Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO ôn THI môn KINH tế học GIÁO dục SAU đại học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (229.49 KB, 18 trang )

1

ÔN TẬP KINH TẾ HỌC GIÁO DỤC

Toàn cầu hoá, là xu thế tất yếu của thế giới xuất hiện vào những năm cuối thế
kỷ XX. Toàn cầu hoá là quá trình diễn ra do sự thay đổi về công nghệ, tăng trưởng
dài hạn liên tục về đầu tư nước ngoài và nguồn lực quốc tế và sự hình thành trên
phạm vi rộng lớn với quy mô toàn cầu với những hình thức mới về các mối liên kết
quốc tế giữa các công ty và các quốc gia. Sự kết hợp này làm tăng quá trình hội nhập
giữa các quốc gia và thay đổi bản chất của cạnh tranh toàn cầu. Toàn cầu hoá có thể
diễn ra ở nhiều cấp độ khác nhau: khu vực, liên khu vực, châu lục, liên châu lục và
thậm chí trên diện toàn cầu. Toàn cầu hoá và hội nhập là xu thế tất yếu đối với từng
quốc gia, bởi vì nước nào cũng muốn phát triển kinh tế - xã hội của mình.
Trong lĩnh vực văn hoá, giáo dục toàn cầu hoá là sự hội nhập và kết tinh của
nhiều nền văn hoá, giáo dục khác nhau qua mạng viễn thông và công nghệ thông tin
toàn cầu, qua sự lan rộng của các quảng cáo tìm kiếm thị trường văn hoá, giáo dục mới.
Trong những năm gần đây, nổi lên một sự công nhận rộng rãi về vai trò ngày càng
tăng của tri thức trong các quy trình sản xuất và sự chuyển đổi của các nền kinh tế công
nghiệp thành nền kinh tế dựa trên cơ sở tri thức. Theo Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á Thái Bình Dương (APEC), kinh tế dự trên cơ sở tri thức hay còn gọi là nền kinh tế tri thức là
một nền kinh tế trong đó sự sản sinh, phân bố và sử dụng tri thức là những động lực chính
của tăng trưởng, nó góp phần tạo ra của cải và việc làm trong tất cả các ngành công nghiệp.
Trong kinh tế tri thức, khả năng sáng tạo và sử dụng tri thức là điều quyết định cho sự thành
công của tất cả các lĩnh vực, trong đó có các ngành công nghệ cao và các ngành truyền
thống. Cách mạng khoa học công nghệ hiện đại mà hiện nay thường được gọi là cách mạng
tri thức đang tạo ra những thay đổi to lớn, sâu sắc trong cách sản xuất kinh doanh, trong tiêu
thụ, lối sống, cách tổ chức quản lý và mọi mặt đời sống xã hội. Đó không chỉ là một cuộc
cách mạng trong khoa học công nghệ, trong kinh tế mà còn là cách mạng trong tư duy, trong
khái niệm. Cái khác biệt trong thời đại cách mạng tri thức ngày nay là tri thức đã trở thành
một yếu tố của sản xuất, quan trọng hơn cả tài nguyên và vốn. Tri thức cần cho một xã hội tri
thức có ý nghĩa rộng hơn là tri thức công nghệ, bao gồm cả tri thức về văn hoá, về xã hội, về
quản lý...trong một xã hội tri thức, thông tin và tri thức là nguồn vốn cơ bản của quá trình tái


sản xuất xã hội. Nền kinh tế tri thức có những đặc trưng cơ bản như: công nghệ thông tin,
công nghệ cao giữ vai trò quan trọng hàng đầu; khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp; quá trình công nghiệp hoá được rút ngắn; cơ cấu kinh tế, hình thức tổ chức xã hội thay
đổi cơ bản và nguồn nhân lực trong xã hội nhanh chóng được tri thức hoá, đây là một đặc
trưng rất quan trọng, trong đó con người phải làm việc bằng năng lực trí tuệ là chính, mà
không chỉ là năng lực thể chất, cơ cấu lao động xã hội thay đổi căn bản: nhân lực trong các
ngành dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ xử lý thông tin và dịch vụ tri thức tăng nhanh; sự cách biệt
giàu nghèo về thực chất là sự cách biệt về tri thức và nhăng lực tạo ra tri thức. Các nước đang
phát triển chỉ có thể bằng con đường phát triển khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo
nhằm tăng nhanh vốn tri thức mới có thể rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển.
Như vậy, ngày nay thời đại đang bước vào kỷ nguyên toàn cầu hoá, kinh tế
tri thức, hội nhập quốc tế. Giáo dục đang giữ vai trò đặc biệt quan trọng cho sự
phát triển xã hội, sự phát triển cá nhân, động lực của sự phát triển kinh tế xã hội,


2
Đầu tư cho giáo dục từ chỗ được xem là phúc lợi xã hội chuyển sang đầu tư cho
phát triển. Vì vậy các quốc gia, từ những nước đang phát triển đến những nước
phát triển đều nhận thức được vai trò và vị trí hàng đầu của giáo dục, đều phải đổi
mới giáo dục kết hợp với kinh tế để có thể đáp ứng một cách năng động hơn, hiệu
quả hơn, trực tiếp hơn những nhu cầu của sự phát triển đất nước.
Nghiên cứu các đặc trưng biểu hiện và quy luật hoạt động của kinh tế tác
động vào quá trình giáo dục nói chung và quá trình giáo dục trong nhà trường
quân sự nói riêng để khẳng định giáo dục là tác nhân then chốt tạo ra tri thức và
tri thức trở thành lực lượng sản xuất, giáo dục là điều kiện quan trọng để phát huy
dân chủ bảo vệ quyền con người, tăng cường pháp chế, xây dựng nhà nước pháp
quyền, xây dựng quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ,
từng bước hiện đại đáp ứng yêu cầu cách mạng trong tình hình mới.
Vấn đề 1. ĐẶC TRƯNG KINH TẾ CỦA QUÁ TRÌNH GIÁO DỤC
1. Quan điểm tiếp cận

* Giáo dục có tầm quan trọng đặc biệt vì nó liên quan đến con người, xã hội và
sự phát triển
* Coi giáo dục như một lĩnh vực kinh tế đặc biệt, giáo dục vừa là mục tiêu, vừa là
sức mạnh của kinh tế
2. Đặc trưng kinh tế và các nhân tố cơ bản trong quá trình giáo dục
* Đội ngũ người học
* Đội ngũ giáo viên và nhân viên
* Nhân tố cơ sở vật chất sư phạm của nhà trường
3. Đặc trưng kinh tế giáo dục ở nhà trường quân sự
* Đặc điểm giáo dục và quản lý giáo dục nhà trường quân sự
* Đội ngũ giáo viên và nhân viên
* Đội ngũ giáo viên và nhân viên
* Nhân tố cơ sở vật chất sư phạm của nhà trường
1. Quan điểm tiếp cận
* Giáo dục có tầm quan trọng đặc biệt vì nó liên quan đến con người, xã hội và
sự phát triển
Con người được coi là tài nguyên, trung tâm của sự phát triển, phát triển con
người bền vững, toàn diện; giáo dục làm tăng thêm tính người, tính xã hội tính toàn diện
tính hiện đại của con người.
Liên quan đến xã hội, giáo dục là một chức năng của xã hội, thâm nhập vào các
chức năng khác, gồm: Nhà nước, cộng đồng, gia đình đều rất quan tâm đến sự phát triển
giáo dục và liên quan đến sự phát triển, giáo dục có vai trò đặc biệt trong sự phát triển,
thúc đấy phát triển, gia tăng sự phát triển, tiền đề cho sự phát triển.
* Coi giáo dục như một lĩnh vực kinh tế đặc biệt, giáo dục vừa là mục tiêu, vừa là
sức mạnh của kinh tế
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “không có giáo dục, không có cán bộ thì
cũng không nói gì đến kinh tế văn hoá.” 1 Giáo dục phải đi trước, tiềm ẩn trong mọi hoạt
động của con người, trong sản phẩm mà con người làm ra, tạo nên một kết cấu hạ tầng

1


Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 8, Nxb, Sự thật. H, 1987.


3
đặc biệt, tiền đề cho sự phát triển. Giáo dục đang trực tiếp đào tạo nguồn nhân lực, tham
gia vào lực lượng sản xuất xã hội vì vậy nó còn tham gia cả cơ sở hạ tầng xã hội.
Giáo dục vừa đem lại lợi ích, vừa cần sự chi phí. Vì giáo dục là một hoạt động,
hoạt động thì phải có chi phí, phải có đầu tư; muốn có sản phẩm chất lượng cao thì phải
đầu tư thích đáng; đầu tư cho giáo dục hay gọi là tài chính giáo dục là chỉ số phản ánh
việc bảo đảm kinh tế cho giáo dục. Như vậy muốn có trường chất lượng cao thì chi phí
phải lớn, chi phí lớn thì học phí lại cao; vì vậy hiện nay chúng ta phải phát triển nhiều
loại hình trường chất lượng cao để thu hút người học tránh tình trạng chảy máu ngoại tệ
do làn sóng du học nước ngoài trong thời gian qua. Đối với Nhà nước ta đầu tư cho giáo
dục ngày một tăng :
Năm 2000 đầu tư cho giáo dục là 15% Ngân sách NN
Năm 2005
//
18,1% //
Năm 2008
//
20%
//
Nằm vào khoảng 66.000 đến 72.000 tỷ đồng.
Đầu tư cho một sinh viên
Việt Nam : 1SV được đầu tư 4,3 triệu đồng trên một năm, có số liệu là 2,8 triệu;
gần đây một sinh viên trong 4 năm học trung bình được đầu tư từ 19 đến 20 triệu đồng
trong đó, ngân sách NN 55%, học phí 42%, đóng góp của cộng đồng và các nguồn thu
khác 3%. đóng góp của cộng đồng và các nguồn thu khác chỉ có 3% là quá ít. (Con số
này ở Mỹ là 22.000 USD ; Châu âu là 12.000 USD trên một sinh viên một năm)

Về hiệu quả kinh tế trong giáo dục có Hiệu quả trong và Hiệu quả ngoài
Hiệu quả trong là hiệu quả thuộc về người học so với mục tiêu đề ra (gồm kiến
thức, kỹ năng, nhân cách) đối với nhà trường có thể dễ dàng kiểm định, đánh giá.
Hiệu quả ngoài là xem xét sinh viên tốt nghiệp có làm đúng nghề đào tạo không,
có việc làm không, năng xuất chất lượng, hiệu quả, có phát huy được ngành nghề đào
tạo hay không? (Ngân hàng thế giới tính đầu tư cho giáo dục là đầu tư có lãi theo tỷ 1-3)
* Đội ngũ người học
Luật giáo dục nêu trong chương V, Điều 83: “Người học là người đang học tập
tại cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân”. Người học thực hiện nhiệm vụ học
tập, rèn luyện theo chương trình, kế hoạch giáo dục của nhà trường. Tôn trọng nhà giáo,
cán bộ và nhân viên của nhà trường, đoàn kết giúp đỡ nhau trong học tập, rèn luyện,
thực hiện nội quy, điều lệ của nhà trường, pháp luật của Nhà nước. Tham gia lao động
và hoạt động xã hội, hoạt động bảo vệ môi trường phù hợp với lứa tuổi, sức khoẻ và
năng lực. Giữ gìn, bảo vệ tài sản của nhà trường, góp phần xây dựng, bảo vệ và phát
huy truyền thống của nhà trường. Đội ngũ người học là một nhân tố chủ yếu của nhà
trường, đây cũng là nguồn vốn dự trữ, nguồn cung cấp lao động cho xã hội
Những chỉ số biểu hiện đặc trưng kinh tế của người học là tỷ số người học so với dân cư:
Tỷ lệ biết chữ người lớn là 91 - 93%, bình quân trong 3 người dân thì có 1 người
đi học. Hiện nay nước ta có trên 22 triệu HS, SV/85,8 triệu dân đi họctỷ lệ là 26%.
Tỷ lệ người biết chữ và trẻ em đi học cao đồng nghĩa với sự văn minh xã hội, phát
triển kinh tế cao và nó thường đi đôi với nền kinh tế có mức tăng trưởng cao do vậy, nó là
một chỉ số quan trọng để đánh giá trình độ phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia.
Theo số liệu thống kê năm 2009:


4
S

Chỉ số


Việt Nam

Thế giới

Châu á

0

Biết chữ

90,3%

83,9%

82,1%

0

Đi học

62,3%

67,5%

64,5%

0

Phát


0,81%

0,784%

0,762%

0,725%

0,753%

0,724%

TT
1
2
3

triển

GD
0

HDI

4

Giá trị chung HDI Việt Nam xếp thứ 7 thế giới.
Tuổi thọ:…………………
xếp thứ 7 thế giới
Biết chữ người lớn:………

xếp thứ 7 thế giới
Đi học thanh thiếu niên:…
xếp thứ 6 thế giới
Chỉ số giáo dục (E):……..
xếp thứ 7 thế giới.
Hiệu suất đào tạo gồm, Tỷ lệ học sinh đến lớp; Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp; Tỷ lệ
học sinh hết cấp. Nếu xảy ra các hiện tượng lưu ban, bỏ học, học lại đều không có
nguyên nhân kinh tế.
Học vấn của đội ngũ lao động và và số năm học trung bình. Thường người ta
tính năm học trung bình của một cư dân là 15 tuổi trở lên. Chỉ số này vừa phản ánh kết
quả phổ cập giáo dục cho nhân dân vừa phản ánh chỉ số đầu tư cho giáo dục; Chỉ số
năm học càng cao thì trình độ dân trí càng cao, đồng thời nói lên sự chi phí xã hội cao.
Xếp vị trí theo số năm học trung bình của một số quốc gia: Hàn quốc: 10,8;
Philipin: 8,2; Malaixia: 6,8; Thailand: 6,5; Trung quốc: 6,4;Việt Nam 6,34 ;
Indonexia: 5,0.
* Đội ngũ giáo viên và nhân viên
Nhà giáo là người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường, cơ sở giáo
dục khác. Nhà giáo giảng dạy ở cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục
nghề nghiệp gọi là giáo viên; ở cơ sở giáo dục đại học gọi là giảng viên. Nhà giáo có
những nhiệm vụ: Giáo dục, giảng dạy theo mục tiờu, nguyờn lý giỏo dục, thực hiện đầy
đủ và có chất lượng chương trỡnh giỏo dục; Gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân,
các quy định của pháp luật và điều lệ nhà trường; Giữ gỡn phẩm chất, uy tớn, danh dự
của nhà giỏo; tụn trọng nhân cách của người học, đối xử công bằng với người học, bảo
vệ các quyền, lợi ích chính đáng của người học; Không ngừng học tập, rèn luyện để
nâng cao phẩm chất đạo đức, trỡnh độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, đổi mới
phương pháp giảng dạy, nêu gương tốt cho người học; Các nhiệm vụ khác theo quy
định của pháp luật.
Giáo viên là lực lượng nòng cốt của nhà trường, là bộ phận lao động của nền kinh
tế, lao động đặc biệt. Hiện nay nước ta có trên 1 triệu giáo viên, trong đó giảng viên đại
học, cao đẳng khoảng 61.000 (số liệu năm 2009).

* Đặc trưng kinh tế của đội ngũ giáo viên là:


5
Gia tăng chất lượng và năng suất lao động của đội ngũ giáo viên thông qua sự phối hợp
tổng thể các biện pháp hành chính, sư phạm, động viên tinh thần và vật chất. Năng suất, chất
lượng của giáo viên là tiền đề trực tiếp quyết định chất lượng con người được đào tạo.
Định mức lao động phù hợp : Đòi hỏi lượng hoá một cách khoa học công lao
động của giáo viên kể cả lao động sống và lao động quá khứ. Ngoài số giờ giảng, người
ta còn tính thời gian lao động kết tinh trong bài giảng, chấm bài, thục luyện... của giáo
viên ngoài giờ chính khoá. Do vậy cần phải giao việc, phân công hợp lý, có kế hoạch
tạo điều kiện cho giáo viên chủ động và đảm bảo chất lượng chuẩn bị bài. Đảm bảo thực
hiện nghiêm túc điều lệnh, điều lệ, quy chế, quy định của Nhà nước, quân đội và của
nhà trường ; đảm bảo thực hiện đúng, kịp thời các chính sách, chế độ, phân công công
tác, chăm lo cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho giáo viên.
* Nhân tố cơ sở vật chất sư phạm của nhà trường
Cơ sở vật chất sư phạm của nhà trường bao gồm: Trường sở, thiết bị, phương tiện, tài
liệu, tài sản, giáo trình, giáo khoa... đây là phương tiện, điều kiện phục vụ cho nhiệm vụ, mục
tiêu đào tạo ; nó có quan hệ mật thiết với các nhân tố khác. Đây cũng là nguồn vốn cố định
của nền kinh tế, của xã hội và phải được quản lý như quản lý tài sản của Nhà nước.
* Đặc trưng kinh tế giáo dục của vật chất sư phạm nhà trường
Biểu hiện ở số lượng, số phòng học, phương tiện, sân tập, bãi tập, giáo trình tài
liệu...theo quy định của trên về cấp học, bậc học, quy mô, loại hình đào tạo của từng nhà
trường
Chỉ số phòng học tiêu chuẩn: Về diện tích, ánh sáng, độ thông gió, bàn ghế, bảng, tiếng ồn...
Chỉ số giờ hữu ích của các phòng học, chức năng, đa năng, gồm tần suất sử dụng
và hiệu quả sử dụng.
Chỉ số về số lần sử dụng các phương thiện kỹ thuật dạy học, sách, tài liệu ; (thực
tế có chuyên dụng, phương tiện kỹ thuật hiện đại, đắt tiền nhưng không khai thác sử
dụng được, hoặc sử dụng hiệu quả thấp gây ra sự lãng phí rất lớn). Do vậy, cần đầu tư

đúng địa chỉ, sử dụng hiệu quả và sử dụng tốt ; Định mức, tiêu chuẩn, tiêu hao vật chất
phục vụ giáo dục hợp lý.
3. Đặc trưng kinh tế giáo dục ở nhà trường quân sự
* Đặc điểm giáo dục và quản lý giáo dục nhà trường quân sự
Do tính chất, chức năng, nhiệm vụ quân đội nói chung, nhiệm vụ giáo dục, đào tạo
trong quân đội quy định đặc điểm của giáo dục và quản lý giáo dục ở nhà trường quân sự.
Quản lý giáo dục trong quân đội nói chung và trong các nhà trường quân sự nói riêng vừa
phải tuân thủ điều lệnh, điều lệ, qui chế, chỉ thị, mệnh lệnh của quân đội, nhà trường vừa phải
tuân thủ qui chế giáo dục của nhà nước; chịu sự qui định của hai hệ thống quản lý, hai cơ chế
quản lý. Một mặt tuân thủ điều lệnh quân đội, điều lệ công tác nhà trường quân đội, chỉ thị mệnh
lệnh của Bộ Quốc phòng, Cục Nhà trường, Cục Tư tưởng văn hoá, qui chế, qui định của từng
nhà trường quân sự, một mặt phải tuân thủ qui chế, điều lệ do nhà nước ban hành.
Quá trình giáo dục và quản lý giáo dục diễn ra trong môi trường quân sự là một tổ
chức hoạt động có kỷ luật cao theo điều lệnh, điều lệ, qui định của quân đội và của nhà
trường với tư cách là một tổ chức quân sự. Quá trình giáo dục và quản lý giáo dục gắn
liền với quá trình xây dựng, giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ sỹ quan, quân nhân
chuyên nghiệp, NVCMKT trong quân đội.


6
Giáo viên, học viên ở nhà trường quân sự vừ thực hiện nhiệm vụ dạy và học vừa
phải rèn luyện chức trách nhiệm vụ quân nhân, người cán bộ sỹ quan quân đội đáp ứng
yêu cầu xây dựng quân đội cách mạng, chính qui, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
Mọi hoạt động giáo dục và quản lý giáo dục được kế hoạch hoá cao, thống nhất và
được tổ chức chặt chẽ từ đề ra chỉ tiêu, chiêu sinh, tuyển sinh, bố trí ngành nghề đào tạo,
phân phối học viên ra trường đều do Bộ Quốc phòng quyết định.
Về mục tiêu giáo dục - đào tạo, “đào tạo cán bộ theo chức vụ có trình độ học vấn
tương ứng và nâng cao trình độ học vấn đội ngũ sỹ quan”. Tức là vừa đáp ứng yêu cầu
về mặt bằng học vấn cho sỹ quan, chuẩn hoá tương đương với trình độ đào tạo ở ngoài
quân đội là trình độ đại học. Vừa thực hiện mục tiêu đào tạo để người sỹ quan làm tốt

nhiệm vụ ban đầu và có khả năng phát triển đó là gắn với chức vụ.
Đối với đội ngũ học viên được tập trung học tập, kết hợp với tu dưỡng rèn luyện
nhân cách, bản lĩnh chính trị, đạo đức, sức khoẻ, học đi đôi với rèn tức huấn luyện đi
đôi với giáo dục. Học viên ăn, ở, sinh hoạt tập trung có hệ thống cán bộ quản lý chuyên
trách tổ chức quản lý chặt chẽ 24 giờ trên 24 giờ. Ra trường học viên cơ bản là đảng
viên (các Học viện, Trường Sỹ quan); học viên tốt nghiệp 100% được phân công công
tác và phải chấp hành sự phân công của cấp trên vô điều kiện.
Ngân sách giáo dục và đào tạo trong quân đội nói chung và trong các nhà trường
quân sự là bao cấp hoàn toàn.
* Đội ngũ nhà giáo ở nhà trường quân sự
Nhà giáo là những người làm nhiệm vụ giảng dạy và giáo dục trong nhà trường
quân đội. Nhà giáo phải đạt những tiêu chuẩn của cán bộ về trình độ chỉ huy quản lý theo
qui định của Bộ Quốc phòng; trình độ học vấn và chuyên môn nghiệp vụ nhà giáo theo
qui định của Luật Giáo dục. Nhà giáo có vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp giáo
dục. Chính vì vậy, quản lý, xây dựng, phát triển đội ngũ nhà giáo vững mạnh là điều kiện
có ý nghĩa hàng đầu trong việc nâng cao chất lượng giáo dục ở nhà trường quân sự.
* Đặc trưng kinh tế của đội ngũ giáo viên ở nhà trường quân sự
Từ đặc điểm giáo dục và quản lý giáo dục, từ vai trò, nhiệm vụ của đội ngũ
giáo viên ở nhà trường quân sự, ta thấy phải gia tăng chất lượng và năng suất lao
động của đội ngũ giáo viên thông qua sự phối hợp tổng thể các biện pháp như các
biện pháp hành chính, biện pháp sư phạm, động viên cả về vật chất và tinh thần
như:
Xây dựng chương trình, kế hoạch quản lý phát triển đội ngũ giáo viên ở các nhà
trường để nhà trường có thể ứng phó với sự bất định và thay đổi về số lượng, chất lượng,
cơ cấu đội ngũ giáo viên, và các nhân tố tác động đến quá trình quản lý phát triển đội ngũ
giáo viên; Xây dựng chương trình, kế hoạch cho phép nhà trường có cái nhìn tổng thể, toàn
diện, công tác quản lý phát triển đội ngũ giáo viên qua đó thấy được hoạt động tương tác
giữa các bộ phận, nhìn thấy tương lai, có thể ra những quyết định điều chỉnh hoặc điều
chỉnh những quyết định trước đó bảo đảm cho công tác quản lý phát triển đội ngũ giáo viên
hướng vào mục tiêu đã định; Xác định mục đích và nhiệm vụ phát triển đội ngũ giáo viên

nhà trường, hoàn thiện quá trình sư phạm, nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác
đào tạo; xây dựng chương trình xác định các con đường và các phương tiện hiện thực quản
lý phát triển đội ngũ giáo viên theo các nhiệm vụ và đạt tới các mục tiêu đã xác định; xác
định nhịp độ phát triển và tỉ lệ cân đối giữa các nhân tố cơ cấu, số lượng, chất lượng đội


7
ngũ giáo viên với các hoạt động giáo dục, các thành tố của quá trình giáo dục của nhà trường.
Xây dựng chương trình, kế hoạch quản lý phát triển đội ngũ giáo viên để nhà
trường có thể lựa chọn những phương án tối ưu, tiết kiệm nguồn lực tạo hiệu quả
hoạt động quản lý phát triển đội ngũ giáo viên trong tổng thể công tác xây dựng
phát triển nhà trường đồng thời tạo điều kiện dễ dàng cho công tác kiểm tra quá
trình thực hiện công tác.
Đổi mới công tác tuyển chọn, tích cực đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng có hiệu quả
đội ngũ giáo viên của nhà trường. Công tác tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng có
hiệu quả đội ngũ giáo viên của nhà trường là một chu trình rất quan trọng trong quá
trình xây dựng, quản lý và phát triển đội ngũ giáo viên, có thể nói nếu thực hiện tốt chu
trình này là yếu tố quyết định chất lượng đội ngũ giáo viên, chất lượng giáo dục - đào
tạo của nhà trường.
Trong tình hình hiện nay, đổi mới công tác tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, sử
dụng có hiệu quả đội ngũ giáo viên của nhà trường là một tất yếu khách quan và là một
yêu cầu cấp thiết, nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên góp phần nâng cao chất
lượng giáo dục - đào tạo của nhà trường.
Thực chất của biện pháp này là thực hiện qui trình xây dựng, phát triển đội ngũ
giáo viên, là một chu trình khép kín bao gồm các khâu: tuyển chọn; đào tạo; bồi dưỡng;
và sử dụng đội ngũ giáo viên.
Tuyển chọn đội ngũ giáo viên, phải thực hiện chế độ dân chủ, công khai và đúng
quy trình trong tuyển chọn giáo viên; xây dựng phương thức tuyển chọn khoa học, linh
hoạt và hiệu quả, bảo đảm chọn đúng người có đủ tiêu chuẩn, đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ giáo dục - đào tạo của nhà trường và yêu cầu phát triển đội ngũ.

Nguồn tuyển chọn là cán bộ, sỹ quan ở các đơn vị trong quân đội có trình chuyên môn
nghiệp vụ giỏi, có kinh nghiệm thực tiễn phong phú, có năng khiếu sư phạm; các sỹ quan đã
tốt nghiệp loại giỏi ở các học viện, nhà trường; các sinh viên đã tốt nghiệp loại giỏi ở các
trường đại học ngoài quân đội có đủ tiêu chuẩn để trở thành người giáo viên giảng dạy trong
các nhà trường quân sự; những học viên tốt nghiệp loại giỏi tại nhà trường có đủ tiêu chuẩn
và có nhu cầu ở lại, phát triển để trở thành giáo viên của nhà trường...
Căn cứ vào cơ chế, quy chế, chỉ tiêu của cấp trên, căn cứ vào quy hoạch, kế hoạch và
nhu cầu phát triển đội ngũ giáo viên của nhà trường các cơ quan chức năng tiến hành công
tác tuyển chọn giáo viên theo quy trình đã được xác định.
Đào tạo đội ngũ giáo viên, đào tạo là một hoạt động rất quan trọng trong nội
dung xây dựng, quản lý phát triển đội ngũ giáo viên. Trong quá trình phát triển xã hội,
nhà trường không ngừng biến đổi để đáp ứng sự phát triển ấy. Quá trình biến đổi này
đòi hỏi đội ngũ giáo viên ngày càng phải hoàn thiện. Nhà trường phải xác định mục
tiêu, xây dựng kế hoạch để đào tạo chuẩn hoá cho những giáo viên chưa đạt chuẩn; đào
tạo lại những giáo viên phải giảng dạy các môn học trái với chuyên ngành theo yêu cầu
của nhà trường; đào tạo nâng cao để giáo viên đạt trình độ Thạc sỹ, tiến sỹ.
Bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, cùng với nhiệm vụ đào tạo, thì bồi dưỡng đội ngũ giáo viên
cũng là một nhiệm vụ quan trọng và đã được quy định trong Luật Giáo dục (2005). Yêu cầu nội
dung chương trình bồi dưỡng phải có hệ thống, toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm; phải bảo
đảm tính kế thừa và nâng cao, tính đón đầu. Đặc biệt, phải cập nhật đường lối, chủ trương, chính


8
sách của Đảng, Nhà nước, quân đội, các thành tựu mới nhất của tri thức nhân loại, và kinh
nghiệm giáo dục, quản lý giáo dục tiên tiến để công tác bồi dưỡng đạt hiệu quả cao.
Thực chất của công tác bồi dưỡng đội ngũ giáo viên là quá trình bổ sung kiến thức,
kỹ năng cho từng loại hình giáo viên của nhà trường để nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ, giúp cho giáo viên có cơ hội củng cố, mở mang, nâng cao hệ thống tri thức, kỹ
năng, kỹ xảo chuyên môn nghiệp vụ có sẵn nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác
giảng dạy và nghiên cứu khoa học.

Nhà trường phải xây dựng chương trình, kế hoạch, khoa học, xác định nội dung
và hình thức bồi dưỡng cụ thể cho từng giai đoạn, từng loại hình giáo viên; xác định các
điều kiện bảo đảm thực hiện kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng; tổ chức, chỉ đạo và quản lý
chặt chẽ công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo viên, đồng thời tạo điều kiện về thời gian,
động viên về vật chất và tinh thần để giáo viên an tâm tư tưởng thực hiện tốt nhiệm vụ
đào tạo, bồi dưỡng.
Các nhà trường quân sự cần bố trí, sử dụng có hiệu quả đội ngũ giáo viên.
Đội ngũ giáo viên của các nhà trường quân sự thường được hình thành từ nhiều
nguồn khác nhau, nhiều ngành nghề khác nhau và có nhiều trình độ khác nhau, cơ cấu độ
tuổi, thâm niên, kinh nghiệm giảng dạy không đồng bộ...do vậy việc sử dụng hợp lý và có
hiệu quả đội ngũ giáo viên của nhà trường hiện nay là một biện pháp rất quan trọng và có
ý nghĩa hết sức thiết thực
Thực chất việc sử dụng hợp lý và có hiệu quả đội ngũ giáo viên của nhà trường là
nhằm phát huy nội lực, tạo nên sự đồng thuận trong tổ chức, giúp đội ngũ giáo viên yên
tâm công tác, phát huy hết năng lực và sở trường của họ đối với sự phát triển của nhà
trường
Căn cứ vào kết quả đánh giá trình độ, năng lực, số lượng, cơ cấu của giáo viên...Bố
trí, sử dụng giáo viên đủ tiêu chuẩn, có uy tín, có trình độ chuyên môn cao vào các cương
vị phù hợp với khả năng của họ như cán bộ quản lý khoa, bộ môn, đội ngũ đầu đàn, kế
cận... nhằm khai thác tối đa khả năng và trí tuệ của họ. Sử dụng đúng người, đúng việc,
đúng chuyên môn đào tạo, đúng sở trường và nguyện vọng cá nhân, bảo đảm tính liên tục,
tính kế thừa, kết hợp hài hoà già - trẻ; cũ - mới; cơ cấu trình độ học vấn phù hợp...
Đề bạt, bổ nhiệm, phân công giáo viên phải coi trọng phẩm chất chính trị, đạo đức,
năng lực, uy tín, chức danh, học vị và năng lực thực tế của giáo viên xứng “tầm” với công
việc được giao; như vậy sẽ kích thích được mỗi cán bộ, giáo viên tích cực phấn đấu đạt các
tiêu chí đề ra về chức danh và học vị cho bản thân, cống hiến nhiều hơn nữa cho nhà
trường
Tạo điều kiện, môi trường thuận lợi để đội ngũ giáo viên phát huy tiềm năng trí
tuệ, phát triển nghề nghiệp. Tạo điều kiện, môi trường thuận lợi để đội ngũ giáo viên
phát huy tiềm năng trí tuệ, phát triển nghề nghiệp là một biện pháp quan trọng của quá

trình quản lý phát triển đội ngũ giáo viên; đây là biện pháp chủ động xây dựng, sáng tạo
ra những điều kiện tối ưu để giải quyết có kết quả nhất nhiệm vụ dạy học.
Thực chất của việc tạo điều kiện, môi trường thuận lợi là xây dựng môi trường
giáo dục (hay xây dựng môi trường văn hoá trong nhà trường quân sự ) trong nhà
trường là: Xây dựng các mối quan hệ giáo dục và bầu không khí tâm lý - tinh thần tốt
đẹp trong nhà trường; Xây dựng cơ sở vật chất giáo dục, xây dựng cảnh quan môi


9
trường trong nhà trường một cách khoa học phục vụ tốt nhất cho mục tiêu giáo dục đào tạo.
Các tổ chức trong nhà trường tăng cường giáo dục cho mọi thành viên về tư
tưởng, đạo đức, lối sống, các chuẩn mực văn hoá, tinh thần đoàn kết...
Phát huy mọi nguồn lực (nội lực, ngoại lực) xây dựng nhà trường có kết cấu hạ
tầng hợp lý, có cơ sở vật chất kỹ thuật giáo dục, huấn luyện đảm bảo chất lượng và số
lượng tạo điều kiện tốt nhất cho đội ngũ giáo viên thực hiện nhiệm vụ giáo dục - đào
tạo; Quan tâm chăm lo tốt đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ quyền và lợi ích chính
đáng cho đội ngũ giáo viên.
Tóm lại, cần phải sử dụng tổng hợp các biện pháp nhằm gia tăng số lượng, chất
lượng, cơ cấu đội ngũ giáo viên, định mức lao động phù hợp, giáo việc, phân công hợp lý
có kế hoạch tạo điều kiện cho giáo viên về cả vật chất và tinh thần cho giáo viên, thực chất
là quản lý phát triển tốt đội ngũ giáo viên nhằm nâng cao năng suất, chất lượng đội ngũ
giáo viên chính là nâng cao hiệu quả kinh tế trong giáo dục, đào tạo, trực tiếp quyết định
chất lượng giáo dục và đào tạo trong nhà trường quân sự.
* Đội ngũ học viên ở nhà trường quân sự
Đối với đội ngũ học viên ở nhà trường quân sự đây là một đội ngũ rất phong phú,
đa dạng với nhiều độ tuổi, cấp học, trình độ phát triển trí tuệ, phẩm chất đạo đức khác
nhau. Họ có thể là học sinh phổ thông, hạ sĩ quan, chiến sĩ, quân nhân chuyên nghiệp, sĩ
quan... được tuyển chọn đào tạo bồi dưỡng thành cán bộ các cấp, các ngành của quân đội,
cụ thể có mười đối đối tượng, cấp học, bậc học như sau: Đào tạo cán bộ cấp chiến dịch chiến lược; cán bộ cấp chiến thuật - chiến dịch; cán bộ cấp phân đội; cán bộ chính trị cấp
phân đội; đào tạo trình độ sau đại học cho cán bộ giảng dạy, cán bộ nghiên cứu khoa học;

đào tạo NVCMKT; cán bộ quân sự địa phương; đào tạo, bồi dưỡng sỹ quan dự bị; đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, nhân viên kinh tế quốc phòng.
Đội ngũ học viên đào tạo trong các nhà trường quân sự hầu hết đều có bản lĩnh chính trị
vững vàng, tuyệt đối trung thành với Đảng với Tổ quốc, với nhân dân; xác định tốt động cơ, thái
độ và quyết tâm học tập trong các nhà trường quân sự là để trở thành cán bộ, sỹ quan, NVCMKT
phục vụ lâu dài trong quân đội, là những người có tri thức, có sức khoẻ và có độ tuổi thích hợp…
Trong thời gian qua đội ngũ này vẫn giữ được truyền thống của người học viên trong các nhà
trường quân sự xứng đáng là nguồn lực quan trọng để trở thành lực lượng nòng cốt xây dựng quân
đội ta vững mạnh đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong thời kỳ mới.
* Đặc trưng kinh tế của đội ngũ học viên
Biểu hiện trong những năm qua, thực hiện chủ trương của Đảng uỷ Quân sự
Trung ương và Bộ Quốc phòng các nhà trường quân sự cơ bản đạt mục tiêu, yêu cầu về
số lượng, nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ cán bộ, hạ sỹ quan NVCMKT nhất là cán
bộ chủ trì đơn vị và cơ quan các cấp; góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng
tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của quân đội. Đào tạo cán bộ theo chức vụ có học vấn
tương ứng và nâng cao trình độ học vấn đội ngũ sỹ quan đạt kết quả tốt. Học viên ra
trường có chất lượng tương đối toàn diện cả về phẩm chất chính trị, đạo đức cách
mạng, kiến thức và năng lực, đáp ứng nhiệm vụ ban đầu và có khả năng phát triển.
Như vậy công tác giáo dục, đào tạo của các nhà trường quân sự đã đào tạo đội ngũ
học viên bảo đảm các chỉ tiêu được cấp trên giao, hiệu suất đào tạo cao biểu hiện
ở tỷ lệ học viên tốt nghiệp các khoá học rất cao, học vấn của học viên đáp ứng tốt


10
mục tiêu, yêu cầu đào tạo.
* Cơ sở vật chất sư phạm của nhà trường
Trong những năm qua được sự quan tâm của Nhà nước, Bộ Quốc phòng
cùng với sự nỗ lực của các đơn vị, học viện, nhà trường trong toàn quân cơ sở
vật chất sư phạm của các nhà trường quân sự được đổi mới và nâng cấp tương
đối toàn diện và đồng bộ.

Các nhà trường đã tích cực đầu tư cơ bản xây dựng nhà trường khang trang, đúng
qui cách; đầu tư có chiều sâu cho các phương tiện phục vụ cho nhiệm vụ dạy và học tốt,
có một nguồn vốn cố định góp vào nguồn vốn cố định của quân đội và đất nước.
Các đơn vị, học viện, nhà trường đã đầu tư lớn vào xây dựng mới hoặc
nâng cấp thêm các phòng học, phương tiện kỹ thuật, sân tập, bãi tập, thao
trường, bến vượt, giáo trình, tài liệu... bảo đảm phục vụ tốt cho công tác dạy và
học. Chỉ số các phòng học tiêu chuẩn bảo đảm về diện tích, ánh sáng, độ thông
gió, bàn ghế, bảng...được nâng cao. Chỉ số giờ hữu ích của các phòng học, đặc
biệt các phòng chức năng, phòng đa năng được sử dụng tương đối có hiệu quả;
Tần suất sử dụng các phương tiện kỹ thuật dạy học, học liệu cũng đã được nâng
lên rõ rệt các nhà trường đã cố gắng đầu tư đúng địa chỉ, sử dụng có hiệu quả,
bảo quản tốt hơn trước đây và đã hạn chế được sự lãng phí. Đồng thời các nhà
trường đã tổ chức chặt chẽ công tác kế hoạch xác định tiêu chuẩn định mức tiêu
hao vật chất huấn luyện.
Tuy nhiên, những mặt mạnh này tức là sử dụng có hiệu quả kinh tế cao
trong đầu tư, khai thác sử dụng cơ sở vật chất sư phạm trong nhà trường quân
sự là chưa toàn diện và rộng khắp mà chủ yếu nằm ở các học viện, nhà trường sỹ
quan trực thuộc Bộ, một vài trường sỹ quan thuộc các tổng cục, và quân chủng,
vẫn còn nhiều nhà trường cơ sở vật chất còn nghèo nàn, lạc hậu vì không có kinh
phí để đầu tư cho nhà trường.
Mặt khác, ngân sách cho các nhà trường quân sự được bao cấp hoàn
toàn, do điều kiện đất nước, quân đội còn nhiều khó khăn nên ngân sách này
rất hạn hẹp chỉ đủ phục vụ trên mức tối thiểu các nhu cầu của công tác giáo
dục, đào tạo và xây dựng nhà trường mà thôi vì vậy ảnh hưởng rất lớn đến
việc nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo và xây dựng nhà trường.
Vì vậy, cần phải có một chủ trương đúng đắn, một cơ chế hợp lý như xã hội hoá một
số mặt trong quá trình giáo dục để phát huy nguồn lực của nhà trường và các nguồn lực
kinh tế của xã hội nhằm đầu tư mạnh mẽ cho nhà trường nhằm nâng cao chất giáo dục, đào
tạo và xây dựng nhà trường vững mạnh.
VẤN ĐỀ 2. PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC TRONG CÁC TƯƠNG QUAN KINH TẾ - XÃ HỘI


1. Giáo dục và phát triển
2. Mối tương quan giữa giáo dục và kinh tế
3. Tác động của giáo dục đối với tăng cường chất lượng dân số
4. Giáo dục và lao động
5. Mối quan hệ giữa giáo dục và văn hoá
1. Giáo dục và phát triển


11
Giáo dục ngày nay được coi là nền móng cho sự phát triển khoa học kỹ thuật và
đem lại thịnh vượng cho nền kinh tế quốc dân. Giáo dục có chức năng tái sản xuất sức
lao động kỹ thuật (lao động lành nghề) cho nền kinh tế, đồng thời đổi mới quan hệ xã
hội theo hướng ngày càng rút ngắn giữa các tầng lớp của cư dân; chính với ý nghĩa
này mà giáo dục đồng nghĩa với với sự phát triển. Có thể khẳng định rằng không có
giáo dục thì không có bất cứ sự phát triển kinh tế, văn hoá nào. Chính nhờ giáo dục
mà các di sản tư tưởng và kỹ thuật của thế hệ trước được truyền lại cho thế hệ sau, các
di sản này được tính luỹ ngày càng phong phú làm cho xã hội được phát triển.
Trên thế giới ngày nay đang diễn ra cuộc chạy đua quyết liệt về mặt phát
triển, tập trung vào phát triển kinh tế song chỉ có thể thắng trong cuộc chạy đua này
hoặc ít nhất không bị tụt hậu trong cuộc chạy đua nếu phát triển tốt giáo dục. Tập
trung và chăm lo cho phát triển giáo dục là giải pháp hữu hiệu chống nguy cơ tụt
hậu về văn hoá, khoa học, kinh tế. Điều này đặc biệt quan trọng đối với những nước
đang phát triển, đang tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá như nước ta hiện nay.
Những tấm gương về việc tập trung chăm lo giáo dục tiến trước một bước, đón đầu
các yêu cầu phát triển kinh tế, văn hoá, khoa học, xã hội…đã thể hiện ở nước Nhật
từ nửa cuối thế kỷ XX, Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc, Singapo… trong những
thập niên cuối của thế kỷ XX đến nay.
Ông Đặng Tiểu Bình người được coi là nhà kiến trúc sư của công cuộc cải
tổ, đổi mới của Trung Quốc, coi giáo dục có tầm quan trọng bậc nhất để đưa đất

nước Trung Quốc thành nước phát triển vào dịp kỷ niệm 100 năm ngày thành lập
nước CHND Trung Hoa(2049). Giang Trạch Dân trong bài phát biểu ngày
14/6/1994 tại Hội nghị Trung ương Trung Quốc lại nhấn mạnh: không nhận thức
được vai trò chiến lược ưu tiên phát triển giáo dục để hiện đại hoá XHCN ta sẽ
để mất thời cơ làm lỡ đại sự, sẽ phạm sai lầm mang tính lịch sử.
Hàn Quốc trong những năm 80 của thế kỷ trước đã cho rằng: cạnh tranh giữa các
nước về sức mạnh kinh tế thực chất là cuộc đua tranh về giáo dục chất lượng cao trong khoa
học và công nghệ. Ngay Regan lúc đương nhiệm Tổng thống nước Mỹ (1987) đã từng lo
lắng: Mỹ có nguy cơ trở thành cường quốc hạng hai về kinh tế nếu như Mỹ tự cho phép
mình làm mất đi vai trò dẫn đầu về công nghệ kỹ thuật do tình trạng giáo dục yếu kém.
Giáo dục có vai trò quyết định trong sự phát triển trong quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá thì trước hết bản thân nó phải được hiện đại hoá - hiện đại hoá về
mục tiêu, về chương trình, về đội ngũ, về cơ sở vật chất - sư phạm. Giáo dục đem lại
lợi ích đồng thời giáo dục cũng cần chi phí tương ứng. Về vấn đề này C.Mác đã có
chỉ dẫn mang ý nghĩa phương pháp luận quý báu như sau: Một lao động được coi là
cao hơn, phức tạp hơn với lao động xã hội trung bình thì nó là biểu hiện của một sức
lao động đòi hỏi những chi phí cao hơn. Người ta phải tốn nhiều thời gian lao động
hơn để tạo ra nó và vì vậy nó có một giá trị cao hơn so với sức lao động giản đơn. Rõ
ràng không thể có một nền giáo dục vừa là mục tiêu vừa là sức mạnh của nền kinh tế,
đưa đất nước vào hiện đại hoá, công nghiệp hoá, nếu bản thân nó không được hiện
đại hoá, không được đầu tư thích đáng.
Ở Việt Nam Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ ra rằng: “Không có giáo dục, không
có cán bộ thì không có kinh tế, văn hoá. Trong việc đào tạo cán bộ giáo dục là bước


12
đầu…”2 hay “muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trước hết cần có những con người xã hội
chủ nghĩa”3. Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, Đảng ta khẳng định: “cùng với
khoa học và công nghệ giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” 4. Ngày nay giáo dục có vị trí đặc biệt quan

trọng trong chiến lược phát triển đất nước của tất cả các quốc gia trên thế giới.
Chúng ta đều hiểu rằng: “đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển”. Xuất phát từ
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định, con người là nhân tố quyết định tạo ra
mọi sự phát triển trong xã hội loài người. Muốn phát triển xã hội trước hết phải tạo ra sự phát
triển con người. Phát triển con người là tiền đề, là điều kiện để phát triển xã hội. Mặt khác,
muốn phát triển tốt con người phải được giáo dục tốt. Giáo dục là điều kiện tiên quyết để tạo
ra sự phát triển con người. Ở đây, phát triển con người là mục đích, giáo dục là phương tiện,
điều kiện để đạt mục đích đó. Do vậy, muốn tạo ra sự phát triển con người nhất thiết phải
đầu tư vào giáo dục và không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo. Một khi con
người được phát triển tốt sẽ tạo ra sự phát triển của tất cả các mặt khác nhau của xã hội (và
ngược lại). Do đó đầu tư vào giáo dục, có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của tất cả các
loại đầu tư khác: đầu tư kinh tế, công nghệ, hành chính, quản lý, chăm sóc sức khoẻ…Có thể
nói, không đầu tư thoả đáng và nâng cao chất lượng giáo dục thì không thể tạo ra bất cứ sự
phát triển nào trong xã hội.
Thực tiễn cho thấy, trên thế giới những quốc gia có chất lượng nền giáo dục cao đều
là những quốc gia phát triển và ngược lại những quốc gia chậm phát triển là những quốc
gia có nền giáo dục lạc hậu.
2. Mối tương quan giữa giáo dục và kinh tế
Từ xưa vấn đề giáo dục và kinh tế đã được rất nhiều nhà chính trị, nhà quản lý các
quốc gia quan tâm. ở nước Trung Hoa cổ đại tiêu biểu có Quản Trọng nhà chính trị, quản
lý lỗi lạc Tiên Tần đã có những quan điểm, tư tưởng về xây dựng và phát triển đất nước có
giá trị như quan điểm về kinh tế - chính trị; quan điểm về chính trị - quản lý; những kiến
giải có giá trị về kinh tế giáo dục…
Về quan điểm kinh tế - chính trị, Quản Trọng cho rằng: “Nước lắm của thì
người nơi xa đến; đất hoang được khai phá thì đân ở yên; kho lẫm đầy thì dân hiểu lẽ
nghi đúng mức; ăn mặc đủ thì dân biết rõ vinh nhục”. Ông chấn chỉnh nội chính, đẩy
mạnh tổ chức xã hội chế định: “Tứ dân phân nghiệp: Sỹ nông, công , thương”, mỗi
người dân trong nước ai cũng có nghề chuyên môn, mỗi cơ quan nhà nước đều có
trách nhiệm riêng. Ông chủ trương cải cách kinh tế chủ yếu là thực hành: “Quan sơn
hải”, thiết lập, mở mang thị trường, thu hút khách thương của các nước ngoài đến Tề.

Lâm tri (thủ đô Tề) trở nên trung tâm thương mại quan trọng thời đó.
Những kiến giải của Quản Trọng về kinh tế giáo dục, Ông được coi là người đi
tiên phong trong việc nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề “nguồn lực con
người”. Ông đã đề xuất ý kiến bất hủ sau:
“Nhất niên thụ cốc
Thập niên thụ mộc
Bách niên thụ nhân”
. Hồ Chí Minh, bàn về giáo dục. Nxb ST, H. 1972. tr. 156.
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, H, 2000. tr.310.
4
. Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ VIII, Nxb CTQG, H, 1996, tr.107.
2
3


13
Tính lợi ích một năm lo việc trồng lúa
Tính lợi ích mười năm lo việc trồng cây
Tính lợi ích trăm năm lo việc trồng người.
Phạm trù “thụ” ở đây bao hàm cả việc ươm và trồng mà Quản Trọng coi việc
ươm trồng này bắt đầu bàng sự giáo dục để con người có lễ nghĩa liêm sỉ (tứ duy).
Ông nói: “Phàm kẻ chăn dân phải làm sao cho con trai không có hành vi xằng bậy,
con gái không có chuyện dâm ô. Con trai không có hành vi xằng bậy là do có giáo
dục, con gái không có hành vi xằng bậy là do được dạy dỗ. Khi giáo dục dạy dỗ đã
thành thuần phong thì hình phạt giảm đi được mấy lần. Việc giáo dục dạy dỗ phải
bắt đầu từ việc nhỏ đến việc lớn”. “Xây dựng được lễ nghĩa liêm sỉ” gắn với việc
chống được các điều xằng bậy (Tà). Muốn chống được các điều xằng bậy lớn (đại
tà) thì trước hết phải chống điều xằng bậy nhỏ (tiểu tà).
Ý kiến của Quản Trọng về “Thụ nhân” (trồng người) còn có sự tương đồng sâu
xa với ý tưởng “trồng trọt” Cultus (gốc latinh) biểu thị cho văn hoá.

Khổng Tử là người sáng lập trường phái nho gia, nhà giáo dục, chính trị, nhà tư
tưởng vĩ đại trong lịch sử Trung Quốc đã có nhiều tư tưởng, quan điểm có giá trị lớn về
chính trị, xã hội, về giáo dục và dạy học…Hậu thế còn nhắc đến quan điểm kinh tế giáo
dục đặc sắc của Khổng Tử đó là, một quốc gia giàu mạnh phải là quốc gia có được ba
điều: Thứ - Phú - Giáo. Trong đó Thứ là phải đông dân dấu hiệu cho sự thịnh vượng;
Phú là phải làm cho dân giàu; Giáo là phải chăm lo cho giáo dục, cho việc dạy dân. Thứ
- Phú - Giáo ngày nay đó là vấn đề vừa phải có số lượng vừa phải có chất lượng của
nguồn dân số. Mối quan hệ văn hoá giáo dục và kinh tế theo Khổng Tử phải gắn bó chặt
chẽ với nhau. Trong luận ngữ chương VIII, mục 13, ông phát biểu: Nếu nước không có
đạo (văn hoá xấu) mà giàu và sang (kinh tế tốt) thì đó là điều xấu hổ. Nếu nước có đạo
(văn hoá giáo dục tốt) mà nghèo và hèn (kinh tế xấu) thì cũng là điều xấu hổ.
Ở nước ta có Lê Quý Đôn (1726 - 1781) Nhà văn hoá lớn dưới thời Hậu Lê. Lê Quý
Đôn là một học giả uyên bác, đa dạng, đa tài nhất của văn hoá Việt Nam. Giới nghiên cứu
thế giới xem ông là nhà bác học về lĩnh vực văn hoá của nước ta. Công trình trước tác và
sáng tác của ông gồm một thư tịch đồ sộ nhiều bộ môn: lịch sử, địa lý, ngôn ngữ, triết
học...Trên tầm nhà văn hoá, ông có những kiến giải sâu sắc về vấn đề liên quan giữa kinh
tế - xã hội và giáo dục.
Trong các tác phẩm “Vân đài loại ngữ” và “Kiến văn tiểu lục”, ông nêu ra “Tứ
tôn” và “Ngũ qui”, các mệnh đề trong Tứ tôn và Ngũ qui gắn kết vào nhau có thể xem
như một chiến lược kinh tế - xã hội - giáo dục. Ông viết:
Tôn tộc đại quý.Tôn lộc đại suy.Tôn tài đại thịnh.Tôn nịnh đại suy
Ý tưởng của Lê Quý Đôn trong bốn mệnh đề trên, đặc biệt là mệnh đề ba là sự
phát triển luận đề mà Lê Thánh Tôn - Thân nhân Trung đã phát biểu ba thế kỷ trước đó.
Hiền tài là nguyên khí của quốc gia
Nguyên khí mạnh thì thế nước cường
Nguyên khí suy thì thế nước tàn.
Ông viết về ngũ quy như sau:
Qui nông tất ổn.Qui công tất phú.Qui thương tất hoạt.Qui pháp tất bình.



14
Lo lắng trù tính cho nông nghiệp thì mang lại sự ổn định; Lo lắng trù tính cho
công nghiệp thì mang lại sự giàu có; Lo lắng trù tính cho thương nghiệp thì mang lại sự
năng động của nền kinh tế.
Dù có cả ba thứ trên cũng chưa thể tạo ra sự phát triển, một đất nước còn phải lo
lắng trù tính cho việc giáo dục, phải coi trọng trí thức, coi trọng việc học việc giáo dục
mới hưng thịnh, và cuối cùng phải trù tính lo lắng cho công tác pháp luật thì đất nước
mới thanh bình.
Những mệnh đề mà Lê Quý Đôn nêu ra rất ngắn gọn và sinh động. Chúng chứng tỏ
một tầm nhìn rộng, một sự suy nghĩ sâu về chiến lược phát triển đất nước khi gắn bó cả
năm nhiệm vụ lớn về phát triển nông nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp, pháp lý, giáo
dục. Giáo dục theo quan điểm của Lê Quý Đôn sẽ tạo ra sự hưng thịnh cho đất nước.
Tứ tôn và Ngũ qui kết hợp với nhau vẫn còn giữ nguyên giá trị thời sự cho đất
nước ta đang cần hoạch định một chính sách giáo dục hiện thực và khả thi phục vụ cho
sự phát triển kinh tế xã hội nói chung.
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta về quan hệ giữa giáo dục và kinh tế.
Lý luận Mác - Lênin coi giáo dục có vai trò quan trọng trong cách mạng XHCN.
Qui luật kinh tế cơ bản của CNXH đã xác định chức năng kinh tế của hệ thống giáo dục
quốc dân XHCN. Giáo dục vừa là mục đích vừ là sức mạnh kinh tế. Đây là bộ phận chủ
yếu của đời sống văn hoá tinh thần (khía cạnh thứ nhất của quy luật kinh tế cơ bản), lại
là nhân tố quan trọng góp phần thúc đẩy sản xuất, nâng cao năng suất lao động (khía
cạnh thứ hai của qui luật kinh tế cơ bản).
Vấn đề lý luận này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện sinh động và phát triển
sáng tạo trong tiến trình cách mạng nước ta. Tháng 9 năm 1945, ngay sau khi nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, Hồ Chủ tịch đã nêu ra mục tiêu của chế độ mới là làm cho
mọi người “ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Để đạt mục tiêu này,
Người cho rằng: “Một trong những công việc phải thực hiện cấp tốc trong lúc này là nâng
cao dân trí”, vì mọi người Việt Nam phải có kiến thức mới để tham gia vào công cuộc xây
dựng nước nhà “để giữ vững nền độc lập” để làm cho “dân giàu nước mạnh”. Với hoàn
cảnh đất nước còn nghèo nàn, trình độ dân trí thấp kém, chính quyền cách mạng non trẻ bị

thù trong giặc ngoài uy hiếp, Hồ Chủ tịch vạch ra nhiệm vụ chiến lược phải đồng thời kết
hợp chặt chẽ công tác kinh tế, giáo dục và quốc phòng. Người đề ra ba nhiệm vụ cụ thể:
“Diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm” và chủ trương vừa kháng chiến vừa kiến
quốc, góp phần vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng cuộc sống mới.
Trong đại hội giáo dục phổ thông toàn quốc tháng 3/1956, Hồ Chủ tịch vạch
ra mối liên hệ biện chứng giữa phát triển giáo dục và phát triển kinh tế: “giáo dục
phải cung cấp cán bộ cho kinh tế. Kinh tế tiến bộ thì giáo dục mới tiến bộ dược.
Nếu kinh tế không phát triển thì giáo dục cũng không phát triển được. Giáo dục
không phát triển thì không đủ cán bộ giúp cho kinh tế phát triển. Hai việc đó liên
quan mật thiết với nhau”. Hồ Chủ tịch nói rõ thêm về vai trò quan trọng của giáo
dục đối với nhiệm vụ phát triển kinh tế văn hoá: “Không có giáo dục, không có cán
bộ thì cũng không nói gì đến kinh tế văn hoá. Trong việc đào tạo cán bộ, giáo dục
là bước đầu. Tuy không có gì đột xuất, nhưng rất vẻ vang”.
Với tầm nhìn sâu xa về mối quan hệ giữa phát triển giáo dục và phát triển
kinh tế Người nhắc nhở toàn Đảng, toàn dân: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng


15
cây, vì lợi ích trăm năn thì phải trồng người”. Người yêu cầu toàn xã hội “phải
chăm sóc nhà trường về mọi mặt, đẩy sự nghiệp giáo dục lên những bước mới”.
Người nêu mục tiêu cao nhất của giáo dục là “nhằm đào tạo những người kế tục sự
nghiệp cách mạng to lớn của Đảng và nhân dân”. Người chỉ thị cho ngành giáo
dục: “Dù khó khăn đến đâu cũng phải tiếp tục thi đua dạy tốt, học tốt” để “ thời
gian không xa đạt những đỉnh cao của khoa học, kỹ thuật”.
Những lời dạy của Người đem lại cho chúng ta cơ sở lý luận sâu sắc để giải
quyết đúng đắn mối quan hệ giữa giáo dục và kinh tế ở nước ta. Đó là: mỗi hoạt động
giáo dục đều phải thấu suốt những yêu cầu kinh tế nhất định; mỗi công việc kinh tế
phải hướng vào cả lợi ích vật chất và lợi ích văn hoá tinh thần của người dân, hỗ trợ
cho giáo dục phát triển, cả giáo dục và kinh tế phải phối hợp với nhau phát triển
thành quả của cách mạng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, đem lại cho người lao

động ấm no, hạnh phúc và đưa đất nước tiến đến đỉnh cao của văn minh nhân loại.
Quán triệt sâu sắc tư tưởng của Chủ tịch Hồ CHí Minh Đảng ta tiếp tục khẳng
định văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự
phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Văn hoá,
giáo dục và khoa học là các lĩnh vực sản xuất tinh thần - sáng tạo như nhận định của
Các Mác, tạo ra những giá trị, những công trình khoa học, văn hoá nghệ thuật nhằm xây
dựng và phát triển con người. Nếu kinh tế là nền tảng vật chất của xã hội thì văn hoá
(bao gồm cả giáo dục và khoa học) là nền tảng tinh thần của đời sống ấy, và vì thế hai
lĩnh vực đó luôn luôn giữ vai trò quan trọng và quyết định đối với thực trạng, sự vận
động và phát triển xã hội. Giáo dục là mục tiêu của phát triển kinh tế là khi phát triển
kinh tế phải hướng vào cải thiện, nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân
đồng thời cũng là điều kiện bảo đảm cho giáo dục phát triển, và coi kinh tế là nền tảng
của giáo dục. Giáo dục là động lực của phát triển kinh tế vì giáo dục đào tạo phát triển
nguồn nhân lực chính là nguồn tài nguyên về con người (vốn người), gia tăng các giá trị
con người; giáo dục thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nó làm gia tăng chất lượng nguồn
nhân lực (nâng cao trình độ người lao động) bảo đảm cơ cấu nguồn lực (nguồn lực trong
kinh tế, khoa học kỹ thuật, quản lý xã hội, thầy và thợ; cơ cấu ngành nghề, cơ cấu trình
độ...). Tư tưởng khẳng định văn hoá, giáo dục, khoa học và công nghệ (mà trong đó
giáo dục là nền tảng) là động lực thúc đẩy sự phát triển, thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện
đại hoá của Đảng ta xuất phát từ quan điểm coi con người - trước hết là tiềm năng và
sức mạnh trí tuệ, tinh thần và đạo đức - là nhân tố quyết định sự phát triển, là vốn quý
nhất của chúng ta trên con dường xây dựng CNXH. Từ đó, cần nhấn mạnh coi phát triển
văn hoá, giáo dục, khoa học và công nghệ là lĩnh vực cực kỳ quan trọng của chiến lược con
người, còn chiến lược con người lại nằm ở vị trí trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế
- xã hội trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Điều đó cũng có nghĩa là phải đặt
văn hoá, giáo dục, khoa học và công nghệ vào trung tâm những vấn đề kinh tế, đồng thời
bản thân chúng là những lĩnh vực sản xuất đặc biệt góp phần trực tiếp tạo ra nguồn lực ở
trình độ phát triển ngày càng cao, nâng cao dân trí, tăng tiềm năng trong người lao động,
thúc đẩy con người phát triển và hoàn thiện nhân cách. Đó chính là nhân tố cơ bản, sâu xa
nhất bảo đảm sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước thời kỳ mới. Đầu tư cho ba

lĩnh vực nói trên chính là đầu tư cho phát triển; Đầu tư cho giáo dục phải là một mục tiêu


16
quốc gia, là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho con người, đầu tư cho
tương lai.
3. Tác động của giáo dục đối với tăng cường chất lượng dân số
Nói đến phạm trù dân số là nói đến qui mô dân số của cộng đồng và chất lượng
con người theo qui mô đó. Chất lượng dân số biểu hiện các đặc trưng như qui mô dân số
phải hợp lý tương quan với kinh tế ví dụ: dân số tăng 10% thì GDP phải tăng 40% thì
mới bảo đảm sự tương quan; Chất lượng dân số biểu hiện ở cơ cấu giới, cơ cấu người ở
Thành thị và Nông thôn; Dân số lao động và dân số phụ thuộc phải hài hoà và chất
lượng dân số biểu hiện ở sự phân bố hợp lý ở các vùng miền đất nước.
Ngày nay chất lượng dân số gắn với hai vấn đề đó là: chất lượng dân số gắn với chỉ
số phát triển con người HDI - biểu thị trạng thái tổng hợp về người dân như thu nhập,
giáo dục và tuổi thọ và gắn với chỉ số phát triển thiên niên kỷ - biểu thị sự tiến bộ của
cộng đồng theo 8 mục tiêu của Liên hợp quốc đề ra đó là: Xoá nghèo đói cùng cực; phổ
cập tiểu học; bình đẳng giới; giảm tử vong trẻ em; tăng cường sức khoẻ cho bà mẹ; phòng
chống HIV và các bệnh hiểm nghèo; bảo vệ môi trường; tăng cường hợp tác toàn cầu.
Giáo dục có vai trò rất quan trọng trong tăng cường chất lượng nguồn dân số đó
là phổ cập giáo dục; đa dạng hoá các loại hình trường lớp xây dựng một xã hội học tập;
cải thiện, nâng cao chất lượng con người; gia tăng tuổi thọ và thông qua giáo dục truyền
thông để thế hệ trẻ có hành vi đúng đắn trong bảo đảm chất lượng nguồn dân số. Ở Việt
Nam giáo dục trong thời kỳ đổi mới đã có những đóng góp to lớn trong cải thiện chất
lượng nguồn dân số đó là tỷ lệ người biết chữ tăng, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài,
thực hiện bình đẳng giới...Đến lượt mình một hệ thống dân số có quy mô, cơ cấu, phân
bố hợp lý sẽ tạo điều kiện cho chất lượng dân số phát triển.
4. Giáo dục và lao động
Từ phân tích quy luật về mối quan hệ quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất
và trình độ của lực lượng sản xuất, lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất ta

thấy, giáo dục góp phần tái sản xuất sức lao động (sức sản xuất), tức là nói tới khía cạnh
tái sản xuất con người. Trong đó con người đóng vai trò quyết định trong việc phát triển
sức sản xuất. Trong quá trình lao động con người làm phong phú thêm kinh nghiệm,
hoàn thiện các kỹ năng lao động; sự phát triển sức sản xuất là sự thay đổi, cải tiến công
cụ lao động do chính con người sáng tạo và thực hiện. Giáo dục đào tạo con người có trí
tuệ phát triển, tâm hồn lành mạnh, thể lực cường tráng làm cho năng suất lao động ngày
càng tăng lên. Giáo dục còn góp phần tái sản xuất quan hệ xã hội biểu hiện đó là con
người quan hệ với nhau trong quá trình sản xuất, trao đổi, phân phối, quản lý cơ sở vật
chất; Nhờ giáo dục mà người lao động có một cơ hội bình đẳng về quyền học hành,
quyền phát triển tài năng. Kinh tế muốn tăng trưởng và phát triển bền vững đòi hỏi có
sự tiến bộ giữa sức sản xuất và quan hệ sản xuất, đòi hỏi có một nền giáo dục đáp ứng
mục tiêu phát triển kinh tế. Giáo dục cải thiện chất lượng nguồn nhân lực nâng cao trình
độ, kỹ năng nghề nghiệp cho người lao động và điều hoà cơ cấu nguồn lao động.
5. Mối quan hệ giữa giáo dục và văn hoá
Như ta đã biết giáo dục là nền tảng của văn hoá. Giáo dục ra đời và tồn tại cùng với
loài người, giáo dục là nơi bảo tồn, phát huy hệ thống giá trị của nhân loại và của dân tộc.
Giáo dục là một nhân tố sinh thành và truyền thông văn hoá tức là, nhờ giáo dục mà con
người hiểu biết giá trị nhân loại và các hiểu biết này được bảo tồn, chọn lọc, bồi đắp ngày
càng phong phú, đa dạng và giá trị hơn. Thông qua giáo dục mà tri thức nhân loại được


17
sáng tạo, tái tạo từ đó ứng dụng vào cuộc sống rồi phát triển thành các giá trị cao hơn phục
vụ lại chính nhu cầu của con người. Giáo dục nhằm thực hiện một trong những mục tiêu cơ
bản của văn hoá là học vấn cho con người tức là nâng cao dân trí; Lý luận nhà trường (lý
luận sư phạm) là thành quả của văn hoá, của khoa học giáo dục.
Văn hoá gắn liền với giáo dục được thể hiện trong Nghị quyết Ban chấp hành
Trung ương lần thứ Năm khoá VIII. Coi trọng giáo dục đạo lý làm người, ý thức trách
nhiệm, nghĩa vụ công dân, lòng yêu nước, yêu CNXH, đạo đức, lối sống, nếp sống văn
hoá, lịch sử dân tộc và bản sắc dân tộc, ý chí vươn lên vì tương laio ciuar mỗi người và

tiền đồ đất nước; bồi dưỡng ý thức và năng lực phát huy giá trị văn hoá dân tộc, tiếp thu
tinh hoa văn hoá nhân loại. Bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ giảng viên và tu chỉnh hệ
thống sách giáo khoa, nâng cao chất lượng giảng dạy các bộ môn lịch sử, chính trị, pháp
luật, đạo đức...Hoạt động khoa học xã hội - nhân văn, khoa học tự nhiên và công nghệ
phải góp phần đắc lực giải quyết các vấn đề đặt ra trên lĩnh vực văn hoá, thúc đẩy các
hoạt động văn hoá, thông tin, văn học, nghệ thuật. Như vậy Văn hoá gắn liền với giáo
dục ; văn hoá bao gồm cả giáo dục và khoa học. Nói trình độ văn hoá là chỉ học vấn; nói
văn hoá là nói đến cả tri thức, học vấn. Con người trưởng thành là nhờ giáo dục, học
hành đồng thời còn được chỉ dẫn việc tự học, tự giáo dục vì vậy văn hoá được duy trì và
phát triển bằng con đường giáo dục và tự giáo dục.
Ngày nay, một xã hội được coi là có nền văn hoá phát triển là một xã hội học tập,
mọi người đều được đi học, giáo dục thường xuyên, đào tạo liên tục, học tập suốt đời.
Cả giáo dục và văn hoá phải trở thành những phương tiện đồng thời cũng là mục đích
của sự phát triển.
VẤN ĐỀ 3. YÊU CẦU KINH TẾ GIÁO DỤC ĐỐI VỚI CÔNG TÁC QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Ở NTQS

1. Yêu cầu về cân đối
- Cân đối mục tiêu phát triển giáo dục đào tạo nhà trường với mục tiêu kinh tế xã
hội, địa phương, ngành, đơn vị; chú ý lĩnh vực cân nhân lực, mô hình nhân lực cần đào
tạo.
+Gắn đào tạo nhà trường với nhu cầu xã hội(62/63 tỉnh thành có Trường ĐH)
+Cân đối qui mô phát triển của từng trường với các điều kiện vật chất kinh tế bảo
đảm (phải mở rộng qui mô, gắn với bảo đảm chất lượng, điều kện cho phép đến đâu thì
mở rộng qui mô đến đó. Mở trường phải theo qui hoạch của nhà nước.
2009 tỷ lệ SV/vạn dân, 195/1 vạn dân; trong vòng 12 năm 1988-2009 có 33
trường ĐH mới; 54 trường ĐH nâng cấp từ Cao đẳng lên; Qui mô dân số trên 1 trường
ĐH là: 572/1 tr ĐH, Mã: 415 nghìn; Phi:400; Thai: 404: Sing: 374: Hàn: 115; Nhật:143;
TQ: 588: Anh: 466: Pháp: 271; Đức: 551; Mỹ: 208; Nga: 327.
+ Phải dự báo: Mô hình, (yêu cầu) đòi hỏi, qui mô phát triển, dự báo xây dựng kế

hoạch và bước đi thích hợp...VD: năm 2020 có 450SV/1 vạn dân.
2. Yêu cầu về tiết kiệm hợp lý, tính tổng hợp và tính hiệu quả
- Sức người: là làm việc theo kế hoạch, tăng hiệu suất làm việc, phân phối thời
gian làm việc hợp lý và làm việc có phương pháp.
- Tập trung thời gian cho các nhiệm vụ, công việc quan trọng, trọng tâm, sức
người sức của, đầu tư và chi phí hợp lý


18
- Phát huy, nhân lên các chức năng, công suất, hiệu quả của các phương tiện kỹ
thuật dạy học, thiết bị CSVC
* Yêu cầu về tính tổng hợp và tính hiệu quả
Gắn kết mọi hoạt động của nhà trường vào mục tiêu nâng cao chất lượng đào tạo ,
tập trung ưu tiên cho những hoạt động và công tác trọng tâm, phối hợp phát huy cao
nhất các lực lượng trong nhà trường.



×