Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

tiểu luận cao học tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn thành phồ hà nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.17 KB, 21 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngay từ khi ra đời, DNNN đã giữ vai trò vô cùng quan trọng và không
thể thiếu đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên,
do cơ chế quản lý kế hoạch hóa, tập trung, quan liêu, bao cấp thời kỳ trước đổi
mới mà DNNN không phát huy được vai trò quan trọng của mình. Các biện
pháp đổi mới giai đoạn này chủ yếu tập trung vào việc tháo gỡ những vướng
mắc, rào cản của cơ chế cũ, góp phần cởi trói, và giải phóng một phần năng
lực sản xuất của các DNNN.
Bước sang thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước chủ trương phát triển
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự
quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế nước ta
trong thời kỳ quá độ tất yếu tồn tại ba hình thức sở hữu (sở hữu toàn dân, sở
hữu tập thể, sở hữu tư nhân) và năm thành phần kinh tế (kinh tế nhà nước,
kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài), trong đó thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, cùng
với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế. Và DNNN là
bộ phận đặc biệt quan trọng của thành phần kinh tế nhà nước. DNNN đóng vai
trò như người “anh cả”, đi đầu trong những lĩnh vực cần phải có sự can thiệp
của Nhà nước, những lĩnh vực, những ngành, nghề mà khu vực tư nhân không
thể làm, không làm được hoặc không muốn làm.
Đại hội VI năm 1986 của Đảng đánh dấu bước ngoặt cơ bản trong quá
trình đổi mới kinh tế nói chung và DNNN nói riêng. Đại hội đã chỉ rõ: “Phải
đổi mới cơ chế quản lý, bảo đảm cho các đơn vị kinh tế quốc doanh có quyền
tự chủ, thực sự chuyển sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, lập lại
trật tự, kỷ cương trong hoạt động kinh tế…”.
1


Từ đó đến nay, đã qua nhiều kỳ Đại hội và vấn đề đổi mới doanh nghiệp
nhà nước luôn được đề cập, coi trọng:


Đại hội VII (1991) khẳng định: “Khẩn trương sắp xếp lại và đổi mới
quản lý kinh tế quốc doanh, bảo đảm kinh tế quốc doanh phát triển có hiệu
quả, nắm vững những lĩnh vực và ngành then chốt để phát huy vai trò chủ
đạo trong nền kinh tế …Cho thuê, chuyển hình thức sở hữu hoặc giải thể
các cơ sở thua lỗ kéo dài và không có khả năng vươn lên. Sắp xếp lại các
liên hiệp xí nghiệp, tổng công ty phù hợp với yêu cầu sản xuất kinh doanh
trong cơ chế thị trường”.
Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khoá IX cũng thông
qua Nghị quyết “về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả
DNNN”. Nghị quyết khẳng định: Việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và
nâng cao hiệu quả DNNN là nhiệm vụ cấp bách và cũng là nhiệm vụ chiến
lược, lâu dài với nhiều khó khăn, phức tạp, mới mẻ. Đối với những vấn đề đã
rõ, đã có nghị quyết thì phải khẩn trương, kiên quyết triển khai thực hiện;
những vấn đề chưa đủ rõ thì phải tổ chức thí điểm, vừa làm vừa rút kinh
nghiệm, kịp thời uốn nắn các sai sót, lệch lạc để có bước đi thích hợp, tích cực
nhưng vững chắc.
Hội nghị Trung ương 9 khóa IX (tháng 1 năm 2004) quyết định "Tiếp
tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả khu vực DNNN, trọng
tâm là cổ phần hóa mạnh hơn nữa".
Gần đây, Báo cáo Chính trị tại Đại hội XI của Đảng chỉ rõ: “Đẩy mạnh
đổi mới, sắp xếp và nâng cao hiệu quả kinh doanh của DNNN”.
Theo tinh thần đó của Đảng, thủ đô Hà Nội cũng đã tiến hành quá trình
sắp xếp, đổi mới DNNN trên địa bàn thành phố. Đảng bộ và chính quyền
thành phố đều nhận thức được vai trò quan trọng và thực trạng hoạt động kém
hiệu quả của DNNN của thủ đô, vì thế đã chủ trương sắp xếp, đổi mới
2


DNNN, nhằm làm cho DNNN ngày càng giữ vững vai trò và nâng cao hiệu
quả hoạt động.

Cũng như cả nước nói chung và các tỉnh, thành phố nói riêng, quá trình
sắp xếp, đổi mới DNNN ở thủ đô Hà Nội đã được tiến hành từ hơn 20 năm
nay, và đã đạt được những thành tựu nhất định. Quá trình sắp xếp, đổi mới
DNNN về thực chất là tái cấu trúc hệ thống DNNN nhằm nâng cao hiệu quả
sản xuất kinh doanh của DNNN. Tuy nhiên, quá trình tái cấu trúc này chưa
đạt được như mong muốn, hiệu quả hoạt động của các tập đoàn, các tổng
công ty, các công ty nhà nước chưa thật sự tương xứng với nguồn lực đã
đầu tư cho DNNN.
Điều đó đặt ra yêu cầu phải tái cấu trúc DNNN ở thủ đô Hà Nội theo
quan điểm mới và phù hợp với điều kiện hiện nay về kinh tế - xã hội ở nước
ta. Với đề tái “Tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn thành phồ
Hà Nội hiện nay”, tác giả mong muốn góp phần nhỏ bé vào việc đáp ứng yêu
cầu vừa cơ bản vừa cấp bách nói trên.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về sắp xếp, đổi mới quản lý và
nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN. Có thể kể ra một số công trình
tiêu biểu sau:
ThS. Phạm Văn Chiến, Đề tài nghiên cứu cấp trường: Quá trình đổi
mới doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam, Trường Đại học Kinh tế - Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2010.
Ngô Đức Trung, Hiệu quả kinh doanh của các DNNN tỉnh Quảng Nam,
Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội, 1999.

3


Lê Minh Hiếu, Sắp xếp và nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN ở
tỉnh Đồng Tháp, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị - Hành chính
Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2002.

Ngô Văn Vũ, DNNN trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị - Hành
chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2002.
Nguyễn Thị Hoa Nhài, DNNN của Ninh Bình trong tiến trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị - Hành
chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2003…
Các công trình nghiên cứu trên đã đi sâu vào nghiên cứu lý luận về
DNNN nói chung, thực trạng hoạt động của DNNN, thực trạng quá trình sắp
xếp, đổi mới DNNN ở Việt Nam, cũng như ở một số tỉnh, thành, đồng thời
đưa ra nhiều giải pháp khắc phục hạn chế, yếu kém, nâng cao hiệu quả hoạt
động của doanh nghiệp nhà nước, và các giải pháp đẩy mạnh tiến trình sắp
xếp, đổi mới, tiến trình cổ phần hóa DNNN. Tuy nhiên, chưa có công trình
nào nghiên cứu về tái cấu trúc DNNN trên địa bàn Hà Nội.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích:
Khái quát những vấn đề lý luận về tái cấu trúc DNNN, từ đó khảo sát thực
trạng và đề xuất giải pháp tái cấu trúc DNNN trên địa bàn thành phố Hà Nội.
- Nhiệm vụ:
+ Khái quát những vấn đề lý luận cơ bản về DNNN và tái cấu trúc DNNN.
+ Khảo sát, đánh giá kết quả sắp xếp, đổi mới DNNN ở Hà Nội.
+ Đề xuất quan điểm và giải pháp tái cấu trúc DNNN ở Hà Nội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Tái cấu trúc DNNN trên địa bàn Hà Nội
4


- Phạm vi nghiên cứu:
+ Tất cả các DNNN trên địa bàn thành phố Hà Nội.
+ Thời gian nghiên cứu: từ khi tỉnh Hà Tây hợp nhất vào thành phố Hà

Nội đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận:
Khóa luận lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và các quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam làm cơ sở lý luận, kế thừa những lý luận về kinh tế nhà nước,
DNNN, tái cấu trúc DNNN của các tác giả đi trước…
- Khóa luận sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ bản sau:
+ Phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử.
+ Phương pháp khảo sát
+ Phương pháp tổng hợp, phân tích
+ Phương pháp tổng kết thực tiễn, thống kê, lựa chọn…
6. Đóng góp của khóa luận
- Hệ thống hóa và làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận về tái cấu trúc
DNNN trong tình hình và điều kiện mới.
- Khảo sát, đánh giá kết quả sắp xếp đổi mới DNNN, từ đó đề xuất giải
pháp nhằm tái cấu trúc DNNN có hiệu quả.
7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận
được chia thành 3 chương lớn:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về tái cấu trúc DNNN.
Chương 2: Thực trạng sắp xếp, đổi mới quản lý DNNN ở thành phố Hà Nội.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp tái cấu trúc DNNN ở Hà Nội.

CHƯƠNG I
5


NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TÁI CẤU
TRÚC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC

1.1.Khái niệm doanh nghiệp nhà nước và tái cấu trúc doanh nghiệp
nhà nước
1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp nhà nước và các hình thức tồn tại của
doanh nghiệp nhà nước
Khái niệm doanh nghiệp nhà nước đã được đề cập đến ngay từ khi ra
đời, đến năm 2005, Luật Doanh nghiệp 2005 quy định “DNNN là doanh
nghiệp trong đó Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ”.
Luật Doanh nghiệp cũng quy định các hình thức pháp lý của DNNN
như sau:
- Công ty TNHH một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu, là công
ty TNHH do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ;
- Công ty TNHH hai thành viên trở lên do Nhà nước làm chủ sở hữu, là
công ty TNHH trong đó tất cả các thành viên đều là công ty của Nhà nước, do
Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ;
- Công ty cổ phần nhà nước, là công ty cổ phần mà toàn bộ cổ đông đều
là cổ đông nhà nước, do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ;
- Công ty cổ phần hoặc công ty TNHH hai thành viên trở lên mà cổ
phần hoặc vốn góp của Nhà nước chiếm trên 50% vốn điều lệ.
1.1.2. Khái niệm tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước
Trước hết, tái cấu trúc ( tiếng Anh là Restructurin) là quá trình tổ chức,
sắp xếp lại nhằm tạo ra trạng thái tốt hơn cho một sự vật, hiện tượng để thực
hiện những mục tiêu đề ra.
Từ đó, tái cấu trúc DNNN là quá trình tổ chức, sắp xếp lại và đổi mới
DNNN nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của DNNN.
6


1.2. Kế hoạch tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước ở nước ta
Đã có nhiều cuộc Hội thảo, nhiều bài viết trình bày kế hoạch tái cấu
trúc nền kinh tế nói chung và tái cấu trúc DNNN nói riêng, trong đó còn có sự

không thống nhất về một số nội dung của kế hoạch này. Trong phạm vi đề tài
này, chúng tôi trình bày kế hoạch tái cấu trúc DNNN ở nước ta theo các nội
dung chủ yếu về mục tiêu, quan điểm, yêu cầu, phạm vi, và nội dung thực hiện
tái cấu trúc DNNN.
1.3. Sự cần thiết phải tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước ở nước ta
Tái cấu trúc DNNN ở Việt Nam đã được Đảng và Nhà nước khẳng định
là một trong ba nhiệm vụ trọng tâm cấp bách trong quá trình tái cấu trúc nền
kinh tế nước ta. Sự cần thiết phải tái cấu trúc DNNN ở nước ta được qui định
bởi các yếu tố sau đây:
- Sự đòi hỏi của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
- Giá trị do doanh nghiệp nhà nước tạo ra chưa tương xứng với nguồn
lực Nhà nước đầu tư
- Sắp xếp, đổi mới và tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước là quan điểm
nhất quán và thể hiện quyết tâm cao của Đảng ta.
- Sự chậm trễ của quá trình đổi mới, sắp xếp doanh nghiệp nhà nước.

CHƯƠNG 2

7


THỰC TRẠNG SẮP XẾP, ĐỔI MỚI QUẢN LÝ DOANH
NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. Quá trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước ở Hà Nội
Quán triệt chủ trương của Đảng và Chính phủ về cải cách, đổi mới
DNNN, Thành uỷ và UBND Thành phố Hà Nội đã có kế hoạch thực hiện
ngay từ đầu những năm 90 của thế kỷ trước.
Đến nay, UBND thành phố Hà Nội cũng đã có văn bản gửi các bộ,
ngành liên quan kiến nghị một số giải pháp cụ thể để giai đoạn 2011 - 2015,
công tác sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN trên địa bàn

bảo đảm đúng lộ trình và phát huy hiệu quả.
2.2. Những kết quả đạt được về sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà
nước ở Hà Nội
Trong thời gian qua, thành phố Hà Nội đã tiến hành nhiều biện pháp
thúc đẩy quá trình sắp xếp, đổi mới DNNN để nâng cao hiệu quả hoạt động
của DNNN trên địa bàn. Đến nay, quá trình sắp xếp, đổi mới DNNN ở Hà Nội
đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể.
2.2.1. Giảm số lượng doanh nghiệp nhà nước trong tất các ngành,
lĩnh vực thông qua việc tổ chức và sắp xếp lại
Giai đoạn 2001 - 2010, Hà Nội đã hoàn thành sắp xếp 340 DN và bộ
phận DN. Trong đó, CPH 183 DN, chuyển 56 DN sang hoạt động theo mô
hình Công ty TNHH nhà nước một thành viên, 9 DN sang hoạt động theo mô
hình Cty mẹ - Cty con, sáp nhập 37 DN, giải thể 6 DN…
2.2.2. Xác định ngày càng rõ hơn chức năng, nhiệm vụ và cơ chế
quản lý đối với DNNN kinh doanh và DNNN công ích

8


DNNN hoạt động kinh doanh là DNNN hoạt động chủ yếu nhằm mục
tiêu lợi nhuận.
DNNN hoạt động công ích là DN độc lập hoặc DNNN thành viên hạch
toán độc lập của tổng công ty nhà nước trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quốc
phòng, an ninh hoặc sản xuất sản phẩm, cung ứng, dịch vụ công cộng theo
chính sách của nhà nước, do nhà nước giao kế hoạch hoặc đặt hàng và theo
giá, khung giá hoặc phí do nhà nước quy định, hoạt động chủ yếu không vì
mục đích lợi nhuận.
2.2.3. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là hình thức chủ yếu của
quá trình chuyển đổi hình thức sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước
CPH là một trong những hình thức tái cấu trúc DNNN đã được thực

hiện từ nhiều năm nay và đã đạt được những kết quả nhất định.
Và trên thực tế, những thành tựu về sắp xếp, đổi mới DNNN ở địa bàn
Hà Nội chủ yếu là những kết quả của quá trình CPH DNNN.
2.2.4. Nhiều doanh nghiệp nhà nước sau khi được sắp xếp, chuyển
đổi hoạt động có hiệu quả
Qua khảo sát một số DNNN đã tiến hành sắp xếp lại trên địa bàn thành
phố Hà Nội, kết quả đạt được rất khả quan. Ví dụ như Công ty Điện cơ Thống
Nhất, Công ty cổ phần May 10…
2.3. Những khó khăn, hạn chế về sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp
nhà nước ở Hà Nội
Bên cạnh những thành tựu đạt được, quá trình sắp xếp, đổi mới DNNN
trên địa bàn Hà Nội đã bộc lộ một số khó khăn, hạn chế nhất định sau:
2.3.1. Việc xác định doanh nghiệp nhà nước kinh doanh và doanh
nghiệp nhà nước công ích qua đó xác định cơ chế quản lý đổi với từng loại
doanh nghiệp nhà nước còn thiếu sự chính xác và chưa hợp lý
9


Đối với cả DNNN kinh doanh và DNN công ích, Nhà nước vẫn thực
hiện cơ chế chủ quản, can thiệp quá sâu vào quá trình sản xuất kinh doanh
Cơ chế quản lý về giá, về tài chính, về lao động, về tiền lương,v.v...đối
với DNNN kinh doanh và DNNN công ích hiện nay chưa thật sự rõ ràng và
thiếu minh bạch...
2.3.2. Chưa tạo ra nội lực cho từng doanh nghiệp sau sắp xếp, đổi
mới
Trên thực tế, việc sắp xếp DNNN chủ yếu mới là thu gom đầu mối về
mặt số lượng, cơ cấu và chất lượng doanh nghiệp còn nhiều tồn tại. Bởi đến
nay, sau nhiều năm hoạt động theo mô hình mới, đa số các doanh nghiệp sau
CPH vẫn là những cơ sở sản xuất kinh doanh nhỏ thiếu vốn nghiêm trọng.
Quá trình sắp xếp, đổi mới DNNN trên địa bàn thành phố Hà Nội những

năm qua chưa thực sự tạo ra nội lực cho các doanh nghiệp, những thành tích
đạt được chủ yếu là về mặt số lượng, chất lượng DNNN vẫn còn nhiều hạn
chế, năng lực cạnh tranh của các DN vẫn còn thấp, chưa thật sự tương xứng
với tiềm năng.
2.3.3. Các doanh nghiệp nhà nước sau khi sắp xếp lại chưa hoàn
toàn có quyền tự chủ sản xuất kinh doanh
Các DNNN trên địa bàn thành phố Hà Nội sau khi được sắp xếp lại,
mặc dù đã có những thay đổi và chuyển biến, song trên thực tế, các DN này
chưa hoàn toàn có quyền tự chủ. Chẳng hạn như DNNN sau khi cổ phần hóa
thì Nhà nước sẽ nắm số cổ phần chi phối hay chính là cổ đông lớn nhất, điều
đó có nghĩa là Nhà nước vẫn là người quyết định, cho nên quyền tự chủ, tự
chịu trách nhiệm của các doanh nghiệp trong sản xuất, kinh doanh chưa được
quán triệt, làm ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh, cũng như hiệu quả hoạt
động của các doanh nghiệp.
10


2.3.4. Một số vướng mắc trong việc chuyển đổi sang mô hình công ty
trách nhiệm hựu hạn một thành viên, công ty mẹ - công ty con, công ty cổ
phần
Hiện nay, việc chuyển đổi DNNN sang hoạt động theo mô hìnhcông ty
TNHH một thành viên hay công ty mẹ - công ty con, công ty cổ phần gặp phải
một số vướng mắc về giải quyết vấn đề lợi ích người đứng đầu, “lợi ích
nhóm”, quyền lợi của người lao động, xác định giá trị DN...
2.3.5. Chậm trễ trong việc cho phá sản, tư nhân hóa, sáp nhập, giải
thể,...những doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ kéo dài.
Hiện nay, quá trình giải quyết cho phá sản, tư nhân hóa, sáp nhập, giải
thể...DNNN trên địa bàn Hà Nội vẫn còn nhiều chậm trễ, vướng mắc về thu
hồi nợ, thanh lý tài sản, vấn đề việc làm...
Những khó khăn, hạn chế như đã kể trên xuất phát tư mấy nguyên

nhân sau đây:
Thứ nhất, việc xử lý mối quan hệ giữa chủ sở hữu – đại diện chủ sở hữu
– người điều hành vẫn chưa rõ ràng.
Thứ hai, sự níu kéo của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp.
Thứ ba, sự chậm trễ và lúng túng nhất định của các cấp ủy đảng và
chính quyền trong các giải pháp cải cách, đổi mới DNNN.

CHƯƠNG 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TÁI CẤU TRÚC
DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở HÀ NỘI
11


3.1. Một số quan điểm cơ bản về tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước
3.1.1. Quá trình tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước ở Hà Nội phải
bám sát quan điểm, đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước về tái
cấu trúc doanh nghiệp nhà nước
Tại hội nghị TW 3 Khóa XI, Ban chấp hành TW Đảng đã xác định: Tái
cơ cấu doanh nghiệp nhà nước mà trọng tâm là các tập đoàn, tổng công ty
nhà nước là một trong 3 nhiệm vụ trọng tâm cấp bách trong quá trình tái cấu
trúc tổng thể nền kinh tế nước ta.
Theo tinh thần đó, ngày 6/1/2012, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã
ký ban hành Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị về phương hướng,
nhiệm vụ phát triển Thủ đô Hà Nội giai đoạn 2011-2020. Trong đó, Nghị
quyết có nêu rõ: “Phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình
doanh nghiệp. Trọng tâm là nâng cao vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước,
đổi mới, nâng cao hiệu quả và vai trò nòng cốt của doanh nghiệp nhà nước,
nhất là nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của các tổng công ty nhà nước
trực thuộc thành phố”.
UBND thành phố cũng đã có văn bản gửi các bộ, ngành liên quan kiến

nghị một số giải pháp cụ thể để giai đoạn 2011 - 2015, công tác sắp xếp, đổi
mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN trên địa bàn bảo đảm đúng lộ
trình và phát huy hiệu quả.
3.1.2. Phải phối hợp đồng bộ giữa các giải pháp của Nhà nước và
của doanh nghiệp trong việc tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước
Việc sắp xếp, đổi mới DNNN đã được thực hiện thường xuyên từ nhiều
năm trước đây, chú không phải là đến nay mới được thực hiện. Nhưng ở lần
này là một sự “nhảy về chất” để tạo ra sự đột phá mang tính hệ thống. Như
12


vậy, vấn đề tái cấu trúc không chỉ dừng lại ở việc cơ cấu lại từng thực thể
DNNN mà phải được tiến hành trên cả hệ thống khu vực DNNN.
3.1.3. Tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước phải được tiến hành một
cách kiên quyết với những bước đi vững chắc và phù hợp với đặc điểm của
thành phố Hà Nội
Tái cấu trúc DNNN trên phạm vi cả nước và từng địa phương là một
chủ trương vừa cơ bản vừa cấp bách. Vì thế phải nhanh chóng triển khai thực
hiện. Việc cần bàn là làm gì và làm như thế nào đối với đặc điểm của từng địa
phương, từng ngành, từng lĩnh vực và từng DN cụ thể, chứ không phải bàn là
có làm hay không làm. Mặt khác, tiến hành tái cấu trúc DNNN phải khắc phục
hai trái cực: Một là chần chừ, do dự, ngại làm; hai là làm bằng mọi giá, thiếu
căn cứ, tiền đề vững chắc.
Vì thế, để tái cấu trúc DNNN thành công, cần phải có bước đi thích hợp
và phù hợp với đặc điểm của thành phố Hà Nội
3.2. Giải pháp tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước ở Hà Nội
Trong thời gian tới, để thực hiện thành công đề án tái cấu trúc DNNN
trên địa bàn Hà Nội nhằm đem lại thể trạng tốt hơn cho DNNN cần thực hiện
những giải pháp cơ bản sau:
3.2.1. Làm chuyển biến nhận thức về sự cần thiết phải tái cấu trúc

DNNN ở Hà Nội
Trong quá trình tiến hành tái cấu trúc, chúng ta cần phải quán triệt quan
điểm tái cấu trúc DNNN đến tất cả các cán bộ, công nhân, viên chức và người
lao động để họ nhận thức được tái cấu trúc DNNN là tất yếu khách quan, là do
yêu cầu cấp bách từ thực tiễn phát triển đất nước, để họ nhận thức được rằng
cần phải thực hiện tái cấu trúc như thế nào và tầm quan trọng của nó ra sao.
3.2.2. Phân loại doanh nghiệp nhà nước dựa trên vị trí, vai trò, chức
năng, nhiệm vụ mà từng doanh nghiệp đang đảm nhận
13


Phân định rõ những ngành nào Nhà nước cần nắm 100% vốn, ngành
nào cần nắm cổ phần chi phối, ngành nào không cần. Đẩy mạnh CPH các tập
đoàn, tổng công ty nhà nước. Đối với các DNNN mà Nhà nước cần tiếp tục
quản lý để sử dụng như một đòn bẩy kinh tế thì lựa chọn hình thức công ty cổ
phần, trong đó Nhà nước chỉ nắm giữ cổ phần chi phối. Đây là tiền đề cho
việc thay đổi không chỉ mô hình mà còn cả cung cách quản lý cũng như động
lực cho DN.
3.2.3. Đổi mới cơ chế quản lý của Nhà nước
Thứ nhất, xác định rõ chủ sở hữu và xoá bỏ cơ chế chủ quản của
DNNN.
Thứ hai, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng giữa DNNN và DN tư
nhân.
3.2.4. Đẩy mạnh tiến trình cổ phần hóa DNNN
CPH là một trong những giải pháp tái cấu trúc DNNN đã được thực
hiện từ nhiều năm nay và đã đạt được những kết quả nhất định.Tuy nhiên,
muốn đẩy mạnh CPH DNNN trên địa bàn Hà Nội, trong thời gian tới cần thực
hiện đồng bộ các giải pháp sau:
Thứ nhất, Nhà nước phải đưa ra danh mục ngành nghề nào Nhà nước
nắm giữ trọn vẹn, ngành nghề nào nắm giữ chủ đạo và ngành nghề nào không

cần nắm giữ.
Thứ hai, hoàn thiện việc xác định giá trị DN và xử lý nợ tồn đọng của
DN khi tiến hành CPH.
Thứ ba, đổi mới tổ chức chỉ đạo thực hiện quá trình CPH DNNN.
Thứ tư, tạo đủ khung pháp lý để đẩy mạnh sắp xếp các DNNN không
cần nắm giữ 100% vốn
Thứ năm, lành mạnh hóa hệ thống tài chính doanh nghiệp.
14


Thứ sáu, hoàn thiện đồng bộ các yếu tố thị trường để đẩy mạnh quá
trình CPH DNNN.
Thứ bảy, giải quyết lao động dôi dư sau cổ phần hoá.
3.2.5. Hoàn thiện mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành
viên và mô hình công ty mẹ - công ty con, củng cố các tập đoàn kinh tế,
tổng công ty nhà nước
Hiện nay, việc chuyển đổi DNNN sang mô hình công ty TNHH một
thành viên, mô hình công ty mẹ - công ty con vẫn còn nhiều vướng mắc và
gặp nhiều khó khăn như đã nêu ở phần trước, vì thế, trong thời gian tới, để tái
cấu trúc DNNN thành công, cần phải ngày càng hoàn thiện mô hình công ty
mẹ -công ty con, mô hình công ty TNHH một thành viên một cách năng động,
nghiêm túc, phù hợp với cơ chế thị và thực tiễn của địa phương, củng cố các
tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước.
3.2.6. Đào tạo, đào tạo lại nhằm hình thành đội ngũ cán bộ quản lý
giỏi để quản lý doanh nghiệp nhà nước ở Hà Nội
Cụ thể:
Thứ nhất, xác định nhu cầu về số lượng cán bộ quản lý của các DNNN
trên địa bàn Hà Nội.
Thứ hai, xây dựng chương trình đào tạo, đào tạo lại theo đúng chuyên
môn, đúng nhu cầu đối với mỗi loại DNNN trên địa bàn.

Thứ ba, cung cấp vốn và cải thiện cơ sở vật chất kỹ thuật cho các
chương trình đào tạo cán bộ quản lý DNNN trên địa bàn.
Thứ tư, bố trí, sắp xếp các cán bộ quản lý DNNN đã được đào tạo vào
đúng vị trí, phù hợp với khả năng, và chuyên muôn.

15


KẾT LUẬN
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, DNNN
đóng vai trò đặc biệt quan trọng. DNNN là một bộ phận của thành phần kinh
tế nhà nước, đóng vai trò như “người anh cả” đi đầu trong những lĩnh vực,
những ngành cần phải có sự can thiệp của nhà nước. DNNN vừa thực hiện
nhiệm vụ chính trị, vừa tham gia giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội. Thế
nhưng, trên thực tế, hiệu quả hoạt động của DNNN hiện nay còn thấp, và chưa
tương xứng với những nguồn lực mà nhà nước đã đầu tư vào.
DNNN ở Việt Nam nói chung, ở Hà Nội nói riêng, đang trong quá trình
chuyển đổi để ngày càng hoàn thiện và hoạt động hiệu quả hơn. Quá trình sắp
xếp, đổi mới DNNN được bắt đầu từ hơn 20 năm trước, đến nay, mặc dù đã
đạt được những thành công đáng khích lệ, nhưng nhìn chung quá trình đổi mới
diễn ra còn chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Những điều này đòi hỏi
trong thời gian tới, cần phải đẩy mạnh hơn nữa quá trình tái cấu trúc DNNN,
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN, đặc biệt là DNNN trên địa bàn
thành phố Hà Nội.
Tái cấu trúc DNNN, mà trọng tâm là các tập đoàn, các tổng công ty
nhà nước đã được Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định là một trong ba
trọng tâm tái cấu trúc nền kinh tế mà Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3
Khóa XI đã đề ra.
Tái cấu trúc DNNN ở Việt Nam cũng như DNNN trên địa bàn thành
phố Hà Nội cần giảm số lượng DN, đi đôi với nâng cao hiệu quả hoạt động

sản xuất kinh doanh; tăng cường năng lực cạnh tranh, và chủ động thâm nhập
vào thị trường quốc tế.
Tái cấu trúc DNNN là nhu cầu khách quan, là tất yếu, nó xuất phát từ
thực tiễn của quá trình phát triển kinh tế bền vững ở Việt Nam nói chung, và ở
16


Hà Nội nói riêng, chứ không phải là ý muốn chủ quan của bất kỳ ai. Nếu
chúng ta không tái cấu trúc thì DNNN sẽ vẫn duy trì tình trạng hoạt động yếu
kém, thua lỗ, lãng phí nguồn lực đầu tư của Nhà nước như hiện nay. Điều đó
làm cho DNNN khó thực hiện được những nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội
của đất nước, làm ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình phát triển bền vững của
quốc gia.
DNNN trên địa bàn thành phố Hà Nội cần phải được sắp xếp, đổi mới
hơn nữa, hay chính là cần phải có một cuộc cách mạng cải cách toàn diện để
DNNN khắc phục nhược điểm, phát huy ưu thế, sử dụng hiệu quả các nguồn
lực của Nhà nước, làm cho DNNN ngày càng vững mạnh. Điều đó đòi hỏi
Thành phố phải đẩy mạnh quá trình tái cấu trúc DNNN. Đây chính là nhiệm
vụ quan trọng và cấp thiết trong những năm tiếp theo của quá trình phát triển
kinh tế của thủ đô. Tuy nhiên, tái cấu trúc không thể nóng vội, chủ quan, mà
phải có bước đi thích hợp, đồng thời, phải tái cấu trúc quyết liệt, triệt để và
thích ứng với điều kiện của thành phố Hà Nội.

17


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Tiến Cường (chủ biên), Tập đoàn kinh tế - lý luận và kinh nghiệm
quốc tế ứng dụng vào Việt Nam, NXB Giao thông Vận tải, Hà Nội, 2005.
2. ThS. Phạm Văn Chiến, Đề tài nghiên cứu cấp trường: Quá trình đổi mới

doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam, Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc
gia Hà Nội, Hà Nội, 2010.
3. TS. Nghiêm Xuân Đạt, TS. Nguyễn Minh Phong (đồng chủ biên), Hà Nội
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2002.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI,
NXB Sự Thật, Hà Nội, 1987.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,
NXB Sự Thật, Hà Nội, 1991.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006.
9.Nguyễn Văn Đặng (chủ biên), Tổng công ty nhà nước hướng tới hội nhập
kinh tế quốc tế, NXH Giao thông Vận tải, Hà Nội, 2005.
10. Ngô Thị Thu Hà, Một số yếu tố cản trở quá trình cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước trên địa bàn Hà Nội hiện nay, Khóa luận tốt nghiệp đại học,
Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội 2009.
11. Lê Hồng Hạnh, Cổ phần hóa Doanh nghiệp nhà nước – Những vấn đề lý
luận và thực tiễn, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.
18


12. Nguyễn Lê Quý Hiển, Sự chuyển biến quan hệ sở hữu trong doanh nghiệp
nhà nước cổ phần hóa ở Việt Nam,Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số (403) tháng
12/2011.
13. Lê Minh Hiếu, Sắp xếp và nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN ở tỉnh
Đồng Tháp, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc

gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2002.
14. Đinh Công Hùng, Đánh giá thực trạng DNNN và thực trạng đổi mới,
Thông tin lý luận, Số 12, 1993.
15. Hồ Xuân Hùng, Đổi mới và phát triển DNNN, Báo Quân đội nhân dân,
05/04/2006...
16. Đoàn Kiến Lập, Mối quan hệ giữa chủ sở hữu và chủ thể quản lý kinh
doanh trong doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ
kinh tế, Học việc Chính trị Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2004.
17. Phạm Quang Lực, Chuyển đổi các tổng công ty nhà nước sang hoạt động
theo mô hình công ty mẹ - công ty con, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện
Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2007.
18. Võ Đại Lược, Đổi mới doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam, NXB Khoa
học xã hội chủ nghĩa, Hà Nội, 1997.
19. Đỗ Ngọc Mỹ, Đặng Văn Mỹ, Phát triển các tập đoàn kinh tế Việt Nam
trong bối cảnh toàn cầu hóa: cơ sở lý thuyết và những định hướng thực tiễn,
Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 5 (396) tháng 5/ 2011.
20. PGS, TS. Ngô Quang Minh (chủ biên), Kinh tế nhà nước và quá trình đổi
mới doanh nghiệp nhà nước, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
21. Nguyễn Thị Hoa Nhài, DNNN của Ninh Bình trong tiến trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị - Hành chính
Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2003.
19


22. PGS, PTS. Nguyễn Đình Phan (chủ biên), Thành lập và quản lý các tập
đoàn kinh doanh ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.
23. Nguyễn Tuấn Phong, Phát triển tập đoàn kinh tế của một số nước và bài
học kinh nghiệm với Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số (399) tháng
8/2011.
24. Tô Huy Rứa, Cổ phần hóa DNNN dưới góc nhìn phát triển kinh tế - xã hội

bền vững, Tạp chí cộng sản, Số 5, 2006.
25. Phạm Hoài Thanh, Tiến trình cố phần hóa doanh nghiệp nhà nước còn quá
chậm, Thời báo kinh tế Việt Nam, Số tháng 5/2001.
26. Lê Hữu Thành, Sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước ở nước ta trong
hội nhập kinh tế quốc tế, Luận văn thạc sĩ, Học viện Chính trị - Hành chính
Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2004.
27. Nguyễn Khắc Thân, Nguyễn Thanh Tâm, Nhìn lại quá trình nhận thức về
doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội,
2001.
28. Nguyễn Thị Phương Thùy, Phát triển doanh nghiệp nhà nước ở tỉnh Thái
Nguyên đến năm 2015, Khóa luận tốt nghiệp đại học, Học viện Báo chí và
Tuyên truyền, Hà Nội, 2008.
29. Đỗ Bình Trọng, Hoàn thiện tổ chức quản lý DNNN theo mô hình công ty
mẹ - công ty con, Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội,
Hà Nội, 1995.
30. Ngô Đức Trung, Hiệu quả kinh doanh của các DNNN tỉnh Quảng Nam,
Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội, 1999.
31. Phạm Anh Tuấn, Sức cạnh tranh của các doanh nghiệp được hình thành từ
cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở tỉnh Nghệ An, Luận văn thạc sĩ kinh tế,
Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2008.
20


32.Vũ Huy Từ, Mô hình tập đoàn kinh tế trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
33. Nguyễn Minh Vân, Cổ phần hóa DNNN ở Hà Nội – thực trạng và giải
pháp, Khóa luận tốt nghiệp đại học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà
Nội, 2003.
32. Ngô Văn Vũ, DNNN trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị - Hành chính
Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2002.
33. Website:
34. Website:
35. Website:
36. Website:
37. Website:
38. Website:
39. Website:

21



×