Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO SÁCH XU THẾ PHÁT TRIỂN GIÁO dục hà NHẬT THĂNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (485.71 KB, 93 trang )

HÀ NHẬT THĂNG

XU THẾ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC

Hà Nội- 2009
LỜI NÓI ĐẦU


Nghiên cứu, hiểu sâu sắc xu thế phát triển giáo dục có một ý nghĩa
rất quan trọng đối với tất cả mọi người, trước hết đối với các nhà quản lý các
cấp của Đảng, Nhà nước, các cán bộ quản lý giáo dục các cấp và đội ngũ
thầy cô giáo các ngành học, cấp học, đặc biệt quan trọng đối với các cán bộ
nghiên cứu khoa học về con người và khoa học giáo dục. Ngoài ra hiểu xu
thế giáo dục sẽ giúp tất cả mọi người như các bậc cha mẹ, các nhà quản lý
kinh tế, khoa học công nghệ, sinh viên các trường Đại học khối sư phạm...
chủ động sáng tạo trong việc tiếp thu kiến thức giáo dục, kinh nghiệm hoạt
động giáo dục, văn hoá xã hội, có khả năng tự lý giải được những tồn tại,
những biểu hiện tích cực và tiêu cực trong cuộc sống thực tế và trong giáo dục.
Hiểu xu thế phát triển giáo dục thực chất là hiểu sự vận động của
các quy luật khách quan chi phối, chế ước quá trình giáo dục nhằm phát
triển nguồn lực người. Đồng thời hiểu sự sáng tạo của con người trong việc
vận dụng những quy luật khách quan để phát triển con người, phát triển xã
hội và khai thác tài nguyên thiên nhiên.
Nghiên cứu nắm vững xu thế phát triển giáo dục giúp cho các nhà
quản lý, các cán bộ nghiên cứu khoa học đề xuất được những phương
hướng, xác định chiến lược, đề xuất những biện pháp... phát triển giáo dục
nhằm khai thác nguồn tài nguyên người có hiệu quả nhất, tối ưu nhất, chắc
chắn sẽ tránh được sự mò mẫm, lúng túng, thậm chí những thất bại, các
nước đã phải trả giá. Nắm vững xu thế phát triển giáo dục giúp mỗi người tự
tin tiếp thu kinh nghiệm của lịch sử, của người khác, tránh được hiện tượng
duy ý chí trong hoạt động nghiên cứu khoa học, trong quản lý và hoạt động


giáo dục. Chẳng hạn các nước phát triển đã đoạn tuyệt với quan điểm của
phái nhi đồng học từ những năm 30 - 40 của thế kỷ XX vì những hậu quả nó
đem lại cho sự phát triển cá tính của con người và không ổn định xã hội.
Nhưng ở Việt Nam vào những năm 80. 90 của thế kỷ trước lại có một số nhà
khoa học bị ám ảnh và mắc vào sai lầm mà các nước đã phạm phải từ thế kỷ
XIX.
2


Có thể nói, nắm vững xu thế phát triển giáo dục qua các thời kỳ lịch
sử, nhất là trong giai đoạn hiện nay giúp chúng ta biết tiếp thu có chọn lọc lý
luận và kinh nghiệm, tự tin, bình tĩnh và tìm ra con đường riêng rút ngắn
khoảng cách phát triển giáo dục so với các nước phát triển để giáo dục thực
sự là nhân tố góp phần quyết định thành công của CNH, HĐH đất nước.
Trong cuốn sách nhỏ này, chúng tôi có ý định trình bày một số nội
dung cơ bản sau đây:
- Quan niệm về xu thế phát triển giáo dục.
- Những đặc trưng của xu thế phát triển giáo dục qua các thời kỳ lịch sử.
- Những xu thế phát triển giáo dục hiện nay trên thế giới.
- Những định hướng lớn của cuộc cách mạng giáo dục Việt Nam
(cuộc đổi mới giáo dục) đang tiến hành.
Tác giả không có ý định phân tích những biến đổi cụ thể, mà trình
bày khái quát những diễn biến để thấy những quy luật khách quan của quá
trình phát triển giáo dục, từ đó chủ động, sáng tạo xác định phương hướng
nghiên cứu khoa học giáo dục, đổi mới quản lý và tổ chức hoạt động thực
tiễn giáo dục cho phù hợp với quy luật khách quan của sự phát triển giáo
dục, phát triển xã hội.
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ XU THẾ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC


1. Một số quan niệm về xu thế phát triển giáo dục
2. Những quy luật chủ yếu của xu thế phát triển giáo dục
3. Đặc điểm phát triển giáo dục qua các nền văn minh của nhân loại.
CHƯƠNG II
NHỮNG XU THẾ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC THẾ GIỚI VÀ
VIỆT NAM HIỆN NAY
3


1. Hoàn cảnh tự nhiên, xã hội (Thế giới, Việt Nam vào thế kỷ XXI.
1.1. Những biến đổi của tự nhiên
1.2. Sự phát triển xã hội.
1.3. Những hách thức đối với nhân loại.
1.4. Nhiệm vụ của công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
2. Sự phát triển nguồn lực bền vững trong hoàn cảnh Việt Nam
giao thoa các nền văn minh.
2.1. Những đặc trưng của con người phát triển toàn diện (CNPTTD)
2.2. Phát triển toàn diện cong người PTTDCN là xu thế tất yếu.
3. Những xu thế phát triển giáo dục chủ yếu của nhân loại và
Việt Nam.
3.1. Xây dựng một chiến lược phát triển giáo dục.
3.2. Giáo dục mở, nhà trường mở, học suốt đời.
3.3. Phát triển các năng lực (8 năng lực).
3.4. Phát triển tối đa các tố chất (trí lực, tâm lực, thể lực)
3.5. Đối tượng của giáo dục.
3.6. Coi hoạt động là nhân tố quyết định con người sáng tạo.
3.7. Quan niệm môi trường giáo dục
3.8. Giáo dục gia đình
3.9. Các nguyên tắc giáo dục
3.10. Đào tạo nguồn nhân lực cao.

3.11. Đổi mói quan niệm quản lý giáo dục.
Vì khả năng và điều kiện có hạn, cuốn sách chắc chắn còn nhiều
điều không đáp ứng mong muốn của đọc giả, tác giả thành tâm kính mong
bạn đọc lượng thứ và đóng góp ý kiến để sửa chữa.
Xin chân thành cảm ơn!
Tác giả
Hà Nhật Thăng
CHƯƠNG I

4


NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ XU THẾ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC

1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM VỀ XU THẾ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC

Để hiểu giới hạn phạm trù xu thế phát triển giáo dục, cần thống
nhất nội hàm một số khái niệm làm tiêu chí xác định xu thế phát triển
giáo dục.
1.1. Khái niệm giáo dục
Trước hết khái niệm giáo dục có rất nhiều cấp độ, trong phạm trù
xu thế phát triển giáo dục nên hiểu theo cấp độ nào? Đó là vấn đề cần
thống nhất.
- Thông thường theo các giáo trình Giáo dục học, khái niệm giáo
dục nguyên có 2 cấp độ: nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Nghĩa rộng thường
được định nghĩa là một quá trình hoạt động có mục đích, có tổ chức, có
kế hoạch nhằm phát triển nhân cách theo yêu cầu của xã hội. Nói cách
khác giáo dục theo nghĩa rộng bao gồm quá trình tổ chức dạy học và quá
trình phát triển các phẩm chất đạo đức, hệ thống thái độ và phát triển các
kỹ năng giao tiếp ứng xử và hoạt động xã hội.

Còn theo nghĩa hẹp, giáo dục là quá trình giáo dục đạo đức, phát
triển hệ thống thái độ thông qua các hoạt động giáo dục ngoài giờ học văn
hoá (hoạt động dạy học).
Hiểu theo nghĩa rộng hay hẹp theo quan niệm như trên thì giáo
dục là một hình thái ý thức xã hội cũng như đạo đức, pháp quyền, tôn
giáo là hình thái ý thức xã hội thuộc thượng tầng kiến trúc, bị chế ước bởi
điều kiện kinh tế, lực lượng sản xuất, khoa học kỹ thuật và những điều
kiện tự nhiên khác, tựu chung đó là hạ tầng cơ sở. Mối quan hệ giữa hạ
tầng cơ sở và thượng tầng kiến trúc là quan hệ chế ước, chi phối tương
ứng, nghĩa là một lực lượng sản xuất, một phương thức nhất định sẽ làm
5


nẩy sinh một ý thức xã hội tương ứng, chẳng hạn một phương thức sản
xuất lạc hậu con trâu đi trước, cái cầy theo sau, lấy gia đình làm đơn vị
sản xuất chính của sản xuất xã hội thì sẽ nẩy sinh tư tưởng tiểu nông, hạn
hẹp, làm ăn lề mề, tuỳ tiện, không kế hoạch… và những giá trị đạo đức xã
hội phổ biến là dựa trên quan hệ giao tiếp ứng xử của con người trong
cuộc sống cộng đồng, chứ chưa dựa trên quyền hạn trách nhiệm trong lao
động sản xuất như sau này. Vậy dựa trên cơ sở nào để phân loại mức độ
nội hàm của khái niệm giáo dục và ngày nay phạm trù khái niệm giáo dục
nên hiểu theo mấy cấp độ.
1.1.1. Cấp độ rộng nhất phải hiểu giáo dục là một hoạt động
đặc trưng của con người, của xã hội loài người có định hướng của con
người và xã hội loài người vì sự phát triển xã hội và mỗi con người.
Hiện tượng giáo dục là một hiện tượng văn hoá người vì đó là
hoạt động truyền thụ kinh nghiệm sống, kinh nghiệm lao động, các thế hệ
lớn tuổi truyền kinh nghiệm trực tiếp cho các thế hệ trẻ theo phương thức
trực tiếp “Người đi trước và người đi sau, người ăn trước và người ăn
theo, người làm trước và người làm theo…” lúc đầu tính bản năng

trong hành động truyền thụ kinh nghiệm còn nặng, đôi khi nhiều nhà
nghiên cứu coi đó là bản năng tự nhiên của loài vật. Ta thừa nhận cái bản
năng “bắt chước” đó ở hiện tượng giáo dục ban đầu của con người,
nhưng cái bản năngđó ở con người đã có ý thức, nghĩa là có mục đích, có
ý tưởng trước khi hành động và vì vậy hiện tượng bắt chước và truyền thụ
kinh nghiệm ở người mới được gọi là hiện tượng giáo dục. Ăngghen đã so
sánh ý thức người và bản năng của động vật trong hành động khá điển
hình. Ông nói rằng: Người kiến trúc sư tài ba đến mấy cũng không xây
dựng được tổ ong, nhưng người kiến trúc sư tồi nhất trước khi xây dựng
một toà lâu đài còn xấu thì toà lâu đài đó đã có trước trong đầu người
6


công trình sư, và đó là sự khác biệt của hành động giữa con người và con
vật. Một ví dụ khác cũng là một hiện tượng cho con bú, ở người mẹ khác
con vật cho con bú là khi ấy trong đầu người mẹ xẩy ra hàng loạt thao tác
của tư duy, suy nghĩ về tương lai, gửi gắm vào dòng sữa mẹ với một hoài
bão, mong muốn “Hậu sinh khả uý”- thế hệ sau khoẻ hơn, tốt hơn. Cũng
nhờ có tư duy mà con người đã vượt qua cái bản năng, vượt qua muôn
loài để trở thành NGƯỜI.
Nhờ lao động, nhờ có tư duy, sau đó là ngôn ngữ nói, rồi ngôn
ngữ viết… việc truyền thụ kinh nghiệm ngày càng phong phú, đa dạng
được rút ngắn dần lại, đó là hiện tượng giáo dục. Nhờ có hiện tượng giáo
dục (truyền thụ và bắt chước nhưng có ý thức) những kinh nghiệm loài
người phải trải qua hàng triệu năm được nhanh chóng truyền từ thế hệ này
sang thế hệ khác, chẳng hạn vào rừng những quả không có chim, thú ăn
thì chớ có ăn; thấy nấm có sâu, kiến ăn thì người ăn được không sợ chết,
những loại củ có thú ăn thì người ăn không sợ nguy hiểm.
Kinh nghiệm của con người ngày càng phong phú. Hoạt động
giáo dục lúc mới hình thành xã hội chính là truyền thụ kinh nghiệm, có

thể phân làm 3 loại: Kinh nghiệm sống và tồn tại đó là kinh nghiệm ăn,
uống, ở, lao động kiếm sống săn bắt, hái lượm, chế tác cộng cụ và lao
động… Đây là mục tiêu, nội dung hoạt động giáo dục đầu tiên và quan
trọng nhất đối với con người ở thời đại bình minh của loài người; loại
kinh nghiệm thứ 2 là giao tiếp ứng xử xã hội. Đó là những quy ước về
cách ứng xử giữa mọi người trong cuộc sống xã hội, trong đó có cả sự
phân công việc trong thị tộc bộ lạc… loại kinh nghiệm thứ 3 là tổ chức
lễ nghi tôn giáo. Tôn giáo ra đời cùng với sự ra đời xã hội loài người, do
con người bất lực trước thiên nhiên nên thường mỗi thị tộc bộ lạc thờ
cúng một thứ gì đó họ cho là linh thiêng che chở cho con người hoặc làm
7


hại con người vì vậy phải tôn thờ… lễ nghi tôn giáo được tổ chức rất
thành kính, tổ chức rất nghiêm túc, chẳng hạn lễ cầu mưa thuận gió hoà ở
các nước thời kỳ văn minh nông nghiệp, vua (Hoàng đế) phải ngủ riêng từ
3 đến 7 ngày, phải tắm rửa sạch sẽ trước khi hành lễ bởi họ tin rằng các
đấng thần linh nhìn thấu mọi điều, nếu không thành tâm sẽ bị trừng phạt.
Do vậy, nghi thức tổ chức cúng tế sẽ được duy trì và truyền từ thế hệ này
đến thế hệ khác.
Khi xuất hiện con người, xã hội loài người thì hiện tượng giáo dục
cũng đồng thời xuất hiện và ngay từ thủa ban đầu của xã hội loài người
hiện tượng giáo dục đã là một hoạt động đặc trưng của con người. Một
hoạt động có định hướng vì sự phát triển của con người, phát triển của
cộng đồng xã hội người. Và ngay từ đầu hiện tượng giáo dục đã luôn bị
chế ước chi phối bởi những điều kiện tự nhiên, nhu cầu của con người,
của xã hội. Giáo dục theo nghĩa rộng có thể hiểu như sau:
Giáo dục hiểu theo nghĩa rộng nhất ở phạm trù xã hội học là
một hoạt động đặc trưng của con người và xã hội loài người; một
hoạt động truyền thụ và tiếp thu kinh nghiệm có mục đích, có tổ chức

của tất cả mọi người, mọi thế hệ; khai thác triệt để, có hiệu quả các
yếu tố tự nhiên và xã hội phát triển con người, phát triển kinh tế xã
hội, khẳng định vị trí, vai trò của con người trước muôn loài.
1.1.2. Khái niệm giáo dục theo XÃ HỘI HỌC GIÁO DỤC (Giáo
dục xã hội)
Hiểu theo cấp độ giáo dục xã hội, nghĩa là những hoạt động có
mục đích, có tổ chức của một nhà nước, sử dụng và tổ chức các tổ
chức xã hội liên quan đến sự phát triển nhân cách con người, khai
thác nguồn lực người với tư cách con người là tài nguyên, là mục tiêu,
động lực của sự phát triển kinh tế xã hội, nhằm phục vụ quyền lợi giai
8


cấp cầm quyền. Chúng ta cần hiểu ở cấp độ giáo dục xã hội là một hoạt
động xã hội có liên quan đến khai thác, phát triển nguồn lực người, những
nhà quản lý xã hội sử dụng, tận dụng bộ máy nhà nước (các đảng cầm
quyền, chính quyền,…), các cơ quan thông tấn, báo chí, văn hoá nghệ
thuật, thể dục thể thao, trong đó có cơ quan chuyên trách giáo dục (Bộ
GD- ĐT)… để thực hiện mục đích giáo dục.
Ở mỗi thời kỳ lịch sử, giáo dục phụ thuộc vào tính chất, mức độ
phát triển của kinh tế xã hội, của khoa học kỹ thuật, phụ thuộc vào những
yếu tố của tự nhiên. Đồng thời còn phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của
tập đoàn nắm chính quyền. Tư tưởng giáo dục, mục đích chính thống
của các thời đại khi xuất hiện nhà nước đều bị chi phối của tư tưởng, mục
đích giáo dục của tập đoàn thống trị. Có thể nói, mục đích giáo dục xã hội
từ nền văn minh nông nghiệp cho tới nay đều là mục đích sử dụng giáo
dục như là một phương tiện, một công cụ để bảo vệ vị trí, củng cố quyền
lực và lợi ích của tập đoàn thống trị nhà nước.
Như vậy giáo dục xã hội chính là tư tưởng giáo dục, là hệ
thống lý luận và quản lý, tổ chức hoạt động tất cả các tổ chức xã hội

dưới sự giám sát của tập đoàn cầm quyền nhằm khai thác sức người, tài
nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất xã hội phục vụ cho quyền lợi của họ.
Khi nói đến giáo dục xã hội là nói tới định hướng phát triển lý luận và
thực tiễn giáo dục theo một mục đích nhất định. Mục đích ấy do tập đoàn
cầm quyền áp đặt.
Chừng mực nào quyền lợi của tập đoàn cầm quyền phù hợp với
quyền lợi của cộng đồng dân tộc, biết tận dụng quy luật khách quan, khai
thác hợp lý tiềm năng sức người, sức của, thoả mãn nguyện vọng của
quần chúng lao động… thì sẽ đề ra được phương hướng đúng đắn, phát

9


huy được vai trò, tác dụng của giáo dục để phát triển nguồn lực người,
phát triển kinh tế xã hội, bảo vệ được thiên nhiên.
Bản chất của giáo dục xã hội là tính tương đồng của hệ thống quy
luật khách quan và ý tưởng, phương hướng phát triển giáo dục của tập
đoàn cầm quyền thông qua Nhà nước và đó chính là xu thế phát triển giáo
dục của mỗi thời đại, mỗi dân tộc, quốc gia. Khi bàn xu thế phát triển
giáo dục liên quan mật thiết với phạm trù khái niệm giáo dục xã hội.
Khái niệm giáo dục theo nghĩa xã hội học (là rộng nhất) và giáo
dục theo nghĩa giáo dục xã hội hay gọi là xã hội học giáo dục (theo nghĩa
rộng thứ 2) khác nhau chính là chỗ mục tiêu giáo dục ở phạm trù xã hội
học, giáo dục được coi là một hoạt động riêng biệt, đặc trưng của loài
người, của tất cả mọi người. Mong muốn được hưởng thụ giáo dục để
được sống, được tồn tại, được giao lưu để phát triển cá nhân và gíp phần
phát triển xã hội. Việc tổ chức hoạt động giáo dục được thực hiện theo
quy luật tự nhiên khách quan các mối quan hệ chế ước chi phối của các
yếu tố tự nhiên, xã hội và con người. Mọi người tham gia vào quá trình
hoạt động giáo dục là hoàn toàn tự giác vì có sự tồn tại và mong muốn

được phát triển.
Còn khái niệm giáo dục theo nghĩa giáo dục xã hội (xã hội học
giáo dục) là sự định hướng có chủ định, có tổ chức của một nhà nước
cụ thể với ý định sử dụng những quy luật khách quan (vốn tồn tại ngoài ý
muốn) vì quyền lợi của tập đoàn thống trị xã hội. Họ sử dụng toàn bộ hệ
thống tổ chức chính trị, sử dụng những điều kiện tự nhiên, cơ sở vật chất
xã hội và đặc biệt xác định cơ chế tổ chức, xác định những yếu tố tinh
thần, tư tưởng vào việc thực hiện giáo dục đào tạo con người. Trong đó
đặc biệt quan tâm tới thiết chế xây dựng gia đình, nhà trường và các tổ
chức xã hội để thực hiện mục đích giáo dục của tầng lớp thống trị áp đặt
10


vào các hoạt động buộc mọi người, mọi tổ chức xã hội thực hiện. Khi nào
những ý muốn chủ quan của nhà nước phù hợp với quy luật khách quan
thì tạo ra sự phát triển đồng bộ và các nhân tố được thúc đẩy nhau cùng
phát triển. Hay nói cách khác, nhà nước nắm vững quy luật, biết vận dụng
quy luật phù hợp với thực tiễn thì giáo dục, con người, kinh tế xã hội
cùng phát triển.
1.1.3. Cấp độ rộng thứ 3 là hoạt động giáo dục của nhà trường.
Giáo dục nhà trường là toàn bộ hoạt động dạy học, giáo dục của
hệ thống nhà trường nằm trong hệ thống giáo dục Quốc dân. Hệ thống
giáo dục này được phân làm 4 cấp quản lý: ở cấp Trung ương là Bộ GD ĐT; xuống dưới là Sở GD - ĐT, phòng GD - ĐT và nhà trường (cấp cơ sở
của ngành

GD - ĐT).

Đứng ở góc độ đối tượng giáo dục bao gồm mọi lứa tuổi, từ mầm
non, phổ thông, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học…
Giáo dục nhà trường là một hệ thống tổ chức giáo dục chuyên

biệt theo một hệ thống quản lý chặt chẽ về mục tiêu, chương trình, nội
dung, điều kiện phương tiện, các quy trình thực hiện giáo dục toàn
diện thế hệ trẻ (ngày nay người học không chỉ là thế hệ trẻ mà cả những
người lao động có tuổi).
Về lý thuyết, quản lý giáo dục nhà trường là quản lý hoạt động
của

5 mặt giáo dục (trí dục, đức dục, thể dục, mỹ dục và giáo dục

lao động) nhằm phát triển toàn diện trí tuệ; đạo đức lối sống; sức khoẻ
(sức khoẻ thể lực và sức khoẻ tinh thần); óc thẩm mỹ, sáng tạo cái đẹp;
thái độ và kỹ năng lao động. Quản lý nhà trường là quản lý quy trình (từ
mục tiêu, nội dung, kiểm tra đánh giá) và quản lý các điều kiện thực
hiện các quá trình đó như đội ngũ thầy trò, trang thiết bị, phương tiện,

11


không gian, thời gian thực hiện mục tiêu và nội dung chương trình (trước
đây chỉ có 9 tháng trong năm học bây giờ là suốt 12 tháng kể cả hè).
Song trên thực tế, nhiều năm nay giáo dục trường học được coi
như dạy học là hoạt động chủ yếu và chung nhất. Cũng có quan điểm cho
rằng giáo dục nhà trường gồm 2 quá trình: Quá trình dạy học các môn văn
hoá nhằm phát triển trí tuệ và quá trình tổ chức các hoạt động nhằm hình
thành, phát triển các phẩm chất, hệ thống thái độ và các kỹ năng cần thiết.
Trong nhiều giáo trình giáo dục học coi giáo dục nhà trường là
khái niệm rộng gồm hoạt động dạy học và hoạt động giáo dục đạo đức.
Những quan điểm trên đúng với những thời kỳ lịch sử nhất định
khi nhận thức của con người về những quy luật phát triển giáo dục còn
hạn chế. Ngày nay thực tế buộc chính ta phải có những nhận thức mới,

tiếp cận với chân lý khách quan hơn: mọi sự phân định nội hàm các khái
niệm chỉ là tương đối, trên thực tế nó đan xen, nó giao thoa nhau tồn tại,
nó ràng buộc nhau trong quá trình phát triển và vì vậy giáo dục nhà
trường có tính giáo dục xã hội, bị giáo dục xã hội quy định và ngược
lại, giáo dục nhà trường là chuẩn hoá, cụ thể hoá những yêu cầu giáo dục
xã hội.
1.1.4. Giáo dục theo nghĩa hẹp (giáo dục đạo đức)
Giáo dục theo nghĩa hẹp là quá trình giáo dục, rèn luyện các
phẩm chất đạo đức, tư tưởng chính trị, lối sống, kỹ năng sống cho thế
hệ trẻ trong nhà trường
Giáo dục theo nghĩa hẹp là toàn bộ hoạt động chính trị xã hội,
hoạt động văn hoá nghệ thuật, thể dục thể thao, hạot động tập thể tự quản
của thanh niên, học sinh, sinh viên bao gồm các hoạt động của lớp, tổ
chức Đội, Đoàn thanh niên, các hoạt động vui chơi có tổ chức của nhà
trường, các hoạt động câu lạc bộ theo chủ đề, theo năng khiếu, sở thích
12


của học sinh, sinh viên. Để phát huy hiệu quả của hoạt động giáo dục
trong và ngoài nhà trường, trong cuộc đổi mới giáo dục đang tiến hành
nàh trường, trực tiếp là Bộ GD- ĐT đã quyết định thực hiện một chương
trình hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp (HĐGDNGLL) thống nhất toàn
quốc từ lớp 1 đến lớp 12.
Chương trình HĐGDNGLL được thiết kế trên cơ sở mục tiêu các
chuẩn mực đạo đức, pháp luật, những kỹ năng cơ bản của con người Việt
Nam thời kỳ CNH, HĐH, đảm bảo hệ thống, phát triển phù hợp với đặc
điểm tâm sinh lý của học sinh từ tiểu học đến trung học phổ thông. Lần
đầu tiên chương trình HĐGDNGLL được đưa vào trường phổ thông coi
như một thể chất, coi như một điều kiện để thực hiện quá trình giáo dục
đạo đức (theo nghĩa hẹp) và phát triển nhân cách học sinh, thực hiện mục

tiêu giáo dục thời kỳ CNH, HĐH: Con người phát triển toàn diện.
Để thực hiện giáo dục theo nghĩa hẹp cũng đòi hỏi phải tận dụng
tất cả các điều kiện, xây dựng môi trường giáo dục trong và ngoài nhà
trường lành mạnh và thu hút mọi lực lượng xã hội, xây dựng một cơ chế
phối hợp hoạt động thống nhất giữa nhà trường với cộng đồng dân cư, các
tổ chức xã hội… Để thực hiện giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông
cũng như sinh viên các trường cao đẳng, đại học, hệ thống giáo dục
chuyên nghiệp thì nhà trường phải giữ vị trí trọng yếu với tư cách là
người tổ chức phối hợp các hoạt động giáo dục ngoài giờ học văn hoá.
Tóm lại, trong hoàn cảnh hiện nay khi bàn về xu thế phát triển
giáo dục, việc xác định nội hàm mức độ của phạm trù khái niệm giáo dục
có ý nghĩa rất quan trọng. Chỉ có thể xác định phạm trù xu thế phát triển
giáo dục khi ta xác định “giáo dục” ở mức độ nào để thấy đúng những
quy luật chi phối quá trình phát triển giáo dục, chủ động vạch ra phương
hướng phát triển giáo dục để không “rơi” vào tình trạng duy ý chí.
13


- Chính vì tính TẦNG BẬC, GIAO THOA của phạm trù giáo
dục mà XU THẾ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC cũng có nội hàm khác
nhau. Ở mỗi góc đọ có cách nhìn khác nhau, chẳng hạn tầng bậc vĩ mô
cần có cách nhìn khái quát, phổ biến nhất của thời đại. Nhưng nếu xem
xét xu thế biến đổi của một môn học, một cấp học, một mặt giáo dục cụ
thể ở một địa phương nào đó diễn ra trong một thời gian ngắn hay dài…
thì chúng ta phân tích, xem xét xu thế phát triển giáo dục trong mối quan
hệ cụ thể nhất định.
- Trong khuôn khổ cuốn sách nhỏ này, chúng tôi chỉ có thể bàn tới
những điều kịên chế ước xu thế phát triển giáo dục ở tầng khái quát nhất, vĩ
mô nhất của sự phát triển giáo dục. Nghĩa là tầng bậc Xã hội hoá Giáo dục.
1.2. Khái niệm xu thế phát triển giáo dục và những đặc trưng

của nó
Bàn về xu thế phát triển giáo dục, có nhiều quan niệm khác nhau
về các mức độ khác nhau.
- Có quan niệm cho rằng khi bàn về xu thế phát triển giáo dục là
giới hạn trong việc nghiên cứu lý luận giáo dục, tưc là những phương
hướng đổi mới trong nghiên cứu khoa học giáo dục (GDH). Không quan
tâm tới sự biến đổi của thực tiễn và mối quan hệ của thực tiễn với lý luận.
Quan niệm đó không giải đáp được câu hỏi tại sao lại có sự biến đổi, và
sự biến đổi đó đúng hay sai, ví dụ: khái niệm con người phát triển toàn
diện được K.Mác giải thích khá đầy đủ, dựa trên ý tưởng của các nhà
nhân văn chủ nghĩa thế kỷ XVI, XVII và K.Mác khẳng định đó là mục
đích giáo dục của một xã hội tượng lai- chế độ cộng sản chủ nghĩa. Tư
tưởng đó của Mác hoàn toàn đúng ở hoàn cảnh giữa thế kỷ XIX khi học
thuyết Mác ra đời. Nhưng sau đó, không ít những nhà nghiên cứu về xã
hội, về giáo dục lại cho rằng K.Mác chỉ coi con người phát triển toàn diện
như là chỉ riêng cho chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mà chưa thấy
đó như là một quy luật khách quan, một đòi hỏi tất yếu của sự phát triển
14


kinh tế xã hội, đặc biệt của sự phát triển công nghệ cao, của cường độ lao
động căng thẳng, của một phương thức sản xuất hiện đại, còn tạo cho con
người phát triển lại là xu thế phát triển chủ quan do con người đã hiểu
quy luật khách quan tất yếu.
Nếu nghiên cứu xu thế phát triển giáo dục mà chỉ nghiên cứu
những biến đổi của lý luận giáo dục tức là mới thấy cái ngọn cây mà chưa
thấy cái gốc, sẽ dễ dàng mắc phải sự ngộ nhận theo kiểu duy ý chí. Chính
chúng ta cũng đã có những sai lầm trước đây bắt chước kinh nghiệm dập
khuôn… chẳng hạn “Giáo dục kỹ thuật tổng hợp” là một phạm trù giáo
dục có tính nguyên tắc, định hướng cần phải quán triệt trong toàn bộ hoạt

động dạy học các môn học và các hoạt động giáo dục trong và ngoài nhà
trường do yêu cầu đào tạo, giáo dục con người có tư duy, có kỹ năng hoạt
động kỹ thuật. Trong “Đề cương giáo dục kỹ thuật tổng hợp” do
N.C.Krupxcaia soạn thảo từ đầu những năm 20 của thế kỷ XX đã phân
tích rất rõ sự khác biệt giáo dục kỹ thuật tổng hợp với dạy học kỹ thuật.
Nhưng vào những năm sau hoà bình lập lại ở miền Bắc, nhiều nhà
nghiên cứu quản lý lại hiểu giáo dục kỹ thuật tổng hợp là dạy nhiều
loại kỹ thuật vì vậy xây dựng chương trình cho học sinh phổ thông học
mộc, nguội, rèn, tiện, điện, chăn nuôi, trồng trọt… nhằm trang bị kỹ năng
lao động mà không phát triển tư duy kỹ thuật, không quan tâm đúng mức
tới phát triển óc sáng tạo, ham khám phá và ứng dụng sáng tạo thành tựu
khoa học công nghệ vào thực tế.
Nghiên cứu xu thế phát triển giáo dục mà chỉ nhìn sự biến đổi bộ
phận, thấy hiện tượng mà không khám phá nguồn gốc nguyên nhân của
các sự kiện giáo dục thì sẽ không thấy tính khách quan tất yếu của tiến
trình phát triển giáo dục của các thời kỳ lịch sử.

15


- Cũng có một số cán bộ nghiên cứu ở một lĩnh vực hẹp của khoa
học giáo dục như quản lý, lý luận giáo dục, lý luận dạy học … Khi nghiên
cứu xu thế phát triển giáo dục lại chỉ thấy những biến đổi của từng bộ
phận riêng lẻ trong tổng thể hệ thống lý luận giáo dục, không thấy
quan hệ biện chứng của các thành tố lý luận và thực tiến đang vận
động, biến đổi, chế ước phụ thuộc nhau.
Cách tiếp cận xu thế phát triển giáo dục như trên tồn tại trong
nghiên cứu Khoa học giáo dục nhiều năm, chẳng khác nào thấy cây mà
không thấy rừng, không thấy mối quan hệ biện chứng của các yếu tố kinh
tế - xã hội, các điều kiện lịch sử, tự nhiên như một quy luật khách quan. Ở

một góc độ nào đó những diễn biến riêng lẻ, bộ phận trong lý luận giáo
dục đã thông qua ý thức chủ quan của người nghiên cứu. Nếu chỉ nghiên
cứu sự biến đổi của các thành tố riêng lẻ thì khó giải thích được nguồn
gốc của sự biến đổi và khó rút ra quy luật phổ biến chung của các xu thếtính tất yếu của sự vận động khách quan và những quy luật bộ phận đã có
tác động có chủ định của con người.
Nhiều nhà nghiên cứu xu thế phát triển giáo dục lại căn cứ vào
các văn bản hoặc ý kiến riêng của một vài cá nhân người nghiên cứu
và coi đó là cơ sở lý luận của sự phát triển giáo dục, coi các văn bản
như là cơ sở chế ước chi phối xu thế phát triển giáo dục tự nhiên đang
vận động. Đó là một sai lầm trong tư duy khoa học bởi lẽ nội dung
trong các văn bản hay quan niệm riêng của mỗi cá nhân là phản ánh
nhận thức chủ quan của con người trong một giới hạn nhất định.
Nhận thức của con người về thực tiễn là có hạn, thực tiễn đang vận động
mới là vô hạn. Thực tiễn là tồn tại khách quan, con người chỉ tiếp cận với
thực tiễn khách quan mà thôi.

16


Tuy nhiên có những văn bản pháp quy, có những quan niệm xuất
phát từ những biến đổi tổng thể thì những nội dung văn bản, những quan
niệm đó phù hợp với quy luật, có tính phổ biến. Đừng nhầm lẫn cơ sở lý
luận của vấn đề nghiên cứu khoa học với cơ sở pháp lý của hoạt động
quản lý xã hội. Nghiên cứu khoa học là phát hiện những mâu thuẫn
khách quan của thực tiễn, phát hiện mối quan hệ biện chứng của các
thành phần trong quá trình phát triển giáo dục và nêu lên những đề xuất
xây dựng các chủ trương, chính sách, phương hướng giải pháp để các cơ
quan quản lý điều hành hoạt động thống nhất. Vì vậy khi quản lý phải
tuân theo những quy định chung, đôi khi những văn bản pháp quy chưa
thật chính xác, chẳng hạn ta quy định giáo viên tiểu học dạy đủ 9 môn

học. Trên thực tế đào tạo của các trường sư phạm chưa đủ trang bị cho
sinh viên khi ra trường có thể dạy tốt 9 môn ở tiểu học (ở các nước giáo
viên tiểu học dạy tốt 9 môn vì họ được giáo dục toàn diện từ phổ thông và
quá trình đào tạo của các trường sư phạm). Chính xuất phát từ thực trạng
giáo viên không đủ khả năng dạy tốt 9 môn nên qua nghiên cứu khoa học,
các nhà khoa học đã đề xuất ở tiểu học không bắt buộc giáo viên dạy đủ
9 môn mà là học sinh được học đủ 9 môn. Đương nhiên kết quả nghiên
cứu khoa học đã là cơ sở cho công tác quản lý, cho việc đề xuất các văn
bản pháp quy, thậm chí kết quả nghiên cứu khoa học giúp các nhà quản lý
điều chỉnh chủ trương, chính sách, văn bản để quản lý.
Một số cán bộ quản lý, một số cán bộ nghiên cứu khoa học giáo
dục không nắm được xu thế phát triển thực chất là không hiểu thật sâu sắc
những quy luật của quá trình phát triển giáo dục nên thiếu cách tiếp cận
tổng thể, chỉ thấy các lĩnh vực cụ thể, không nắm vững lịch sử phát triển
giáo dục cho nên nhìn xu thế phát triển giáo dục trong một phạm vi hẹp.
Có thể nói các nhà nghiên cứu từng bộ phận của giáo dục mới chỉ nhìn
17


thấy xu thế phát triển ở tầng bậc trung mô và vi mô, chưa nhìn thấy tầng
vĩ mô, chưa thấy cấu trúc hệ thống của một chỉnh thể vận động đan xen,
giao thoa của các thành tố ảnh hưởng đến việc phát triển giáo dục theo ý
nghĩa rộng.
Xu thế phát triển giáo dục nên hiểu như thế nào? chưa có một
định nghĩa có sức thuyết phục và còn nhiều điều cần bàn luận. Tạm thời
chúng ta nêu lên một số đặc trưng, phản ánh nội hàm của phạm trù xu thế
phát triển giáo dục.
Xu thế phát triển giáo dục là một quá trình vận động, phát triển
của lý luận và thực tiễn giáo dục một cách khách quan do bị chế ước,
chi phối đan xen, giao thoa của các yếu tố tự nhiên, xã hội và con

người trong điều kiện lịch sử nhất định. Sự vận động và phát triển đó
tồn tại khách quan ngoài ý muốn chủ quan của mỗi cá nhân. Con
người chỉ có thể vận dụng quy luật đưa ra những định hướng phát
triển phù hợp với quy luật thì sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển giáo
dục, phát triển con người, xã hội và sự ổn định của điều kiện tự nhiên.
Xu thế phát triển giáo dục có những đặc trưng sau đây:
1.2.1. Bị giao thoa, chế ước lẫn nhau của hàng loạt các yếu tố
Nội hàm cơ bản của phạm trù xu thế phát triển giáo dục cũng có
các tầng bậc khác nhau xuất phát từ mức độ của khái niệm giáo dục theo
3 cấp độ (theo góc độ xã hội học giáo dục, giáo dục nhà trường, giáo dục
đạo đức) và xu thế phát triển giáo dục còn theo từng mặt giáo dục, từng
nội dung giáo dục, các cấp học… chẳng hạn xu thế phát triển các
ngành học: Mầm non, phổ thông, đại học, đào tạo nghề, giáo dục đặc biệt
người khuyết tật, giáo dục chính quy, không chính quy,… giáo dục tập
trung hay giáo dục thường xuyên, giáo dục từ xa… Mỗi lĩnh vực hoạt

18


động đó cũng có những xu thế riêng biệt, nhưng cũng có mối quan hệ lẫn
nhau.
- Xu thế phát triển giáo dục theo các mặt giáo dục, chẳng hạn xu
thế phát triển trí dục, đức dục, thể dục, thẩm mỹ, giáo dục lao động, giáo
dục hướng nghiệp dạy nghề, giáo dục môi trường, những năm gần đây
còn giáo dục dân số, giáo dục sức khoẻ, giáo dục pháp luật…
- Xu thế phát triển giáo dục các đối tượng giáo dục lao động xã
hội, chẳng hạn nghề thầy giáo, thầy thuốc, công nghiệp, nông nghiệp,
buôn bán, dịch vụ. Những người quản lý nhà nước, quản lý các mặt của
cuộc sống, đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật, hoạt động văn hoá nghệ
thuật, thể dục thể thao… Chưa bao giờ yêu cầu phát triển xã hội, phát

triển nguồn lực người trong bối cảnh giao lưu hội nhập, ngành nghề GD ĐT lại phát triển phong phú, đa dạng như ngày nay… cần có cách tiếp cận
“Cái riêng trong cái chung, bị cái chung chi phối, chế ước” và ngược lại.
Xác định tầng bậc của xu thế phát triển giáo dục chính là xác định
mối quan hệ của các quy luật phát triển giáo dục để thấy quy luật chung
chi phối quy luật bộ phận, quy luật phổ biến chi phối quy luật đặc thù …
trong quá trình nghiên cứu lý luận và tổ chức hoạt động thực tiễn giáo
dục.
Dù nghiên cứu xu thế phát triển giáo dục ở góc độ nào thì cũng
phải xem xét sự phát triển giáo dục trong mối quan hệ đan xen của hàng
loạt các yếu tố khách quan và chủ quan và của ngay tầng bậc các xu thế
phát triển giáo dục. Xu thế phát triển vĩ mô ở tầng bậc xã hội học giáo
dục sẽ chi phối, chế ước xu thế phát triển giáo dục bộ phận nhỏ, cụ thể.
Ngay khi xem xét một yếu tố khách quan nào đó như kinh tế xã hội, tự
nhiên của một địa phương ảnh hưởng tới xu thế phát triển của địa phương
đó thì cũng phải xem xét trong bối cảnh của cả quốc gia, khu vực và toàn
19


cầu. Chẳng hạn khi xem xét hệ thống trường học ở một tỉnh nên phát triển
như thế nào thì không chỉ phân tích sự gia tăng dân số, dân số học đường,
đòi hỏi nguồn lực lao động, phát triển kinh tế xã hội của địa phương … mà
còn phải phân tích xem xét ở phạm vi quốc gia, toàn cầu có ảnh hưởng
đến địa phương đó trong hệ thống các yếu tố… ví dụ sự phát triển và ứng
dụng khoa học công nghệ của nhà nước và của các nước nhất định chi
phối nội dung, chương trình dạy học của một trường, của một địa phương.
Trong quá trình phát triển giáo dục luôn bị chế ước, GIAO THOA
của rất nhiều yếu tố điều kiện theo tầng bậc, ta có thể mô hình hoá mối
quan hệ ấy bằng mô hình sau (xem mô hình 1)

Mô hình 1: Tính vận động giao thoa của các yếu tố ảnh hưởng đến

xu thế phát triển giáo dục
Ghi chú:
:

Con người và sự phát triển nhân cách.
- a1; a1; a3; an là những điều kiện TN, XH từ vĩ mô đến vi mô.
- b1, b2, bn … là các vòng tròn thể hiện xu thế giáo dục ở các mức độ
khác nhau.

Qua mô hình ta thấy sự chế ước của các yếu tố theo nguyên tắc
đồng tâm GIAO THOA, hết sức phức tạp, chẳng hạn khi xem xét một xu
thế phát triển vi mô (một lĩnh vực giáo dục cụ thể) là B1 luôn bị chế ước

20


của các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, khoa học công nghệ ( a1; a2;
a3…) từ vĩ mô đến vi mô, từ điều kiện thực tế của địa phương đến điều
kiện của quốc gia, quốc tế. Song, B1 còn bị chi phối chế ước của các xu
thế phát triển giáo dục vĩ mô và vi mô khác, đó là B2, B3, Bn, v.v...
Nhận biết tính đồng tâm giao thoa phức tạp của các xu thế phát
triển giúp người nghiên cứu có cơ sở phân tích xem xét cơ sở lý luận và
thực tiễn của các hiênk tượng giáo dục, đồng thời đưa ra được những dự
báo của xu thế phát triển giáo dục, đề xuất được phương hướng, mô hình
phát triển giáo dục phù hợp với quy luật khách quan.
Nhận biết tính đồng tâm giao thoa phức tạp của các yếu tố vĩ mô
và vi mô ảnh hưởng đến xu thế phát triển giáo dục sẽ giúp ta hiểu bản
chất của phạm trù xu thế phát triển giáo dục và xác định cấp độ của hệ
thống phạm trù xu thế. Dù ở cấp độ nào của phạm trù khái niệm cũng bị
chế ước của những diều kiện khách quan và những yếu tố vận động chủ

quan của hoạt động giáo dục và nhận thức của con người về những yếu tố
đó.
1.2.2. Đặc trưng thứ 2 của xu thế phát triển giáo dục là các yếu
tố ảnh hưởng đến giáo dục luôn luôn vận động
Giáo dục là đặc trưng của xã hội loài người, cũng như hoạt động
sản xuất vật chất, hoạt động văn hoá nghệ thuật, thể dục thể thao… ở một
góc nào đó chúng ta khẳng định đó là hoạt động xã hội, hoạt động của
con người- điều đó hoàn toàn đúng. Nhưng xét ở một góc độ khác, hoạt
động giáo dục có thể coi là một hoạt động giao thoa giữa hoạt động tự
nhiên và hoạt động xã hội. Theo nghĩa hẹp của khái niệm giáo dục thì
giáo dục là một hình thái ý thức xã hội. Nhưng nếu nhìn giáo dục ở nghĩa
rộng thì giáo dục vừa là hình thái ý thức vừa là hoạt động vật chất, bản
thân trong hoạt động giáo dục chứa đựng vật chất như điều kiện tự nhiên,
21


xã hội và chính con người chủ thể tham gia các hoạt động giáo dục cũng
là sản phẩm phát triển của tự nhiên và xã hội. Bản chất con người có tính
tự nhiên và xã hội, trướcư hết con người là một thực thể tự nhiên và cùng
với tính tự nhiên và luôn luôn song hành, tồn tại với tự nhiên là yếu tố xã
hội và tuỳ thuộc ở hoàn cảnh cụ thể của lịch sử và đặc diểm của đối tượng
tham gia hoạt động giáo dục mà tính tự nhiên hay tính xã hội (tính người)
nổi trội hơn. Chẳng hạn ở nền văn minh mông muội thì tính tự nhiên có
phần chiếm ưu thế, nhưng sang nền văn minh nông nghiệp, đặc biệt văn
minh công nghiệp và hậu công nghiệp thì tính xã hội trở thành yếu tố bản
chất của nhân cách người. Ngay trong cùng một chế độ xã hội, trong cùng
một hoàn cảnh, cái bản năng tự nhiênhay ý thức xã hội ở mỗi người cũng
thể hiện, phản ánh khác nhau, dẫn đến sự khác biệt về nhân cách ở người
này có thể luôn vươn tới cái chân, thiện, mỹ, ham muốn hoàn thiện
nhânghiên cứuách vươn tới cái cao thượng, giá trị tinh thần …, ngược lại

có người chỉ đam mê cái tầm thường, giá trị vật chất trước mặt htoả mãn
nhu cầu bản năng tồn tại của PHẦN CON mà quên đi phần NGƯỜI.
Người nào giải quyết hợp lý nhu cầu vật chất và tinh thần, giữa cái các
nhân và yêu cầu của xã hội… thì họ là một nhân cách phù hợp với quy
luật chung.
Có thể thấy hoạt động giáo dục, quá trình giáo dục xã hội là một
hoạt động đặc trưng của xã hội người và của con người, nó vừa có tính
vật chất vừa có tính ý thức xã hội và vì vậy giáo dục không chỉ thuộc
thượng tầng kiến trúc mà nó còn thuộc hạ tầng cơ sở.
Đã đến lúc cần xem xét vị trí, vai trò của giáo dục không chỉ là
mối quan hệ giữa thượng tầng kiến trúc với hạ tầng cơ sở, giữa ý thức và
vật chất, xem xét giáo dục như tính năng động của ý thức, của tinh thần
đến sự phát triển kinh tế xã hội mà cần xem xét sức mạnh của giáo dục,
22


vai trò của giáo dục là sự kết hợp cả sức mạnh vật chất thực sự và cả tính
năng động của ý thức. Đặc trưng đó của giáo dục vốn tồn tại khách quan,
song có lẽ đến nay do những điều kiện thực tế mới cho phép chúng ta
nhận thức ra chân lý khách quan, có tính quy luật của sự phát triển giáo
dục, phát triển kinh tế xã hội và tự nhiên, đồng thời quy luật ấy cũng nói
lên vai trò của giáo dục, đặc điểm của giáo dục trong quá trình phát triển
nguồn lực người trong lịch sử xã hội., nhận thức sâu sắc về vai trò của
giáo dục, về quy luật của sự phát triển biện chứng giữa giáo dục với các
yếu tố kinh tế xã hội, khoa học, con người và văn hoá. Ngày nay đã được
mọi người thừa nhận : Giáo dục là lực lượng sản xuất trựt tiếp 1.
Như vậy, đặc trưng thứ 2 của xu thế phát triển giáo dục là các
yếu tố ảnh hưởng đến giáo dục tồn tại khách quan, luôn luôn vận
động, tác động lẫn nhau thúc đẩy nhau phát triển. Đó là một quy luật
tồn tại ngoài ý muốn của con người, con người ngày càng nhận thức

sâu sắc hơn và tìm cách vận dụng quy luật đó để phát huy vai trò của
giáo dục.
1.2.3. Đặc trưng thứ 3 của xu thế giáo dục là giữa lý luận và
thực tiễn luôn thúc đẩy nhau cùng phát triển.
Trong khuôn khổ chuyên đề “Xu thế phát triển giáo dục”, chúng
ta không đi sâu phân tích khái niệm “Phát triển” mà chỉ bàn về đặc trưng
của “Xu thế phát triển giáo dục” vậy chỉ đề cập tới mối quan hệ phát
triển giữa lý luận và thực tiễn hoạt động giáo dục.
- Trước hết “Lý luận giáo dục” cũng có các cấp độ khác nhau vì
lý luận được tổng kết từ những thực tiễn ở các mức độ khác nhau, có
những lý luận giáo dục bắt nguồn từ thực tiễn và ngược lại có những lý
luận chi phối, định hướng của sự phát triển thực tiễn. V.I.Lênin đã từng
1

Xem Hà Nhật Thăng, Giáo dục hệ thống giá trị, NXB Giáo dục 1998.

23


nói “Không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng”.
Khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đi tìm đường cứu nước chỉ xuất phát từ lòng
yêu nước, thương dân, chưa biết nên bắt đầu từ đâu? làm gì? làm bằng
cách nào?... Nên khi đọc được Đề cương của Lênin về dân quyền mà
Người muốn khóc vì sung sướng và Người muốn nói to trong phòng kín
cái Người đang cần chính là Đề cương của Lênin. Có thể nói đó là lý
luận, là kim chỉ nam, là phương hướng soi đường cho hoạt động thực tiễn
mà Người đang lúng túng. Ngày 15/ 11/ 1945 trong buổi lễ tốt nghiệp của
trường huấn luyện cán bộ Việt Nam, khi phân tích về ý nghĩa của lý luận
đã học được, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu một ví dụ rất dễ hiểu: “Các anh
em cần đi Sài Gòn, người chỉ đường cho anh em nói phải đi về phương

Nam và đi qua những tỉnh Thanh Hoá, Vinh, Huế, Nha Trang v. v …
Người chỉ đường chỉ có thể chỉ cho anh em thế thôi. Đã có phương hướng
sẵn anh em cứ theo đó mà đi. Đến tỉnh nào phải qua những con sông nào,
những hòn núi gì, anh em sẽ tìm hiểu sau. Miễn là anh em biết theo
phương Nam mà tiến... Trường huấn luyện đã giúp anh em biết phương
hướng, biết nhằm đích mà đi. Như vậy anh em học ít nhưng bổ ích
nhiều...” 1. Đó chính là vai trò của lý luận đối với hoạt động thực tiễn.
- Lý luận là tri thức rút ra từ hoạt động thực tiễn, bắt nguồn từ
hoạt động thực tiễn và lại là kim chỉ nam cho hoạt động . Dù lý luận ở
cấp độ nào cũng nẩy sinh từ thực tế, có thể đó là một hệ thống học thuyết,
tư tưởng hay kinh nghiệm cụ thể... cũng nẩy sinh từ hoạt động thực tiễn.
Chẳng hạn ở thời kỳ văn minh mông muội, khi con người sống còn nhờ
vào sự ban phát của thiên nhiên, thời đó con người chưa lao động làm ra
của cải vật chất, hoàn toàn sử dụng cái có sẵn của tự nhiên bằng săn bắt,
hái lượm, đào bới... phải trải qua hàng ngàn năm, phải trả giá của nhiều
1

Hồ Chí Minh bàn về giáo dục, Nxb Giáo dục, H1962, tr 29.

24


thế hệ mới rút ta được một kinh nghiệm: Các loại quả trong rừng mà chim
thú ăn được thì người ăn được; Tất cả các loại nấm có sâu, có kiến ăn là
loại nấm lành, tất cả các loại củ mà chim, thú trong rừng đã ăn thì con
người có thể sử dụng...Tổng kết từ thực tiễn hoạt động rút ra được kinh
nghiệm có tính lý luận đó là đã phải trải qua không biết bao nhiêu năm và
bao nhiêu người phải chết vì chưa có lý luận soi đường.
Nhưng khi đã xuất hiện lý luận. Dù đơn giản thì hoạt động thực
tiễn của con người có hiệu quả hơn rất nhiều. Các thế hệ sau tiếp thu kinh

nghiệm không còn phải theo hình thức hoạt động giáo dục trực tiếp
“người đi trước và người đi sau, người làm trước và làm theo, ăn trước
và ăn theo ” như trước nữa... Với lý luận “quả gì, củ gì... đã có chim, thú
ăn được thì con người có thể ăn không chết ” ... đã là kim chỉ nam cho
con người tìm kiếm thức ăn một cách chủ động, sáng tạo hơn nhiều.
Con người càng hoàn thiện, xã hội loài người càng phát triển hoạt
động thực tiễn của con người càng đa dạng, càng phong phú, càng phức
tạp… thì những kinh nghiệm càng nhiều, càng đa dạng… và hệ thống lý
luận càng sâu sắc.
Khi xã hội loài người có của cải “dư thừa” theo nghĩa tương đối
thì sẽ nẩy sinh một bộ phận muốn chiếm đoạt của chung thành của riêng,
xã hội xuất hiện người có của, có quyền và đại bộ phận trở thành “vô sản”
thế là xã hội nẩy sinh mâu thuẫn giai cấp. Ta không thể phủ nhận những
tác hại, tính chất dã man, tàn bạo của xã hội có giai cấp đối kháng , gia
cấp thống trị vô tình hay cố ý lẩn tránh quy luật phát triển kinh tế xã hội
một cách khách quan, bằng những quy định chủ quan (hệ thống pháp luật
lý luận) và hệ thống tổ chức quản lý (tổ chức nhà nước) nhằm phục vụ,
bảo vệ quyền lợi của tầng lớp thống trị. Trải qua mấy ngàn năm của lịch
sử nhân loại mâu thuẫn giữa lý luận và hoạt động thực tiễn đã kìm hãm sự
25


×