫy đói nghèo lại tạo ra
cái vòng luẩn quẩn cho cả con em họ - các thế hệ tương lai. Khi mà đói
nghèo vẫn còn hiện diện thì cuộc đấu tranh chống đói nghèo là mục tiêu
trọng tâm của phát triển bền vững về xã hội.
Như vậy, nói đến nguồn lực phát triển bao gồm: nguồn lực thiên
nhiên (vị trí địa lý, môi trường, tài nguyên, khoáng sản); nguồn lực về
vốn, tín dụng, khoa học công nghệ…thì nguồn lực con người đóng vai
trò quyết định nhất. Bởi vì:
Thứ nhất, các nguồn lực khác như vốn, tài nguyên thiên nhiên, vị
trí địa lý…tự nó chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng. Chúng chỉ phát huy tác
dụng và có ý nghĩa tích cực xã hội khi được kết hợp với nguồn lực con
người thông qua hoạt động có ý thức của con người.
Thứ hai, các nguồn lực khác là hữu hạn, có thể bị khai thác cạn
kiệt, trong khi đó nguồn lực con người lại vô hạn.

22



Thứ ba, C.Mác đã nói rằng: trí tuệ con người có sức mạnh vô cùng
to lớn một khi được vật thể hoá, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Dự báo vĩ đại này của C.Mác đã và đang trở thành hiện thực.
Thứ tư, kinh nghiệm của nhiều nước và thực tiễn của chính Việt
Nam cũng như với tỉnh Quảng Bình cho ta thấy sự thành công của quá
trình phát triển kinh tế - xã hội phụ thuộc chủ yếu vào việc hoạch định
đường lối, chính sách cũng như tổ chức thực hiện, nghĩa là phụ thuộc
vào năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.
2.3 Thực trạng và giải pháp phát huy nhân tố con người trong
quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Quảng Bình hiện nay
2.3.1 Thực trạng nhân tố con người hiện nay ở Quảng Bình
+ Nguồn nhân lực từ nông dân: Theo số liệu năm 2002, số người
trong độ tuổi lao động là 425.171 người chiếm 52,51% dân số, trong đó
lao động nông nghiệp chiếm 66,18%. Số liệu trên đây phản ánh một
thực tế là nông dân tỉnh ta chiếm tỷ lệ cao về lực lượng lao động xã hội.
Tuy nhiên, nguồn nhân lực nông dân ở tỉnh ta vẫn chưa được khai thác,
chưa được tổ chức, vẫn bị bỏ mặc và từ bỏ mặc đã dẫn đến sản xuất tự
phát, manh mún.
+ Nguồn nhân lực từ công nhân: Quảng Bình là tỉnh có nền công
nghiệp còn chậm phát triển so với cả nước, các khu công nghiệp có quy
mô lớn chưa nhiều, chủ yếu là các cụm khu công nghiệp nhỏ do đó tỷ lệ
nguồn lao động công nhân còn thấp. Hiện nay tỷ lệ lực lượng công nhân
trong các doanh nghiệp nhà nước thấp hơn lực lượng công nhân của khu
vực ngoài nhà nước. Và xu hướng chung là lực lượng công nhân trong
cách doanh nghiệp nhà nước ngày càng ít đi, trong khi đó, lực lượng
công nhân của khu vực ngoài nhà nước ngày càng tăng lên. Công nhân
có tay nghề cao chiếm tỷ lệ rất thấp so với đội ngũ công nhân nói chung.
Trình độ văn hoá, tay nghề, kỹ thuật của công nhân còn thấp. Số công


23


nhân xuất khẩu lao động tiếp tục tăng, tuy nhiên thời gian gần đây có
chững lại.
+ Nguồn nhân lực từ tri thức, công chức, viên chức: tính đến
1/4/1999, Quảng Bình có 10.720 người có trình độ từ cao đẳng trở lên,
trong đó 4.676 cao đẳng, 6.042 đại học và trên đại học. Hiện nay, số
lượng tri thức, công chức, viên chức đang tiếp tục tăng lên cao, số lượng
thạc sĩ, tiến sĩ ngày một nhiều hơn, số cán bộ tham gia vào các lĩnh vực
nghiên cứu khoa học ngày một tăng, số cán bộ học tập và làm việc ở
nước ngoài cũng ngày một đông hơn. Tri thức, công chức, viên chức
trong các ngành nghề của tỉnh và các địa phương cũng tăng nhanh.
2.3.2 Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy nhân tố con
người ở Quảng Bình hiện nay
Đẩy mạnh phát triển và đổi mới hệ thống giáo dục
Một là, giải quyết tốt những mối quan hệ giữa đào tạo, sử dụng và
việc làm trong vấn đề phát triển nguồn nhân lực.
Hai là, từng bước nâng cao trình độ dân trí đáp ứng yêu cầu về
nguồn nhân lực cho việc phát triển kinh tế.
Ba là, phát triển nguồn nhân lực hợp lý cho phép có thể vận hành
được nền kinh tế hiện đại, có khả năng cạnh tranh cao.
Bốn là, coi trọng cả ba mặt: mở rộng quy mô, nâng cao chất
lượng và phát huy hiệu quả nhằm tạo sự chuyển biến cơ bản, toàn diện
về giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu về con người cho phát triển.
 Tăng cường phát triển khoa học công nghệ
Cùng với giáo dục - đào tạo, khoa học công nghệ không chỉ là
chính sách hàng đầu cho việc phát triển kinh tế - xã hội mà còn là nhân
tố thúc đẩy nâng cao trình độ con người. Trong những năm gần đây,
người dân Quảng Bình được tiếp cận ngày càng phổ biến với internet,

các mạng di động viễn thông làm tăng cường khả năng trao đổi thông
tin. Công nghệ phát triển làm các dịch vụ giao thông vận tải ngày càng
24


được mở rộng với mức giá phù hợp với người dân lao động, đặc biệt là
vận tải hàng không xuất hiện nhiều dịch vụ giá rẻ. Vì vậy, phát triển
khoa học công nghệ, đưa khoa học công nghệ vào sâu trong đời sống
nhân dân là việc làm cần thiết để phát triển đời sống nhân dân, tạo nên
một xã hội tiên tiến, văn minh.
 Đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính sách xã hội
Một là, giải quyết tốt mối quan hệ giữa chính sách xã hội với cơ
cấu xã hội, quản lý xã hội và các chính sách kinh tế, văn hoá.
Hai là, kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã
hội.
Ba là, trước mắt tập trung vào những vấn đề bức xúc nhất để tháo
gỡ về mặt chính sách, vốn đầu tư, xây dựng đội ngũ cán bộ.
Bốn là, thực hiện chủ trương các vấn đề chính sách xã hội đều
được giải quyết theo tinh thần xã hội hoá.
 Giải quyết vấn đề lao động, việc làm, thực hiện chế độ lương
hợp lý.
Đối với một nước đang phát triển như Việt Nam, và một tỉnh kinh
tế còn nghèo như Quảng Bình thì vấn đề việc làm là vấn đề cấp bách cần
giải quyết, bởi lẽ tình trạng thất nghiệp không những làm chậm tiến độ
phát triển kinh tế - xã hội mà còn làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội phức
tạp. Để giải quyết vấn đề này, trước hết phải đi từ khâu giáo dục. Vì
điểm yếu của lao động Việt Nam nói chung và Quảng Bình nói riêng là
trình độ thấp. Đặc biệt cần chú trọng đào tạo nghề để tạo ra lực lượng
công nhân có trình độ cao. Đồng thời tỉnh cần đầu tư cho các khu công
nghiệp, mở rộng các thành phần kinh tế nhằm tạo ra nhiều việc làm mới.

Đi đôi với vấn đề giải quyết việc làm là vấn đề lương bổng. Trong
nền kinh tế thị trường, phân hoá giàu nghèo gia tăng, để hạn chế tình
trạng này, một trong những biện pháp là tạo ra một chế độ lương bổng
hợp lý, cân đối giữa các thành phần kinh tế, các lĩnh vực kinh tế. Chế độ
25


×