Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO PHẠM TRÙ THỰC TIỄN TRONG tác PHẨM “CHỦ NGHĨA DUY vật và CHỦ NGHĨA KINH NGHIỆM PHÊ PHÁN” LIÊN hệ XEM xét THỰC TIỄN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.29 KB, 19 trang )

PHẠM TRÙ THỰC TIỄN TRONG TÁC PHẨM “CHỦ NGHĨA DUY VẬT
VÀ CHỦ NGHĨA KINH NGHIỆM PHÊ PHÁN”. LIÊN HỆ XEM XÉT
THỰC TIỄN
ĐẶC ĐIỂM, NỘI DUNG CUỘC ĐẤU TRANH GIAI CẤP Ở NƯỚC TA
HIỆN NAY
========================================

Tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán 1 được
V.I.Lênin viết trong khoảng thời gian từ tháng 2 đến tháng 10 năm 1908 và được
xuất bản lần đầu tiên vào tháng 5 năm 1909 tại Nga. Đây là một trong những tác
phẩm triết học chủ yếu của V.I.Lênin, được viết dưới dạng luận chiến và đã đóng
vai trò là cơ sở lý luận cho một đảng chính trị kiểu mới, đồng thời góp phần tạo nên
một giai đoạn mới trong sự phát triển của triết học mácxít.
HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA TÁC PHẨM
Những năm đầu thế kỷ XX, nhất là sau sự thất bại của cách mạng dân
chủ tư sản Nga (1905 – 1907), tình hình chính trị xã hội Nga có nhiều biến
động. Nga hoàng đàn áp tàn bạo mọi lực lượng đối lập, tập trung tiêu diệt
phong trào cách mạng cả về lý luận và lực lượng. Cùng với đó, mọi kẻ thù
khác của cách mạng đồng loạt tấn công vào phong trào cách mạng trên mọi
lĩnh vực (Triết học, văn học nghệ thuật, khoa học ...). Phong trào cách mạng
bị tổn thất nghiêm trọng, lực lượng bị phân hoá. Một số thoả hiệp đầu hàng
chạy sang hàng ngũ kẻ thù công khai chống phá cách mạng, một số sợ khủng
bố tự rút lui khỏi nghị viện, đảng đoàn. Một số khác dao động mất niềm tin
vào cách mạng chạy theo các tín ngưỡng tôn giáo. Đời sống chính trị dần rơi
vào tình trạng mất phương hướng. Những tư tưởng duy tâm thần bí tôn giáo
có những dấu hiệu phục hồi; một số trí thức và có cả một số đảng viên
Bônsêvích cũng đã xa rời chủ nghĩa Mác, ngả sang chủ nghĩa duy tâm.
1

V.I.Lênin, Toàn tập, tập 18, Nxb Tiến bộ, M. 1980



2

Lợi dụng tình hình đó, giai cấp tư sản bằng nhiều hình thức và phương
pháp khác nhau, công khai chống chủ nghĩa Mác, đòi thay thế bằng một học
thuyết khác, đặc biệt là sau khi Ăngghen mất. Một trong những học thuyết
phản động, chống lại hệ thống các quan điểm của Chủ nghĩa Mác nổi lên
trong giai đoạn này là quan điểm của những người theo Chủ nghĩa Makhơ.
Chủ nghĩa Makhơ, do Makhơ (1838 – 1916) và Avênariút (1848 –
1896) sáng lập về thực chất là chủ nghĩa duy tâm chủ quan, là một biến tướng
từ chủ nghĩa duy tâm của Béccơly (1684 – 1753) và Hyum (1711 – 1776) mà
Mác và Ăngghen đã từng phê phán. Những người theo phái Makhơ ở Nga là
những nhà trí thức dân chủ xã hội từ bỏ lập trường duy vật, lạc đường sang
chủ nghĩa duy tâm chủ quan, nguỵ trang bằng các thành tựu của khoa học tư
nhiên đầu thế kỷ XX, tự cho là triết học đứng trên cả duy tâm và duy vật đòi
xét lại, thay thế các nguyên lý của triết học Mác, mưu toan thành lập “đường
lối thứ ba trong triết học”. Những trí thức dân chủ xã hội bao gồm cả các phần
tử Mensêvích, như (Valentinốp, Iuxkêvích...) và cả những người thuộc phái
Bônsêvích, như (Magđanốp, Bađarốp, Lunaxtacxky...) dùng chủ nghĩa Makhơ xét
lại các nguyên lý của triết học Mác. Họ tuyên truyền, xuất bản chủ nghĩa Kăng mới,
cho rằng chủ nghĩa Mác đã cũ kỹ phải thay bằng chủ nghĩa thực chứng hiện đại của
Makhơ. Họ say mê đi tìm và nắm lấy các nguyên lý triết học Makhơ nhằm phá hoại
các cơ sở lý luận của Đảng Bônsêvích trước vũ khí tư tưởng của giai cấp vô sản,
mưu toan biến chủ nghĩa xã hội thành một dạng tôn giáo mới (thuyết tạo thần) để
tuyên truyền trong quần chúng nhân dân, tạo ra sự nhiễu loạn trong đời sống tinh
thần của nhân dân Nga vốn đã suy sụp sau cách mạng dân chủ tư sản, đẩy tình hình
tư tưởng chính trị-xã hội ở Nga lâm vào tình trạng mất phương hướng, mất tinh
thần, phân liệt, phục hồi tư tưởng thần bí tôn giáo “tạo thần”....
Cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng lý luận đòi hỏi những người cộng
sản chân chính phải tích cực đấu tranh chống các quan điểm phản động.



3

Lênin đã nêu một tấm gương sáng về việc bảo vệ và phát triển Chủ nghĩa
Mác. Cảm nhận sự cần thiết phải đập tan đám mây mù đen tối của chủ nghĩa
Makhơ, Lênin đã tự đặt cho mình “nhiệm vụ tìm xem những kẻ đưa ra, dưới
chiêu bài của chủ nghĩa Mác, những cái vô cùng hỗn độn, hồ đồ và phản động,
đã lầm đường, lạc lối ở chỗ nào”. Thông qua tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và
chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” được viết từ tháng 2 đến tháng 10 năm 1908,
được xuất bản thành sách năm 1909, Lênin đã bóc trần thực chất duy tâm của
chủ nghĩa Makhơ, phê phán toàn diện triết học duy tâm tư sản, đập tan mưu đồ
của chủ nghĩa cơ hội đòi xét lại các nguyên lý triết học Mác, phục hồi chủ nghĩa
duy tâm của một số thủ lĩnh quốc tế II và phái Makhơ ở Nga, phát triển triết học
Mác lên một tầm cao mới “Cuốn “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm
phê phán” có một ý nghĩa đặc biệt to lớn trong việc tiếp tục hoàn thiện chủ nghĩa
duy vật biện chứng; đây là một tác phẩm kinh điển của giai đoạn Lêninnít trong
quá trình phát triển tư tưởng triết học Mác xít” – Lời tựa của Viện nghiên cứu
chủ nghĩa Mác Lênin viết cho lần xuất bản cuốn sách năm 1980.
Tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” đã
giải đáp những vấn đề cơ bản của triết học lúc đó đang được đặt ra trước
đảng, đã khái quát trên phương diện triết học những thành tựu mới nhất của
khoa học tự nhiên. Nhiều nguyên lý của triết học Mác đã được Lênin đề cập,
bổ sung, phát triển trong tác phẩm. Một trong các nội dung đặc biệt quan
trọng được Lênin khẳng định và phát triển là về vấn đề lý luận nhận thức.
Nội dung về lý luận nhận thức được Lênin trình bày xuyên suốt trong tác
phẩm tuy nhiên, trong điều kiện của một bài thu hoạch. Học trò chỉ xin phép
trình bày một nội dung nhỏ trong lý luận nhận thức mà LêNin đã trình bày trong
tác phẩm, đó là phạm trù thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức.
VẤN ĐỀ THỰC TIỄN, VAI TRÒ CỦA THỰC TIỄN ĐỐI VỚI NHẬN THỨC



4

Trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê
phán”, Lênin khẳng định rất rõ ràng cụ thể, sâu sắc, bảo vệ và phát triển sáng
tạo nhận thức luận duy vật biện chứng về vai trò, ý nghĩa của thực tiễn trong
quá trình nhận thức thế giới, vai trò của thực tiễn vừa là cơ sở, mục đích vừa
là động lực chủ yếu của nhận thức.
1. Phạm trù thực tiễn
Thực tiễn là một trong những phạm trù trung tâm, nền tảng, không chỉ
trong lý luận nhận thức mácxít mà còn của toàn bộ triết học Mác-Lênin.
Các trào lưu triết học trong lịch sử không có quan niệm đúng đắn về
phạm trù này. Chủ nghĩa duy tâm coi thực tiễn như là hoạt động tinh thần sáng
tạo ra thế giới của con người, chứ không xem xét là hoạt động vật chất, là hoạt
động lịch sử - xã hội. Chủ nghĩa duy vật trước Mác, mặc dù đã hiểu thực tiễn là
một hoạt động vật chất của con người nhưng lại xem đó là hoạt động “con buôn,
đê tiện, bẩn thỉu” và không có vai trò gì đối với nhận thức của con người.
Kế thừa và phát triển sáng tạo những yếu tố hợp lý trong những quan
niệm về thực tiễn của các nhà triết học trong lịch sử, C. Mác và Ph. Ăngghen
đã xây dựng quan niệm đúng đắn, khoa học về thực tiễn và vai trò của thực
tiễn đối với nhận thức cũng như đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài
người. Với việc đưa phạm trù thực tiễn vào lý luận nhận thức, các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đã tạo nên một bước chuyển biến cách mạng
trong triết học nói chung và trong lý luận nhận thức nói riêng.
Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất, mang tính lịch sử - xã
hội của con người nhằm mục đích cải biến tự nhiên, xã hội và tư duy.
Theo đó, hoạt động thực tiễn là hoạt động vật chất diễn ra ngoài đầu óc
con người, song luôn có mối quan hệ biện chứng với hoạt động tinh thần, tư
tưởng. Hoạt động thực tiễn được thực hiện thông qua việc con người sử dụng

những công cụ vật chất tác động trực tiếp vào những đối tượng làm cho chúng


5

biến đổi theo những mục đích nhất định. Hoạt động này được thực hiện một
cách tất yếu, khách quan và không ngừng phát triển bởi con người qua các
thời kỳ lịch sử. Vì vậy, thực tiễn bao giờ cũng là hoạt động mang tính lịch sử
- xã hội. Hoạt động thực tiễn rất đa dạng với nhiều hình thức ngày càng phong
phú, song có ba hình thức cơ bản là hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động
chính trị - xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học.
Hoạt động sản xuất vật chất là hình thức hoạt động cơ bản, đầu tiên của
thực tiễn. Đây là hoạt động mà trong đó con người sử dụng những công cụ lao
động tác động vào giới tự nhiên để tạo ra những của cải và các điều kiện thiết
yếu nhằm duy trì sự tồn tại, phát triển của mình và xã hội. Hoạt động chính trị
xã hội là hoạt động của các tổ chức cộng đồng người khác nhau trong xã hội
nhằm cải biến những mối quan hệ xã hội để thúc đẩy xã hội phát triển. Thực
nghiệm khoa học là hình thức đặc biệt của thực tiễn, là hoạt động mà con người
tạo ra những trạng thái gần giống, giống hoặc lặp lại của tự nhiên và xã hội nhằm
xác định các quy luật biến đổi và phát triển của đối tượng nghiên cứu. Hoạt động
thực tiễn này ngày càng có vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội, đặc
biệt là trong thời kỳ cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại.
Mỗi hình thức hoạt động cơ bản của thực tiễn có chức năng quan trọng
riêng, song giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn
nhau. Trong mối quan hệ đó, hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động cơ bản
nhất, đóng vai trò quyết định đối với các hoạt động khác. Bởi vì, nó là hoạt động
“nguyên thuỷ” nhất và tồn tại một cách khách quan, thường xuyên trong đời
sống của con người và nó tạo ra những điều kiện, của cải thiết yếu có tính quyết
định đối với sự sinh tồn và phát triển của con người. Không có hoạt động sản
xuất vật chất thì không thể có các hình thức hoạt động khác. Các hình thức hoạt

động khác suy cho cùng cũng xuất phát từ hoạt động sản xuất vật chất và phục
vụ cho hoạt động sản xuất của con người. Chính sự tác động qua lại lẫn nhau của


6

các hình thức hoạt động cơ bản đó làm cho thực tiễn vận động, phát triển không
ngừng và ngày càng có vai trò quan trọng đối với nhận thức.
2. Vai trò thực tiễn đối với nhận thức
Quan điểm về thực tiễn giữ vai trò cơ bản nhất trong việc xây dựng
lý luận về nhận thức của chủ nghĩa Mác. Sở dĩ như vậy là vì: "Thực tiễn
cao hơn nhận thức (lý luận), không những của tính phổ biến, mà cả của
tính hiện thực trực tiếp" 2.
Trước hết, thực tiễn là cơ sở của nhận thức. Con người bắt đầu quan
hệ với tự nhiên không phải bằng lý luận mà bằng thực tiễn, chính trong quá
trình thực tiễn, cải tạo thế giới mà nhận thức lý luận của con người mới được
hình thành và phát triển. Hơn nữa, để đáp ứng nhu cầu của mình con người
phải cải tạo thế giới bằng hoạt động thực tiễn, trong quá trình đó con người
cũng biến đổi luôn cả bản thân mình, các giác quan của con người ngày càng
hoàn thiện, năng lực tư duy lôgic, trí tuệ không ngừng được củng cố và phát
triển; theo đó, con người ngày càng đi sâu nhận thức thế giới, khám phá
những bí mật của thế giới, làm phong phú và sâu sắc hơn tri thức của mình.
Có thể nói, thông qua thực tiễn đã xuất hiện nhu cầu, nhiệm vụ, phương
hướng của nhận thức; xuất hiện nhu cầu tổng kết kinh nghiệm, tìm kiếm tri
thức, khái quát lý luận của con người và thúc đẩy sự ra đời, phát triển của các
ngành khoa học.
Trên cơ sở thực tiễn con người mới có khả năng trực tiếp tạo ra công cụ,
phương tiện phục vụ cho quá trình nhận thức - hoạt động tinh thần không thể có
khả năng trực tiếp về vấn đề đó. Với hệ thống công cụ, phương tiện ngày càng
hiện đại giúp con người có khả năng nhận thức một cách nhanh hơn, xa hơn,

trong những điều kiện khó khăn phức tạp hơn, nhận thức ngày một hiệu quả.
Thông qua hoạt động thực tiễn, và bằng hoạt động thực tiễn, con người
tác động vào thế giới, buộc thế giới phải bộc lộ những thuộc tính, những quy
2

V. I. Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1981, tập 29, tr. 230.


7

luật để con người có điều kiện, khả năng nhận thức. V.I.Lênin đã chỉ ra rằng,
thế giới bí ẩn sẽ hoàn toàn bí ẩn với con người nếu không có sự tác động của
con người vào đó. Sự tác động của con người vào thế giới khách quan diễn ra
như một quá trình, từ việc thu thập những tài liệu cảm tính, những kinh
nghiệm, sau đó tiến hành, phân tích, tổng hợp, khái quát hoá, trừu tượng hoá...
để phát triển thành lý luận. Không có thực tiễn thì không có nhận thức; mọi tri
thức dù trực tiếp hay gián tiếp, đối với người này hay người kia, thế hệ này
hay thế hệ khác, dù ở giai đoạn cảm tính hay lý tính xét đến cùng đều bắt
nguồn từ thực tiễn.
Thứ hai, thực tiễn không những là cơ sở mà còn là động lực của quá
trình nhận thức. Thông qua thực tiễn đã xuất hiện những nhu cầu vật chất,
tinh thần và nhu cầu đó ngày càng cao. Tuy nhiên, khả năng của chủ thể nhận
thức luôn có hạn, điều này đã thúc thẩy sự nỗ lực về tri thức, trí tuệ để thoả
mãn nhu cầu của mình. Cùng với vấn đề đó, thông qua thực tiễn đã tạo ra
những tiền đề, điều kiện thúc đẩy quá trình nhận thức. Với những ý nghĩa đó
thực tiễn là động lực của quá trình nhận thức.
Thứ ba, con người ngay từ khi mới xuất hiện đã bị quy định bởi nhu
cầu sống. Để sống, để tồn tại con người phải tìm hiểu thế giới xung quanh, đồng
thời những tri thức khoa học - kết quả nhận thức của con người chỉ có ý nghĩa
đích thực khi nó được vận dụng vào sản xuất vật chất, hoạt động chính trị - xã

hội và thực nghiệm khoa học... Với ý nghĩa đó thực tiễn là mục đích của nhận
thức.
Thứ tư, vai trò của thực tiễn đối với nhận thức còn thể hiện ở chỗ, nó là
tiêu chuẩn của chân lý. C. Mác viết: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con
người có thể đạt tới chân lý khách quan không, hoàn toàn không phải là một
vấn đề lý luận mà là vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người
phải chứng minh chân lý, nghĩa là chứng minh tính hiện thực và sức mạnh,


8

tính trần tục của tư duy của mình” 3. Ông còn nhấn mạnh rằng, nếu đứng ngoài
thực tiễn mà xem xét chân lý khách quan có phù hợp với tư duy con người
hay không, thì như thế là triết học kinh viện.
Thực tiễn luôn vận động, biến đổi không ngừng; do vậy, chân lý cũng
thường xuyên được bổ sung ngày càng hoàn thiện, phù hợp với thực tiễn mới.
Ngày nay, để bảo đảm yêu cầu trước sự phát triển phong phú, phức tạp của tri
thức người ta có thể lấy “tiêu chuẩn lôgíc”, “tính không mâu thuẫn” của tư
duy... làm tiêu chuẩn của chân lý. Tuy nhiên, những cách kiểm nghiệm này
suy đến cùng đều phải trên cơ sở thực tiễn.
Trên đây là một số nội dung xung quanhphạm trù thực tiễn trong lý
luận nhận thức được Lênin đề cập trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa kinh nghiệm phê phán”. Bằng việc bảo vệ và phát triển sáng tạo lý luận
nhận thức của chủ nghĩa Mác trên cả phương diện lý luận và thực tiễn, khẳng
định những nội dung cơ bản của lý luận nhận thức: tính chất của chân lý, tiêu
chuẩn của chân lý; nguyên tắc bao trùm là quan điểm về đời sống thực tiễn;
về chức năng chuyên biệt của lý luận nhận thức là phương pháp nhận thức
khoa học. Ngoài ra Lê-nin còn giải quyết những vấn đề về mối quan hệ giữa
nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận. Cùng với việc giải quyết nhiều
vấn đề của triết học, Lênin đã để lại cho chúng ta một tác phẩm kinh điển,

thực sự là một vũ khí sắc bén trong cuộc đấu tranh chống những quan điểm
phản động sai trái nhằm bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác.
Qua phân tích vai trò to lớn của thực tiễn đối với nhận thức trên đây,
đòi hỏi các chủ thể trong quá trình hoạt động phải luôn quán triệt đúng đắn quan
điểm thực tiễn đối với nhận thức. Trong nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa
trên cơ sở thực tiễn, đi sâu, đi sát thực tiễn. Cụ thể hoá sáng tạo tinh thần này
Đảng ta đã chỉ rõ: “... đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát
huy vai trò chủ động sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với
3

C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, Nxb Sự thật, Hà Nội 1995, tập 3, tr. 9 - 10.


9

cái mới”4. Đồng thời, phải: “thường xuyên tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển
lý luận, giải quyết đúng đắn những vấn đề do thực tiễn đặt ra”, “tổng kết thực tiễn
để phát triển lý luận, cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước” Nếu xa rời thực tiễn dẫn tới các sai
lầm của bệnh chủ quan, giáo điều, quan liêu và chủ nghĩa xét lại.
Trong lĩnh vực quân sự, thực tiễn quân sự luôn gắn với thời gian,
không gian, điều kiện hoàn cảnh quân sự cụ thể, bao gồm thực tiễn chiến đấu,
bảo đảm chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu, thực tiễn công tác chính trị tư tưởng
và xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật quân sự. Trong các hình thức thực tiễn
quân sự, thực tiễn chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu là hình thức cơ bản nhất.
Thông qua hoạt động thực tiễn quân sự, các mối quan hệ, các thành phần, các
thuộc tính... trong lĩnh vực quân sự được bộc lộ, cung cấp cho chủ thể quân sự
những nhận biết để từ đó khái quát thành lý luận quân sự, đồng thời làm cho
chủ thể quân sự phát triển năng lực trí tuệ của mình. Thực tiễn quân sự luôn
vận động, biến đổi không ngừng, thường xuyên xuất hiện những đối tượng và

tình huống mới buộc chủ thể phải nâng cao khả năng nhận thức đáp ứng yêu
cầu thực tiễn quân sự đặt ra. Thực tiễn quân sự còn có vai trò kiểm nghiệm
nhận thức và lý luận quân sự. Nhận thức quân sự qua kiểm nghiệm bằng thực
tiễn quân sự mới khẳng định được tính chân lý.
Cần phải quán triệt tốt quan điểm thực tiễn, quan điểm thực tiễn quân
sự; qua đó giúp cho chủ thể nhận thức quân sự tránh được những sai lầm cực
đoan như chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa chủ quan, hoặc chủ nghĩa tương đối
trong lĩnh vực quân sự.
Lênin viết “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là quan điểm thứ
nhất và cơ bản của lý luận nhận thức” 5, “Người Mác xít nói: nếu lấy tiêu
chuẩn thực tiễn làm cơ sở cho lý luận về nhận thức thì nhất định chúng ta
Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội 2006, tr.71.
4

5

Lênin toàn tập tập 18


10

đi đến chủ nghĩa duy vật” 6. Thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý và
là cái tốt nhất để bác bỏ mọi hình thức duy tâm chủ nghĩa, thuyết bất khả
tri trong nhận thức và cải tạo thế giới “tiêu chuẩn thực tiễn, xét về thực
chất, không bao giờ có thể xác nhận hoặc bác bỏ một cách hoàn toàn một
biểu tượng nào đó của con người, dù biểu tượng ấy là thế nào chăng nữa...
đồng thời nó cũng khá xác định để có thể tiến hành đấu tranh quyết liệt
chống tất cả chủ nghĩa duy tâm và thuyết bất khả tri. Nếu cái mà thực tiễn
của chúng ta xác nhận là chân lý khách quan duy nhất, cuối cùng, thì như

thế tức là con đường duy nhất dẫn đến chân lý đó là con đường của khoa
học xây dựng trên quan điểm duy vật” 7. Thực tiễn là chân lý khách quan,
duy nhất cuối cùng thì con đường duy nhất dẫn đến chân lý đó là con
đường nhận thức khoa học, được xây dựng trên cơ sở sự thống nhất về lý
luận nhận thức với phép biện chứng duy vật tuân theo quy luật của quá
trình nhận thức mà Lênin đã chỉ ra.
Lênin cũng chỉ ra rằng, chân lý không phải bao giờ cũng thuộc về số
đông của những kẻ giỏi làm “trò ảo thuật”, “khéo khua môi, múa mép”.
Tính đúng đắn của chân lý phải được chứng minh trong thực tiễn, nghĩa là
phải chứng minh tính hiện thực, sức mạnh của tư duy con người “Vấn đề
tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới tính chân lý khách quan
hay không, hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận, mà là một vấn đề
thực tiễn. Chính trong thực tiễn, con người phải chứng minh tính chân lý,
nghĩa là chứng minh tính hiện thực, sức mạnh, tính bên này của tư duy
của mình. Tranh cãi về tính hiện thực hay tính không hiện thực của tư duy
tách rời khỏi thực tiễn, là một vấn đề thuần tuý kinh viện” Hoạt động thực
tiễn của con người là mắt khâu trong sự phân tích quá trình nhận thức, nó
vừa kiểm nghiệm chân lý của quá trình nhận thức đúng hay sai. Thực tiễn
Lênin toàn tập tập 18 tr.164.
Lênin toàn tập tập 18, tr.168.

6
7


11

càng phong phú thì con người càng có điều kiện phát triển tư duy nhận
thức lý luận. Chỉ có thông qua hoạt động thực tiễn con người mới nhận
thức và cải tạo thế giới một cách thiết thực vì nhu cầu cuộc sống của con

người. Đây cũng chính là sự khẳng định vai trò của con người có khả năng
nhận thức và cải tạo thế giới.
Khẳng định vai trò và không tuyệt đối hoá vấn đề thực tiễn, Lênin
còn chỉ rõ vai trò của lý luận, coi lý luận là kim chỉ nam, vạch phương
hướng chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Lý luận cung cấp cho thực tiễn những
định hướng, kế hoạch, phương pháp hành động nhằm đạt mục đích trong
hoạt động thực tiễn. Do đó, lý luận và thực tiễn, lời nói và việc làm không
thể tách rời nhau. Lênin đã nhiều lần phê phán và vạch mặt những người
theo chủ nghĩa cơ hội khi họ giở trò ảo thuật, làm xiếc trong triết học và
chính trị nhằm lừa đảo nhân dân.
VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM THỰC TIỄN TRONG LÝ LUẬN NHẬN THỨC, XEM XÉT
THỰC TIỄN CUỘC ĐẤU TRANH GIAI CẤP TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.

1.Thực tiễn đặc điểm cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay.
Cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay diễn ra trong điều kiện cơ
cấu giai cấp-xã hội có sự biến đổi căn bản tạo nên so sánh lực lượng có lợi
cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Giai cấp công nhân từ chỗ là giai cấp bị thống trị và bóc lột, nay trở
thành giai cấp lãnh đạo chính quyền nhà nước và lãnh đạo xã hội. Cùng với sự
phát triển của sự nghiệp cách mạng, giai cấp công nhân có sự phát triển mạnh
mẽ cả về số lượng và chất lượng. Bộ phận công nhân có trình độ chuyên môn
cao ngày càng nhiều do tiếp nhận được những thành quả của cách mạng khoa
học và công nghệ hiện đại. Giai cấp công nhân đã và đang thể hiên rõ bản chất
cách mạng của mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội mới.


12

Tuy nhiên, do bị quy định bởi đặc điểm chủ yếu của nước ta quá độ lên chủ

nghĩa xã hội không trực tiếp từ chủ nghĩa tư bản phát triển, mà xuất phát từ
một xã hội vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất kém phát triển,
trải qua những cuộc chiến tranh chống xâm lược liên tục và kéo dài, nên giai
cấp công nhân còn bộc lộ khá nhiều những hạn chế như thiếu kinh nghiệm
quản lý kinh tế xã hội; trình độ lành nghề, thợ bậc cao còn ít; tỷ lệ đoàn viên,
đảng viên, công nhân tham gia trong bộ máy lãnh đạo thấp. Một bộ phận không
nhỏ trong giai cấp công nhân sự giác ngộ về lý tưởng, về bản chất giai cấp chưa
cao, thậm chí, trước tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường một bộ phận bị
tha hóa, biến chất. Bên cạnh đó, sự vận hành của nền kinh tế nước ta hiện nay,
giai cấp công nhân cũng đang có sự phân hóa. Một số ít giầu lên, thành lập
công ty riêng, tham gia mua cổ phần, làm việc với tư cách của người chủ sở
hữu. Một bộ phận không nhỏ đang phải làm thuê và chịu sự bóc lột của các chủ
tư bản nước ngoài và các nhà tư sản trong nước.
Bên cạnh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân cũng có sự biến đổi.
Nhìn chung, sau khi được giải phóng, giai cấp nông dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng đã và đang có những đóng góp tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ hiện đại, trình độ về mọi mặt của giai cấp nông dân có bước phát triển
mạnh mẽ. Tuy nhiên, do đặc điểm của nước ta mà đặc điểm chủ yếu là từ một
nước nông nghiệp lạc hậu tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa nên giai cấp nông dân đang có sự phân hóa
khá rõ nét. Một bộ phận không nhỏ (đặc biệt là lớp trẻ) trở thành công nhân
làm trong các xí nghiệp, nhà máy; một số vươn lên trở giầu có, thuê mướn lao
động làm thuê, trở thành chủ các trang trại; một số ít, do nhiều nguyên nhân,
tách khỏi ruộng đất trở thành lực lượng lao động làm thuê của xã hội. Nhưng
do chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta, đặc biệt là chính sách về


13


quản lý và sử dụng tư liệu sản xuất chủ yếu trong nông nghiệp, nên dù có sự
phân hóa như vậy song không thể dẫn đến xuất hiện lại giai cấp địa chủ như
trước.
Bên cạnh hai giai cấp cơ bản nói trên, đội ngũ trí thức ở nước ta cũng
có sự phát triển nhanh chóng. Trí thức Việt Nam có lòng yêu nước, nhiều
người ngay từ đầu đã tham gia cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân, ngày nay tầng lớp này đang có nhiều đóng góp đối
với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đại bộ phận tầng
lớp trí thức xuất thân từ các giai cấp và tầng lớp lao động, được đào tạo trong
chế độ mới, gắn bó với công nhân và nông dân. Vì vậy, khối liên minh giữa
công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức là nền tảng của xã hội mới.
Ở nước ta hiện nay, sự phát triển kinh tế tư bản còn là tất yếu; thành
phần kinh tế tư bản tư nhân không chỉ được Nhà nước ta thừa nhận mà còn
khuyến khích phát triển. Cùng với quá trình đó, trong xã hội ta hiện nay số
lượng các nhà tư sản tăng lên đáng kể. Khẳng định sự tồn tại và phát triển
của kinh tế tư bản ở nước ta hiện nay, điều đó đồng nghĩa với việc khẳng định
sự hiện diện của mâu thuẫn giữa tư sản và công nhân; giữa tư bản và lao động
ở nước ta hiện nay. Trong xã hội tư bản, mâu thuẫn giữa tư bản và lao động là
mâu thuẫn đối kháng, không thể điều hòa vì bản chất của xã hội này là bảo vệ lợi
ích của kẻ đi bóc lột. Ngược lại, trong xã hội ta hiện nay, lợi ích hợp pháp của các
nhà tư sản về căn bản thống nhất với lợi ích chung của cộng đồng. Vì vậy, Đảng ta
chủ trương sử dụng thành phần kinh tế tư bản để phát triển lực lượng sản xuất, để
xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống của
nhân dân. Đảng, Nhà nước có chủ trương, chính sách và pháp luật để một mặt quản
lý thành phần kinh tế này trong khuôn khổ định hướng xã hội chủ nghĩa, không cho
nó phát triển một cách tự phát, tự nó; mặt khác, nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng và
kết hợp hài hòa lợi ích của người lao động làm thuê, lợi ích của nhà tư sản và lợi ích


14


của Nhà nước. Chính vì vậy, đa số các nhà tư sản đã có những đóng góp nhất định
vào phát triển lực lượng sản xuất, giải quyết công ăn, việc làm, thúc đẩy sự nghiệp
công nghiệp hóa ở nước ta trong những năm vừa qua. Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích
cực ấy, không loại trừ một số ít người trong tầng lớp của họ có những hành động
thù địch chống phá sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay diễn ra trong điều kiện đất
nước phát triển trong thế ổn định và vững chắc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng,
cách mạng nước ta trong những năm qua đã giành được những thắng lợi hết
sức quan trọng: cơ sở kinh tế xã hội chủ nghĩa được củng cố và phát triển;
chính trị - xã hội về cơ bản được ổn định; quốc phòng-an ninh được tăng
cường; hệ thống chính trị xã hội được củng cố; địa vị của các giai cấp công
nhân, nông dân và đội ngũ trí thức xã hội chủ nghĩa được nâng cao; trận địa
chính trị – tư tưởng của giai cấp công nhân được củng cố vững chắc v.v..
Đảng ta khẳng định những thắng lợi đó đã làm “thay đổi bộ mặt của đất nước
và cuộc sống của nhân dân; củng cố vững chắc độc lập dân tộc và chế độ xã
hội chủ nghĩa”8 ở nước ta. Những thắng lợi đó đã tạo ra những điều kiện hết
sức thuận lợi cho cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay.
Cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay diễn ra trong bối cảnh quốc
tế rất phức tạp. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đang ráo riết thực
hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ hòng xóa bỏ những thành
quả cách mạng xã hội chủ nghĩa trên thế giới,trong đó chúng coi nước ta là
một trọng điểm. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại cùng với xu
hướng khách quan, quốc tế hóa lực lượng sản xuất, tăng cường giao lưu và
hợp tác quốc tế, đang tạo ra cho đất nước ta cả những khả năng bỏ qua và rút
ngắn quá trình phát triển lịch sử và những thách thức gay gắt có thể bị tụt hậu
ngày càng xa hơn về kinh tế - xã hội so với sự phát triển của nhân loại.
Cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay có sự gắn bó mật thiết hơn
với cuộc đấu tranh dân tộc. Lịch sử chứng minh rằng, ngay từ khi dân tộc ra
8


Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H. 2001, tr.16.


15

đời thì đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp đã có quan hệ chặt chẽ với
nhau. Cơ sở của sự thống nhất đó xuất phát từ việc phải thường xuyên đấu
tranh với thiên nhiên, đặc biệt là đấu tranh chống ngoại xâm vì sự tồn tại và
phát triển của cả cộng đồng. Từ khi cách mạng nước ta có sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam đến nay, sự gắn bó ấy càng khăng khít hơn. Ngay từ khi
chưa có chính quyền, giai cấp công nhân Việt Nam đã đặt lợi ích giải phóng dân
tộc lên trên hết. Từ khi có chính quyền do Đảng ta lãnh đạo, nội dung, nhiệm vụ
đấu tranh giai cấp vẫn luôn nhằm mục tiêu trước hết là hoàn thành sự nghiệp giải
phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Ngày nay, xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ
quốc vẫn là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam không thể tách
rời. Lợi ích giai cấp công nhân và lợi ích dân tộc hòa quyện với nhau trong cuộc
đấu tranh bảo vệ, củng cố độc lập dân tộc, cũng như trong cuộc đấu tranh cho
thắng lợi của chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta. Độc lập dân tộc cũng là nội dung
của xây dựng chủ nghĩa xã hội; ngược lại, xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng là nội
dung của sự nghiệp bảo vệ, củng cố độc lập dân tộc.
Những điều kiện đó vừa nói lên cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện
nay là quá trình vừa tận dụng những yếu tố tiến bộ, vừa loại bỏ những yếu tố
tiêu cực, không phù hợp để phát triển xã hội.
2. Thực tiễn nội dung đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay.
Nội dung của cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ ở nước ta hiện
nay được Đảng ta xác định trong toàn bộ đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa
và ngày càng được bổ sung phát triển. Nội dung xuyên suốt của cuộc đấu tranh
giai cấp trong thời kỳ quá độ ở nước ta hiện nay đó là cuộc đấu tranh nhằm xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta. Trong giai đoạn hiện nay,

Đảng ta xác định: “Nội dung chủ yếu của cuộc đấu tranh giai cấp trong giai đoạn
hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo kém phát triển, thực
hiện công bằng xã hội, chống áp bức, bất công; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục


16

những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu
và hành động chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ độc lập dân tộc, xây
dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh
phúc”9.
Mục tiêu của cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Nội dung đó là một
phức hợp bao gồm nhiều nội dung cụ thể khác nhau, nhằm giải quyết nhiều mâu
thuẫn của quá trình vận động đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Các nội dung này,
tuy vị trí, vai trò không ngang bằng nhau nhưng có mối quan hệ biện chứng thống
nhất, nói lên thực chất cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta , đó là cuộc đấu tranh “ai
thắng ai” giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa. Cuộc đấu
tranh này diễn ra trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị và văn hóa; nó hiện diện
một cách khách quan trong đời sống vật chất và đời sống tinh thần của mỗi con
người, mỗi giai cấp. Để thực hiện thắng lợi nội dung đó, giai cấp công nhân và
nhân dân lao động phải thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong hai nhiệm vụ đó, bảo vệ Tổ
quốc là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên không thể thiếu được. Nhiệm vụ xây
dựng là nhiệm vụ trung tâm luôn được Đảng ta đặt lên hàng đầu, nhằm phát triển
kinh tế, bảo đảm đời sống cho nhân dân, tạo cơ sở vật chất cho sự cải tạo toàn bộ
xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Đây là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, lâu dài nhất và có
ý nghĩa quyết định đến thắng lợi hoàn toàn của đấu tranh giai cấp.
Đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay bao gồm nhiều hình thức. Tính

chất phức tạp và quy mô rộng lớn của cuộc đấu tranh đó đòi hỏi phải sử dụng
tổng hợp và kết hợp các biện pháp, phương pháp linh hoạt tùy điều kiện hoàn
cảnh cụ thể. Đảng ta đã chỉ rõ: để giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh này
“phải vận dụng sáng tạo và tiếp tục phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
9

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H. 2001, tr. 85.


17

tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là tư tưởng của V. I. Lênin về chính sách kinh tế
mới, về chủ nghĩa tư bản nhà nước, sáng tạo nhiều hình thức quá độ, những
nấc thang trung gian đa dạng, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể để đưa
nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội một cách vững chắc”10.
Để thực hiện thắng lợi nội dung đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ
ở nước ta hiện nay, Đảng ta đã xác định những phương hướng cơ bản:
Một là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Nhà nước
của dân, do dân, vì dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện
đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên
chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân.
Hai là, phát triển lực lượng sản xuất, theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung
tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không
ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân.
Ba là, phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập quan
hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở
hữu, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể

ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Thực hiện nhiều hình thức
phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu.
Bốn là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và
văn hóa, làm cho thế giới quan Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vị
trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Kế thừa và phát huy truyền thống
văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn
hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, Nxb Sự Thật,
H. 1994, tr. 24.
10


18

và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ
ngày càng cao. Chống tư tưởng, phản văn hóa tiến bộ, trái với những truyền
thống tốt đẹp của dân tộc và những giá trị cao quý của loài người, trái với
phương hướng đi lên của chủ nghĩa xã hội.
Năm là, thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở rộng
mặt trận dân tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng, phấn đấu vì sự nghiệp
dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
Sáu là, thực hiện chính sách đối ngoại hòa bình, hợp tác và hữu nghị
với tất cả các nước. Trung thành với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công
nhân, đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa, với các lực lượng đấu tranh vì
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Bảy là, luôn nâng cao cảnh giác cách mạng, củng cố quốc phòng, bảo
vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các thành quả
của cách mạng.
Tám là, xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh về chính trị, tư tưởng và
tổ chức , làm cho Đảng thực sự vững mạnh, ngang tầm với nhiệm vụ của cách

mạng, đảm bảo cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo sự nghiệp cách mạng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta... Trong điều kiện hiện nay, để làm được điều đó
phải gắn liền với đổi mới, chỉnh đốn Đảng, bao gồm cả đổi mới nội dung,
phương thức lãnh đạo của Đảng.
Sự hiện diện của các giai cấp và đấu tranh giai cấp ở xã hội ta hiện nay là
một thực tế khách quan. Cuộc đấu tranh đó đang diễn ra hết sức phức tạp và
quyết liệt. Những phương hướng cơ bản mà Đảng ta xác định là sợi chỉ đỏ định
hướng cho giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động trong thực tiễn
đấu tranh cần được quán triệt và nắm vững. Song, đây mới chỉ là những định
hướng chung nhất, có tính chất vĩ mô. Để hiện thực hoá những phương hướng đó,
đòi hỏi phải biết vận dụng linh hoạt vào các lĩnh vực cụ thể, biết sáng tạo ra các
hình thức đấu tranh phù hợp, trên nguyên tắc vì sự thắng lợi của trật tự xã hội mới


19

– xã hội xã hội chủ nghĩa. Là công cụ bạo lực sắc bén của Đảng và Nhà nước,
Quân đội một mặt cần phải tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh chung vì sự
thắng lợi của giai cấp, mặt khác phải không ngừng củng cố bản chất giai cấp công
nhân, sẵn sàng hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được Đảng và Nhà nước giao phó.
KẾT LUẬN
Cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng hiện nay đang đòi hỏi phải bảo vệ và
phát triển chủ nghĩa Mác lên một tầm cao mới. Trước sự sụp đổ của mô hình
CNXH ở các nước Đông Âu và Liên Xô, hiện nay các thế lực thù địch và cơ hội,
xét lại (những sự biến tướng mới của lý luận tư sản) ra sức tuyên truyền về cái
gọi là “sự kết thúc” của chủ nghĩa xã hội. Họ lợi dụng cơ hội đó hòng làm lung
lay nền tảng tư tưởng của Đảng ta, làm chệch hướng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam, chệch hướng sự nghiệp đổi mới ở nước ta. Vì vậy cuộc đấu tranh với
những quan điểm sai trái, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trong giai
đoạn hiện nay là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của công tác tư tưởng, lý luận

của toàn đảng, toàn dân và toàn quân ta. Với ý nghĩa đó chúng ta phải không
ngừng vươn lên học tập nhằm nắm chắc bản chất cách mạng khoa học của chủ
nghĩa Mác – Lênin nói chung, lý luận nhận thức nói riêng. nắm chắc các quan
điểm phương pháp luận rút ra từ phép biện chứng duy vật, vận dung linh hoạt,
sáng tạo vào hoạt động thực tiễn. Đồng thời thấy được những vấn đề về lý luận
nhận thức nói riêng và toàn bộ những vấn đề cơ bản của triết học nói chung đã
để lại những giá trị phương pháp luận to lớn trong cuộc đấu tranh tư tưởng lý
luận ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Từ đóvận dụng tốt trong cuộc đấu tranh
bảo vệ sự đúng đắn của chủ nghĩa Mác Lênin trong thời đại ngày nay.



×