Tải bản đầy đủ (.docx) (43 trang)

tiểu luận cao học chính sách đn các nước lớn hệ hợp tác giữa indonesia và việt nam từ sau chiến tranh lạnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (457.53 KB, 43 trang )

MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài
Với sự sụp đổ của bức tường Berlin, sau đó Liên Xô tan rã, Chiến tranh
Lạnh đã đi đến hồi kết làm thay đổi rõ rệt tình hình, cục diện thế giới tồn tại
trong gần nửa thế kỉ. Hệ quả của nó đã và đang tác động sâu rộng đến đời
sống chính trị thế giới cũng như quan hệ hợp tác song phương và đa phương
giữa các quốc gia. Trật tự thế giới hai cực tan rã, thay vào đó, thế giới phát
triển nhanh chóng theo hướng đa cực với sự vươn lên của Mĩ, Liên minh châu
Âu, Nhật Bản, Nga và Trung Quốc… Trong tình hình mới, các quốc gia đều
điều chỉnh chiến lược phát triển, tập trung vào phát triển kinh tế, tạo nên sức
mạnh thực sự của quốc gia.Để có được thành công đó, các quốc gia cần ý
thức xây dựng một nền chính trị - xã hội hòa bình, ổn định. Bên cạnh đó, sự
tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật và xu thế toàn cầu
hóa, trước hết là toàn cầu hóa kinh tế đã làm các nước điều chỉnh quan hệ hợp
tác với nhau theo chiều hướng xây dựng quan hệ bạn bè chiến lược ổn định và
cân bằng hướng về lâu dài. Sự điều chỉnh ấy là to lớn và sâu sắc. Xuất phát từ
lợi ích chiến lược căn bản của mình, các cường quốc tiến hành điều chỉnh lại
chính sách đối ngoại để tìm chỗ đứng tốt nhất, xây dựng khuôn khổ quan hệ
mới ổn định lâu dài, xác lập các điều kiện quốc tế có lợi hơn, mở rộng hệ
thống an ninh quốc gia, tạo ra không khí quốc tế để xây dựng kinh tế nước
mình như mục tiêu chủ yếu trong quá trình điều chỉnh.
Như vậy, quan hệ quốc tế đã trở thành một hoạt động không thể thiếu
được đối với sự tồn tại của mọi quốc gia dân tộc.Các nước đang ngày càng
mở cửa, đón nhận những cơ hội mới nhằm gắn kết nhau hơn.Điều này lại
càng cần thiết với những nước láng giềng vốn có hoàn cảnh lịch sử cũng như
trình độ phát triển tương đồng nhau.Trong xu thế đó, Indonesia và Việt Nam
là hai quốc gia điển hình cho mối quan hệ đó. Hai nước đều có những nét
tương đồng trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, trình độ phát triển,
trình độ dân cư… Mối quan hệ này đóng vai trò quan trọng trong quan hệ đối



1


ngoại hai nước.Trong lịch sử, Việt Nam và Indonesia đã giúp đỡ, tương trợ
nhau rất nhiều vì công cuộc đấu tranh, giải phóng và phát triển đất nước.
Được mệnh danh là người “anh cả” trong Asean, thành viên tích cực của
Phong trào Không liên kết, Indonesia có tiếng nói quan trọng trong các tổ chức
khu vực. Kể từ sau Chiến tranh Lạnh đến nay, dưới tác động của các nhân tố
chủ quan và khách quan, quan hệ Indonesia và Việt Nam bước vào giai đoạn
mới không ngừng được mở rộng, tăng cường. Thời kì hội nhập kinh tế khu vực
và quốc tế, Việt Nam luôn coi trọng vai trò, vị thế và tầm quan trọng của
Indonesia trong khu vực. Bởi Indonesia là quốc gia lớn và có tầm ảnh hưởng
trong Asean, bên cạnh đó, nước này còn được đánh giá có tiềm năng gia nhập
nhóm nước có nền kinh tế mới nổi BRIC, cũng như đóng vai trò quan trọng
trong việc giải quyết các vấn đề an ninh – chính trị khu vực hay liên quan đến
Việt Nam. Đặc biệt, ngày 13 tháng 11 năm 2003, hai bên đã ký “Tuyên bố
chung về Khuôn khổ hợp tác hữu nghị và toàn diện bước vào thế kỷ 21”. Việc
ký kết Tuyên bố chung này đã mở ra một trang mới trong quan hệ hai nước,
mạnh mẽ và toàn diện hơn. Hai nước đã ký kết hơn 30 hiệp định và thỏa thuận
hợp tác trên tất cả các lĩnh vực hợp tác quan trọng như chính trị, quốc phòng,
an ninh, kinh tế, thương mại, đầu tư, giáo dục, nông nghiệp… tạo nền tảng
pháp lý vững chắc cho sự hợp tác toàn diện giữa hai nước.
Khi trở thành thành viên chính thức của Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á (Asean), Việt Nam càng có điều kiện hơn để phát triển quan hệ song
phương và đa phương với các nước trên nhiều lĩnh vực với mục tiêu xây dựng
một cộng đồng Asean thống nhất, hòa bình và ổn định. Hiện nay, quan hệ
Indonesia- Việt Nam ngày càng phát triển theo chiều hướng tích cực, có ý
nghĩa quan trọng tác động tới xu thế phát triển của hai nước cũng như tình
hình chung trong khu vực. Nhận thức rõ được vai trò và nhiệm vụ này, Việt

Nam và Indonesia coi sự hợp tác, giúp đỡ phát triển lẫn nhau là nhiệm vụ
quan trọng trong quan hệ đối ngoại của mỗi nước.Chính vì vậy, việc nghiên
cứu mối quan hệ giữa Indonesia và Việt Nam luôn là yêu cầu của khoa học và
2.

thực tiễn chính trị.
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài:
2




Mục đích nghiên cứu:
Đề tài sẽ làm rõ quan hệ hợp tác giữa Indonesia và Việt Nam từ sau


-

chiến tranh lạnh đến ra, đưa ra dự báo triển vọng của mối quan hệ này.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Đề tài tìm hiểu những nhân tố đóng vai trò quan trọng là cơ sở cho mối quan

-

hệ Indonesi – Việt Nam từ sau Chiến tranh Lạnh.
Đề tài nghiên cứu sự phát triển của mối quan hệ Indonesia – Việt Nam từ sau

-

Chiến tranh Lạnh đến nay

Đề tài đánh giá mối quan hệ hai nước từ đó rút ra những đặc điểm, thách thức

3.


và triển vọng của mối quan hệ.
Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:
Cơ sở lý luận: Đề tài dựa trên hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về thời đại
và quan hệ giữa các quốc gia, dân tộc. Ngoài ra, đề tài cũng sử dụng những
văn kiện của Đảng và Nhả nước Việt Nam và Chính phủ Indonesia có liên
quan đến quan hệ hai nước; các văn bản, văn kiện của Chính phủ và Bộ Ngoại



Giao hai nước.
Phương pháp nghiên cứu: Đề tài thuộc lĩnh vực quan hệ quốc tế nên phương
pháp nghiên cứu quốc tế, phương pháp lịch sử và phương pháp logic là những
phương pháp cơ bản. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng các phương pháp phân

4.

tích, so sánh, tổng hợp và dự báo …
Kết cấu chung của tiểu luận:
Chương 1: Cơ sở của mối quan hệ Indonesia – Việt Nam sau chiến
tranh lạnh.
Chương 2: Quan hệ Indonesia – Việt Nam trong giai đoạn 1991-1995
Chương 3: Quan hệ Indonesia – Việt Nam từ 1991 đến nay

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ CỦA MỐI QUAN HỆ INDONESIA – VIỆT NAM THỜI KỲ
SAU CHIẾN TRANH LẠNH
1.1.

Giới thiệu chung về đất nước Indonesia:
3


Vị trí địa lý – tự nhiên:
Indonesia là một quần đảo lớn nhất thế giới khoảng hơn 17.00 hòn đảo
lớn nhỏ (6000 đảo có người sinh sống) với tổng diện tích thềm lục địa 9,8
triệu km2 và diện tích biển 7,9 triệu km2; tao thành một hình vòng cung nối
liền châu Á và châu Úc
Với diện tích 1.913.000 km2, Indonesia là quốc gia rộng nhất Đông
Nam Á. Quần đảo Indonesia có các đảo lớn như: Java, Xumatơra,
Calimantan, Xulavedi… Phía Tây Bắc Indonesia ngăn cách với Liên bang
Malaixia và Singapore qua eo biển Malacca. Phía Đông Bắc Indonesia ngăn
cách với Cộng hòa Philippine qua eo biển Xuxu. Phía Đông Nam ngăn cách
với Đông Timor và Oxtraylia qua biển Timor và Araphura. Biên giới đất liền
của Indonesia với Liên bang Malaixia ở phía bắc đảo Calimantan, và biên giới
trên đất liền giữa Indonesia và Papua Niu Ghinê ở phía tây đảo Niu Ghinê.
Quần đảo Indonesia có thể chia ra làm 3 khu vực lớn. Thứ nhất là nhóm
đảo Sundan bao gồm các đảo lớn ở tây Indonesia và những đảo nhỏ kế cận
nằm trên thềm lục địa Sundan nối liền Đông Nam Á. Thứ hai là nhóm đảo
nằm trên thềm lục địa Sahun nối liền với lục địa châu Úc bao gồm các đảo
Niu Ghinê và các đảo nhỏ nằm gần biển Araphura. Thứ ba là nhóm đảo nằm
giữa hai thềm lục địa trên như Xulavêđi và đảo Malacca. Vị trí địa lí cũng như
các vùng tự nhiên đặc biệt của Indonesia đã tạo điều kiện cho quốc gia này
mở rộng quan hệ với các nước trên thế giới bằng đường biển; xây dựng nền
văn hóa phong phú, đa dạng; đồng thời, nắm giữ vị trí chiến lược về quốc

phòng - an ninh trong cấu trúc trong khu vực Đông Nam Á.
Lịch sử chính trị:
Indonesia có lịch sử hơn 3000 năm. Indonesia chịu sự xâm chiếm của
Hà Lan và Nhật Bản. Ngày 17/8/1945, Indonesia tuyên bố độc lập, thành lập
nước Cộng hoà Indonesia.
Indonesia là nước cộng hòa tổng thống. Cơ quan lập pháp tối cao nắm
quyền lực cao nhất, được gọi là Hội đồng Tư vấn Nhân dân . Tổng thống là
người đứng đầu nhà nước, chính phủ và tổng tư lệnh quân đội; do nhân dân
trực tiếp bầu. Về mặt hành chính, Indonesia gồm 34 tỉnh, trong đó năm tỉnh
có quy chế đặc biệt. Mỗi tỉnh có cơ quan lập pháp và thống đốc riêng. Các
tỉnh được chia tiếp thành các huyện, thành phố, quận, làng. Sau khi áp dụng
các biện pháp vùng tự trị năm 2001, các huyện và các thành phố đã trở thành
4


các đơn vị hành chính chủ chốt, chịu trách nhiệm cung cấp hầu hết dịch vụ
nhà nước.
Kinh tế:
Trong hơn 30 năm của thời kỳ Trật tự mới (1966-1998), chiến lược
phát triển kinh tế của In-đô-nê-xi-a trải qua 2 giai đoạn chính: giai đoạn thay
thế nhập khẩu, hướng nội (1966-1982) lấy sản xuất dầu khí làm trọng tâm và
giai đoạn hướng ngoại (1983 đến nay) chủ yếu thông qua xuất khẩu hàng hóa
ngoài dầu lửa. Từ 1970 - 1997, tốc độ phát triển kinh tế tăng từ 7% đến
8%/năm. Indonesia là nước chịu tác động mạnh nhất từ cuộc Khủng hoảng tài
chính Đông Á năm 1997–1998. Nền kinh tế giảm 13,7% và phảiyêu cầu Quỹ
tiền tệ thế giới (IMF) và quốc tế giúp đỡ để vượt qua khủng hoảng. Bên cạnh
đó, sự bất ổn chính trị, cải cách kinh tế chậm chạp và tham nhũng ở mọi cấp
độ chính phủ và kinh doanh từ năm 1998 đã ảnh hưởng tiêu cực tới sự phục
hồi kinh tế. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng GDP đã vượt 5% trong cả hai năm
2004 và 2005, và được dự báo sẽ còn tăng thêm.Cho đến nay, In-đô-nê-xi-a

đã có một số chỉ số vĩ mô được cải thiện: tỷ giá đồng nội tệ được kìm giữ
xung quanh mức 9.000 Rupiah /USD; dự trữ ngoại tệ (tính đến 3/2006) đạt 34
tỷ USD; lạm phát 1 con số. Từ năm 2001 đến nay, tuy có khó khăn nhưng
tăng trưởng kinh tế (GDP) của In-đô-nê-xi-a giữ được ở mức khá. GDP tăng
trung bình hàng năm đạt khoảng 3-4%. GDP bình quân đầu người: 4.000
USD (năm 2009).
Văn hóa – xã hội:
Indonesia có khoảng 300 nhóm sắc tộc, mỗi nhóm có văn hóa khác biệt
và đã phát triển qua nhiều thế kỷ, với ảnh hưởng từ Ấn Độ, Ả Rập, Trung
Quốc, Malaysia và Châu Âu. Ảnh hưởng lớn nhất trên kiến trúc Indonesia đến
từ kiến trúc Ấn Độ; tuy nhiên, những ảnh hưởng kiến trúc từ Trung Quốc, Ả
Rập và Châu Âu cũng khá quan trọng. Indonesia có nhiều di sản văn hóa
phong phú và đặc trưng, và họ luôn tìm cách giữ gìn những truyền thống của
mình trong suốt thời kỳ lịch sử. Nhiều hoạt động văn hóa, ngôn ngữ, phong
tục và các công trình là những ví dụ cho sự đan xen văn hóa qua hàng thế kỷ.
Văn hóa Indonesia là điển hỉnh của việc kết hợp văn hóa truyền thống và văn
hóa hiện đại. Nền văn hóa đó đã tạo động lực cho sự phát triển chung của xã
hội trên cả hai phương diện: vật chất và tinh thần.
5


Khu đền Borodudur 1,200 năm tuổi ở Indonesia, di sản văn hóa thế giới từ năm 1991

6


Indonesia nổi tiếng với những hòn đảo thơ mộng, những bãi biển lung linh
trong nắng vàng nhiệt đới

2.2. Những tương đồng về lịch sử, dân cư và văn hóa giữa hai quốc gia

Đều nằm ở khu vực Đông Nam Á, Indonesia và Việt Nam được coi
những cái nôi đầu tiên của loài ngoài. Với những ưu thế về vị trí địa lý tự
nhiên, cả hai đất nước luôn là “miếng bánh” ngon đầy khao khát của các thực
dân phương Tây. Năm 1945, khi Nhật đầu hàng đồng minh, cả Indonesia và
Việt Nam đều tận dụng thời cơ cách mạng để giành được độc lập. Nhưng
ngay sau đó, cả Việt Nam và Indonesia đều bị xâm lược bởi các thực dân
phương Tây. Hà Lan tái chiếm Indonesia và Pháp quay trở lại Việt Nam.
Nhân dân hai nước tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân giành lại độc
lập dân tộc. Indonesia đã thực sự giành chủ quyền vào năm 1950 và thống
nhất tổ quốc năm 1963. Còn dân tộc Việt Nam đã đẩy lùi thực dân Pháp bằng
chiến thắng lịch sử Điện Biên phủ (1954) và đánh bại âm mưu của đế quốc
Mỹ, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ năm 1975. Có lẽ những nét tương đồng về
lịch sử và văn hóa ấy đã tạo cho Indonesia và Việt Nam những nét tương
đồng về quan điểm và mục đích bảo vệ: bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng
hòa bình thế giới. Vì lí do đó, hai nước luôn tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong
công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Về mặt dân cư, theo các nhà nhân chủng học: Các dân tộc thiểu số ở
Việt Nam có nguồn gốc di cư từ Đông Nam Á hải đảo, nghĩa là có chung
nguồn gốc với cư dân Indonesia. Do vậy, từ sự xuất phát chung nguồn gốc
dân cư cũng là cơ sở cho mối quan hệ này
Về mặt văn hóa, hai nước có một số nét giống nhau về phong tục tập
quán, đặc điểm ngôn ngữ…
7


Mặc dù có những sự khác nhau về chính trị - tư tưởng, những tương
đồng về lịch sử, văn hóa và dân cư là cơ sở để cho hai nước thông cảm, xích
lại gần nhau và hiểu nhau hơn.

CHƯƠNG 2

QUAN HỆ INDONESIA – VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 1991-1995
2.1. Những nhân tố tác động đến quan hệ Indonesia – Việt Nam
trong giai đoạn 1991-1995
Trước năm 1991, mối quan hệ Việt Nam – Indonesia trải qua nhiều
thăng trầm trong từng giai đoạn cụ thể, nhưng nó vẫn được duy trì liên tục,
không bị gián đoạn. Hai nước vẫn luôn tìm kiếm những cơ hội chung để hợp
tác trên nhiều lĩnh vực. Trong giai đoạn này, quan hệ ngoại giao tập trung
chống lại ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, chống lại sự chia rẽ của các
thế lực bên ngoài đối với Đông Nam Á, hợp tác tìm kiếm những giải pháp
chính trị cho vấn đề Campuchia. Bước sang thập niên 90 của thế kỷ XX, tình
hình thế giới và khu vực đã có nhiều biến đổi. Sự biến đổi này ảnh hưởng đến
mối quan hệ giữa các quốc gia, các khu vực và các tổ chức quốc tế.
2.1.1. Sự thay đổi của cục diện thế giới sau chiến tranh lạnh
Chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu và Liên Xô sụp đổ vào
cuổi thập niên 90 của thế kỉ XX và sau đó kết thúc thời kỳ Chiến tranh Lạnh
đã làm cho cục diện chính trị thế giới và tình hình quan hệ quốc tế có nhiều
thay đổi. Quan hệ Mỹ - Xô từ đối đầu căng thẳng giờ chuyển sang thời kỳ vừa
8


đấu tranh, vừa hợp tác để cùng tồn tại hòa bình. Hai hệ thống lớn của thế giới
là chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản không còn nữa. Bên cạnh đó, quan hệ
Xô – Trung sau hơn 30 năm căng thẳng đã trở lại bình thường và quan hệ Mỹ
- Trung có dấu hiệu tiến bộ. Chủ nghĩa xã hội hiện thực lâm vào thoái trào đã
đẩy cuộc khủng hoảng của phong trào cộng sản quốc tế ngày càng trở nên
trầm trọng. Quá trình hình thành trật tự thế giới mới nhìn chung khá phức tạp,
khó dự đoán. Sự chấm dứt của Chiến tranh Lạnh buộc tất cả các quốc gia trên
thế giới điều chỉnh các chính sách phát triển của mình. Mỗi nước đều coi
trọng việc xác lập và củng cố điều kiện quốc tế thuận lợi để cùng chung sống
trong môi trường hòa bình. Quan hệ giữa các đất nước thay đổi nhanh chóng,

kiềm chế bất đồng, vũ lực, tránh các xung đột mang tính chất đối kháng. Bên
cạnh đó, xu thế liên kết khu vực đi đôi với xu thế toàn cầu hóa phát triển
nhanh cho ra đời nhiều tổ chức quốc tế và khu vực. Điều này càng phát huy
sự hợp tác cùng phát triển giữa các quốc gia.
Cùng với đó, sự tác động của cách mạng khoa học công nghệ và toàn
cầu hóa là vô cùng lớn. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ về công nghệ
thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới… đã làm cho sự xâm
nhập của trí thức và công nghệ cao vào tất cả các ngành, các lĩnh vực của đời
sống xã hội. Trí thức khoa học là bước ngoặt mang tính lịch sử của nền kinh
tế tri thức và có ý nghĩa quan trọng hàng đầu đối với sự phát triển của mỗi
quốc gia. Các quốc gia lấy mức độ phát triển kinh tế tri thức là thước đo cho
sự phát triển của mình. Song, các thành tựu về khoa học kỹ thuật lại thuộc về
những nước phát triển bởi họ có tiềm lực về kinh tế, khoa học. Các nước đang
phát triển bị hạn chế trong việc tiếp nhận các thành tựu khoa học kỹ thuật hiện
đại và có nguy cơ trở thành “bãi phế thải” cho những nước phát triển, thu
nhận những máy móc trang thiết bị lỗi thời. Toàn cầu hóa là một nhu cầu tất
yếu của thời đại. Nó tạo ra những biến đổi mạnh mẽ về kinh tế, làm thay đổi
sâu sắc mối quan hệ giữa các quốc gia. Toàn cầu hóa kích thích tang trưởng
nền kinh tế song nó xu hướng gia tăng khoảng cách giàu nghèo và đặt ra
nhiều thách thức với những nước nghèo, nước đang phát triển.
9


Chính những tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và xu
hướng toàn cầu hóa đã làm cho vị thế kinh tế của các nước trong khu vực và
quốc tế có sự thay đổi lớn. Đồng thời, các quốc gia phụ thuộc chặt chẽ vào
nhau. Quá trình hợp tác, liên kết giữa Indonesia và Việt Nam cũng là một biểu
hiện cho sự tác động này.
2.1.2. Tình hình khu vực Đông Nam Á
Có thể nói, Chiến tranh Lạnh kết thúc đã làm thay đổi diện mạo chính

trị ở khu vực Đông Nam Á. Sang thập niên 90, tình hình Đông Nam Á đã có
nhiều chuyển biến tích cực. Các nước trong khu vực muốn tạo ra một môi
trường hòa bình ổn định, thuận lợi để phát triển kinh tế. Họ đã xích lại gần
nhau để giải quyết các vấn đề khu vực, xây dựng Đông Nam Á thành khu vực
hòa bình, trung lập, đặc biệt là không có vũ khí hạt nhân. Nổi bật là vấn đề
Campuchia căng thẳng, sau những cuộc đàm phán của những bên liên quan,
đã được giải quyết triệt để bằng Hiệp định Pari (23/10/1991). Điều này mở ra
con đường hợp tác đầy triển vọng giữa các quốc gia Đông Nam Á.
Hơn nữa, một số nước trong khu vực như Singapore, Thái Lan,
Malaixia, Indonesia ngày càng thể hiện rõ vai trò quan trọng của mình qua
các thành tựu về phát triển kinh tế. Tốc độ phát triển GDP ngày càng cao. Tuy
nhiên, trong quá trình phát triển kinh tế, các nước Đông Nam Á gặp không ít
thách thức: sự cạnh tranh trên thị trường quốc tế, sự lớn mạnh của các quốc
gia như Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản … và các tổ chức khu vực. Chính vì vậy,
các nước Asean mong muốn có một sự hợp tác hoàn diện nhằm có ràng buộc,
liên kết chặt chẽ với nhau. Có như vậy mới đảm bảo sự phát triển cho các
quốc gia, cũng như toàn khu vực.
Tình hình thế giới và khu vực trong giai đoạn 1991-1995 đã có nhiều
chuyển biến. Như một yêu cầu tất yếu, các quốc gia phải ra sức điều chỉnh
chính sách, con đường phát triển của mình để phù hợp với thực tiễn. Bên cạnh
đó, sự hợp tác là điều cần thiết và quan trọng. Chắc chắn mối quan hệ
Indonesia và Việt Nam không nằm ngoài guồng quay “quỹ đạo” đó.
2.1.3. Chính sách đối ngoại của Indonesia
10


Chính sách đối ngoại của Indonesia thời kỳ này gồm những nội dung
chính sau:



Indonesia luôn coi Asean là “hòn đá tảng” trong chính sách đối ngoại của
mình. Là một quốc gia thành viên sáng lập ASEAN, suốt lộ trình hình thành
ASEAN như một khối thống nhất, Indonesia đóng vai trò quan trọng trong
nhiều vấn đề liên quan đến toàn khu vực. Indonesia luôn mong muốn xây
dựng ASEAN thành một thực thể mạnh để tạo thế trong quan hệ với bên
ngoài. Bên cạnh đó, Indonesia chủ trương xây dựng chính sách hợp tác, quan
hệ hữu nghị, thân thiện với Việt Nam, Lào, Mianma.. Đặc biệt Indonesia đã
tích cực ủng hộ Việt Nam và các nước trong khu vực gia nhập Hiệp hội các
quốc gia Đông Nam Á (Asean) và muốn thúc đẩy quan hệ song phương với
từng nước. Indonesia cũng chú trọng mối quan hệ hợp tác về kinh tế thương
mại với Việt Nam, cùng với đó và xây dựng và phát triển mối gắn kết truyền



thống lâu đời.
Indonesia đã thực hiện chính sách cân bằng lợi ích giữa các nước lớn trong



khu vực, tránh việc Đông Nam Á trở thành khu vực tranh chấp, bất ổn định.
Indonesia đã cải thiện quan hệ với các nước lớn như Mỹ, Nhật Bản, Trung
Quốc … Indonesia luôn coi những cường quốc này là yếu tố quan trọng đảm
bảo việc cân bằng trong khu vực.
2.2. Quan hệ hợp tác Indonesia – Việt Nam
Cộng hòa Indonesia chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt
Nam vào ngày 10/8/1964. Kể từ đó đến nay, quan hệ giữa hai nước đã trải qua
nhiều thăng trầm, song luôn chiếm một vị trí quan trọng trong quan hệ đối
ngoại hai nước.
2.2.1. Lĩnh vực chính trị
Bước sang thập niên cuối cùng của thế kỉ XX, cùng với những mâu

thuẩn quốc tế và khu vực được giải quyết, quan hệ Indonesia và Việt Nam đã
có những bước tiến đáng kể, trong đó phải kể đến các chuyến thăm của các
cấp lãnh đạo nhằm củng cố trên mặt ngoại giao, an ninh – chính trị. Mở đầu
cho hoạt động ngoại giao giai giữa hai nước giai đoạn này là chuyến thăm
Indonesia của Chủ tịch Quốc hội Việt Nam Lê Quang Đạo (1/1991) và
11


chuyến thăm Việt Nam của Ngoại trưởng Indonesia AliAlatat (2/1991). Hai
chuyến thăm này đánh dấu mốc quan trọng trong hoạt động ngoại giao hai
nước. Cụ thể, Việt Nam và Indonesia đã trao đổi, thảo luận nhiều vấn đề mà
hai bên cùng quan tâm, đặc biệt là vấn đề xây dựng và phát triển đất nước
trong tình hình mới của khu vực và thế giới. Tháng 10/1991, Hiệp định Pari
về Campuchia được ký kết, đã mở ra cơ hội mới trong quan hệ Việt Nam –
Asean nói chung, và quan hệ Việt Nam – Indonesia nói riêng. Nhân dịp này,
Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt đã có chuyến thăm chính thức tới
Cộng hòa Indonesia . Hai bên đã trao đổi nhiều vấn đề như cùng nhau hợp tác
trên nhiều lĩnh vực trong điều kiện hội nhập quốc tế, đặc biệt là lĩnh vực kinh
tế thương mại. Sau đó, Việt Nam và Indonesia đã ký bốn hiệp định hợp tác
với nhau, đó là: Hiệp định khuyến khích và đảm bảo đầu tư, Hiệp định vận tải
biển, Hiệp định vận tải hàng không và Hiệp định hợp tác lâm nghiệp. Đây là
kết quả hợp tác lớn lao, tạo điều kiện thuận lợi cho sự hợp tác kinh tế thương
mại giữa Indonesia – Việt Nam ngày càng khởi sắc.
Tháng 4/1994, Chủ tịch nước Lê Đức Anh dã lên đường sang thăm
chính thức nước Cộng hòa Indonesia. Trong chuyến đi này, Tổng thống
Xuhắctô đã bày tỏ sự ủng hộ nhiệt liệt Việt Nam gia nhập Asean, coi việc
Việt Nam trở thành thành viên của Asean là cơ hội để hai nước tăng cường
hợp tác phát triển, ổn định tình hình quốc gia cũng như trong khu vực. Tháng
7/1994, nhận lời mời của Bộ quốc phòng Việt Nam, đoàn đại biểu quốc
phòng và an ninh Indonesia do Đại tướng Edi Suđagiát dẫn đầu sang thăm

Việt Nam. Hai bên đã có những cuộc tiếp xúc, trao đổi về an ninh – quốc
phòng, củng cố sự ổn định, hòa bình trong khu vực nói chung cũng như hai
quốc gia nói riêng. Cũng trong tháng 7 này, đoàn đại biểu của Nghị sĩ Quốc
hội Indonesia do A.R.DDamharia – Phó chủ tịch Ủy ban hợp tác Liên quốc
hội - Ủy viên Ủy ban đối ngoại Quốc hội dẫn đầu sang thăm chính thức Việt
Nam. Trong chuyến thăm này, Việt Nam và Indonesia đã trao đổi nhiều vấn
đề về xây dựng Quốc hội mỗi nước, cũng như khả năng hợp tác Quốc hội
giữa hai nước. Theo lời mời của Bộ Quốc phòng Việt Nam, tháng 9/1994
12


đoàn đại biểu của Học viện Quốc phòng Indonesia đã sang thăm và làm việc
tại Việt Nam. Tháng 11/1994, Chủ tịch Đảng Golka – Bộ trưởng Văn hóa
Thông tin Indonesa Harmôkô đã sang thăm Việt Nam. Nhằm tăng cường và
tạo điều kiện thuận lợi hợp tác về khoa học, kỹ thuật giữa hai nước, ngày
23/3/1995, tại Hà Nội diễn ra kỳ họp thứ hai của Ủy ban hợp tác kinh tế, khoa
học – kỹ thuật Việt Nam và Indonesia. Về phía Indonesia, tham dự buổi họp
có sự hiện diện của Bộ trưởng thương mại Xatriô Buđihácgiô Giôđonô; 10
quan chức cấp cao các bộ, ngành và các nhà doanh nghiệp hàng đầu của
Indonesia… Hai quốc gia đã trao đổi nhiều biện pháp tăng cường hợp tác
quan hệ các lĩnh vực: nông nghiệp, viễn thông, vận tải, tài chính, ngân hàng,
dịch vụ, và đặc biệt là lĩnh vực đầu tư. Ngày 23/4/1995, Phó Thủ tướng Phan
Văn Khải vui mừng tiếp đoàn đại biểu Chính phủ Indonesia do Bộ trưởng
Thương mại Xatriô Buđihácgiô Giôđonô dẫn đầu. Thay mặt chính phủ Việt
Nam, Phó Thủ tướng Phan Văn Khải khẳng định: “quan hệ chính trị tốt đẹp là
điều kiện tốt để Việt Nam và Indonesia tăng cường quan hệ kinh tế.
Về vấn đề Biển Đông, Indonesia và Việt Nam là hai quốc gia đều có
quyền lợi thiết lực. Khu vực biển Đông có tiềm năng lớn về tài nguyên
khoáng sản, hải sản, năng lượng nên những mâu thuẫn về quyền lợi ở khu vực
này là không thể tránh khỏi. Việt Nam và Indonesia tuy không có những bất

đồng gay gắt lắm song cho đến nay, vẫn tồn tại những mâu thuẫn về vấn đề
thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế trên biển. Nguyên nhân là do hai bên
chưa đạt được sự thống nhất về lợi ích ở khu vực này. Nhờ có mối quan hệ
truyền thống tốt đẹp, tương trợ lẫn nhau, Việt Nam và Indonesia đã tích cực
thương lượng, hợp tác với nhau để tìm ra phương hướng giải pháp ổn thỏa,
hữu hiệu giải quyết vấn đề ranh giới thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế,
để không gây ảnh hưởng quan hệ ngoại giao hai nước. Minh chứng rõ nét cho
điều này là việc Chính phủ Việt Nam đã quyết định nâng đàm phán hai bên từ
cấp chuyên viên lên cấp thứ trưởng năm 1990 để sớm tìm ra giải pháp tốt nhất
cho vấn đề ranh giới thềm lục địa. Việt Nam và Indonesia tìm những giải

13


pháp tạm thời để cùng nhau thăm dò, khai thác và sử dụng những tài nguyên
biển hợp lý.
Bên cạnh đó, Indonesia tích cực ủng hộ Việt Nam trở thành thành
viên của Asean, tạo mọi điều kiện thuận lợi để Việt Nam tham gia các hoạt
động của Asean và hòa nhập vào môi trường này. Tại Hội nghị Ngoại trưởng
các nước Asean lần thứ 27 họp tại Băng Cốc (7/1994), Indonesia cùng các
nước Asean khác hoàn toàn nhất trí kết nạp Việt Nam vào tổ chức Asean.
Như vậy, 28/7/1995, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Asean.
Từ đây, quan hệ hợp tác Việt Nam – Indonesia càng ngày được củng cố, hoàn
thiện.
Sự hợp tác về chính trị giữa Indonesia – Việt Nam đã đạt nhiều kết quả
tích cực, là nền tảng cho quan hệ hai nước trong giai đoạn sau.
2.2.2. Lĩnh vực kinh tế:
Giai đoạn này, hai nước đều chú trọng phát triển kinh tế. Từ năm
1990 trở đi, Việt Nam từng bước thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng nhiều
năm, xây dnựg nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Còn

Indonesia đã trải qua 4 kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm. Từ 1990 – 1994 là
giai đoạn Indonesia thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm lần thứ 5.
Chính những điều này là điều kiện quan trọng thúc đẩy quan hệ hợp tác trên
lĩnh vực kinh tế giữa hai quốc gia.
Ủy ban hỗn hợp hợp tác kinh tế - khoa học – kỹ thuật được thành lập
vào tháng 10/1991. Ủy ban này đã góp phần củng cố quan hệ hợp tác về kinh
tế, khoa học, kỹ thuật giữa hai nước. Hiệp định thương mại mới, bản ghi nhớ
về thương mại giữa hai quốc gia đã được ký kết. Việt Nam và Indonesia đã
nhất trí về chức năng, cơ chế làm việc, giải pháp thúc đẩy quan hệ kinh tế
thương mại và đầu tư nhằm từng bước phát triển quan hệ hợp tác tương xứng
với nguồn lực của hai nước. Tính đến 23/3/1995, Việt Nam và Indonesia đã
ký 8 hiệp định với nhau, đó là:
-

Hiệp định thương mại (8/11/1978)
Hiệp định về hợp tác kinh tế - khoa học – kỹ thuật (21/11/1990)
14


-

Hiệp định về thành lập ủy ban hỗn hợp hợp tác kinh tế - khoa học – kỹ thuật

-

(21/11/1990)
Hiệp định khuyến khích và bảo đảm đầu tư (25/10/1991)
Hiệp định vận tải biển (25/10/1991)
Hiệp định vận tải hàng không (25/10/1991)
Hiệp định hợp tác lâm nghiệp (5/11/1991)

Hiệp định thương mại mới (23/3/1995)
Hai bên còn ký 6 thỏa thuận hợp tác trên các lĩnh vực thương mại,
kinh tế các thỏa thuận về y tế, nông nghiệp…
Tổng giá trị xuất nhập khẩu hàng hóa giữa hai nước tăng lên đáng kể:
Bảng 1: Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam với Indonesia (1991-1995) (Đơn vị tính: triệu USD)

Năm
Việt Nam xuất khẩu sang Indonesia
Việt Nam nhập khẩu từ Indonesia
Tổng giá trị xuất nhập khẩu hàng
hóa

1991
21,0
49,4
70,4

1992
10,9
70,5
81,4

1993
18,9
84,5
103,4

1994
44,4
102,7

147,1

1995
55,8
190,0
245,8

(Nguồn: Việt Nam – Asean, cơ hội và thách thức. NXB Chính trị Quốc Gia)

Qua đó, chúng ta thấy tổng giá trị xuất nhập khẩu hàng hóa của hai
nước đã tăng từ 70,4 triệu USD lên đến 245,8 triệu USD, tăng hơn 3 lần trong
vòng 4 năm. Việt Nam chủ yếu xuất khẩu sang Indonesia các mặt hàng đồ
may mặc, dầu thô, nông sản (gạo, cà phê, chè, hồ tiêu…) và nhập khẩu của
Indonesia phân bón hóa học, xi măng, bột giấy, bao bì sản phẩm … Nếu tính
theo tổng kim ngạch buôn bán, Indonesia đứng thứ 4 so với kim ngạch xuất
khẩu của các nước Asean đối với Việt Nam, đứng sau Singapore, Thái Lan,
Malaysia.
Quan hệ kinh tế giữa Indonesia và Việt Nam là điểm sang về hợp tác
trong giai đoạn này, đây là nền móng để quan hệ này chuyển mình sang một
giai đoạn mới
2.2.3. Trên các lĩnh vực khác
Lĩnh vực văn hóa – thông tin: thừa kế những kết quả đạt được trong
giai đoạn trước, hoạt động hợp tác trên lĩnh vực văn hóa – thông tin giai đoạn
này đã có nhiều chuyển biến mới. Để tăng cường trao đổi giao lưu văn hóa
lẫn nhau, hai nước Indonesia và Việt Nam đã tăng cường nhiều hoạt động với
15


hình thức phong phú: viếng thăm, triển lãm, biểu diễn nghệ thuật … Ngày
22/11/1994, hai bên đã kí Bản ghi nhớ về hợp tác thông tin nhằm xúc tiến các

hoạt động chia sẻ kinh nghiệm, hợp tác trong lĩnh vực thông tin. Đặc biệt là
chuyến thăm Việt Nam của Chủ tịch Hội đồng Báo chí Indonesia
Suphianlubít vào tháng 6/1995. Việt Nam và Indonesia đã trao đổi và thống
nhất các vấn đề cùng nhau phát triển hợp tác, trao đổi thông tin và đạo tạo cho
nhau các nguồn lực, cán bộ hoạt động trong lĩnh vực báo chí.
Lĩnh vực y tế: trong giai đoạn này, Indonesia đã đào tạo cho Việt Nam
5 thạc sỹ, 1 tiến sỹ về ngành dinh dưỡng, y tế và thường xuyên cấp các học
bổng cho các học sinh, sinh viên du học về ngành này cũng như một số
chuyên ngành khác. Tháng 11/1992, đoàn đại biểu Bộ Y tế Indonesia đã sang
thăm chính thức Việt Nam. Chuyến đi có ý nghĩa quan trọng với hai nước,
thỏa thuận ký kết các văn bản hợp tác, trao đổi thông tin về ngành y tế,
chuyên gia y tế, đào tạo cán bộ y tế và hợp tác y tế cộng đồng.
Lĩnh vực dân số: Việt Nam và Indonesia là những quốc gia có số dân
đông và nhiều dân tộc trong khu vực Đông Nam Á. Do đó, hai nước luôn chú
trọng hợp tác trong lĩnh vực kiểm soát dân số, thực hiện kế hoạch hóa gia
đình và vấn đề phát triển dân tộc miền núi. Indonesia và Việt Nam đã có
nhiều chuyến viếng thăm của các quan chức cấp cao để cùng bàn bạc, thảo
luận về vấn đề này. Tháng 4/1994, tại Hà Nội, hai bên đã kí kết Bản ghi nhớ
tăng cường hợp tác trong vấn đề này.
Lĩnh vực du lịch – thể thao: Việt Nam và Indonesia không ngừng quan
tâm đến lĩnh vực du lịch của nhau. Tháng 4/1991, Hội nghị hàng năm lần thứ
40 của tổ chức “Hiệp hội du lịch châu Á” được tổ chức ở Bali với sự tham gia
của Việt Nam. Tại đây, các đại biểu của Việt Nam và Indonesia đã có cơ hội
tiếp xúc, trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm để phát triển du lịch ở đất nước
mình. Hai nước còn được giao lưu các hoạt động thể dục thể thao qua các giải
đấu giao hữu, đặc biệt là Sea games (Đại hội Thể thao Đông Nam Á).

16



Lĩnh vực nghiên cứu:hai nước đã có nhiều hợp tác trong lĩnh vực
nghiên cứu khoa học xã hội, nhân văn. Tiếng Indonesia đã được đưa vào
giảng dạy tại Khoa Quốc tế - Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội.
2.2.4. Nhận xét về quan hệ Indonesia – Việt Nam giai đoạn 1991-1995
Quan hệ Indonesia – Việt Nam giai đoạn 1991-1995 thể hiện là mối
quan hệ hết sức tốt đẹp, bền vững trên cơ sở kế thừa những thành tựu của giai
đoạn trước. Giai đoạn 1991-1995 quan hệ hai nước đã phát triển mạnh trên
nhiều lĩnh vực. Để có được thành công đó là do sự phấn đấu, vun đắp của
Chính phủ và nhân dân hai nước. Quan hệ giai đoạn này còn chịu sự ảnh hưởng
tích cực của tình hình quốc tế và khu vực, của thành tựu khoa học kỹ thuật, của
xu thế toàn cầu hóa. Sự phát triển của quan hệ Indonesia – Việt Nam hoàn toàn
phù hợp với khuynh hướng phát triển của thời đại. Các nước cố gắng tháo gỡ
những vướng mắc, khó khăn và xích lại gần nhau xây dựng môi trường hòa
bình, ổn định vì sự phát triển của mỗi nước và của cả khu vực.
Giai đoạn 1991-1995, Indonesia và Việt Nam hợp tác trên lĩnh vực
chính trị - ngoại giao là chủ yếu. Nếu như giai đoạn trước 1991, Indonesia và
Việt Nam cùng các nước khác trong khu vực hợp tác giải quyết một số vấn đề
của khu vực như vấn đề Campuchia, thì trong thời kỳ này, hai quốc gia chủ
yếu hợp tác giải quyết những vấn đề thuộc lợi ích của cả hai bên.Chính những
hợp tác tốt trong lĩnh vực chính trị đã thúc đẩy phát triển quan hệ trên những
lĩnh vực khác, đặc biệt là lĩnh vực kinh tế. Kể từ sau 1991, quan hệ kinh tế
phát triển mạnh mẽ. Tổng kim ngạch buôn bán Việt Nam – Indonesia đã vươn
lên đứng thứ 4 so với kim ngạch xuất khẩu của các nước Asean với Việt Nam
như Thái Lan, Singapore, Malaixia. Indonesia và Việt Nam đã có nhiều cuộc
viếng thăm lẫn nhau trong khoảng thời gian ngắn, ký nhiều Hiệp định, thỏa
thuận, bản ghi nhớ trên nhiều lĩnh vực thương mại, đầu tư, thông tin, văn hóa,
y tế, giáo dục… Đây là những điều kiện cần thiết để Indonesia và Việt Nam
dễ xích lại gần nhau, hợp tác sâu rộng hơn. Để từ đó, nhân dân hai nước tin
cậy, hiểu biết lẫn nhau, chia sẻ những kinh nghiệm xây dựng và phát triển đất
nước. Có thể nói, quan hệ Indonesia và Việt Nam thời kỳ này như “hòn ngọc

17


sáng” của khu vực Đông Nam Á, là bước tiếng quan trọng đưa Việt Nam đến
gần với Asean hơn.

18


CHƯƠNG 3:
QUAN HỆ INDONESIA – VIỆT NAM TỪ 1995 ĐẾN NAY
3.1. Những nhân tố tác động đến quan hệ Indonesia – Việt Nam:
3.1.1. Việt Nam gia nhập tổ chức Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam
Á (Asean):
Năm 1992 đánh dấu quá trình hội nhập khu vực của Việt Nam sau khi
tham gia Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á (TAC), và trở thành
Quan sát viên, tham dự các Hội nghị Bộ trưởng ASEAN (AMM) hàng năm.
Từ đây, Việt Nam được Asean chấp nhận như một thành viên chưa chính thức
của tổ chức này và không ngừng chuẩn bị về mọi mặt để trở thành thành viên
chính thức của Asean.Trong thời gian này, Việt Nam cũng bắt đầu tham gia
các hoạt động của một số Ủy ban hợp tác chuyên ngành ASEAN.Tháng
7/1994, Việt Nam được mời tham dự cuộc họp đầu tiên của Diễn đàn Khu
vực ASEAN (ARF) và trở thành một trong những thành viên sáng lập của
Diễn đàn này. Thông qua các hoạt động của Asean, Việt Nam có điều kiện
tăng cường quan hệ song phương với từng nước Asean, tìm được tiếng nói
chung với các quốc gia trong khu vực, tạo được sự tin cậy và gần gũi hơn với
từng thành viên của tổ chức. Tại hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao Asean lần thứ
27 (họp tại Bangkok, Thái Lan tháng 7/1994), các nước Asean nhất trí thông
qua việc kết nạp Việt Nam vào Asean. Ngày 28/7/1995, tại Hội nghị Bộ
trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 28 (AMM-28) tại Bru-nây, Việt Nam

chính thức gia nhập ASEAN và trở thành thành viên thứ 7 của tổ chức này.
Kể từ đó đến nay, Việt Nam đã nhanh chóng hội nhập, tham gia sâu rộng vào
tất cả các lĩnh vực hợp tác của ASEAN và có những đóng góp tích cực trong
việc duy trì đoàn kết nội khối, tăng cường hợp tác giữa các nước thành viên
cũng như giữa ASEAN với các đối tác bên ngoài, góp phần không nhỏ vào sự
phát triển và thành công của ASEAN ngày hôm nay.
Lịch sử coi đây là dấu mốc quan trọng trên con đường xây dựng Đông
Nam Á hòa bình, ổn định và phát triển. Việt Nam gia nhập Asean sẽ mở ra cơ
19


hội hợp tác trên nhiều lĩnh vực, góp phần tạo điều kiện phát triển kinh tếm
hòa nhập vào thị trường chung của khu vực và thế giới. Đây là điều kiện
thuận lợi để Việt Nam học hỏi, trao đổi, giao lưu văn hóa với các nước trong
khu vực. Đánh giá việc Việt Nam gia nhập Asean, Ngoại trưởng Indonesia
phát biểu tại lễ kết nạp: “Chúng ta vừa chứng kiến một sự kiện lịch sử trọng
đại trong biên niên sử của Asean. Đó là sự kiện Việt Nam gia nhập Asean.
Việc Việt Nam gia nhập Asean có ý nghĩa to lớn hơn nhiều chứ không phải
chỉ là việc tăng số lượng thành viên Asean. Việt nam vào Asean chắc chắc sẽ
làm tăng thêm sức mạnh cho tập thể Asean. Với vị trí chiến lược, nguồn lao
động và tài nguyên phong phú của Việt Nam sẽ là nguồn bổ sung làm tăng
them sự hợp tác đoàn kết thống nhất của Asean”. Với ý nghĩa đó, có thể
khẳng định rằng Việt Nam gia nhập Asean sẽ tạo nên bước ngoặt trong quan
hệ Việt Nam – Asean nói chung và quan hệ Việt Nam – Indonesia nói riêng.
Quan hệ Indonesia – Việt Nam đã có truyền thống trong lịch sử. Khi
Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Asean, hai nước lại càng có
them điều kiện để phát triển mối quan hệ sẵn có và hợp tác chặt chẽ trên nhiều
lĩnh vực, cùng nhau hòa nhập vào cộng đồng quốc tế và khu vực.
3.1.2. Khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông Á và tình hình chính trị
Indonesia vào những năm cuối thập niên 1990:

Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ đã để lại nhiều hậu quả xấu về mặt
kinh tế - chính trị - xã hội cho nhiều nước trong khu vực, ảnh hưởng sâu sắc
nhất là Indonesia. Sự tăng trưởng kinh tế Indonesia âm 10% (6/1998), lạm
phát tăng 24,3%, 70% dân số Indonesia có mức thu nhập thấp ngày càng khó
khăn. Những biến động về kinh tế đã dẫn tới các cuộc biểu tình của nhân dân
ở nhiều khu vực, đặc biệt là thủ đô Giacácta. Bên cạnh đó, Chính phủ Xuhắc
tô đã nảy sinh nhiều mâu thuẫn, có sự chia rẽ. Quân đội quay lưng với Tổng
thống, lực lượng hồi giáo tăng cường hoạt động chống Chính phủ. Ngày
21/5/1998, Xuhắctô phải từ chức, nhường quyền Tổng thống cho ông
Habibie. Từ năm 1997, Indonesia đã bước vào cuộc khủng hoảng kép: khủng
hoảng kinh tế và khủng hoảng chính trị. Điều này không chỉ làm ảnh hưởng
20


đến nền kinh tế các nước khác mà còn ảnh hưởng xấu đến quan hệ Indonesia
– Việt Nam.
3.1.3. Khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008:
Khủng hoảng kinh tế toàn cầu là căn dịch tài chính mà các quốc gia
trên thế giới đều bị tác động. Việt Nam và Indonesia cũng không ngoài các
quốc gia bị tác động về tăng trưởng kinh tế, xuất nhập khẩu hàng hóa, việc
làm cho người lao động kể cả thu hút đầu tư…Khủng hoảng tài chính toàn
cầu này bắt đầu từ nước Mỹ mà nguyên nhân là do tỷ lệ tiết kiệm cá nhân
thấp, nợ nước ngoài khổng lồ, khủng hoảng nợ dưới chuẩn quá lớn và khủng
hoảng bất động sản. Cuộc khủng hoảng tài chính này đưa nước Mỹ rơi vào
suy thoái, Nhật Bản, Tây Âu tăng trưởng âm.
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu trong giai đoạn 2008-2009 đã
tác động đến kinh tế Việt Nam trên nhiều khía cạnh: hoạt động xuất nhập
khẩu; đầu tư trực tiếp nước ngoài; sản xuất công nghiệp, nông nghiệp; thị
trường tài chính, tiền tệ; thương mại, du lịch; an ninh xã hội. Nhưng thể hiện
rõ nhất là qua tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2007 ở mức cao nhất từ trước

đến nay 8,5% nhưng đến 2008 kinh tế Việt Nam bắt đầu lâm vào khủng
hoảng tốc độ tăng trưởng kinh tế xuống còn 6,2% năm 2009 là 5,3%. Trong
đó hoạt động xuất nhập khẩu chịu ảnh hưởng mạnh nhất vì đây là hoạt động
đóng góp khoảng 60% vào tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam. Indonesia
là một kinh tế khá lớn và phụ thuộc ít vào xuất khẩu hơn so với các nước khác
của ASEAN, nên có thể chống đỡ khủng hoảng tốt hơn các nước láng
giềng.Tuy vậy, khủng hoảng kinh tế toàn cầu ảnh hưởng đến nền kinh tế
Indonesia qua hai kênh, số nhân thương mại quốc tế và số nhân tài chính quốc
tế, trong đó số nhân tài chính quốc tế là kênh quan trọng ảnh hưởng đến nền
kinh tế Indonesia.
Nền kinh tế của hai nước trong giai đoạn này dường như chững lại, ảnh
hưởng lớn tới quan hệ hợp tác về kinh tế, thương mại, đầu tư.

21


3.2. Quan hệ hợp tác Indonesia – Việt Nam:
3.2.1. Quan hệ hai nước trong quan hệ đa phương:
Việt Nam và Indonesia cùng các nước trong Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á (Asean) đã cùng nhau phấn đấu, xây dựng một cộng đồng an
ninh, ổn định và vững mạnh.
Hợp tác an – ninh chính trị trong Asean:
Việt Nam luôn tích cực ủng hộ các hoạt động, sáng kiến của Indonesia
trong Asean, góp phần vào đoàn kết nhất trí trong Asean. Bên cạnh đó, Hiến
chương Asean được thông qua thể hiện quyết tâm xây dựng một cộng đồng
Asean hung mạnh. Các vấn đề trong khu vực ngày càng gay gắt, do đó các
quốc gia cần chung tay góp sức bảo vệ nền chính trị - an ninh khu vực.
Vấn đề biển Đông, đây là khu vực “nóng” nảy sinh nhiều vấn đề, mâu
thuẫn cần giải quyết. Trung Quốc tranh chấp các đảo, quần đảo của các quốc
gia Đông Nam Á đã cho tính kết nối của các nước trong khu vực tăng lên.

Trong vấn đề Biển Đông, ASEAN đã thể hiện vai trò, trách nhiệm của mình
đối với việc bảo đảm hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn và tự do hàng hải,
hàng không ở khu vực này.Trong hai ngày 10-11/5/2014, tại thủ đô Nay Pyi
Taw của Myanmar đã diễn ra Hội nghị Cấp cao Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á (ASEAN) lần thứ 24.Các Ngoại trưởng ASEAN khẳng định tầm quan
trọng của việc duy trì hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn hàng hải, tự do hàng
hải và hàng không ở Biển Đông, cũng như tầm quan trọng của Tuyên bố sáu
điểm về Biển Đông, Tuyên bố chung Cấp cao ASEAN-Trung Quốc lần thứ 15
kỷ niệm 10 năm ký DOC.Việt Nam cũng ủng hộ đề xuất 6 điểm của
Indonesia về Biển Đông. Với vấn đề phân định ranh giới vùng đặc quyền kinh
tế và thềm lục địa giữa hai nước, Indonesia và Việt Nam đồng ý giải quyết
theo Công ước Luật biển (1982) của Liên Hợp Quốc.
Hợp tác kinh tế trong Asean:
Trị giá hàng hóa buôn bán giữa hai chiều Việt Nam và Asean đạt trên
20% mỗi năm trong tổng trị giá hàng hóa buôn bán Việt Nam với các nước
trên thế giới. Trong hoạt đông vốn đầu tư trực tiếp của các nước Asean vào
22


Việt Nam, thì vốn đầu tư từ Asean vào Việt Nam đứng thứ trong tổng số các
nước Asean (2010).
Hợp tác văn hóa – xã hội:
Các lĩnh vực văn hóa, xã hội, du lịch, thể dục thể thao cũng được đề ra
trong chương trình hợp tác và phát triển của Asean, nhằm nâng cao hiểu biết,
tin cậy lẫn nhau, tạo cơ sở cho sự phát triển bền vững, khả năng hoạp tác toàn
diện trong Asean cũng như giữa Indonesia và Việt Nam.
3.2.2. Quan hệ song phương giữa hai nước:
Trên lĩnh vực chính trị - ngoại giao:
Quan hệ giữa Indonesia và Việt Nam ngày càng trở nên gần gũi với tư
cách là quan hệ giữa hai thành viên của một tổ chức. Việt Nam và Indonesia

tiếp tục trao đổi, hợp tác trên nhiều lĩnh vực, nhiều diễn đàn.
Tháng 9/1995, đoàn đại biểu Quốc hội Việt Nam do Chủ tịch Quốc hội
Nông Đức mạnh dẫn đầu đã sang thăm và làm việc tại Indonesia. Chuyến
thăm này đã bàn bạc một số giải pháp tăng cường quan hệ giữa hai Quốc hội
và một số vấn đề liên quan đến hợp tác hai nước trên nhiều lĩnh vực. Mối
quan hệ hợp tác chính trị Việt Nam – Indonesia phát triển một bước thông qua
nhiều chuyến thăm Việt Nam của các đoàn đại biểu Indonesia và các chuyến
thăm Indonesia của các đoàn đại biểu Việt Nam trong năm 1996. Tháng
5/1996, đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam do Trưởng ban tổ chức cán bộ
Chính phủ Phan Ngọc Tường dẫn đầu sang thăm Indonesia. Trong chuyến
thăm, hai bên đã ký kết biên bản hợp tác trong lĩnh vực trao đổi thông tin và
nghiên cứu về cải cách hành chính, đào tạo công chức nhà nước. Ngày
1/12/1996, Thủ tướng Võ Văn Kiệt cùng Thứ trưởng ngoại giao Vũ Khoan
tham dự Hội nghị cấp cao Asean không chính thức tại Indonesia. Cũng trong
thời gian này,đoàn đại biểu Cộng hòa Indonesia đứng đầu là Chủ tịch Quốc
hội H.Wahono đã có chuyến thăm chính thức Việt Nam. Kết quả lớn nhất của
cuộc hội đàm giữa Chủ tịch Quốc hội Việt Nam và Chủ tịch Quốc hội
Indonesia là đã bàn bạc một số vấn đề về: tình hình phát triển kinh tế - xã hội,
chính sách đối ngoại của mỗi nước, tình hình khu vực Đông Nam Á…
23


Năm 1998, cuộc khủng hoảng kinh tế ở Indonesia lên đến đỉnh điểm,
tình hình chính trị có nhiều bất ổn. Hai quốc gia không có bất kỳ cuộc viếng
thăm nào. Sang năm 1999, quan hệ chính trị ngoại giao giữa hai nước gặt hái
nhiều thành công. Ngày 20/10/1999, Tổng thống A. Wahid thăm không chính
thức Việt Nam theo lời mời của Chủ tịch nước Trần Đức Lương. Đại diện hai
nhà nước đã tiến hành các cuộc hội đàm, nội kiến. Nội dung chính của cuộc
hội đàm là bàn các biện pháp tăng cường hợp tác hai nước trên nhiều lĩnh
vực, đặc biệt là lĩnh vực nông nghiệp; khẳng định chính sách nhất quán của

Việt Nam luôn coi trọng quan hệ hữu nghị truyền thống với Indonesia trên cơ
sở song phương giữa hai nước và cơ sở đa phương trong khu vực Asean.
Tháng 5/2000, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên đã có chuyến thăm
Indonesia và kết thúc tốt đẹp, đây là chuyến thăm Indonesia cuối cùng của Bộ
trường Ngoại giao Việt Nam trong thế kỷ XX. Quan hệ chính trị phát triển tốt
đẹp và hai nước đã trao đổi nhiều đoàn cấp cao. Trong thời gian này, các quan
chức cấp caoIndonesia đã có nhiều chuyến viếng thăm chính thức tới Việt
Nam, nổi bật là chuyến thăm của Tổng thống Megawati Xucácnôpơturi (tháng
8/2001 và tháng 6/2003), Tổng thống Susilo Bambang Yudhoyono (tháng
5/2005), Chủ tịch Hạ viện (DPR) Agung Laksono (tháng 8/2009), Bộ trưởng
Ngoại giao Marty Natalegawa (tháng 11/2009), Bộ trưởng Quốc phòng
Purnomo Yusgiantoro (tháng 5/2010). Đặc biệt trong chuyến thăm của Tổng
thống Megawati Xucácnôpơturi (tháng 6/2003), hai bên đã ký Thỏa thuận
khung Hợp tác Hữu nghị Toàn diện hướng tới Thế kỷ 21. Sau quá trình đàm
phán kéo dài khoảng 26 năm từ 1978 – 2003, ngày 26/6/2003, hai nước đã ký
kết hiệp định về phân định thềm lục địa và đạt được thảo thuận và lập được
đường biên giới trên biển đầu tiên giữa 2 quốc gia. Việc ký kết Hiệp định đã
giải toả được vấn đề duy nhất còn tồn tại trong quan hệ tốt đẹp giữa nước ta
và Inđônêxia, tạo điều kiện gìn giữ môi trường hoà bình, ổn định, phù hợp với
Luật biển quốc tế trên Biển Đông, tạo cơ hội mới cho việc tìm kiếm thăm dò,
khai thác dầu khí trên thềm lục địa 2 nước. Hai bên sẽ tiếp tục giải quyết vấn
đề phân định vùng đặc quyền kinh tế.Năm 2011 cũng được coi là cột mốc
24


quan trọng trong lịch sử quan hệ hai nước. Trong khuôn khổ chuyến thăm
chính thức Indonesia của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tháng 9/2011, lãnh
đạo hai nước nhất trí thúc đẩy quan hệ song phương hướng tới đối tác chiến
lược; đồng thời, hai bên đã ký Chương trình Hành động Việt Nam - Indonesia
giai đoạn 2012-2015.

Từ ngày 27-28/6/2013, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã có chuyến
thăm chính thức cấp Nhà nước tới Indonesia. Chuyến thăm này có ý nghĩa hết
sức quan trọng trong bối cảnh quan hệ giữa hai nước ngày càng gắn bó và
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đang trong giai đoạn bản lề để
tiến tới hoàn thành mục tiêu xây dựng Cộng đồng ASEAN vào năm
2015.Trong cuộc họp thượng đỉnh tại Jakarta giữa Chủ tịch nước Việt Nam
với Tổng thống Indonesia Susilo Bambang Yudhoyono, hai bên đã chính thức
nâng cấp quan hệ song phương lên hàng đối tác chiến lược trên cơ sở Tuyên
bố chung giữa nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa
Indonesia về Khuôn khổ Đối tác Hữu nghị và Toàn diện bước vào thế kỷ 21
(2003) và Chương trình Hành động Việt Nam – Indonesiagiai đoạn 20122015 (2011)..Chủ tịch Hạ viện MaduliAli đánh giá cao ý nghĩa chuyến thăm
Indonesia của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang; nhất trí cho rằng việc thiết lập
quan hệ Đối tác Chiến lược Việt Nam – Indonesia là mốc quan trọng trong
lịch sử quan hệ hai nướcNhân dịp này, Chủ tịch Hạ viện Indonesia khẳng định
Quốc hội Indonesia sẽ trao đổi với Quốc hội Việt Nam để sớm thành lập
Nhóm Nghị sĩ Hữu nghị Indonesia – Việt Nam.Về Biển Đông, hai nhà Lãnh
đạo tái khẳng định tầm quan trọng của hòa bình, ổn định và an ninh hàng hải
tại Biển Đông và những cam kết chung theo DOC về đảm bảo giải quyết
tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, tuân thủ luật pháp quốc tế, trong đó có
Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982. Hai nhà Lãnh đạo bày
tỏ sự ủng hộ mạnh mẽ đối với Tuyên bố 6 điểm của ASEAN về vấn đề Biển
Đông và hoan nghênh việc khởi động trao đổi về COC giữa ASEAN và Trung
Quốc và mong muốn các cuộc trao đổi về COC sẽ được tiếp tục và hướng tới
việc sớm hoàn tất một Bộ Quy tắc Ứng xử Khu vực ở Biển Đông. Sau hội
25


×