Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

TIỂU LUẬN một số vấn đề cơ bản về TRIẾT học TRONG GIÁO dục và vận DỤNG NHỮNG tư TƯỞNG về TRIẾT lý GIÁO dục TRONG GIÁO dục ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (244.65 KB, 30 trang )

1

MỞ ĐẦU

Nghiên cứu triết học giáo dục là một vấn đề cần thiết và quan trọng, vì
triết học giáo dục tìm hiểu các vấn đề giáo dục trên bình diện rộng và ở tầm
cao của lý luận, cho phép chúng ta đi sâu vào bản chất của các hiện tượng
giáo dục do đó đề xuất đúng những vấn đề then chốt, đúng trọng tâm là chìa
khóa để giải quyết thành công các vấn đề về giáo dục.
Ngày nay, thời đại đang bước vào kỷ nguyên toàn cầu hoá, kinh tế tri
thức, hội nhập quốc tế. Giáo dục đang giữ vai trò đặc biệt quan trọng cho sự
phát triển xã hội, sự phát triển cá nhân, động lực của sự phát triển kinh tế xã
hội. Đầu tư cho giáo dục từ chỗ được xem là phúc lợi xã hội chuyển sang đầu
tư cho phát triển. Hiện nay, trên thế giới đang diễn ra cuộc chạy đua quyết liệt
về mặt phát triển, tập trung vào phát triển kinh tế song chỉ có thể thắng trong
cuộc chạy đua này hoặc ít nhất không bị tụt hậu trong cuộc chạy đua nếu phát
triển tốt giáo dục. Tập trung và chăm lo cho phát triển giáo dục là giải pháp
hữu hiệu chống nguy cơ tụt hậu về văn hoá, khoa học, kinh tế. Điều này đặc
biệt quan trọng đối với những nước đang phát triển, đang tiến hành công
nghiệp hoá, hiện đại hoá như nước ta hiện nay.
Vì vậy, các quốc gia, từ những nước đang phát triển đến những nước phát
triển đều nhận thức được vai trò và vị trí hàng đầu của giáo dục, đều phải đổi
mới giáo dục mà trước hết là đổi mới tư duy giáo dục có nghĩa là phải đổi mới
cách suy nghĩ, cách làm giáo dục hiện nay để có thể đáp ứng một cách năng
động hơn, hiệu quả hơn, trực tiếp hơn những nhu cầu của sự phát triển đất nước.
Muốn đổi mới tư duy giáo dục thì cần phải nhận thức lại từ các vấn
đề triết học, triết lý, các vấn đề phương pháp luận từ đó mới có cơ sở lý luận
và thực tiễn để đưa ra các giải pháp phù hợp trong giải quyết các vấn đề giáo
dục, mà muốn nhận thức được các vấn đề này thì cần thiết phải xây dựng
được hệ thống lý luận triết lý giáo dục Việt Nam phù hợp với văn hóa Việt
Nam, với điều kiện thực tiễn của Việt Nam.




2

Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, các tư tưởng giáo dục
khác nhau được nảy sinh không chỉ trên những điều kiện kinh tế xã hội đương
thời, phản ánh trình độ phát triển khác nhau của xã hội, mà còn được nảy sinh
trên những quan điểm triết học, thế giới quan nhất định. Việc nghiên cứu cơ
sở triết học của giáo dục có ý nghĩa to lớn về phương pháp luận trong quá
trình nghiên cứu giáo dục và giáo dục học. Nó giúp chúng ta hiểu sâu sắc hơn
và toàn diện hơn các tư tưởng giáo dục trong lịch sử, từ đó giúp chúng ta tiếp
thu, kế thừa và phát triển một cách sáng tạo các tư tưởng giáo dục tiến bộ, các
thành tựu và kinh nghiệm trong lịch sử phát triển giáo dục của nhân loại, góp
phần đổi mới lý luận giáo dục học cũng như sự nghiệp giáo dục đất nước.
Chúng ta khẳng định: Việt Nam có triết học và có triết học giáo dục; Đảng,
Nhà nước ta rất quan tâm đến vấn đề phát triển triết học và triết học giáo dục,
những quan điểm, tư tưởng cơ bản về giáo dục của Đảng, Nhà nước ta là kế thừa,
tiếp thu có chọn lọc những vấn đề triết học của nhân loại, nhất là triết học MácLênin, tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh đã được Đảng, Nhà nước ta vận dụng
trong quá trình phát triển nhiệm vụ giáo dục- đào tạo, nhưng do điều kiện lịch sử
chi phối và qui định, nên chúng ta chưa hệ thống hóa được thành những tác phẩm
triết học lớn nói chung và triết học giáo dục nói riêng. Như lời của GS, TSKH
Thái Duy Tuyên đã nói: Đây là nhiệm vụ đặt ra cho các nhà khoa học Việt Nam
hiện tại và tương lai, đó cũng là trách nhiệm mà cha ông ta giao cho hậu thế.
Vận dụng những quan điểm triết học Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục, xuất phát từ thực tiễn của nền giáo dục Việt Nam, văn kiện
đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng khẳng định:“Đổi mới tư duy
giáo dục một cách nhất quán, từ mục tiêu, chương trình, nội dung, phương
pháp đến cơ cấu và hệ thống tổ chức, cơ chế quản lý để tạo được chuyển biến
cơ bản và toàn diện của nền giáo dục nước nhà, tiếp cận với trình độ giáo
dục của khu vực và thế giới; khắc phục cách đổi mới chắp vá, thiếu tầm nhìn

tổng thể, thiếu kế hoạch đồng bộ. Phấn đấu xây dựng nền giáo dục hiện đại
của dân, do dân và vì dân, bảo đảm công bằng về cơ hội học tập cho mọi người,
tạo điều kiện để toàn xã hội học tập và học tập suốt đời, đáp ứng yêu cầu công


3

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”1. Đây chính là phương hướng đổi mới để phát
triển nhiệm vụ giáo dục- đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập quốc tế được Đảng, Nhà nước ta khái quát thành lý
luận mang tầm triết học trong lĩnh vực giáo dục. Hiện nay, đất nước ta đang trên
con đường đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong xu thế toàn cầu hóa và
hội nhập của kinh tế thế giới, đất nước đang đứng trước những cơ hội và thách
thức lớn. Vì vậy, việc vận dụng những tư tưởng cơ bản của triết lý giáo dục trong
giáo dục ở nước ta hiện nay là một vấn đề cấp thiết và mang tính chiến lược để
nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo rút ngắn khoảng cách với các nước trong
khu vực và các nước phát triển trên thế giới và nhằm nâng cao dân trí, đào tạo
nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài để phục vụ sự phát triển kinh tế - xã hội và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam trong, thời kỳ mới của cách mạng.
NỘI DUNG
I. KHÁI LƯỢC MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TRIẾT HỌC GIÁO DỤC

Như chúng ta đã biết, sự phát triển của khoa học giáo dục đặt ra yêu cầu
cần phải có hệ thống những luận điểm “triết lý giáo dục” làm nền tảng
phương pháp luận cho khoa học giáo dục phát triển đúng đắn. Đặc biệt trong
giai đoạn hiện nay, nghiên cứu triết học giáo dục là vấn đề cần thiết và quan
trọng hơn bao giờ hết, đây là một vấn đề khó, mới mẻ, bỏ ngỏ trong lĩnh vực
nghiên cứu lý luận ở Việt Nam mà nó còn là vấn đề trừu tượng, phức tạp,
nhạy cảm. Tuy vậy, với những triết lý giáo dục truyền thống Việt Nam, nhất
là những tư tưởng, quan điểm giáo dục của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh

trong việc chỉ đạo, xây dựng nền giáo dục Việt Nam suốt từ sau Cách mạng
tháng Tám đến nay và thực tiễn phát triển giáo dục nước ta đã bước đầu khái
quát, hệ thống của triết học giáo dục Việt Nam như: bước đầu xác định một số
khái niệm, phạm trù, đối tượng và phương pháp của triết học giáo dục Việt
Nam; hệ thống hoá những triết lý giáo dục truyền thống trong lịch sử giáo
dục; khái quát những vấn đề cụ thể của triết học giáo dục như: Quá trình giáo
dục; hệ thống giáo dục quốc dân (cấu trúc, cơ chế, động lực…) và nêu lên
1

ĐCSVN, VKĐHĐB toàn quốc lần thứ X, Nxb. CTQG. H 2006, tr 206- 207.


4

những vấn đề đang được quan tâm hiện nay…làm cơ sở cho việc tổng kết lý
luận và nâng tầm khái quát về hệ thống lý luận giáo dục cho sự phát triển của
thực tiễn giáo dục cả trong nước, khu vực và thế giới.
Thực tiễn cho thấy, thời gian qua triết học giáo dục đã bắt đầu được đề
cập trong các tài liệu giáo dục học. Các nước trong khu vực, thuật ngữ này
được sử dụng khá phổ thông trong các tài liệu, các nhà trường… Đối với Việt
Nam chúng ta, thuật ngữ này đã xuất hiện nhưng còn ít được đề cập một cách
có hệ thống, song dù thế nào đi nữa chúng ta đều thấy rằng vị trí, ý nghĩa của
triết học giáo dục (triết lý giáo dục) là vô cùng quan trọng, chìa khoá để giải
quyết thành công các vấn đề giáo dục bảo đảm cho giáo dục có tính hệ thống,
tính nhất quán. Nếu không có một triết học giáo dục vững vàng thì giáo dục
sẽ vận động trong vòng luẩn quẩn, không phát triển lên được.
1. Triết học, triết học giáo dục
* Triết học: Nghiên cứu lịch sử phát triển của triết học chúng ta thấy
Triết học có từ rất sớm, khoảng từ thế kỷ VIII đến thế kỷ VI trước công
nguyên ở các phương Đông và phương Tây. Qua nhiều thế kỷ, nhiều thời đại

và vùng miền khác nhau, triết học đã phát triển vô cùng đa dạng và đạt tới
trình độ cao như ngày nay. Xoay quanh vấn đề triết học có nhiều định nghĩa
khác nhau, nhưng nhìn chung đều có những điểm giống nhau. Ở Việt Nam
triết học thường được hiểu qua những khái niệm sau đây:
Triết học là một hình thái ý thức xã hội, là thế giới quan, là hệ thống tư
tưởng và quan điểm đối với thế giới và vị trí của con người trong thế giới.
Triết học là một khoa học nghiên cứu các qui luật chung nhất của sự
phát triển tự nhiên, xã hội và tư duy.
Triết học là phương pháp luận chung của nhận thức khoa học.
Xuất phát từ thực tiễn xã hội, triết học có vai trò, tác dụng tích cực đến tồn tại
xã hội, có khả năng hình thành những tư tưởng mới, những chuẩn mực và giá trị văn
hóa mới. Thực chất vai trò, tác dụng của triết học là thế giới quan và phương pháp
luận (công cụ nhận thức và cải tạo thế giới) của mỗi con người và xã hội loài người.
* Triết học giáo dục, là một lĩnh vực khoa học nghiên cứu vận dụng
các phương pháp triết học để giải quyết các vấn đề giáo dục, là những


5

nguyên tắc phương pháp luận chủ yếu chung nhất làm cơ sở cho việc nghiên
cứu khoa học và cải tạo thực tiễn giáo dục.
Là một bộ phận của triết học, triết học giáo dục phải bảo đảm các tính
chất cơ bản sau đây khi nghiên cứu các vấn đề giáo dục:
- Tính bản chất: tức là phải tìm tòi, phát hiện những vấn đề bản chất của đối
tượng, nghĩa là những nội dung bên trong quan trọng nhất, những cái gốc gác, cội
nguồn như cấu trúc, qui luật, những mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu của đối tượng.
- Tính phổ quát: nghĩa là phải nghiên cứu đối tượng dưới một dạng tổng
thể với một phạm vi và qui mô rộng lớn, trong mối quan hệ nhiều chiều.
- Tính nhất quán: bảo đảm tính hệ thống và chặt chẽ về mặt lôgic trong
tất cả các khâu của quá trình lập luận.

- Tính qui luật: bảo đảm nghiên cứu đối tượng trong dạng luôn luôn vận
động và biến đổi không ngừng.
- Trình bày vấn đề dưới một dạng lý luận có hệ thống, cô đọng và duy lý.
* Mục đích của triết học giáo dục là xác định được những quan điểm chủ yếu
và lý giải được các vấn đề giáo dục một cách đúng đắn, rõ ràng, nhất quán và hệ
thống nhằm nâng cao chất lượng lý luận giáo dục, góp phần cải tạo thực tiễn giáo
dục.
Để làm được điều đó, các nhà triết học giáo dục thường phải đi theo hai con đường:
Thứ nhất, phân tích luận điểm của các nhà triết học lớn trong quá khứ, vì
vậy có nhiều phần trùng với lịch sử giáo dục. Việc nghiên cứu lịch sử triết học, tìm
kiếm những mâu thuẫn lôgíc và lịch sử trên cơ sở đối chiếu với hiện tại để rút ra
những bài học kinh nghiệm sẽ làm cho các vấn đề lý luận hiện đại có độ tin cậy cao hơn.
Thứ hai, khảo sát thực tiễn, làm rõ mối liên hệ giữa lý thuyết và thực
tiễn, quan tâm đặc biệt tới việc tìm kiếm các con đường ứng dụng lý luận vào
thực tiễn, sao cho các quan điểm triết học giáo dục đi vào quần chúng, được
những người bình thường, nhân dân lao động...chấp nhận và vận dụng vào
dạy dỗ con cháu trong cuộc sống thường ngày.
2. Triết lý, triết lý giáo dục và triết học
* Triết lý, triết lý giáo dục


6

Theo từ điển tiếng Việt, triết lý là: Quan điểm chung của con người về những
vấn đề nhân sinh và xã hội. Theo từ điển Hán Việt, triết lý là: lý luận về triết học
(triết= trí, lí=lẽ). Từ đó chúng ta có thể hiểu: Triết lý là những quan điểm được khái
quát từ cuộc sống, nhằm chỉ đạo sự suy nghĩ và hành động của con người.
Triết lý giáo dục là những quan điểm phản ánh những vấn đề của giáo
dục thông qua con đường trải nghiệm từ cuộc sống để chỉ đạo sự suy nghĩ và
hành động của con người về các vấn đề về giáo dục.

Như vậy, triết lý và triết học có sự tương đồng với nhau, nhưng triết lý thường
đề cập tới một vấn đề cụ thể, còn triết học là một khoa học, được xây dựng từ một hệ
thống tư tưởng, quan điểm với các khái niệm, phạm trù, đối tượng và phương pháp
riêng.
Thực tiễn cho thấy, để điều hành, lãnh đạo một sự nghiệp hay một lĩnh
vực nào đó không phải chỉ bằng những triết lý cụ thể mà phải bằng những hệ
thống những định hướng tư tưởng và định hướng khoa học mang tầm triết học.
Do vậy, vai trò của của triết lý và triết học có tầm quan trọng trong sự nghiệp
phát triển giáo dục, vì nó là những tư tưởng cốt lõi tạo nên bản sắc cho sự phát
triển bền vững của nền giáo dục; là công cụ định hướng cho nhận thức và hành
động; là phương tiện, cách thức để tiến hành các hoạt động giáo dục của con
người.
Nhận thức đúng đắn vấn đề trên, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng
Đảng ta và Chủ tịch Hồ chí Minh luôn quan tâm đến vấn đề giáo dục, những vấn
đề về triết lý, triết học giáo dục để xây dựng một nền giáo dục hoàn toàn mới,
phục vụ tích cực và có hiệu quả cho công cuộc kháng chiến chống Pháp và
chống Mỹ, cho cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, cách mạng xã hội chủ
nghĩa, cho công cuộc đổi mới và công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước hiện
nay.
Hệ thống giáo dục Việt Nam được xây dựng theo những quan điểm, tư
tưởng của Đảng và Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Những quan điểm ấy rất phong phú, đa dạng, đã được kiểm chứng qua thực
tiễn giáo dục Việt Nam và hiện còn được lưu giữ lại trong các văn kiện của


7

Đảng và Nhà nước. Đặc biệt, những bài viết, bài nói… của Chủ tịch Hồ Chí
Minh là những tài sản vô cùng quý giá.
Những thành tựu to lớn của nền giáo dục Việt Nam trong mấy chục

năm qua là cơ sở thực tiễn chứng tỏ những quan điểm của Đảng và Chủ tịch
Hồ Chí Minh về giáo dục là hoàn toàn đúng đắn.
Theo quan điểm triết học, các vấn đề giáo dục sẽ được nghiên cứu trong
dạng chỉnh thể, trong sự xem xét dưới sự tác động qua lại nhiều chiều giữa
các yếu tố của hệ thống giáo dục với nhau và các yếu tố của môi trường tự
nhiên và xã hội. Sự nghiên cứu các vấn đề giáo dục trong mối quan hệ rộng
và ở tầm cao của lý luận sẽ cho phép đi sâu vào bản chất các vấn đề giáo dục
và đưa ra được những giải pháp có hệ thống đúng đắn và hiệu quả.
* Các khái niệm và phạm trù cơ bản của triết học giáo dục
Nghiên cứu lý luận và thực tiễn về triết học giáo dục nói chung và triết
học giáo dục quân sự nói riêng, chúng ta thường gặp một số khái niệm, phạm
trù cơ bản của triết học giáo dục đó là:
- Vật chất, ý thức, vận động, phát triển, mâu thuẫn, động lực…
- Phương pháp luận, hệ thống, cấu trúc, mô hình, di truyền, lịch sử…
- Số lượng, chất lượng, khách quan, chủ quan, nguyên nhân, kết quả…
- Nhân cách, quá trình hình thành và phát triển nhân cách, nhân tố xã
hội, nhân tố sinh học…
- Lý tưởng, niềm tin, giá trị, định hướng giá trị, hệ thống giá trị xã hội
- Giáo viên (giảng viên), học sinh, học viên, nhà trường, sách giáo khoa,
thiết bị dạy học…
- Giáo dục, giáo dưỡng, dạy học, quá trình giáo dục, quá trình dạy học,
hoạt động, giao lưu, sư phạm, năng lực sư phạm, đào tạo…
- Mục đích, mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung, phương pháp, phương tiện, hình
thức, kết quả…
- Đức dục, trí dục, thể dục, mỹ dục…
- Hệ thống giáo dục quốc dân, công bằng dân chủ trong giáo dục,
nguyên lý giáo dục, tính chất giáo dục, phổ cập giáo dục, xã hội hóa, hiện đại
hóa giáo dục, môi trường giáo dục…



8

- Giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục chuyên nghiệp, giáo
dục đại học và sau đại học…
- Giáo dục chính qui và không chính qui, giáo dục thường xuyên, quốc lập, tư thục…
Đó là một số khái niệm, phạm trù chung nhất phán ánh những mặt,
những thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản và phổ biến nhất của các vấn đề
giáo dục nói chung và giáo dục học quân sự nói riêng. Trong số các khái
niệm, phạm trù trên thì cần lưu ý đến một số khái niệm, phạm trù đặc biệt
quan trọng như: nhân cách, quá trình hình thành và phát triển nhân cách, quá
trình giáo dục, quá trình dạy học, hệ thống giáo dục quốc dân…
* Về phương pháp nghiên cứu của triết học giáo dục
Triết học giáo dục nghiên cứu, các vấn đề giáo dục trong một dạng chỉnh
thể và đưa ra một hệ thống các quan điểm, các giải pháp về chỉnh thể đó.
Trong quá trình nghiên cứu, triết học giáo dục luôn luôn quan tâm tới các
mối liên hệ giữa các yếu tố của quá trình giáo dục, của hệ thống giáo dục quốc dân,
sự tác dụng tương hỗ và nhiều chiều giữa chúng, và giữa chúng với môi trường
kinh tế- xã hội. Đồng thời triết học giáo dục luôn luôn xem xét đối tượng trong
dạng vận động và biến đổi, và giải thích các vấn đề giáo dục chủ yếu bằng lý luận.
* Một số nhà triết học giáo dục tiêu biểu biểu ở phương Đông, phương
Tây và Việt Nam
Phương Đông: Nghiên cứu triết học giáo dục phương Đông cho chúng
ta thấy ngay từ thời Cổ đại, phương Đông đã đóng góp cho loài người nhiều
nhà triết học kiệt xuất như: Khổng Tử, Mạc Tử, Mạnh Tử, Đổng Trọng Thư,
Hàn Phi Tử, Phật Thích ca Mâu Ni…Đặc biệt là triết học giáo dục của Khổng
Tử có ảnh hưởng và vai trò rất quan trọng nhằm góp phần tìm kiếm con
đường để xây dựng tư tưởng triết học giáo dục Việt Nam trong thời kỳ hiện
đại.
Phương Tây: Nghiên cứu triết học giáo dục phương Tây ở các thời kỳ
lịch sử chúng ta thấy có những nhà triết học giáo dục nỗi tiếng như: Platông, Kô- men-xki, J. Lốc- cơ, j. Ru- xô,…

Ở Việt Nam: Nghiên cứu lịch sử giáo dục Việt Nam thời kỳ phong kiến
chúng ta tìm thấy những nhà triết lý giáo dục tiêu biểu như: Chu Văn An, Hồ


9

Quý Ly, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn, Nguyễn Đức Đạt,
Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Đình Chiểu, Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu.
Việt Nam từ khi có Đảng lãnh đạo, nhất là từ sau cách mạng tháng Tám
đến nay, triết lý, triết học giáo dục không ngừng được phát triển đáp ứng được
yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực trong các giai đoạn phát triển của
đất nước. Trên cơ sở tinh hoa triết học giáo dục của nhân loại và những triết
lý giáo dục thời kỳ phong kiến Việt Nam đã được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí
Minh kế thừa, phát triển lên một tầm cao mới. Tuy nhiên, triết học Việt Nam
nói chung và triết học Việt Nam trên các lĩnh vực nói riêng hiện nay đang là
vấn đề còn gây tranh cãi của nhiều nhà nghiên cứu khoa học ở nước ta. Song
trên lĩnh vực giáo dục lần đầu tiên xuất hiện cuốn sách: Triết học giáo dục
Việt Nam của GS, TSKH Thái Duy Tuyên, nhà xuất bản đại học sư phạm,
năm 2007. Có thể coi đây là cột mốc đánh dấu giai đoạn phát triển mới của
triết học Việt Nam nói chung và triết giáo giáo dục Việt Nam nói riêng.
Hiện nay, hệ thống giáo dục của các nước trên thế giới đang tích cực
chuẩn bị nguồn nhân lực cho thế kỉ XXI. Trong quá trình tìm kiếm con đường
nâng cao chất lượng nhà trường, nhiều vấn đề triết học giáo dục đang được
chú ý trao đổi rộng rãi như: Những giải thuyết về sự học tập của con người;
những lý thuyết điển hình về giáo dục nhân cách; những vấn đề vĩ mô. Đặc
biệt là những vấn đề đang được quan tâm nhất, đó là giáo dục và vấn đề toàn
cầu hóa; giáo dục trong kinh tế thị trường ở các nước xã hội chủ nghĩa; vấn đề
động lực trong giáo dục; vấn đề nhu cầu, cạnh tranh và hợp tác; quan điểm về
thành phần của tri thức; những hạn chế của giáo dục chính quy…
Những vấn đề triết học giáo dục mà các nước đang quan tâm là hết sức

phong phú và đang dạng. Để xây dựng và phát triển triết học giáo dục Việt
Nam cần phát hiện những vấn đề cấp thiết và quan trọng nhất mà nền giáo
dục phải làm trong điều kiện Việt Nam đang tiến hành công nghiệp hóa- hiện
đại hóa đất nước khi đã gia nhập WTO, nhằm góp phần tích cực vào việc phát
triển con người và nền kinh tế- xã hội đất nước.
II. VẬN DỤNG NHỮNG TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA TRIẾT LÝ GIÁO DỤC
TRONG GIÁO DỤC HIỆN NAY


10

Khi nghiên cứu vấn đề giáo dục người ta thường tập trung tìm hiểu hai
vấn đề lớn đó là: quá trình hình thành nhân cách và hệ thống giáo dục quốc dân.
Quá trình hình thành nhân cách là quá trình vi mô, trong đó chủ yếu giải quyết
vấn đề tương tác thầy trò, nghĩa là hoạt động dạy học - giáo dục , mà các vấn đề
chủ yếu là mục đích, nội dung, phương pháp, hình thức, phương tiện dạy học giáo dục và mối quan hệ thầy trò. Vấn đề hệ thống giáo dục quốc dân là các vấn
đề vĩ mô trong đó chủ yếu giải quyết vấn đề quản lý hệ thống giáo dục quốc dân
mà các vấn đề có liên quan trực tiếp là mục đích, mục tiêu hệ thống, quy mô,
mạng lưới, quan hệ giữa giáo dục và xã hội, mâu thuẫn và động lực giáo dục...
Trong khuôn khổ tiểu luận chúng tôi chỉ vận dụng các tư tưởng triết học
giáo dục vào giải quyết một số vấn đề ở cấp vĩ mô đó là Quá trình giáo dục.
Quá trình giáo dục là một trong những phạm trù quan trọng nhất của triết
học giáo dục cũng như hoạt động giáo dục nói chung. Một con người từ khi chào
đời cho đến khi trở thành người có ích cho xã hội và có thể sống hạnh phúc
trong cộng đồng xã hội cần phải trải qua một quá trình giáo dục và rèn luyện dài
lâu và trải qua nhiều thăng trầm, nhiều thành công và thất bại kế tiếp. Nhà giáo
dục cần nghiên cứu cái quá trình vận động biện chứng đó, cần nằm được cái bản
chất của quá trình giáo dụcvà các quy luật của nó để có những ứng xử hợp lý và
điều khiển nó có hiệu quả. Muốn thế về mặt triết học giáo dục, cần xem xét quá
trình giáo dục trong dạy tổng thể, trong sự tác động nhiều chiều và tìm ra cái

huyệt, điểm then chốt trong toàn bộ quá trình và trong từng giai đoạn quan trọng
của quá trình, nhằm tạo ra sự điều khiển có trọng tâm và nhất quán.
A. Dạng tổng quát của quá trình giáo dục
Khi ta theo dõi bất kỳ hoạt động giáo dục nào cũng đều thấy quá trình giáo
dục chỉ có thể xẩy ra khi có sự tham gia của ít nhất là ba yếu tố đó là: người giáo
dục (thầy giáo); người được giáo dục (học trò); và sách giáo khoa (tài liệu dạy
học), những yếu tố này cấu thành bản chất của quá trình giáo dục, nếu thiếu một
trong ba yếu tố này thì quá trình giáo dục không thể xảy ra. Ngoài ra, còn một
yếu tố nữa không thể thiếu là môi trường nơi mà quá trình giáo dục xảy ra.
1. Yếu tố người giáo dục (thầy giáo)


11

Đây là đội ngũ cán bộ giảng dạy - giáo dục của nhà trường với tư cách vừa là
nhà sư phạm, vừa là nhà khoa học và là nhà hoạt động chính trị- xã hội. Hoạt động
giảng dạy - giáo dục của người giáo dục không đơn thuần là người truyền đạt các
kiến thức mà còn là người tổ chức, điều khiển, kiểm tra quá trình nắm kiến thức, kỹ
xảo, kỹ năng và nghiên cứu khoa học của người học. Trong quá trình giáo dục,
người giáo dục luôn tồn tại với tư cách là một nhân tố quan trọng tạo nên hoạt động
giáo dục, không có người giáo dục, thì không thể có hoạt động giáo dục.
Người giáo dục theo nghĩa rộng là nười tạo nên những ảnh hưởng nhất
định, có mục đích đối với người được giáo dục, thúc đẩy người được giáo dục
phát triển cả về thể chất và tinh thần. Người giáo dục theo nghĩa hẹp là người
cắn cứ vào yêu cầu xã hội, lấy việc thúc đẩy sự phát triển về thể chất và tinh
thần của người được giáo dục làm nghề nghiệp của mình. Người giáo dục
theo nghĩa hẹp bao gồm giáo viên và những người làm công tác giáo dục
trong trường học. Trong quá trình giáo dục người giáo dục thường là giáo
viên. Người giáo dục theo nghĩa rộng là bố, mẹ, ông, bà, anh, chị, cán bộ
đoàn, đảng...Trong quá trình giáo dục, người giáo dục có thể xuất hiện với tư

cách cá nhân, cũng có thể là một tập thể.
* Đặc trưng cơ bản của người thầy: Người thầy phải có đủ những đặc
điểm sau đây:
- Tính chủ thể của người giáo dục, trong quá trình giáo dục, người thầy
luôn luôn lấy học sinh làm đối tượng của mình, lấy ảnh hưởng giáo dục từ
hoạt động tự thân của mình làm phương tiện, từ đó thúc đẩy sự phát triển cả
về thể chất và tinh thần, phù hợp với mục đích giáo dục học sinh. Đặc điểm
nổi bật trong hoạt động giáo dục là người thầy có địa vị chủ thể của quá trình
giáo dục. Đây là một đặc điểm quan trọng nhất. Vì người thầy với chức năng
cơ bản nhất, chức năng trội là dạy học. Đó chính là chức năng tổ chức truyền
đạt các kinh nghiệm xã hội - lịch sử, cho người học. Việc thực hiện có hiệu
quả chức năng này là cơ sở quan trọng quyết định đến việc thực hiện các chức
năng khác của người thầy. Song song với chức năng trang bị kiến thức, kỹ
năng, kỹ xảo cho người học thì việc xây dựng và hoàn thiện phẩm chất nhân
cách là đòi hỏi tất yếu của quá trình giáo dục - đào tạo. Đây chính là chức năng


12

giáo dục phẩm chất nhân cách cho người học, là hoạt động hết sức cơ bản và
thiết thực của người thầy, thể hiện thông qua quá trình dạy học, cùng với việc
tổ chức các hoạt động thường xuyên và các mối quan hệ qua lại giữa dạy và
dọc nhằm hình thành ở người học thế giới quan khoa học, niềm tin cộng sản
chủ nghĩa cùng với những phẩm chất khác bảo đảm cho người học phát triển
toàn diện cả phẩm chất và năng lực theo mục tiêu, yêu cầu giáo dục - đào tạo,
đáp ứng với yêu cầu của xã hội. Thông qua việc tổ chức dạy học và giáo dục,
kết hợp với quá trình định hướng dẫn dắt việc tìm tòi, nghiên cứu khoa học,
người thầy giáo còn có vai trò phát triển năng lực trí tuệ và tư duy lý luận, tư
duy nghề nghiệp cho người học, giúp họ có khả năng sáng tạo, linh hoạt trong
quá trình học tập, rèn luyện tại nhà trường cũng như có khả năng thích nghi với

những điều kiện và tình huống khác nhau của thực tiễn cuộc sống.
- Tính mục đích, tính kế hoạch, một trong những nét đặc biệt khác của
người thầy là ở chỗ hoạt động của họ là một hoạt động tự giác, là hoạt động
có mục đích, có kế hoạch. Mục đích cơ bản của người thầy là thúc đẩy toàn
diện sự phát triển cả về thể chất và tinh thần của học sinh. Đây là một trong
những tiêu chí quan trọng nhất để nhận thức và phân biệt người thầy với các chủ
thể khác như cha, mẹ, ông, bà...Việc thiết kế kế hoạch trong hoạt động giảng dạy giáo dục của người thầy có vị trí hết sức quan trọng, nó ảnh hưởng trực tiếp đến
kết quả công tác chuyên môn của người thầy. Do đó, người thầy phải quán triệt tốt
mục đích, mục tiêu của dạy học - giáo dục và thiết kế kế hoạch sát đúng, khoa
học, khả thi và thực hiện các nhiệm vụ theo kế hoạch một cách nghiêm túc nhưng
linh hoạt.
- Tính xã hội, tính xã hội của người thầy thể hiện ở chỗ:
Họ thay mặt xã hội để đề ra các yêu cầu nhất định đối với học sinh. Bất
kỳ xã hội nào, cũng đều có những yêu cầu nhất định cho thế hệ trẻ, để thế hệ
trẻ có thể trưởng thành theo những khuôn mẫu mà xã hội đặt ra; Truyền thụ
văn hóa xã hội một cách có mục đích, có kế hoạch, có tổ chức cho học trò. Đó
là thứ văn hóa xã hội đã được khái quát và sàng lọc ở trình độ khá cao, khá
toàn diện và hoàn chỉnh. Trong quá trình truyền thụ văn hóa xã hội, người
thầy phải biết tuân theo các quy luật thúc đẩy sự phát triển thể chất và tinh


13

thần của học trò nhằm bảo đảm tính hiệu quả của dạy học - giáo dục; Giúp đỡ
và thúc đẩy thế hệ đang lớn lên từ chỗ là con người tự nhiên thành con người
xã hội khiến các em trở thành nhân cách như xã hội đòi hỏi.
- Vị trí của người thầy trong quá trình giáo dục, trong quá trình giáo dục,
người thầy đóng vai trò chủ thể, là người đại diện cho xã hội điều khiển quá trình
giáo dục.
Thừa nhận vai trò chủ đạo của người thầy hoàn toàn không phải là khẳng định

quyền uy tuyệt đối của họ trong quá trình giáo dục, không quan tâm đến quy luật
phát triển thể chất, tinh thần và tính năng động chủ quan của học sinh và các nhân tố
khác. Người thầy phải nhận thức được trình độ sinh lý và tâm lý, quy luật phát triển
thể chất và tinh thần của học sinh, bối cảnh xã hội, đặc điểm của nội dung, phương
pháp và môi trường giáo dục. Chỉ có như vậy, mới có thể tiến hành giáo dục có hiệu
quả, thể hiện tốt hơn nữa địa vị chủ thể của người thầy trong quá trình giáo dục.
Nếu người thầy không có cách gì phát huy tính năng động chủ quan của
mình, không thể phản ứng tương ứng với những khách thể khác nhau, thì sẽ đi
ngược lại các quy luật cơ bản của giáo dục, công tác giáo dục sẽ không đạt
được mục đích dự kiến, người thầy sẽ dần dần mất đi ý nghĩa với tư cách là
chủ thể. Trong thực tiễn giáo dục, tình trạng này luôn luôn xảy ra. Ví dụ: Một
số thầy giáo trong khi dạy học, rất ít quan tâm đến tình hình cụ thể của học
sinh, chỉ dựa vào kinh nghiệm trước đây và yêu cầu của chương trình mà tiến
hành dạy học, từ đó dẫn đến tình trạng việc dạy học xa rời trình độ, khả năng
tiếp thu của học sinh, gây nên ở các em tâm lý chán học. Học sinh chán học
chính là sự phủ định địa vị chủ thể của người thầy trong quá trình giáo dục.
Vai trò chủ thể của người thầy trong quá trình giáo dục, chủ yếu thể hiện
ở: khởi động quá trình giáo dục; điều khiển phương hướng hoạt động, trình tự
thời gian, tốc độ phát triển của quá trình giáo dục; đánh giá kết quả giáo dục.
Việc phát huy vai trò chủ đạo của người thầy phụ thuộc vào những yếu tố như:
Mức độ cố gắng chủ quan của người thầy. Người thầy càng cố gắng thì
càng phát huy được vai trò chủ đạo của mình.


14

Có năng lực người thầy, cụ thể là: Chẩn đoán được nhu cầu, nguyện
vọng, khả năng của học sinh; Tri thức chuyên môn vững vàng và sâu sắc; Có
trình độ văn hoá chung rộng rãi; Có năng lực nắm bắt và xử lý thông tin nhanh
nhạy; Năng lực diễn đạt rõ ràng, ngôn ngữ lưu loát, năng lực kiềm chế bản thân;

Có năng lực tổ chức quản lý: động viên, kích thích học sinh tích cực hoạt động,
xây dựng và phát triển kế hoạch, kiểm tra, đánh giá việc thực hiện kế hoạch...
Phẩm chất đạo đức nghề nghiệp tốt: yêu quí học sinh, hết lòng vì sự
nghiệp giáo dục của nhân dân, nghiêm khắc với bản thân, luôn luôn gương
mẫu trong công việc và đời sống cá nhân.
Có những tri thức khoa học giáo dục hiện đại như: quan niệm về dạy
học, về quan hệ thầy trò trong điều kiện hiện đại, về nhân tài, về các giá trị
giáo dục trong điều kiện toàn cầu hoá...và biết kết hợp và phát huy sức mạnh
các yếu tố nói trên.
2. Người được giáo dục (học sinh)
Trong quá trình giáo dục, người được giáo dục là một yếu tố quan trọng
khác. Không có người được giáo dục, thì không tồn tại hoạt động giáo dục.
Người được giáo dục có thể hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Người
được giáo dục theo nghĩa rộng là người tiếp nhận mọi hình thức giáo dục.
Người được giáo dục theo nghĩa hẹp là người tiếp nhận ảnh hưởng giáo dục
trong nhà trường tức là học sinh.
- Đặc trưng cơ bản của người được giáo dục
+ Tính tiếp nhận giáo dục
Sự phát triển về thể chất và tinh thần của con người, xét về bản chất, chỉ
có thể thực hiện được dưới sự ảnh hưởng của xã hội. Đây là đặc trưng bản
chất của thể chất và tinh thần của con người và sự phát triển của nó.
Xét về hình thái cấu tạo và cơ năng của con người, tính tiếp nhận giáo
dục của con người mang tính khả năng. Tính tiếp nhận giáo dục của con
người là một trong những khác biệt lớn nhất giữa con người và động vật. Con


15

người phát triển thành thục và trở thành người dưới ảnh hưởng của các điều
kiện bên ngoài, điều này nói lên rằng con người có khả năng thay đổi khá lớn.

Xét về tính xã hội của con người, sự tiếp nhận giáo dục của con người có
tính tất nhiên. Con người là tổng hoà của các mối quan hệ xã hội. Khi một người
chỉ có đủ các nền tảng sinh vật để phát triển thành người, thì đó chỉ là con người
dưới trạng thái tự nhiên, tức là con người tự nhiên, chưa trở thành con người
theo nghĩa thực sự, tức là con người xã hội. Từ con người tự nhiên bước sang
con người xã hội, cần phải tiếp nhận sự đào luyện của môi trường xã hội nhất
định, từ đó mới thu được tri thức mà loài người đã tích luỹ lâu dài, kỹ năng, quy
phạm, hành vi của con người hiện hành và năng lực tư duy của loài người...
Bất kỳ em học sinh nào cũng là người và phải có đầy đủ tính tiếp nhận
giáo dục của con người. Chính vì con người có tính tiếp nhận giáo dục, nên
hoạt động giáo dục của loài người mới tồn tại.
+ Tính năng động chủ quan
Con người có ý thức, có vai trò năng động tích cực đối với thế giới
khách quan. Tính năng động chủ quan trong quá trình giáo dục của học sinh
được thể hiện chủ yếu ở chỗ: Tiếp nhận có chọn lọc ảnh hưởng do người thầy
đem lại...Khả năng chọn lựa của các em đối với ảnh hưởng của người thầy có
quan hệ với kinh nghiệm vốn có của họ, với các nhân tố tâm lý, lúc tiếp nhận
giáo dục như: tình cảm, thái độ, trình độ trí lực...
Các em có thể tích cực tự giác huy động sức mạnh các mặt về thể chất,
tinh thần để tiếp nhận ảnh hưởng, từ đó thúc đẩy sự phát triển tự thân nhiều,
nhanh, tốt, toàn diện, làm cho giáo dục phát huy hiệu quả lớn hơn. Các em
tiếp thu ảnh hưởng giáo dục càng tích cực thì hiệu quả giáo dục càng lớn,
thậm chí có lúc còn vượt xa mục tiêu dự kiến của người giáo dục. Ngược lại,
thì hiệu quả giáo dục sẽ rất nhỏ.
Sự phát triển, biến đổi của người được giáo dục có tính quy luật nhất
định. Dù là có tiếp nhận giáo dục hay không, các em luôn luôn biến đổi
không ngừng theo quy luật phát triển của bản thân, sự thay đổi về thể chất,


16


tinh thần của họ. Cho nên, người thầy phải quan tâm sát sao, và hiểu biết đối
tượng giáo dục, nếu không, giáo dục sẽ không đến nơi đến chốn. Thực chất
của giáo dục chính là khơi gợi tiềm năng phát triển của các em, thúc đẩy thể
chất và tinh thần của các em biến đổi, phát triển lành mạnh theo hướng yêu
cầu của xã hội.
Người được giáo dục lấy học tập làm nhiệm vụ chủ yếu - đây là một
trong những đặc điểm quan trọng.
- Vị trí của người được giáo dục. Mối quan hệ thầy - trò trong quá trình giáo
dục.
Vấn đề người giáo dục và người được giáo dục giữ vị trí gì trong quá
trình giáo dục, xưa nay đã có nhiều tranh luận. Một số nhà giáo dục, phái
truyền thống thì nhấn mạnh vị trí trung tâm của thầy giáo. Một số khác, phái
canh tân, lại nhấn mạnh vị trí trung tâm của học sinh (trẻ em).
Một quá trình giáo dục thành công, thường là sự kết hợp hài hoà, khéo
léo giữa hai trường phái đó. Quan điểm của phái truyền thống và phái canh
tân về quá trình giáo dục, đều có những nhân tố hợp lý, đều có chỗ mạnh và
chỗ yếu của mình. Vấn đề là trong quá trình giáo dục, làm thế nào để vận
dụng chỗ mạnh tránh chỗ yếu. Lý luận của phái truyền thống và phái canh tân
đều coi nhẹ một vấn đề cơ bản, tức là vấn đề đối tượng giáo dục có sự khác
biệt. Về thời gian, trình độ nhận thức của trẻ thay đổi theo từng thời kỳ lịch
sử; về không gian, thì năng lực trí tuệ, thể lực và kinh nghiệm của các em
cũng sẽ khác nhau khi lớn lên trong những điều kiện khác nhau. Khi đối
tượng đã khác nhau như vậy thì sử dụng chung một mô hình giáo dục là điều
không hợp lý.
Vì vậy, phải kết hợp hài hoà hai trường phái khoa học trên, trên cơ sở
xem xét đối tượng, trình độ văn minh của xã hội loài người và yêu cầu cụ thể
của xã hội đương thời, thường được cụ thể hoá trong mục đích, mục tiêu giáo
dục. Ngày nay, cùng với sự tiến bộ xã hội, sự tiến bộ ngày một tăng của khoa
học kỹ thuật, bản thân loài người, đặc biệt là bộ não của họ cũng hoàn thiện



17

hơn, quá trình giáo dục cuối cùng sẽ chuyển từ chỗ coi trọng vai trò của thầy
sang coi trọng vai trò của học sinh. Đây là xu thế tất yếu của sự phát triển lịch
sử, nhưng khi vận dụng vào những điều kiện cụ thể, cần phân tích vấn đề cụ
thể.
3. Sách giáo khoa, tài liệu dạy học.
Để quá trình dạy học giáo dục xẩy ra, thầy và trò cần có các phương
tiện. Sách giáo khoa là phương tiện dạy học quan trọng nhất, không có nó thì
không thể tiến hành hoạt động dạy học, giáo dục được. Đó là điều mà nhìn bề
ngoài ai cũng có thể nhận thấy đựơc.
Trước đây, sách giáo khoa chỉ trình bày nội dung dạy học - giáo dục,
nghĩa là chỉ giới thiệu hệ thống tri thức cần truyền thụ cho học sinh.
Ngày nay, sách giáo khoa như là một kịch bản chung trình bày hầu như
toàn bộ hoạt động của người thầy trong quá trình dạy học, giáo dục.
Nghiên cứu sách giáo khoa thầy giáo có thể nắm được:
- Mục đích dạy học, giáo dục (dạy để làm gì ?); Nội dung dạy học, giáo
dục (dạy cái gì?); Phương pháp dạy học, giáo dục (dạy như thế nào?); Phương tiện
dạy học, giáo dục (dạy bằng phương tiện nào?); Hình thức tổ chức dạy, giáo dục
(dạy bằng hình thức nào?); Cách kiểm tra, đánh giá kết quả dạy học, giáo dục...
Tất cả những vấn đề trên là hết sức quan trọng, thu hút tâm trí, nghị lực và
sự sáng tạo của các thầy giáo, các nhà giáo dục, là công việc hàng ngày của họ.
3. Môi trường giáo dục.
- Tục ngữ ta có câu: "Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài", "gần mực thì đen,
gần đèn thì rạng", gần chợ để nợ cho con"... chứng tỏ rằng ông cha ta rất coi
trọng tác dụng của môi trường giáo dục.
Không chú ý đến môi trường khi giải quyết các vấn đề giáo dục thì
nhận thức vấn đề sẽ chung chung, không thấy được sự khác biệt của vấn đề ở

thời điểm này và thời điểm kia, ở địa bàn này và địa bàn khác, do đó... không
thể đưa ra được những biện pháp chính xác để giải quyết vấn đề có hiệu quả.
Môi trường là khoảng không gian bao quanh với các yếu tố và các điều
kiện có ảnh hưởng đến việc giáo dục con người. Có thể chia môi trường giáo


18

dục thành một số loại sau: môi trường tự nhiên, môi trường xã hội, môi trường văn
hoá - đạo đức, môi trường tâm sinh lý học sinh.
Môi trường tự nhiên, thầy và trò là những con người, là một thực thể hữu cơ
trong giới tự nhiên, tất yếu cũng chịu ảnh hưởng của tự nhiên. Thí dụ, thời tiết âm u,
mưa gió liên miên có thể làm cho người giáo dục và người được giáo dục cảm thấy
khó chịu, cũng có thể làm cho cảm xúc của họ yếu đi, độ hưng phấn suy giảm, sức
chú ý phân tán, tất cả những điều đó có thể ảnh hưởng đến hiệu quả giáo dục.
Ảnh hưởng của môi trường tự nhiên đối với quá trình giáo dục còn biểu
hiện ở: Môi trường tự nhiên thông qua ảnh hưởng đối với vật trung gian. Thí
dụ, trong thời tiết lạnh giá, hoạt động giáo dục được tiến hành trong nhà,
nhưng nội dung, phương pháp giáo dục lại thích hợp với việc tiến hành hoạt
động ở ngoài trời, như vậy, nếu cứ cố truyền thụ nội dung đó và lựa chọn
phương pháp giáo dục đó thì tất nhiên sẽ có những hạn chế.
Môi trường xã hội, môi trường xã hội của giáo dục là mạng lưới xã hội
vây quanh giáo dục, cụ thể là gia đình, nhà trường và cơ cấu giáo dục ngoài
nhà trường,... Gia đình ảnh hưởng tới chất lượng phát triển thể chất, tinh thần
của thầy và trò. Trạng thái sức khoẻ của thầy và trò có mối liên quan chặt chẽ
tới di truyền của cha mẹ, trình độ văn hoá của gia đình và lượng dinh dưỡng
được cung cấp. Gia đình với tư cách là tế bào của xã hội chính là nơi con người
tiếp nhận sự xã hội hoá sớm nhất, có ảnh hưởng to lớn đối với tâm lý của con
người. Ảnh hưởng của gia đình có thể chia thành ảnh hưởng của môi trường
vật chất và ảnh hưởng của văn hoá tinh thần. Cả hai mặt này đều có ảnh hưởng

sâu sắc đối với thể chất và tinh thần của người giáo dục và người được giáo
dục.
Ảnh hưởng của giáo dục ngoài nhà trường thể hiện chủ yếu ở hai mặt. Thứ
nhất, cơ cấu giáo dục ngoài nhà trường có thể giúp các em học được những tri
thức, kỹ năng không học được ở lớp học, từ đó bù đắp sự thiếu hụt của giáo dục
nhà trường, thúc đẩy sự phát triển lớn hơn nữa về vật chất, tinh thần của người
được giáo dục. Thứ hai, giáo dục ngoài nhà trường cung cấp cho sự trưởng thành
của thanh thiếu niên một môi trường khác, vừa có thể nâng cao năng lực thích


19

ứng với môi trường bên ngoài của thanh thiếu niên, vừa có thể điều tiết cân bằng
thể chất và tinh thần, từ đó trưởng thành một cách khoẻ mạnh.
Môi trường văn hoá, đạo đức, môi trường văn hoá, đạo đức bao gồm: tư
tưởng, pháp luật, đạo đức, tôn giáo, lối sống, truyền thống, văn học, nghệ
thuật, khoa học... môi trường văn hoá, đạo đức bao trùm lên toàn bộ xã hội và
thấm sâu vào mọi thành viên xã hội nhờ quan hệ với mọi người xung quanh.
Thí dụ, một em bé lớn lên trong cộng đồng dù không đến trường cũng biết
nói, biết thổi cơm, may vá quần áo, kính trên nhường dưới...
Trong điều kiện các phương tiện thông tin đại chúng phát triển như
ngày nay, với những thông tin đa dạng, phong phú và diễn cảm, ảnh hưởng
của văn hoá, đạo đức xã hội đối với thế hệ đang lớn lên càng quan trọng.
Môi trường tâm sinh lý học sinh, môi trường tự nhiên, môi trường xã
hội, môi trường văn hoá - đạo đức là môi trường bên ngoài quá trình giáo dục,
còn môi trường tâm sinh lý của người giáo dục và người được giáo dục thì lại
là môi trường bên trong của chủ thể và khách thể giáo dục, nó ảnh hưởng trực
tiếp cụ thể đến chất lượng giáo dục. Ảnh hưởng của ba môi trường bên ngoài
nói trên đối với giáo dục đều thông qua môi trường sinh lý và môi trường tâm
lý thầy và trò để phản ánh vào quá trình giáo dục. Đương nhiên, ảnh hưởng

này không phải là tuyệt đối.
Sự phát triển tâm sinh lý của con người là một thứ môi trường và điều
kiện nền tảng để thực thi giáo dục. Yêu cầu, nội dung, phương pháp, quy luật
môi trường giáo dục đều phải thích ứng với thực trạng và quy luật của sự phát
triển tâm sinh lý con người ở các độ tuổi khác nhau. Coi nhẹ điểm này, thì
không thể đạt được mục đích giáo dục, thậm chí gây nên hậu quả ngược lại.
Tố chất tâm lý là môi trường nội tại rất quan trọng trong quá trình giáo
dục, nó được xây dựng trên cơ sở của sự phát triển sinh lý của con người, và
là sự phản ánh tập trung điều kiện của các môi trường bên ngoài, và trực tiếp
đối với quan hệ giáo dục. Tố chất tâm lý gồm ba mặt: Một là, tố chất về mặt
nhận thức, bao gồm cảm giác, tri giác, trí nhớ, tư duy, tưởng tượng; hai là, tố
chất về xu hướng, bao gồm nhu cầu, hứng thú, tình cảm, ý chí, tính cách; ba


20

là, tố chất về mặt quan niệm, bao gồm quan niệm giá trị, nhân sinh quan, thế
giới quan.
Môi trường sinh lý và môi trường tâm lý của người giáo dục và người
được giáo dục ảnh hưởng lẫn nhau, thúc đẩy lẫn nhau. Môi trường sinh lý là
nền tảng của môi trường tâm lý, còn môi trường tâm lý lại có thể thúc đẩy sự
phát triển và biến đổi của môi trường sinh lý.
B. Dạng cụ thể của quá trình giáo dục.
Trên đây ta đã nói nhìn bề ngoài ai cũng dễ dàng nhận thấy một quá
trình giáo dục gồm 4 yếu tố là: thầy, trò, sách giáo khoa và môi trường giáo
dục. Đó là dạng tổng quát của quá trình giáo dục.
Nghiên cứu mô hình tổng quát của quá trình giáo dục sẽ cho ta những
tri thức chung về tương tác thầy trò, về quan hệ giữa giáo dục và môi trường,
nhưng ta chưa rõ quá trình giáo dục diễn ra như thế nào. Với những tri thức
đó người thầy giáo chưa thể tiến hành dạy học, giáo dục được. Vì vậy, cần

nghiên cứu mô hình cụ thể của quá trình dạy học, giáo dục. Mô hình này rất
quan trọng, nó gắn bó với nhà giáo dục trong suốt cuộc đời hoạt động của
mình.
Để tiến hành dạy học, giáo dục, người thầy giáo phải đứng trước một số câu hỏi:
Dạy để làm gì? (Mục đích dạy học); Dạy cái gì? (Nội dung dạy học);
Dạy như thế nào? (phương pháp dạy học); Dạy bằng phương tiện gì? (phương
tiện dạy học); Dạy qua những hình thức nào? (lên lớp, tham quan, tự học); Đo
kết quả dạy học như thế nào? Đấy là mặt nội dung của dạy học.
Còn mặt quá trình của dạy học nghĩa là dạy học sẽ diễn ra như thế nào
theo thời gian? Thông thường quá trình dạy học sẽ diễn ra theo các bước:
Đặt vấn đề, kích thích động viên hoạt động nhận thức của học sinh; Tổ
chức cho học sinh nhận thức những nội dung mới: lĩnh hội tri thức, rèn luyện
kỹ năng vận dụng tri thức, kỹ năng để giải quyết những vấn đề thực tiễn, hệ
thống hoá kiến thức...; Kiểm tra, đánh giá kết quả dạy học.
Như vậy, người thầy giáo, học sinh không phải là một cái gì trừu tượng,
chung chung nữa, mà là những con người cụ thể, năng lực và phẩm chất của


21

họ gắn liền với việc nhận thức bản chất quá trình dạy học, giáo dục và thực
hiện có hiệu quả các nhiệm vụ dạy học, giáo dục.
Sau đây ta sẽ tìm hiểu chi tiết hơn các yếu tố và mối liên hệ của mô
hình cụ thể của quá trình giáo dục.
Mục đích, mục tiêu giáo dục: a) Là sự mong muốn, là dự kiến về kết quả đạt
được của một quá trình giáo dục nhất định; b) là mô hình nhân cách định đào tạo
mà quá trình giáo dục phải hướng tới; c) Là yếu tố cơ bản của quá trình giáo dục.
Mục đích nhân cách chung của giáo dục do nhà nước quy định tuỳ theo yêu cầu
phát triển kinh tế xã hội và phát triển bản thân con người trong từng giai đoạn lịch sử.
Nhưng từng trường học, từng khoá học, từng gia đình, từng con người đều

có những mục đích riêng tuỳ theo yêu cầu xã hội và khả năng, nhu cầu nguyện
vọng và điều kiện cụ thể của trường học, khoá học, gia đình và cá nhân người học.
Nội dung dạy học, giáo dục: Để đạt được mục đích dạy học, người thầy
phải truyền lại cho học sinh những kinh nghiệm lịch sử của xã hội loài người.
Những kinh nghiệm này vô cùng phong phú và đa dạng, được khái quát hoá
gọi chung là Văn hoá, được nhân loại bảo tồn và lưu giữ lại để phổ biến cho
thế hệ hiện tại và lưu truyền cho các thế hệ sau.
Kinh nghiệm lịch sử của xã hội loài người vô cùng phong phú, theo
quan điểm giáo dục học có thể phân loại làm bốn loại:
Hệ thống tri thức để nhận thức thế giới; Hệ thống kỹ năng để tái tạo thế
giới; Hệ thống kinh nghiệm hoạt động sáng tạo để phát triển thế giới; Thái độ
để đối nhân, xử thế trong mối quan hệ người - người.
Đó là 4 loại kinh nghiệm xã hội loài người phải truyền lại cho thế hệ
sau. Nội dung dạy học phải chứa đựng 4 loại kinh nghiệm đó.
Tuỳ theo từng đối tượng, từng loại hình đào tạo mà lựa chọn chương
trình và nội dung cho phù hợp với mục đích và yêu cầu đào tạo.
Phương pháp dạy học, giáo dục: Sau khi đã xác định được mục đích và
nội dung, thầy giáo phải lựa chọn phương pháp dạy học, hình thức tổ chức
dạy học thích hợp.
Cuối cùng là phải đánh giá kết quả của học sinh.


22

Vì dạy học giáo dục là sự tương tác giữa thầy và trò để đạt được mục
đích giáo dục, nên tương ứng với hoạt động của thầy, hoạt động của trò cũng
có mục đích, nội dung, phương pháp, phương tiện, hình thức và kết quả.
Tất cả những điều đó có thể mô tả trong sơ đồ sau:
MÔI TRƯỜNG


Dạy

Học




ND

GD

PP

PT

PP

HT

KQ

PT
HT

KQ

Môi trường giáo dục
Quá trình giáo dục được tiến hành trong môi trường xã hội, chịu ảnh
hưởng rất to lớn của môi trường xã hội. Trước hết, nó phải đáp ứng những
nhiệm vụ, những yêu cầu do xã hội đặt ra; nó thực hiện các mục đích, nhiệm

vụ giáo dục trong điều kiện mà xã hội cung cấp cho nó, trong môi trường văn
hoá, đạo đức.... của xã hội.
Ngoài môi trường xã hội (vĩ mô) mà trước hết phải tính đến sự tiến bộ
xã hội, văn hoá truyền thống và sự phát triển khoa học kỹ thuật của đất
nước..., cần chú ý rằng giáo dục chịu ảnh hưởng rất lớn môi trường tự nhiên
và xã hội của địa phương trường đóng (vi mô).
* Các mối quan hệ giữa môi trường và quá trình giáo dục (liên hệ bên ngoài):


23

Có thể kể ra một số mối liên hệ bên ngoài cơ bản nhất:
Mối liên hệ giữa yêu cầu phát triển kinh tế xã hội với mục đích giáo dục.
Mối liên hệ giữa đặc điểm truyền thống văn hoá, đạo đức và môi
trường chính trị - xã hội đối với giáo dục.
Mối liên hệ giữa điều kiện phát triển khoa học - kỹ thuật và giáo dục.
Mối liên hệ giữa các phương tiện thông tin đại chúng, giữa giáo dục gia
đình nhà trường và xã hội...
Đó là những điều mà các nhà giáo dục cần quan tâm đặc biệt.
Để cho dễ hiểu, dễ nhớ cấu trúc quá trình dạy học, giáo dục thường
được đơn giản hoá và mô tả một cách tượng trưng qua mô hình sau đây:

Môi trường tự nhiên và xã
hội


MĐ = mục đích
ND = nội dung

ND


PP = phương pháp
PP

PT
HT

PT = phương tiện
HT = hình thức
KQ = kết quả

KQ

Môi trường tự nhiên và xã
hội
Đây là mô hình rất trừu tượng và rất tổng quát, phản ảnh bản chất của
quá trình dạy học, giáo dục.
Về không gian nó tồn tại trong từng lớp học, từng cấp học, từng trường
học, cả hệ thống giáo dục quốc dân.


24

Về thời gian, nó tồn tại trong từng tiết lên lớp, từng năm học, suốt thời gian học.
C. Các mối quan hệ - các mâu thuẫn của quá trình giáo dục
Trong quá trình giáo dục có những mối liên hệ và những mâu thuẫn nào là cơ bản?
Từ sự nghiên cứu lý luận cũng như trải nghiệm thực tiễn có thể thấy
những mối quan hệ cơ bản sau đây:
- Quan hệ giữa thầy và trò. Dạy học, giáo dục là sự tương tác giữa thầy
và trò để đạt được mục đích giáo dục. Quan hệ quan trọng nhất, đặc trưng

nhất của dạy học, giáo dục là quan hệ thầy trò.
Quan hệ thầy trò thể hiện dưới nhiều dạng như: Quan hệ giáo dục, tình
cảm thầy trò, đây là mối quan hệ rất được nhân dân ta tôn trọng; quan hệ
chính trị: thầy giáo là người đại diện cho xã hội, cho Nhà nước để giáo dục
thế hệ đang lớn lên theo yêu cầu xã hội; quan hệ tâm lý: nẩy sinh khi có sự
giao tiếp giữa người và người, có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả giáo dục.
Trong mối quan hệ thầy trò có một mâu thuẫn thường xuyên và cũng là
mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu của quá trình giáo dục là yêu cầu cao của người
thầy với tư cách là người đại diện cho xã hội đối với nhiệm vụ học tập của
học sinh và khả năng có hạn của bản thân học sinh.
Nếu giải quyết được mâu thuẫn này thì hoàn thành nhiệm vụ dạy học và
đạt được mục đích đặt ra.
Trong mối quan hệ thầy trò có những mặt đối lập, mặt thống nhất và có
tác động thúc đẩy lẫn nhau.
- Quan hệ giữa thầy và quá trình giáo dục. Tuy thầy là người thực hiện
quá trình giáo dục, nhưng quá trình giáo dục có tính khách quan và độc lập
tương đối của nó. Quá trình giáo dục luôn luôn vận động và biến đổi, chương
trình, nội dung, phương pháp, phương tiện luôn luôn thay đổi để thích ứng với
yêu cầu đào tạo ngày càng cao.
Vì vậy, thầy giáo luôn luôn phải học tập, tự bồi dưỡng mình để có thể
tiến hành quá trình dạy học có hiệu quả.


25

Trong tình hình hiện nay ở nước ta, độ vênh giữa khả năng của thầy
giáo và yêu cầu của quá trình giáo dục là khá lớn, đặt ra nhiều vấn đề cấp thiết
trong việc bồi dưỡng đội ngũ giáo viên.
- Quan hệ giữa thầy giáo và môi trường. Môi trường có tác dụng rất
quan trọng đối với giáo dục. Chất lượng giáo dục phụ thuộc rất nhiều vào sự

phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, vào truyền thống văn hoá, phong tục
tập quán của địa phương, gia đình, vào không khí đạo đức chung của nhà
trường, lớp học, bạn bè... Vì vậy, các thầy giáo cần coi trọng và biết sử dụng
tích cực ảnh hưởng của môi trường như các phương tiện thông tin đại chúng,
phối hợp với phụ huynh học sinh, công tác đảng, đoàn, đội... để tiến hành các
hoạt động giáo dục. Mặt khác, cần tìm mọi cách hạn chế các mặt tiêu cực của
môi trường.
- Quan hệ giữa học sinh và quá trình giáo dục. Để học tập có kết quả,
học sinh cũng phải hoạt động theo những quy luật, những quá trình nào đó.
Hàng ngày thầy giáo hướng dẫn họ học tập theo quá trình giáo dục, nghĩa là
họ cũng phải nắm được mục đích, nội dung, phương pháp, phương tiện... giáo
dục. Nhưng thực tế họ không nắm được và cũng không ý thức được cần phải
nắm vững những quy luật, những quá trình đó. Họ cứ làm theo những chỉ dẫn
của thầy, hoàn thành những bài tập mà thầy giáo đặt ra. Điều đó làm cho hoạt
động học tập hết sức bị động, lúng túng.
Hiện nay, chúng ta đang chú ý hướng dẫn phương pháp học tập cho học sinh.
Điều đó là cần thiết, nhưng chưa đủ. Cần hướng dẫn họ nắm toàn bộ quá trình học
tập từ việc xác định mục đích, mục tiêu, xác định nội dung... để họ chủ động trong
việc xây dựng kế hoạch và tổ chức quá trình học tập của mình có hiệu quả.
-Quan hệ giữa học sinh và môi trường. Môi trường có ảnh hưởng rất
lớn tới học sinh, vì con người là sản phẩm của các quan hệ xã hội. Nhưng ảnh
hưởng của môi trường dần dần nên khó thấy. Nếu thoát khỏi ảnh hưởng của
môi ttrường xã hội, con người chỉ mang tính sinh vật chứ không có thuộc tính
xã hội. Thí dụ, nếu một người bị điếc bẩm sinh thì không thể nói được.
Môi trường đang tác động đến quá trình giáo dục được gọi là môi trường
giáo dục. Môi trường này vừa có tầm vĩ mô như khí hậu, sinh hoạt kinh tế, chính


×