Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

tiểu luận cao học mối quan hệ biện chứng giũa môi trường và các nhân tố sinh thái, từ đó rút ra ý nghĩa triết học của vấn đề này

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.03 KB, 14 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Hàng ngày trên các phương tiện thông tin truyền thông đã nói lên khá
nhiều về cuộc sống xung quang ta. Và chắc chắn những thông tin về tắc đường,
những con số nói về lượng khí thải, khói bụi trên các địa phương cũng được nhắc
đến. Những thông tin đó cũng đủ để người nghe nhận ra tình hình môi trường xung
quanh mình như thế nào. Và cũng thêm một vài thông tin nữa về tình trạng chặt
phá rừng, đốt nương làm rẫy… là chúng ta có thể tưởng tượng được môi trường
sinh thái của con người đang bị đe dọa như thế nào.
Một khía cạnh khác về tình hình của đất nước ta trong giai đoạn hiện nay
đó là đất nước ta đang trong đà đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa. Công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa đang diễn ra trên đất nước ta.
Chúng ta đều biết rằng mục tiêu phát triển chung của xã hội loài người mà
hiện nay nhiều nước đang hướng tới là đạt được sự phồn thịnh về kinh tế, tiến bộ
về xã hội và sự trong sạch về môi trường sinh thái. Các mục tiêu đó gắn bó chặt
chẽ với nhau tạo thành nền tảng cho sự phát triển bền vững của xã hội. sự phát
triển lâu bền đó được hiểu là sự phát triển không chỉ vì thế hệ hiện tại mà còn vì
các thế hệ mai sau. Vấn đề này mới được đặt ra trong những năm gần đây nhưng
được coi là vấn đề hết sức cấp thiết xuất phát từ chính những gì loài người cho là
thành tựu to lớn của sự phát triển xã hội như sự tăng trưởng nhanh của các nền
kinh tế, sự phát triển của những khoa học và công nghệ. Cùng với quá trình công
nghiệp hóa ồ ạt ở


các nước phát triển… đã và đang ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường tự
nhiên – ngôi nhà chung của xã hội loài người.
Rõ ràng là để phát triển kinh tế nhất thiết phải tiến hành công nghiệp hóa.
Tốc đọ tăng trưởng của kinh tế tỷ lệ với tốc độ phát triển của công nghiệp hóa, của
khoa học và công nghệ. Song cũng tồn tại mọt thực tế là cùng với sự phát triển của
công nghiệp hóa lại là sự suy thoái của môi trường tự nhiên. Vấn đề đặt ra là làm
thế nào để dung hòa giữa môi trường tự nhiên và xã hội, để có thể phát triển kinh
tế mà vẫn đảm bảo được các yếu tố môi trường.


Xuất phát từ thực tế trên cũng như nhận thức được tần quan trọng của yếu
tố môi trường trong công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa ở Việt Nam tôi đã
lựa chọn đề tài: “Mối quan hệ biện chứng giũa môi trường và các nhân tố sinh
thái, từ đó rút ra ý nghĩa triết học của vấn đề này”.


NỘI DUNG
I.
1.
1.1

Mối quan hệ biện chứng giữa môi trường và các nhân tố sinh thái
Một số khái niệm.
Môi trường là gì

(ảnh minh họa)
Môi trường là tập hợp bao gồm tất cả những yếu tố tự nhiên (vật lý, hóa
học, sinh học) và các yếu tố xã hội có liên quan mật thiết với nhau đang bao quanh
con người, có ảnh hưởng và tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến sự tồn tại và phát
triển của sinh vật như tài nguyên thiên nhiên, ánh sáng, cảnh quan, không khí,
nước, độ ẩm…

Đối với con người gồm tất cả những yếu tố tự nhiên (vật lý, hóa học, sinh
học) và các yếu tố kinh tế - xã hội tác động đến sự tồn tại và phát triển của con
người và xã hội loài người.
Nói chung, môi trường là tất cả mọi thứ xung quang chúng ta, giúp chúng
ta có cơ sở để tồn tại và phát triển.


Như thế, môi trường là nơi sống của sinh vật, ở sinh vật sinh trưởng và

phát triển thường xuyên: nơi sống của sinh vật được hiểu là một vùng đất, một
khoảng không gian và bao gồm cả các sinh vật khác sống xung quanh. Thức ăn,
chỗ ở mà sinh vật sử dụng để duy trì sự sống được gọi là nguồn sống của sinh vật
trong môi trường.
1.2
1.2.1

Nhân tố sinh thái
Khái niệm
Nhân tố sinh thái bao gồm tất cả các yếu tố cấu trúc nên môi trường (Đất,
nước, khí, sinh vật) tác động đồng thời (cùng một lúc) lên sinh vật có ảnh hưởng
trực tiếp hoặc gián tiếp đến sự tồn tại và phát triển của sinh vật trong sinh quyển
Các nhân tố cấu trúc nên môi trường (vô sinh và hữu sinh) tác động cùng
một lúc lên sinh vật được gọi là nhân tố sinh thái. Nếu xét tác động của các nhân tố
sinh thái lên đời sống của một sinh vật cụ thể gọi là yếu tố sinh thái.
Ví dụ: các nhân tố cấu trúc nên môi trường như vô sinh(đất, nước, khí), hữu
sinh (sinh vật) và con người gọi là nhân tố sinh thái. các yếu tố môi trường cụ thể
như: ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm không khí, gió, đất, nước, đá, thức ăn, sinh vật…
tác động lên đời sống của một sinh vật cụ thể gọi là yếu tố sinh thái.
Điều chắc chắn rằng, trong môi trường các nhân tố sinh thái không bao
giờ tác động riêng lẻ lên sinh vật mà tất cả các nhân tố sinh thái luôn tác động tổng
hợp và gắn bó chặt chẽ với nhau tạo thành tổ hợp sinh thái. sinh vật muốn tồn tại

2.


được phải thích nghi tương ứng với các nhân tố sinh thái.
các nhóm nhân tố sinh thái
Nhóm nhân tố sinh thái vô sinh (không sống): là các nhân tố vật lý và hóa học của
môi trường xung quanh sinh vật. bao gồm:

Nhân tố khí hậu: ánh sáng, khí hậu, nhiệt độ, độ ẩm không khí, mưa, gió…
Thổ nhưỡng: đất, đá, các thành phần cơ giới và tính chất lý hóa của đất.
Nước: nước mưa, nước biển, nước ao, hồ, sông, suối.
Địa hình: độ cao, đọ dốc, độ trũng, hướng phơi của địa hình.




Nhóm nhân tố sinh thái hữu sinh: là thế giới hữu cơ của môi trường, là những mối
quan hệ giữa sinh vật này và sinh vật khác sống xung quanh.
Nhóm nhân tố sinh thái hữu sinh gồm các cơ thể sống như vi sinh vật,
nấm, thực vật, động vật. nhóm nhân tố sinh thái hữu sinh có ảnh hưởng trực tiếp
hoặc gián tiếp đến các cơ thể sống khác ở xung quanh trong mối quan hệ cùng loài
hay
khác loài. Nhóm nhân tố sinh thái này là thế giớ hữu cơ có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng đối với môi trường.
Quan hệ giữa sinh vật và môi trường là mối quan hệ qua lại. môi trường
tác động lên sinh vật, đồng thời sinh vật cũng ảnh hưởng đến các nhân tố sinh thái,
làm thay đổi tính chất của các nhân tố sinh thái.



Nhóm nhân tố sinh thái con người
Nhóm nhân tố con người được tách ra thành nhân tố độc lập. bởi vì,

-

Thứ nhất là con người tác động vào tự nhiên được xác định bởi nhân tố xã hội mà
trước hết là chế độ xã hội, còn đặc trưng tác động của động thực vật mang đặc


-

điểm sinh vật.
Thứ hai là con người tác động vào tự nhiên có ý thức và thứ ba là quy mô tác động
của động vật và thực vật không thể so sánh được với quy mô tác động của con

-

người nhất là trong điều kiện tiến bộ của khoa học - kỹ thuật.
Hoạt động của con người khác với hoạt động của các động vật khác . Vì con người
tác động có ý thức vào môi trường có trí tuệ và làm thay đổi môi trường .
Con người là dạng vật chất đặc biệt có tổ chức cao, hoạt động của con
người là hoạt động có ý thức, con người có thể nhận thức được các quy luật của tự
nhiên và vận dụng các quy luật đó một cách sáng tạo, chính xác để phục vụ cho lời
ích của mình. Hoạt động của con người cố thể làm cho môi trường phong


phú hơn, giàu có hơn, nhưng cũng có thể làm thay đổi hẳn cả môi trường.
một khi môi trường thay đổi theo hướng ngược lại thì tác động của con người làm
cho môi trường bị phá hủy, bị ô nhiễm không những ảnh hưởng xấu đến các sinh
vật khác mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng cuộc soongs của chính bản
thân con người. cho nên, khác với các động vật khác, tác động cảu con người vào
môi trường không chỉ là yếu tố tự nhiên thuần túy (như lấy thức ăn,thải chất bã vào
môi trường) mafconf cả yếu tố xã hội nhân văn.
Trong môi trường, tất cả các nhân tố sinh thái tác động tổng hợp gắn bó
chặt chẽ và thống nhất với nhau tạo thành tổ hợp sinh thái. sinh vật muốn tồn tại
được trong môi trường phải thích nghi tương ứng với các nhân tố sinh thái.
2.1

Phương pháp biện chứng là gì?

Phương pháp biện chứng là phương pháp xem xét các sự vật hiện tượng
trong mối liên hệ phổ biến, trong sự vận động và phát triển không ngừng.
Nó bao gồm hệ thống các nguyên tắc hướng dẫn, điều chỉnh hoạt động nhận
thức và hoạt động cải tạo thế giới hiện thực của con người xuất phát từ lý luận biện
chứng.

3.
3.1

Sự thống nhất biện chứng giữa môi trường và các nhân tố sinh thái
tính thống nhất của các nhân tố sinh thái trong môi trường
các nhóm nhân tố sinh thái bao gồm: Nhóm nhân tố sinh thái vô sinh, hữu
sinh, và con người. trong môi trường các nhóm nhân tố sinh thái là thống

nhất; tính thống nhất của các nhóm nhân tố sinh thái được biểu hiện rất đậm
nét ở sự giống nhau: về các nhân tố hóa học cấu tạo nên các nhóm nhân tố sinh thái
vô sinh, hữu sinh và con người.


Bảng tính thống nhất về cấu tạo và các thành phần hóa học của nhân tố
sinh thái vô sinh, hữu sinh (động vật) và con người (% khối lượng cơ thể)

Nhân tố sinh thái vô sinh (nguyên tố hóa
học)
Nguyên tố đa lượng (C: 18,3; H: 10; O: 65;
N: 2,7)
Nguyên tố khác: Ca, P, K, S, Na, Mg, Fe,
Cl, Si
Nguyên tố vi lượng, siêu vi lượng (Ba, Br,
Cd, Co, Cu, Mo, Mn, Zn, B, Hg, I, Ni, Pb, Ra, Cr,

Ag, Au)
Muối khoáng, hoocmon và các chất khác
Hàm lượng khác

Nhân tố con
Nhân tố hữu
người
sinh
95,7
3,82

0,46
0,1 – 0,2
72,5*

60 – 70
1,9 – 3,0
26: vi lượng,
vi khuẩn, nấm, tảo,
đơn vị hiển vi
TB=80,0

Nguồn: theo V.I. Perenman (1972). *Hàm lượng nước ở nước ngoài được
xác định bằng phương pháp nguyên tử đánh đấu.
Số liệu thu được ở bảng trên cho thấy, các nhóm nhân tố sinh thái trong môi

trường được cấu tạo từ những nguyên tố hóa học giống nhau. Sự thống nhất
của các nhóm nhân tố sinh thái (cả vô sinh và hữu sinh) được thể hiện ở chỗ: bản
chất của chúng là đều được cấu tạo từ các nguyên tố hóa học, đặc biệt hàm lường
các nguyên tố đa lượng, vi lượng và siêu vi lượng cấu tạo nên cơ thể người và

động vật về sơ bản là gần như nhau và được biểu hiện:


trong cơ thể sinh vật:


Hàm lượng nước trung bình trong sinh vật là 80%, (trong thực vật lớn
hơn 80%, ở động vật nhỏ hơn 80%, ở cơ thể người trung bình là 72,5%)

-

nguyên tố đa lượng C, H, O, N trong sinh vật chứa từ 60 – 70%
các nguyên tố khác: Ca, P, K, S, Na, Mg, Fe, Cl chứa từ 1,9 – 3,0%.
Còn lại là 60 nguyên tố vi lượng, vitamin và muối khoáng.
Trong cơ thể người:
Hàm lượng các nguyên tố hóa học C, H, O, N chiếm 96%.
Các nguyên tố đa lượng: Ca, P, K, S, Na, Mg, Fe, Cl, Si chiếm 3,82%.
Còn lại hơn 60 nguyên tố vi lượng, vitamin, hoocmon và muối khoáng chỉ chiếm
0,18%.
Số liệu sinh động trên có thể khẳng định rằng: Trong môi trường, các nhóm
nhân tố sinh thái (vô sinh (không sống)), (hữu sinh (sống)) và kể cả con người là
những dạng khác nhau của thế giới vật chất nhưng lại thống nhất với nhau ở tính
vật chất vốn có của nó trong tự nhiên. Sự thống nhất của các nhân tố sinh thái
(trong đó có nhân tố con người) là dẫn hiệu khoa học sinh động chứng minh tính
thống nhất vật chất của thế giới trong tự nhiên.

3.2

Mối quan hệ biện chứng của các nhóm nhân tố sinh thái
Các nhóm nhân tố sinh thái vừa tồn tại độc lập, không phụ thuộc vào ý thức

con người, vừa quy định lẫn nhau và hơn thế nữa giữa chúng có mối liên hệ gắn bó
hữu cơ, chằng chịt lẫn nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Sự tác động
tổng hợp của các nhóm nhân tố sinh thái đã tạo nên một môi trường sống đa
dạng và phong phú trong tự nhiên, trong đó con người là một nhân tố sinh
thái quan trọng, là thành phần đặc biệt đã được tách ra một cách hợp quy luật của
tự nhiên. Và ngược lại sinh vật muốn tồn tại và phát triển trong môi trường đều
phải tuân theo một cách nghiêm ngặt các nguyên lý, quy luật tác động của các nhân
tố sinh thái lên sinh vật (gọi là các quy luật sinh thái).

4.

Ý nghĩa triết học
Nghiên cứu sự vận động, biến đổi và phụ thuộc của mối quan hệ biện chứng
giữa tự nhiên con người và xã hội vào trình đọ phát triển của nền sản xuất xã hội
rút ra một số ý nghĩa phương pháp luận như sau:


Khi giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa con người với tự nhiên,
con người phải đứng trên quan điểm lịch sử cụ thể. Trong tiễn trong giải quyết các
mối quan hệ qua lại và sự tác động lẫn nhau giữa con người với tự nhiên phải căn
cứ vào trình độ phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt là trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất phải phù hợp với quan hệ sản xuất.
Con người là nhân tố co ý thức duy nhất, chủ thể tích cực trong việc
điểu khiển một cách tự giác các mối quan hệ giữa con người xã hội và tự nhiên cần
phải nhận thức cho được những quy luật tồn tại và phát triển cảu giới tự nhiên và
phải biết vận dụng một cách đúng đắn, chính xác và tự giác những quy luật đó vào
hoạt động thực tiễn của xã hội.
Xã hội loài người hiện nay muốn thỏa mãn được nhu cầu về vật chất
cũng như tinh thần cảu mình nhưng không làm tổn hại đến thế hệ mai sau,
thì không có giải pháp nào khác ngoài việc phải điểu khiển một cách hài hòa

mối quan hệ biện chứng giữa tự nhiên, con người và xã hội. Nghĩa là nguồn phát
triển xã hội bền vững phải giải quyết cho được mối quan hệ giữa con người với tự
nhiên và giữa con người với con người cụ thể là phải giải quyết cho được mối quân
hệ biện chứng giữa sự phát triển của nền sản xuất xã hội với chiến lược phát triển
bền vững.
Như vậy về bản chất các nhân tố sinh thái trong môi trường là những
dạng khác nhau (cấu trúc và chức năng) của vật chất, nhưng chúng lại thống nhất
với nhau đó là đều được cấu tạo từ các nguyên tố hóa học; giữa chúng có mối quan
hệ chằng chịt và tác động qua lại lẫn nhau và tuân theo cac quy luật về sự vận động
và phát triển của hệ sinh thái trong sinh quyển. sự thống nhất của các nhân tố sinh
thái là dẫn liệu có căn cứ khoa học, là cơ sở tự nhiên chứng minh cho tính thống
nhất vật chất của thế giới trong tự nhiên và mọi sự vật hiện tượng trong thế giới
luôn vận động và phát triển – cơ sở của mối liên hệ và sự phát triển trong triết học
Mác – Lênin.


II.

Vấn đề tài nguyên môi trường ở tỉnh Ninh Bình hiện nay
1. Thực trạng vấn đề tài nguyên – môi trường ở tỉnh Ninh Bình hiện nay
Vấn đề môi trương sinh thái ở Ninh Bình hiện nay có nhiều vấn dề cấp bách xảy ra:
sự cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên và nạn ô nhiễm môi trường sống và đã xuất hiện
tự nhiên tác động trở lại con người bằng thảm họa sinh thái.
Nguồn tài nguyên ngày cang cạn kiệt là hậu quả nghiêm trọng do tác động
của con người đã trở thành vấn nạn và đang là vấn đề nhức nhối trong xã hội công nghiệp
và trên thực tế đã làm giảm chất lượng cuộc sống của người dân.
Những năm gần đây, kinh tế - xã hội của tỉnh có bước phát triển
nhanh theo hướng CNH-HĐH. Tuy nhiên sự phát triển kinh tế - xã hội với nhiều
khu công nghiệp – cụm công nghiệp (KCN- CCN) gây hậu quả xấu cho môi trường
nói chung và sông Đáy nói riêng. Chất lượng nước sông bị suy thoái ở một số nơi,

nhất là tại nhiều đoạn chảy qua đô thị, làng nghề, khu công nghiệp. Bảo vệ môi
trường lưu vực sông đang đứng trước nhiều thách thức giữa yêu cầu bảo vệ môi
trường với lợi ích kinh tế trước mắt, giữa cơ sở hạ tầng, kỹ thuật bảo vệ môi trường
còn lạc hậu với khối lượng nước thải từ các KCN-CCN, làng nghề xả vào môi
trường ngày càng tăng.
Trên địa bàn tỉnh hiện có 21 nhà máy sản xuất gạch với tổng công
suất 665 triệu viên/năm. Trong quá trình sản xuất mặc dù các nhà máy có ý thức
bảo vệ môi trường song khói bụi vẫn chưa được kiểm soát triệt để, gây bức xúc
trong nhân dân. Thêm nữa, bảy nhà máy sản xuất xi măng, 83 đơn vị đang khai
thác khoáng sản, tại 90 điểm mỏ khai thác, trong đó 52 điểm mỏ lập dự án cải tạo,
phục hồi môi trường, 61 điểm mỏ ký quỹ cải tạo phục hồi môi trường. Các doanh
nghiệp cơ bản thực hiện được một số biện pháp giảm ô nhiễm song vẫn còn tình
trạng đất đá rơi vãi trên đường, trước khi ra khỏi nơi khai thác chưa vệ sinh bánh


lốp, gầm xe, còn có hiện tượng chạy quá tốc độ, chở quá trọng tải, che chắn bạt
không kín gây ra bụi bặm và nhanh làm hỏng đường, khiến người dân bất bình.
Trong khi đó, làng nghề ở Ninh Bình ngoài vai trò tạo việc làm và
phát triển kinh tế địa phương, vẫn còn nhiều bất cập trong quy hoạch cũng như xử
lý nước thải. 75 làng nghề thủ công có từ lâu đời, nhưng chưa xây dựng giải pháp
bảo vệ môi trường gây ô nhiễm nhất là bụi, tiếng ồn, nước thải...
Không chỉ môi trường ở thành phố, thị xã trong tỉnh Ninh Bình bị ô nhiễm,
ngay cả khu vực nông thôn vốn trước đây được coi là “sạch” thì nay cũng đang báo
động đỏ về tình trạng ô nhiễm nguồn nước và không khí. Theo số liệu thống kê,
lượng rác thải sinh hoạt khu vực nông thôn Ninh Bình khoảng 182 tấn/ngày. Rác
được thu gom, tập kết tại chân núi hoặc bãi rác của xã để đốt hoặc chôn lấp. Tuy
nhiên kinh phí hạn hẹp khiến mô hình thu gom rác tập trung thường chiếm tỷ lệ
thấp và chưa thường xuyên.
Điều lo ngại hiện nay là bảy Khu công nghiệp được thành lập trên
địa bàn tỉnh trong đó ba KCN đi vào hoạt động gồm: KCN Gián Khẩu, KCN Tam

Điệp giai đoạn I và KCN Khánh Phú thu hút 66 dự án đầu tư. Song hiện nay mới


KCN Khánh Phú xây dựng Nhà máy xử lý nước thải tập trung giai đoạn I,
bước đầu bảo đảm thu gom, xử lý lượng nước thải tại KCN. KCN Gián Khẩu đang
trong quá trình hoàn thiện nhà máy xử lý nước thải tập trung, dự kiến hoàn thành
vào năm 2014. KCN Tam Điệp giai đoạn I chưa có hệ thống xử lý nước thải tập


trung. Trong khi đó, lượng nước thải từ ba KCN và thành phố Ninh Bình là khoảng
12.230 m3/ngày đêm, bảy huyện, thị khoảng 2.000 m3/ngày đêm

2.2.1.

Một số giải pháp nhằm khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên và
bảo vệ môi trưởng ở tỉnh Ninh Bình
Tỉnh Ninh Bình đã chủ động và có nhiều giải pháp nhằm hạn chế ô
nhiễm và kiểm soát tốt chất lượng môi trường trên địa bàn nói chung và thực hiện
Đề án tổng thể bảo vệ môi trường lưu vực sông Nhuệ- Đáy. Tỉnh thành lập ban chỉ
đạo chương trình bảo vệ môi trường tỉnh Ninh Bình giai đoạn 2010-2015..
Năm 2013 tỉnh xây dựng Quy hoạch xử lý chất thải rắn tỉnh Ninh
Bình đến năm 2030. Đồng thời tăng cường quan trắc môi trường với tần suất 4
lần/năm tại các vùng có nguy cơ ô nhiễm cao như sông Đáy, sông Hoàng Long,
sông Vạc, các cơ sở sản xuất kinh doanh có nguồn thải lớn ra lưu vực sông Đáy.
Bên cạnh đó, tỉnh tổ chức quy hoạch một số Khu xử lý chất thải rắn tại thung Quèn
Khó, xã Đông Sơn, thị xã Tam Điệp, Thung Châu, xã Kỳ Phú ( Nho Quan), các dự
án thoát nước mặt, chống úng lụt khu vực phía tây thị xã Tam Điệp, xây dựng trạm
xử lý và hệ thống thu gom nước thải sinh hoạt thành phố Ninh Bình. Thực hiện
kiểm soát định kỳ đối với 29 đơn vị tại huyện Nho Quan, thị xã Tam Điệp và các
KCN Gián Khẩu, Khánh Phú. “Ngoài ra, chúng tôi còn tiến hành kiểm tra ba đơn

vị sản xuất kinh doanh theo kiến nghị của cử tri trong tỉnh.” Phó Giám đốc Sở Tài
nguyên và Môi trường tỉnh Ninh Bình, Lê Khắc Khoa nói.
Tỉnh Ninh Bình có tám cơ sở nằm trong danh sách gây ô nhiễm môi
trường nghiêm trọng cần phải xử lý triệt để, bao gồm: Bệnh viện đa khoa Tỉnh,
Bệnh viện quân y 5, Công ty cổ phần phân lân Ninh Bình, Công ty cổ phần thực
phẩm xuất khẩu Đồng Giao, Cơ sở sản xuất xi măng Cầu Yên, Kho thuốc bảo vệ
thực vật Ninh Bình, Công ty bia Ninh Bình, Công ty chế biến nông sản thực phẩm


xuất khẩu Ninh Bình. Với việc xây dựng nhiều dự án xử lý ô nhiễm môi trường,
đến nay, cả tám cơ sở được Bộ Tài nguyên và Môi trường, Sở Tài nguyên và Môi
trường công nhận hoàn thành việc xử lý ô nhiễm môi trường.
Ngoài ra, các sở, ban ngành…còn coi trọng tuyên truyền bảo vệ môi
trường trên địa bàn, tổ chức các lớp bồi dưỡng kiến thức quản lý Nhà nước về bảo
vệ môi trường cho gần 200 cán bộ phụ trách công tác quản lý môi trường của Sở,
Ban ngành có liên quan và các Phòng Tài nguyên và Môi trường, thuộc huyện Nho
Quan, Gia Viễn và Hoa Lư..v.v.

KẾT LUẬN
Trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về mối quan hệ
biện chứng giữa môi trường và các nhân tố sinh thái - mối quan hệ rất chặt chẽ,
khăng khít, tác động qua lại lẫn nhau. Từ nền tảng mối quan hệ này, ta có thể thấy
mối quan hệ chặt chẽ giữa xã hội loài người và môi trường sinh thái. Môi trường
sinh thái mang vai trò quyết định đối với sự tồn vong của loài người, nó có ảnh
hưởng rất lớn đến đời sống hàng ngày của con người. Con người cũng có những
tác động lớn đến môi trường, có khả năng thay đổi, cải biến môi trường. Chính vì


sự tác động qua lại này nên con người càng phải có trách nhiệm bảo vệ, phục hồi
và gây dựng môi trường cho ngày càng tốt hơn. Vì làm lợi cho môi trường cũng

chính là con người đang giúp cho sự phát triển, tồn tại của bản thân. Từ đây, tôi
bàn về môi trưòng đang dần bị tàn phá ở nước Việt Nam chúng ta. Nguyên nhân
sâu xa chính là ở ý thức con người, mà sâu hơn là việc con người không hiểu được
mối quan hệ chặt chẽ giữa môi trường và sự tồn vong, phát triển của bản thân.
Để bảo vệ môi trường Việt Nam hiện nay, việc tuyên truyền, giáo dục ý
thức cho người dân là rất cấp thiết. Ngoài ra, các cơ quan chức năng cũng phải vào
cuộc, nghiêm chỉnh đề ra những luật nghiêm khắc hơn trong vấn đề bảo vệ môi
trường. Nhiều cá nhân, tổ chức hiểu được việc làm phá hoại môi trường của mình
là sai nhưng vì lợi nhuận,... họ vẫn bất chấp, xem nhẹ vấn đề bảo vệ môi trường
sinh thái.



×