i
MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN......................................................................................
MỤC LỤC CÁC BẢNG BIỂU THỐNG KÊ.........................................v
MỞ ĐẦU....................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài..................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề.....................................................................................3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu....................................................10
4. Đối tượng, phạm vi và nguồn tư liệu của luận án.............................11
5. Phương pháp nghiên cứu...................................................................12
6. Đóng góp mới của luận án................................................................13
7. Cấu trúc của luận án..........................................................................13
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI...........................................................................................................14
1.1. Lí thuyết về hội thoại.....................................................................14
1.1.1. Khái niệm hội thoại.................................................................................14
1.1.2. Vận động hội thoại..................................................................................15
1.1.3. Các dạng thức hội thoại..........................................................................19
1.1.4. Ngôn ngữ hội thoại.................................................................................24
1.2. Tác phẩm văn học, nhân vật văn học.............................................25
1.2.1. Tác phẩm văn học...................................................................................25
1.2.2. Nhân vật văn học....................................................................................26
1.3. Giới thiệu tác giả và tác phẩm Chu Lai..........................................32
1.3.1. Nhà văn Chu Lai.....................................................................................32
1.3.2. Các tác phẩm của Chu Lai......................................................................33
1.3.3. Hệ thống nhân vật trong tiểu thuyết của Chu Lai...................................37
1.4. Ngôn ngữ nhân vật và từ ngữ lời thoại nhân vật trong tác phẩm
của Chu Lai...........................................................................................40
1.5. Tiểu kết...........................................................................................45
ii
Chương 2. ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ NHÂN VẬT TRONG TIỂU
THUYẾT CHU LAI QUA TỪ NGỮ XƯNG HÔ................................46
2.1. Một số vấn đề chung về từ ngữ xưng hô trong tiếng Việt..............46
2.1.1. Khái niệm từ xưng hô trong tiếng Việt...................................................46
2.1.2. Chức năng của từ xưng hô trong tiếng Việt............................................47
2.2. Các loại từ ngữ xưng hô trong ngôn ngữ nhân vật của tiểu thuyết
Chu Lai..................................................................................................48
2.2.1. Từ xưng hô là đại từ................................................................................48
2.2.2. Từ xưng hô có nguồn gốc danh từ thân tộc và các danh từ khác............57
2.3. Từ xưng hô và các kiểu nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai..........75
2.3.1. Mối quan hệ giữa xưng hô và kiểu nhân vật...........................................75
2.3.2. Từ xưng hô của một số kiểu nhân vật trong tác phẩm của Chu Lai
.................................................................................................................77
2.4. Vai trò của từ xưng hô trong việc hình thành đặc trưng ngôn ngữ
nhân vật của tiểu thuyết Chu Lai..........................................................88
2.4.1. Từ xưng hô góp phần bộc lộ đặc điểm, tính cách, hoàn cảnh... của
nhân vật trong tác phẩm.........................................................................88
2.4.2. Vai trò của từ xưng hô trong việc khắc họa đặc điểm ngôn ngữ nhân
vật trong tiểu thuyết Chu Lai..................................................................91
2.5. Tiểu kết...........................................................................................95
Chương 3. ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ NHÂN VẬT TRONG TIỂU
THUYẾT CHU LAI QUA TỪ THÔNG TỤC, QUÁN NGỮ VÀ
THÀNH NGỮ.........................................................................................97
3.1. Từ thông tục...................................................................................97
3.1.1. Khái niệm................................................................................................97
3.1.2. Từ thông tục trong lời thoại nhân vật......................................................98
3.1.3. Vai trò của từ thông tục trong ngôn ngữ nhân vật của tiểu thuyết Chu
Lai.........................................................................................................125
iii
3.1.4. Một vài so sánh bước đầu từ thông tục trong ngôn ngữ nhân vật của
tiểu thuyết Chu Lai với từ thông tục trong ngôn ngữ nhân vật của một
số nhà văn khác.....................................................................................128
3.2. Hệ thống quán ngữ trong ngôn ngữ nhân vật của tiểu thuyết Chu
Lai.......................................................................................................131
3.2.1. Vài nét về quán ngữ..............................................................................131
3.2.2. Vai trò của quán ngữ qua các lời thoại nhân vật trong tiểu thuyết của
Chu Lai..................................................................................................131
3.3. Các loại thành ngữ trong ngôn ngữ nhân vật của tiểu thuyết Chu
Lai.......................................................................................................133
3.3.1. Vài nét về thành ngữ tiếng Việt............................................................133
3.3.2. Vai trò của việc sử dụng các thành ngữ qua lời thoại nhân vật trong
tiểu thuyết Chu Lai................................................................................134
3.4. Tiểu kết.........................................................................................140
KẾT LUẬN...........................................................................................141
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN.....................................................................................144
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................145
TÁC PHẨM TRÍCH DẪN LÀM DẪN CHỨNG...............................157
PHẦN PHỤ LỤC..................................................................................159
iv
MỤC LỤC CÁC BẢNG BIỂU THỐNG KÊ
Trang
Bảng 1.1. Thống kê số lượng nhân vật chia theo giới tính và nghề
nghiệp chức vụ trong 10 cuốn tiểu thuyết của nhà văn
Chu Lai.................................................................................39
Bảng 2.1. Bảng thống kê tần số sử dụng ĐTNX trong lời thoại
nhân vật của tiểu thuyết Chu Lai......................................49
Bảng 2.2. Số lượng và tần số xuất hiện các từ xưng hô có nguồn gốc
từ danh từ thân tộc và các danh từ khác của nhân vật
trong tiểu thuyết Chu Lai...................................................58
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. “Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp trọng yếu nhất của con người” (V.I Lênin).
Giao tiếp bằng ngôn ngữ được chia thành hai phong cách: phong cách nói (phong cách
khẩu ngữ) và phong cách viết (phong cách sách vở). Tác phẩm văn học là sản phẩm giao
tiếp thuộc phong cách viết nhưng có tính tích hợp cả hai phong cách (nói và viết) thành
một dạng giao tiếp đặc thù: giao tiếp nghệ thuật.
Văn học là tấm gương phản ánh đời sống xã hội. Ngôn ngữ trong tác phẩm văn học,
do vậy, thể hiện một cách sinh động hoạt động giao tiếp của con người trong xã hội thông
qua sự sáng tạo của nhà văn. Ở góc độ nghiên cứu, ngôn ngữ học hiện đại đang chuyển
sang một hướng tiếp cận mới là tìm hiểu sự hành chức của ngôn ngữ trong cuộc sống và
cuộc sống trong ngôn ngữ. Vì vậy, việc khảo sát tìm hiểu ngôn ngữ trong tác phẩm văn học
là một cách tiếp cận phù hợp với xu hướng nghiên cứu mới cả về phương diện lí luận
chung (đặc điểm, vai trò, cơ chế hành chức của ngôn ngữ trong giao tiếp nói chung, giao
tiếp nghệ thuật nói riêng) và phương diện cụ thể (đặc điểm, vai trò, các quy tắc hoạt động
của ngôn ngữ trong tác phẩm văn học).
1.2. Các tác phẩm văn học Việt Nam sau 1975 đến nay, trong đó có thể loại tiểu
thuyết, đã góp phần không nhỏ trong việc tạo nên bản sắc, diện mạo riêng cho thời kỳ văn
học sau chiến tranh. Sự đổi mới về đề tài, cách miêu tả hiện thực, quan niệm nghệ thuật về
con người, đặc biệt là phong cách ngôn từ thể hiện rất rõ trong các tác phẩm văn học thời
kì này. Trong số các nhà văn có nhiều tác phẩm thành công, tạo ra phong cách, giọng điệu
riêng, người đầu tiên và tiêu biểu nhất phải kể đến là nhà văn Chu Lai. Các tác phẩm của
nhà văn đã phản ánh được nhiều vấn đề nóng bỏng hiện nay về hiện thực xã hội; các nhân
vật trong tác phẩm của Chu Lai được mô tả là người lính vừa mang cốt cách anh hùng trận
mạc (thời chiến) vừa mang đặc điểm của con người sống trong nhiều áp lực, thử thách của
quãng đời phía sau chiến trận (thời bình). Ngôn ngữ trong tiểu thuyết Chu Lai, đặc biệt là
ngôn ngữ nhân vật, có nhiều đặc thù đáng được quan tâm “có những trang hấp dẫn, người
đọc đã cầm đến sách là phải theo đuổi câu chuyện đến cùng...” [34, tr.9]. “Dấu vết thời đại
đã ảnh hưởng và quy định cách nói năng, đối đáp, nhiều lớp từ mới được hình thành, quan
niệm về lời nói cũng được bổ sung những sắc thái biểu cảm mới. Ngôn ngữ tiểu thuyết gần
với ngôn ngữ đời thường, giàu tính khẩu ngữ. Ngôn ngữ trong các tiểu thuyết biểu hiện sự
2
cá tính hoá mạnh mẽ, tính cách nào, lời lẽ ấy. Cách nói trần trụi dân dã, thẳng thắn, bạo
dạn” [34, tr.16] của các nhân vật là những điểm nổi trội trong tác phẩm của Chu Lai.
Vì vậy, ở phương diện ngôn ngữ, tiểu thuyết Chu Lai có thể gợi mở nhiều vấn đề
mà ngôn ngữ học đang quan tâm, nhất là ở khía cạnh sự hành chức của ngôn ngữ trong
giao tiếp nghệ thuật, như: đặc điểm, vai trò của từ ngữ trong tổ chức lời thoại; sự hành
chức của ngôn từ thể hiện trong ngôn ngữ nhân vật; ngôn ngữ đã thực hiện chức năng phản
ánh và chức năng tổ chức phát ngôn, thể hiện phong cách, giọng điệu tác phẩm và tác giả
như thế nào…
1.3. Nghiên cứu ngôn ngữ trong tác phẩm văn học nói chung, nghiên cứu ngôn ngữ
hội thoại của nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai nói riêng, không chỉ có ý nghĩa về mặt lí
luận (góp phần xác định về phong cách giao tiếp, phong cách ngôn ngữ nghệ thuật, ngôn
ngữ nhân vật, các quy tắc giao tiếp) mà còn có ý nghĩa đóng góp vào thực tiễn (cung cấp
nguồn ngữ liệu để làm rõ sự hành chức của ngôn từ trong giao tiếp nghệ thuật), cũng như
tính ứng dụng thực hành của đề tài (góp phần vào việc giảng dạy tác giả, tác phẩm; phong
cách ngôn ngữ nghệ thuật; diễn ngôn và phân tích diễn ngôn trong nhà trường).
Từ những căn cứ lí luận và thực tiễn trên đây, chúng tôi lựa chọn đề tài luận án:
Đặc điểm ngôn ngữ nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Những hướng nghiên cứu về ngôn ngữ trong giao tiếp và hội thoại
Việc nghiên cứu các vấn đề liên quan đến ngôn ngữ trong hoạt động giao tiếp đã trở
thành một trong những hướng được chú ý của ngôn ngữ học hiện đại. Những kết quả
nghiên cứu ở lĩnh vực này thể hiện rõ trong các công trình của các nhà ngôn ngữ học trên
thế giới, bắt đầu từ luận điểm quan trọng bậc nhất của F.de Saussure trong cuốn Giáo trình
ngôn ngữ học đại cương (1916) và sau đó được các nhà ngôn ngữ học khai thác theo những
hướng khác nhau. Có thể kể đến những hướng nghiên cứu chính, như: nghiên cứu về dụng
học - Pragmatics (J.L. Austin, 1965; Ch.W. Morris, 1966; J.R. Searle, 1969); hướng nghiên
cứu về Ngôn ngữ học xã hội - Socio- Linguistics (Nikolski, 1920; E.d Sapir, O.Jesperson,
1922...); hướng nghiên cứu về Ngôn ngữ học văn bản - Text Linguistics (L.Bloomfield
(1926), E.Benveniste (1960), A.Reformatxky (1967), v.v…
Ở hướng nghiên cứu dụng học, các nhà ngôn ngữ học xác định có 4 vấn đề: sự
chiếu vật và chỉ xuất, nghĩa tường minh và hàm ẩn, các hành động ngôn ngữ và lý thuyết
hội thoại. Trong các vấn đề đó, lí thuyết hội thoại (bàn về lĩnh vực giao tiếp đối thoại) được
3
xem là vấn đề trọng tâm. Theo M. Bakhtin, “Ngôn ngữ chỉ sống trong sự giao tiếp đối
thoại giữa những người sử dụng ngôn ngữ. Sự giao tiếp đối thoại chính là lĩnh vực đích
thực của cuộc sống của ngôn ngữ. Toàn bộ cuộc sống của ngôn ngữ, trong bất kì lĩnh vực
nào sử dụng nó (sinh hoạt, sự vụ, khoa học, nghệ thuật v.v...) đều thấm nhuần những quan
hệ đối thoại...” [2, tr.172). Nghiên cứu ngôn ngữ hội thoại nói chung, ngôn ngữ nhân vật
nói riêng “không thể tách nó ra khỏi lĩnh vực lời nói, tức khỏi ngôn ngữ với tư cách là một
hiện tượng toàn vẹn cụ thể” [2, tr.172].
Tiếp thu và phát triển quan điểm và kết quả của ngôn ngữ học thế giới, các nhà
ngôn ngữ học Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu về lĩnh vực ngữ dụng học, ngôn
ngữ học xã hội, ngôn ngữ học văn bản đề cập đến sự hành chức của ngôn ngữ trong giao
tiếp [thể hiện trong các tài liệu: 6, 20, 23, 47, 54, 70, 93, 105]. Riêng về vấn đề ngôn ngữ
hội thoại, ngôn ngữ nhân vật, các hành động ngôn ngữ, đã có nhiều công trình nghiên cứu
ở các quy mô khác nhau (chuyên luận, giáo trình, luận án, luận văn, bài báo) đề cập đến ở
những mức độ khác nhau (từ những vấn đề lí luận, các nguyên lí, khái niệm đến thống kê,
miêu tả, phân tích các đặc trưng, cách thức hoạt động của các đơn vị trong hoạt động giao
tiếp cụ thể từ tiếng Việt).
Trong các công trình trên, các tác giả đã nêu lí thuyết hội thoại, nhận xét đánh giá
về đặc điểm của hội thoại, các phương diện của hội thoại. Bàn về hội thoại và vai trò của
nó trong nghiên cứu, Đỗ Hữu Châu nhấn mạnh:“Hội thoại là hoạt động giao tiếp căn bản,
thường xuyên, phổ biến của sự hành chức ngôn ngữ. Các hình thức hành chức khác của
ngôn ngữ đều được giải thích dựa vào hoạt động căn bản này... Vấn đề phải nghiên cứu sự
hành chức của những cặp trả lời như cặp hỏi/trả lời theo một quan điểm hội thoại, tức trong
sự đối đáp của các nhân vật giao tiếp trong một hoàn cảnh nhất định ” [20, tr.276, 267].
Nhiều công trình bàn về các lĩnh vực của hội thoại, như: Về ngữ nghĩa của lời (Hoàng Phê,
1981); Phân tích các nhân tố trong hội thoại (Nguyễn Thiện Giáp, 1999), Ngữ nghĩa lời hội
thoại (Đỗ Thị Kim Liên, 1999), v.v... Một số công trình bàn sâu về hội thoại, miêu tả, phân
tích các nhân tố của hội thoại, vai trò chức năng của các lời thoại trong giao tiếp ngôn ngữ
ở các ngữ cảnh. Trong đó có những công trình nghiên cứu chuyên sâu về ngôn ngữ hội
thoại trong các ngữ cảnh giao tiếp. Chẳng hạn, phân tích về vai trò của từ trong hoạt động
giao tiếp (Bùi Minh Toán, 1999); bàn về vai xã hội và ứng xử trong giao tiếp (Nguyễn Như
Ý, 1990); phân tích đặc điểm của khẩu ngữ tiếng Việt và rèn luyện kỹ năng giao tiếp
4
(Nguyễn Chí Hòa, 2009); về từ xưng hô trong gia đình đến ngoài xã hội của người Việt
(Bùi Minh Yến, 2001)...
2.2. Những hướng nghiên cứu ngôn ngữ và ngôn ngữ nhân vật trong tác phẩm văn
học
Cùng với việc nghiên cứu ngôn ngữ trong các bối cảnh giao tiếp, là những công
trình bàn về ngôn ngữ và ngôn ngữ trong giao tiếp nghệ thuật nói chung, trong tác phẩm
văn học nói riêng. Để xác định ngôn ngữ trong tác phẩm văn học, người ta làm rõ mối
quan hệ giữa ngôn ngữ phong cách viết và phong cách nói: “...Ngay trong phong cách nói
cũng có sự phân biệt giữa lời nói được chọn lọc, trau giồi (ví dụ như lời diễn giảng, thuyết
trình, lời phát biểu chính thức có chuẩn bị sẵn...) với lời nói chưa được chọn lọc kĩ và trau
giồi cẩn thận (ví dụ như trong nói năng thân mật thông thường hàng ngày, thậm chí có thể
chấp nhận cả tính chất thông tục trong đó). Loại thứ nhất ở đây nhích gần về phía ngôn ngữ
thuộc phong cách viết hơn, còn loại thứ hai, từ bản chất của nó, được gọi đích danh là khẩu
ngữ - một tên gọi mà tuy không nói ra một cách hiển minh, nhưng ít nhiều bên trong,
người ta có ý phân biệt nó với ngôn ngữ nói, nói chung. Như thế, có thể nhận ra trong từ
vựng ba lớp từ mang đặc điểm của ba phong cách: lớp từ khẩu ngữ, lớp từ ngữ thuộc
phong cách viết, và cuối cùng là lớp từ ngữ trung tính (hoặc còn gọi: trung hoà về phong
cách) có thể dùng trong mọi phong cách khác nhau” [29, tr.23]. Bàn về phong cách ngôn
ngữ trong tác phẩm văn học, các tác giả cho rằng ngôn ngữ trong tác phẩm văn học cũng
có những yếu tố mang phong cách khẩu ngữ theo lối “mô phỏng ngôn ngữ tự nhiên”. Điều
đó được thể hiện trong lời thoại nhân vật: “Lời đối thoại giữa các nhân vật là một thành
phần chủ yếu trong kết cấu lời nói của tác phẩm tự sự. Chức năng chủ yếu của đối thoại
không chỉ mang tính chất miêu tả hay chuyển dẫn, trình bày sự kiện mà còn là bộc lộ tính
cách, tâm lí của nhân vật và quan điểm tư tưởng” [68, tr.194].
Hội thoại là hình thức giao tiếp thường xuyên, phổ biến và liên tục của cuộc sống
hàng ngày. Gần đây, dựa vào lí thuyết hội thoại mà nhiều tác giả đề cập đến nghệ thuật
giao tiếp, như: Giao tiếp bất kì ai của Jo Condrill - Bennie Bough (2001), Ngữ cảnh và
giao tiếp, Phân tích hội thoại của Nguyễn Thiện Giáp (1999)... Sự phát triển này cho thấy
mảnh đất hội thoại ngày càng màu mỡ được nhiều nhà nghiên cứu khám phá. Trong các
văn bản văn học nhất là thể loại tự sự, hội thoại góp phần thể hiện phẩm chất nhân vật, tình
cảm và tư tưởng của nhà văn tác động đến bạn đọc sâu sắc.
5
Nhiều bài viết, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ cũng đã tìm hiểu các phương diện
khác nhau liên quan đến ngôn ngữ nhân vật trong tác phẩm văn học. Chẳng hạn, Ngôn ngữ
tác giả trong truyện Nguyễn Tuân (Đặng Lưu, 2006), Khảo sát ngôn ngữ hội thoại của
nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp (Lê Thị Trang, 2002); Hội thoại trong
truyện ngắn Nam Cao (Mai Thị Hảo Yến, 2006); Lời độc thoại nội tâm nhân vật trong
truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Thị Thu Huệ (Lê Thị Sao
Chi, 2010), v.v...
Qua những công trình đã kể một cách rất khái quát và có tính đại diện trên, phần
nào ta có thể hình dung được vấn đề ngôn ngữ trong giao tiếp, hội thoại, ngôn ngữ tác giả,
ngôn ngữ nhân vật trong tác phẩm... đã được nêu ra và bàn luận về mặt lí thuyết và phân
tích miêu tả về mặt thực tiễn từ nhiều góc độ và thu được nhiều kết quả rất có ý nghĩa, làm
cơ sở cho những hướng nghiên cứu đầy triển vọng về sự hành chức của ngôn ngữ trong
giao tiếp xã hội.
2.3. Những công trình viết về tác phẩm của Chu Lai từ góc độ văn học và ngôn ngữ
học
2.3.1. Nghiên cứu tác phẩm của Chu Lai từ góc độ phê bình văn học
Khi nghiên cứu, đánh giá về tác phẩm Chu Lai, nhìn chung, các nhà nghiên cứu phê
bình khẳng định thành công của Chu Lai là ở đề tài chiến tranh với hình tượng trung tâm là
người lính. Chiến tranh và người lính trong sáng tác của Chu Lai được phản ánh dưới
nhiều góc độ khác nhau chủ yếu bằng cái nhìn sử thi và thế sự. Điều đáng chú ý là cách
xây dựng nhân vật trong sáng tác của Chu Lai được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Bùi
Việt Thắng viết: “Nhân vật Chu Lai được thể hiện như những con người tâm linh. Họ sống
bởi những ám ảnh của ảo giác, hối thúc bởi sự sám hối, luôn tìm kiếm sự giải thoát. Đó là
những con người trở về sau chiến tranh bị mất thăng bằng, khó tìm được sự yên ổn trong
tâm hồn. Họ sống trong cảm giác không bình yên... Chu Lai làm người đọc bất ngờ vì
những khám phá nghệ thuật của mình: Nhân vật Chu Lai thường tự soi tỏ mình, khám phá
mình, khám phá một bản ngã hay là một con người trong con người” [124, tr.104]. Hồng
Diệu nhận xét: “Chu Lai là nhà văn thuỷ chung với đề tài chiến tranh, anh có nhiều tác
phẩm viết về đề tài người lính trên cả ba mặt trận: Văn học - Sân khấu - Điện ảnh” [34,
tr.6]. Trần Quốc Huấn trong Người chiến sĩ viết văn hôm nay - đội ngũ kế tục những nhà
văn chiến sĩ, khẳng định phẩm chất của người lính trong chiến tranh: “Trong truyện Chu
Lai, cái vốn tri thức văn hóa, trí tuệ sáng suốt của người lính trẻ đã thấm nhuyễn một cách
6
tự nhiên vào từng chi tiết nhỏ của truyện, trong từng phán đoán nhạy bén, quả quyết, để
dẫn tới chiến thắng cuối cùng ở nhân vật” [65, tr.33]. Viết về người lính sau hoà bình trong
tiểu thuyết chiến tranh thời kỳ đổi mới, Nguyễn Hương Giang cho rằng: “Sự thật về chiến
tranh hôm nay được nhìn lại là một sự thật đã trải qua những năm tháng day dứt, trăn trở
trong tâm hồn nhà văn Chu Lai, hơn thế, nó thực sự là những nếm trải của người “chịu
trận”, “người trong cuộc” [45, tr.20]. Lý Hoài Thu cũng khẳng định: “Dù trực tiếp viết về
dĩ vãng mịt mù bom đạn hay chuyển dịch sang tiếp cận những “kênh” thông tin mới xô bồ
của thời hiện tại, bao giờ Chu Lai cũng nghiền ngẫm suy tư về hiện thực với sự nhiệt tâm
và lòng trung thực của người lính... Nếu như trước kia, các nhân vật của anh được mô tả
chủ yếu ở cốt cách anh hùng trận mạc thì hiện nay (...) Chu Lai tập trung khai thác quãng
đời thứ hai: quãng đời phía sau chiến trận của người lính” [125, tr.63].
2.3.2. Nghiên cứu tác phẩm của nhà văn Chu Lai từ góc độ thi pháp học và ngôn
ngữ học
Đánh giá về phương diện nghệ thuật của tiểu thuyết Chu Lai, Phan Cự Đệ trong
Tiểu thuyết Việt Nam những năm đầu thời kỳ đổi mới cho rằng, tiểu thuyết Chu Lai
“không chỉ đa dạng trong các phương thức tiếp cận mà cả trong các biện pháp nghệ thuật,
kết hợp độc thoại nội tâm, “dòng ý thức”, nghệ thuật đồng hiện và có những thành công
nhất định” [41, tr.18]. Về tiểu thuyết Vòng tròn bội bạc, Hồng Diệu đánh giá cao nghệ
thuật xây dựng nhân vật, cách tạo tình huống, những xung đột, đặc biệt là cách nhìn khá
mạnh dạn của Chu Lai, “có những trang hấp dẫn, người đọc đã cầm đến sách là phải theo
đuổi câu chuyện đến cùng” [33, tr.9].
Xuân Trường nhận xét về nghệ thuật và ngôn ngữ trong tiểu thuyết Ăn mày dĩ vãng
qua Một vài cảm nhận sau khi đọc “Ăn mày dĩ vãng”, báo Văn nghệ số 26/1993: “Có thể
gọi tác phẩm này đầy chất lính, giọng văn băm bổ, sôi động, các thứ tình cảm, suy tư đều
đẩy đến tận cùng. Cốt truyện có pha chút ly kỳ bí hiểm kiểu kiếm hiệp, đọc rất cuốn hút.
Có những chương, những đoạn anh viết về chiến tranh hết sức sinh động, nếu không là
người trong cuộc, không dựng lại được không khí một địa bàn chiến đấu khá đặc biệt này...
Ăn mày dĩ vãng còn có chỗ chưa hoàn mỹ. Chính cái giọng văn băm bổ sôi động ấy, chính
cái cách đẩy tình cảm, tư duy đến tận cùng ấy tạo ra mặt trái khác bởi tính thái quá. Đấy là
sự cường điệu trong xử lý tình tiết, sự lộng ngôn trong câu văn. Và cũng vì say sưa với cốt
truyện, tác giả đã thiếu chặt chẽ trong lý giải tính cách nhân vật của mình. Từ bỏ quá khứ
với một người đàn bà dũng cảm, trung hậu như Ba Sương, quả thật không phải là điều quá
7
dễ dàng. Dù sao đây cũng là cuốn tiểu thuyết sáng giá về chiến tranh và người lính; với
tầm tư tưởng đúng đắn, trong sáng rất đáng trân trọng, khích lệ” [tr.34].
Chu Bích Thu trong bài viết Những nỗ lực sáng tạo của tiểu thuyết Việt Nam từ sau
đổi mới đề cập đến một khía cạnh của thi pháp và ngôn ngữ trong tiểu thuyết sau 1975 và
trong tiểu thuyết Chu Lai: “Nhiều tiểu thuyết sau những năm đổi mới đến nay đã sử dụng
mô típ giấc mơ, giấc mơ chiêm bao như một ngôn ngữ độc thoại đặc biệt để giải mã thế
giới vô thức của con người. Thủ pháp này thể hiện rõ trong các tiểu thuyết Thân phận của
tình yêu (Bảo Ninh), Ăn mày dĩ vãng (Chu Lai)” [tr.590]. Tác giả đã lưu ý đến một đặc
điểm của ngôn ngữ tiểu thuyết sau năm 1975: “Dấu vết thời đại đã ảnh hưởng và quy định
cách nói năng, đối đáp, nhiều lớp từ mới được hình thành, quan niệm về lời nói cũng được
bổ sung những sắc thái biểu cảm mới. Ngôn ngữ tiểu thuyết gần với ngôn ngữ đời thường,
giàu khẩu ngữ (...). Ngôn ngữ trong các tiểu thuyết biểu hiện sự cá tính hoá mạnh mẽ, tính
cách nào, lời lẽ ấy. Cách nói trần trụi dân dã của người lính (Ăn mày dĩ vãng), cách nói
thẳng thắn bạo dạn của cánh nhà báo (Dấn thân, Một ngày và một đời)” [tr. 588, 589].
Nhiều ý kiến đi sâu vào phân tích riêng từng tác phẩm. Ở Cuộc trao đổi về tiểu
thuyết Ăn mày dĩ vãng in trên báo Văn nghệ số 39/1992 xuất hiện những luồng ý kiến khác
nhau, song chủ yếu vẫn là khen ngợi, đó là: “Chu Lai đã “nhử” được người đọc bởi một cốt
truyện li kì” (Cao Tiến Lê), “Trên từng trang viết lộ rõ tâm huyết của tác giả tuy có khi tư
tưởng mới chỉ dừng lại ở những câu triết lý” (Thiếu Mai). Trong bài viết Cuộc tìm tòi về
tiểu thuyết, tác giả Đỗ Văn Khang đã đề cập đến nghệ thuật xây dựng nhân vật: “Lối chạm
khắc nhân vật trong Ăn mày dĩ vãng cũng có nhiều đóng góp mới. Ngày trước nhân vật
thường mang một ý nghĩa phổ quát, tức là có cái gì đó chung cho cả lớp người..., còn Hai
Hùng của Chu Lai có số phận được miêu tả như một yếu tố cá biệt độc nhất nhưng vẫn
mang tính điển hình. Nhân vật Hai Hùng của Chu Lai tàn tạ về thân xác, nhưng vạm vỡ về
tâm hồn. Hai Hùng có bộ khung “xuống cấp” vì thương tật, vì sự hủy hoại của mọi thứ vớ
vẩn thời hậu chiến, nhưng vẫn nhất quán một bản lĩnh, một kiểu xông pha gần như bạt
mạng vì không chịu chấp nhận một cái gì lập lờ tráo trở” [tr.5].
Tác giả Hồng Diệu trong Vấn đề của tiểu thuyết Vòng tròn bội bạc viết: “Với nghệ
thuật xây dựng nhân vật, cách tạo tình huống, những xung đột, đặc biệt là cách nhìn khá
mạnh dạn, Chu Lai có những trang hấp dẫn, người đọc đã cầm đến sách là phải theo đuổi
câu chuyện đến cùng” [33, tr.41].
8
Từ góc độ nghiên cứu ngôn ngữ học, gần đây, một số luận án tiến sĩ, luận văn thạc
sĩ cũng đã đề cập một số đặc điểm ngôn ngữ tác phẩm, ngôn ngữ nhân vật trong các truyện
ngắn và tiểu thuyết của nhà văn Chu Lai. Chẳng hạn như: Hành động trần thuật qua lời
thoại nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, Chu Lai, Lê Lựu (Cao Xuân Hải,
Luận án Tiến sĩ, 2010), Sự thể hiện người lính thời hậu chiến trong tiểu thuyết của Chu Lai
(Lê Thị Luyến, Luận văn Thạc sĩ, 2006), Đặc điểm ngôn ngữ truyện ngắn Chu Lai
(Nguyễn Thúy Huệ, Luận văn Thạc sĩ, 2007),v.v...
Như vậy, có thể nói các công trình nghiên cứu về tác phẩm của Chu Lai đã được
nhiều tác giả quan tâm và thu được một số kết quả bước đầu nhưng còn nhiều vấn đề cần
được tiếp tục tìm hiểu, nhất là từ góc độ ngôn ngữ học. Các kết quả của người đi trước là
những gợi ý, nguồn ngữ liệu quan trọng giúp chúng tôi đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu đặc
điểm ngôn ngữ nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Đề tài nhằm làm sáng tỏ một số đặc điểm và vai trò nổi bật của ngôn ngữ nhân vật
từ phương diện từ ngữ trong tiểu thuyết Chu Lai.
- Qua những kết quả phân tích và tổng hợp, đề tài nhằm làm rõ đặc điểm ngôn ngữ
nhân vật và phong cách ngôn ngữ của tác phẩm văn học thể hiện trong tiểu thuyết Chu Lai.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được các mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án được xác định là:
- Tổng hợp những vấn đề lý luận chung liên quan đến đề tài, như: lý thuyết hội
thoại, nhân vật và ngôn ngữ nhân vật, vai trò của từ ngữ trong tác phẩm, tác giả và tác
phẩm và các vấn đề liên quan khác.
- Khảo sát, thống kê nguồn ngữ liệu liên quan đến ngôn ngữ hội thoại, các lời thoại
trong tiểu thuyết của Chu Lai.
- Miêu tả, phân tích, nêu vai trò của các lớp từ ngữ tiêu biểu trong việc thể hiện đặc
điểm ngôn ngữ nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai.
- Tổng hợp, rút ra những đặc điểm nổi trội về sự hành chức của các lớp từ ngữ
trong các lời thoại nhân vật và đặc điểm ngôn ngữ nhân vật trong các tác phẩm khảo sát, từ
đó góp phần làm rõ phong cách ngôn ngữ của nhà văn Chu Lai.
4. Đối tượng, phạm vi và nguồn tư liệu của luận án
4.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
9
Đối tượng nghiên cứu của luận án là khảo sát, làm rõ đặc điểm ngôn ngữ nhân vật
trong tiểu thuyết Chu Lai, nhưng ngôn ngữ nhân vật – xét từ quan điểm tiếp cận của ngôn
ngữ học - là một phạm trù rộng, có nhiều phương diện (ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, văn
bản) và được xem xét từ nhiều góc độ (cấu trúc, ngữ nghĩa, phong cách, ngữ dụng). Trong
khuôn khổ của luận án, chúng tôi giới hạn đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài ở
việc tìm hiểu hệ thống từ ngữ thể hiện qua lời thoại nhân vật trong tiểu thuyết của nhà văn
Chu Lai từ góc độ ngữ dụng.
4.2. Nguồn tư liệu khảo sát của luận án
Luận án khảo sát từ ngữ qua lời thoại nhân vật trong tiểu thuyết của Chu Lai, gồm
các tác phẩm:
1. Chu Lai (1979), Nắng đồng bằng, Nxb Quân đội nhân dân, Số trang: 351.
2. Chu Lai (1985), Gió không thổi từ biển, Nxb Phụ nữ, Số trang: 186.
3. Chu Lai (1990), Vòng tròn bội bạc, Nxb Thanh niên, Số trang: 351.
4. Chu Lai (1990), Bãi bờ hoang lạnh, Nxb Phụ nữ, Số trang: 210.
5. Chu Lai (1994), Ăn mày dĩ vãng, Nxb Hội Nhà văn, Số trang: 339.
6. Chu Lai (1999), Phố, Nxb Văn học, Số trang: 339.
7. Chu Lai (2000), Ba lần và một lần, Nxb Quân đội nhân dân, Số trang: 343.
8. Chu Lai (2002), Cuộc đời dài lắm, Nxb Quân đội nhân dân, Số trang: 510.
9. Chu Lai (2002), Sông xa, Nxb Quân đội nhân dân, Số trang: 510.
10. Chu Lai (2002), Chỉ còn một lần, Nxb Quân đội nhân dân, Số trang: 510.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp thống kê - phân loại
Phương pháp này được dùng để thống kê các lời thoại nhân vật; các từ ngữ tiêu
biểu trong ngôn ngữ nhân vật; phân loại các lớp từ ngữ, tính tần số, lượt dùng của từ ngữ...
Phương pháp thống kê – phân loại vừa là cơ sở để xác định đối tượng nghiên cứu (từ ngữ
của ngôn ngữ nhân vật), vừa là cung cấp các số liệu làm minh chứng cho các luận điểm
trong từng chương của luận án.
5.2. Phương pháp phân tích diễn ngôn
Phân tích các ngữ liệu trên các bình diện của diễn ngôn hội thoại; tổng hợp để rút ra
đặc điểm khái quát về từ ngữ trong tác phẩm và vai trò, ảnh hưởng của đặc điểm đó đến hệ
thống chung, từ đó xác định đặc điểm của ngôn ngữ nhân vật trong tác phẩm và phong
cách ngôn từ của tác giả.
10
5.3. Phương pháp miêu tả
Phương pháp miêu tả dùng trong luận án liên quan đến các trường hợp cần làm nổi
bật các đặc điểm nào đó trong luận án (chẳng hạn: các lớp từ ngữ trong lời thoại nhân vật,
hệ thống từ xưng hô, từ thông tục, v.v...). Các kết quả của phương pháp miêu tả trong luận
án là cơ sở để phân tích, tổng hợp, đưa ra các kết luận về đặc điểm ngôn ngữ nhân vật
trong tiểu thuyết của Chu Lai.
6. Đóng góp mới của luận án
Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu về đặc điểm ngôn ngữ nhân vật trong tiểu
thuyết Chu Lai ở bình diện từ ngữ từ góc độ ngữ dụng. Công trình đã vận dụng những kiến
thức cơ bản của ngữ dụng học để khảo sát, phân tích về ngôn ngữ hội thoại, qua đó nhằm
làm rõ sự hành chức của ngôn ngữ trong giao tiếp xã hội nói chung, giao tiếp nghệ thuật
nói riêng; đồng thời góp phần làm rõ đặc điểm của ngôn ngữ nhân vật và phong cách ngôn
ngữ nghệ thuật trong tiểu thuyết của Chu Lai.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung luận án được trình
bày trong ba chương:
Chương 1:
Những vấn đề lý thuyết liên quan đến đề tài
Chương 2:
Đặc điểm ngôn ngữ nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai qua từ ngữ
xưng hô
Chương 3:
Đặc điểm ngôn ngữ nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai qua từ thông
tục, quán ngữ, thành ngữ.
11
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Lí thuyết về hội thoại
1.1.1. Khái niệm hội thoại
Theo quan điểm chung của các nhà nghiên cứu [thể hiện trong các tài liệu:11, 15,
17, 20], thành tựu nổi bật nhất của ngôn ngữ học hiện đại là đã dành sự quan tâm đặc biệt
đến ngôn ngữ trong giao tiếp, sự hành chức của ngôn ngữ trong thực tiễn. Dụng học
(Pragmatics) ra đời theo hướng đó và phát triển mạnh mẽ từ những năm 70 của thế kỷ XX.
Giai đoạn đầu, dụng học chú ý đến ngôn ngữ đơn thoại (lời nói một chiều, các diễn ngôn),
sau đó dụng học chuyển sang hướng quan tâm đến quan hệ hồi đáp (đặt các diễn ngôn vào
chuỗi các chuỗi lời nói trao qua đổi lại). Theo các nhà nghiên cứu, các diễn ngôn có tính
đơn thoại, tức là không có sự tương tác qua lại giữa các lời nói trong đó (như một bài văn
tả cảnh, một bài nghị luận) cũng đều hàm ẩn một cuộc trao đổi, bởi vậy, dụng học thực sự
phải là dụng học hội thoại (Pragmatique dialogique). “Hội thoại là hoạt động giao tiếp căn
bản, thường xuyên, phổ biến của sự hành chức ngôn ngữ. Các hình thức hành chức khác
nhau của ngôn ngữ đều được giải thích dựa vào hoạt động căn bản này” [20; tr.276].
Về khái niệm hội thoại, tác giả Nguyễn Như Ý xác định: “Hội thoại là hoạt động
giao tiếp bằng lời ở dạng nói giữa các nhân vật giao tiếp nhằm trao đổi các nội dung miêu
tả và liên cá nhân theo đích được đặt ra” (152; tr.122). Theo Đỗ Thị Kim Liên: “Hội thoại
là một trong những hoạt động ngôn ngữ thành lời giữa hai hoặc nhiều nhân vật trực tiếp,
trong một ngữ cảnh nhất định mà giữa họ có sự tương tác qua lại về hành vi ngôn ngữ hay
hành vi nhận thức nhằm đi đến một đích nhất định” [86, tr.18]. Trong tác phẩm văn học,
cùng với ngôn ngữ tác giả là sự xuất hiện luân phiên, xen kẽ ngôn ngữ hội thoại của các
nhân vật. Ví dụ:
... Một cái hôn nhẹ vào trán. Tiếng nói ai dịu nhẹ, mơn man:
- Ngủ đi! Ngủ một chút đi anh!... Đã hai ngày hai đêm nay, anh chưa chợp mắt chút
nào rồi. Em sang hầm chị Hai đây. Em sợ vết thương chị nhiễm trùng. Tức cười ghê cơ!
Vết thương của mình không lo, cái sống của mình không lo, lại cứ lo cho tiểu đoàn anh
Tám bên kia sông. Chờ nghen! Em sẽ quay lại ngay...
- Anh Hùng... Em không nghe nữa đâu - Cô gái vội lấy tay bịt tai lại.
... Sương cúi đầu xuống một giây rồi ngẩng lên, nét mặt lạnh cứng:
12
- Dám!
- Đồng chí y tá! - Hùng cũng sắt mặt - Đây là lệnh, đồng chí không được can thiệp
vào. Anh em đâu? Thằng Khiển, thằng Vượng đâu? Cả thằng Tuấn khốn nạn kia nữa, mày
ngồi chết giẫm ở đó à? Mang nó ra hố pháo chôn ngay!
- Không! Sương thét - Không được chôn sống người ta như thế!
- Lôi con người lắm điều này đi! - Hùng chỉ tay ra cửa rừng.
Chát!... Cả khuôn mặt râu ria của Hùng hơi bật ngửa ra sau trước một cái tát quá
bất ngờ” [XIII, tr.79].
Hội thoại hầu như có mặt trong các sáng tác (văn bản văn học) nhưng chúng ta thấy
rằng trong văn bản văn học (truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch...), hội thoại không xuất hiện
độc lập mà nó luôn gắn liền với ngôn ngữ tác giả, làm thành chỉnh thể văn bản – chỉnh thể
tác phẩm văn học.
1.1.2. Vận động hội thoại
Thông thường, cấu trúc của một cuộc thoại gồm: sự trao lời, sự trao đáp và sự
tương tác.
1.1.2.1. Sự trao lời
“Trao lời là vận động của người nói A nói ra và hướng lời nói của mình về phía
người nhận B”. Khi trao lời “có những vận động cơ thể (cử chỉ, điệu bộ, nét mặt) hướng tới
người nhận hoặc tự hướng về mình (gãi đầu, gãi tai, đấm ngực...) bổ sung cho lời người
nói”.
Tình thế trao lời ngầm ẩn rằng, người B tất yếu phải có mặt đi vào trong lời của A.
Vì thế “ngay trước khi B đáp lời thì B đã được đi vào trong lời trao của A và thường xuyên
kiểm tra, điều hành lời nói của A”. Cũng chính vì thế, ở phía người nói - người trao lời nói
có nghĩa là “lấn trước vào người nghe B, phải dự kiến trước phản ứng của người nghe” để
lựa chọn lời thích hợp, làm sao có thể “áp đặt” điều mình muốn nói vào B” [24, tr.41].
Khi trao lời, có các vận động cơ thể (điệu bộ, nét mặt, cử chỉ,...) hướng tới người
nhận hoặc hướng về mình (gãi đầu, gãi tai, đấm ngực...) bổ sung cho lời trao.
Một tiếng khóc tấm tức bật lên:
- Đừng giận... Đừng bỏ em nghe anh! Em chỉ có mình anh. Em... thương anh!
[XIII, tr.82].
Ở ví dụ trên, hình ảnh của nhân vật Ba Sương, mỏng manh, yếu đuối trước Hai
Hùng, ngưòi hùng trận mạc trong tác phẩm Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai. Đặt trong vận
13
động hội thoại, câu trao của Sương hướng tới Hùng bằng các từ “em, anh”. Trong câu trao
đã có sự hiện hữu của người nhận. Sự dịu dàng, yếu đuối của nhân vật Sương được tác giả
thể hiện bằng câu dẫn: “Một tiếng khóc tấm tức bật lên”.
1.1.2.2. Sự trao đáp
Hội thoại chính thức hình thành khi người B đáp lại lượt lời của người nói A. “Phát
ngôn là sản phẩm của các hoạt động ở lời. Tất cả các hoạt động ngôn ngữ đều đòi hỏi một
sự hồi đáp” [93, tr.75]. Khi được thoả mãn bằng một sự hồi đáp thì phát ngôn sẽ trở thành
hội thoại, nghĩa là, hình thành một cặp trao - đáp.
Tiếp theo ví dụ trên, sau những lời tấm tức yêu thương của Ba Sương, Hai Hùng
đáp lại lời của cô để hình thành một cặp trao - đáp.
Hùng quay mặt đi, tiếng nói ngàn ngạt:
- Thế là bao nhiêu công sức đổ vào đó mà phải dừng lại! Người ta sẽ nghĩ gì?
- Không... không sao đâu. Em thay mặt lực lượng địa phương... sẽ cùng chịu trách
nhiệm với anh.
- Sương... [XIII, tr.82].
Khi xuất hiện lời đáp của nhân vật B thì vận động trao - đáp - cái lõi của hội thoại
diễn ra theo nhịp điệu của nội dung hội thoại. Có lúc, sự vận động đó lắng lại theo tiếng
ngập ngừng trong tâm trạng của nhân vật, có lúc lại diễn biến nhanh, dồn dập. Sự thay đổi
trong cặp vai người nói - người nghe cũng biến đổi theo. Đây cũng là yếu tố cho sự phát
triển hội thoại đạt đến đích mong muốn. Trong ví dụ trên, nhân vật Hùng lúc sắp vai người
nói dưới hình thức câu hỏi “Người ta sẽ nghĩ gì?”, lúc lại chuyển thành người nhận lời và
có sự đáp lời: “Sương...”.
1.1.2.3. Sự tương tác
Trong cuộc thoại, các nhân vật giao tiếp, ảnh hưởng lẫn nhau, tác động qua lại với
nhau làm biến đổi lẫn nhau. Trước cuộc thoại, nhân vật có sự khác biệt, đối lập về tính
cách, tâm lý, hiểu biết tình cảm, v.v.. Trong quá trình tham gia vào hội thoại, nhân vật sẽ tự
điều phối những khác biệt này để cùng cộng tác đi đến thoả hiệp hoặc có thể phát triển cao
hơn, mở rộng những khác biệt này làm cho cuộc thoại đi đến xung đột. Đây chính là sự
tương tác trong hội thoại. Theo Đỗ Hữu Châu, sự tương tác được hiểu là: “Các nhân vật
giao tiếp ảnh hưởng lẫn nhau, tác động lẫn nhau đến cách ứng xử của từng người trong quá
trình hội thoại” [24, tr.42].
14
Với văn bản tác phẩm văn học, sự tương tác hội thoại có thể phát triển theo những
chiều hướng khác nhau.
- Tạo điều kiện cho tâm lý nhân vật phát triển, đưa cuộc thoại đạt đến đích:
Có tiếng nổ nhỏ trong đầu, tôi đứng dậy:
- Bữa nay mình là chủ xị phải không?
- Còn bàn cãi gì nữa - Ba Thành nói.
- Vậy dẹp đi! Và bây giờ lên xe trở về nhà thằng Tuấn. Sẽ nhậu tại đó.
- Còn chuyến tàu? - Tuấn hỏi.
- Cũng dẹp luôn! Tao sẽ ở lại với chúng mày để tìm bằng được tên giết người đó
[XIII, tr.339].
Trong ví dụ trên, cái đích của cuộc thoại đã được xác định, chiến tranh với đạn bom
khói lửa, chết chóc đã qua nhưng cuộc chiến trong cuộc sống đời thường giữa ranh giới
thiện - ác thì mới chỉ bắt đầu ở những người lính can trường một thời này.
- Làm cho hội thoại thêm căng thẳng và đi đến xung đột do không hoà phối được
những khác biệt:
- Không! Không đi đâu cả! - Ông Hùng xô cửa bước vào, giọng nói tắc lại.
- Trời... Anh Hai! - Ba Sương lùi người trở lại, hai tay bất giác đưa lên che đỡ lấy
ngực như hôm nào.
- Sương! Em cứ ở đây. Ngày mai tôi sẽ đưa em về - Ông Hùng đứng chắn ngang
cửa, cặp mắt trũng sâu sáng lên - Nếu cái đoàn thanh tra ấy muốn, chính tôi sẽ trả lời, nhân
danh những người chết và những người sống, tôi sẽ trả lời thay em.
Sương càng lùi lại, miệng lắp bắp:
- Không... Không được đâu anh. Đừng anh [XIII, tr.331].
- Hé gợi sự tình của nhân vật với những cảm giác, những day dứt... trong tâm trạng:
Như nhân vật Ba Sương, sau chiến tranh trở về, sự trớ trêu của số phận hay là một
hệ quả đau lòng của chiến tranh đã khiến cô buộc phải phản bội lại chính mình để trở thành
người đàn bà đẹp và uy quyền nhưng cũng nổi tiếng là lạnh lùng, dửng dưng với đàn ông.
Một đám khói màu da cam đột nhiên trôi qua, phủ đầy vào mắt người đàn bà. Sau
một thoáng rùng mình ớn lạnh, bà ta cười, lắc đầu vẻ mệt mỏi:
- Thanh tra Bộ à?... Sao lại có thanh tra Bộ ở đây? Tội nghiệp! Chắc lại một ca hội
chứng chiến tranh đó thôi. Thôi được, không cần biết là ai nhưng đã đến đây thì coi như là
khách. Anh làm ơn đưa ổng về phòng nghỉ và nói rằng, ở đây không có ai tên Sương hết
15
[XIII, tr.25].
1.1.3. Các dạng thức hội thoại
Qua khảo sát và thống kê tiểu thuyết Chu Lai, chúng tôi nhận thấy, ngôn ngữ của
tác giả sử dụng nhiều dạng thức hội thoại như đơn thoại, song thoại, tam thoại, đa thoại,
trong đó, song thoại xuất hiện và chiếm tỉ lệ nhiều nhất. Cụ thể, các dạng hội thoại được
thể hiện:
1.1.3.1. Đơn thoại
Là lời thoại của một nhân vật phát ra hướng đến người nghe nhưng không có lời
đáp trực tiếp. Việc tiếp nhận nội dung lời thoại được phản hồi bằng hành động thể hiện hay
cử chỉ không được tác giả mô tả thành lời.
Dạng đơn thoại biểu hiện rõ nhất ở kiểu lời trần thuật của nhân vật, có nghĩa là, lời
nói của nhân vật có xen kẽ một yếu tố kể của mình, của người.
Thấp thỏm chưa thật tin vào cái nhận xét còn mang màu sắc võ đoán ấy, tôi hạ nòng
bắn thẳng một loạt đạn ria:
- Bà không phải là một cái gì hết. Đúng thế. Bởi vì bà chính là Ba Sương. Y tá Ba
Sương! Xã đội trưởng Ba Sương của ba xã vùng hạ lưu sông Sài Gòn cách đây hai mươi
năm.
Lạnh lẽo, tôi bồi tiếp một loạt nữa:
- Bà có muốn nhận bà là Ba Sương hay không. Tuỳ! Đó là quyền của bà. Nhưng
tôi, tôi lại cần phải biết tại sao... [XIII, tr.234].
Giữa những lời dẫn thoại “bắn thẳng một loạt đạn ria”, “lạnh lẽo, tôi bồi tiếp một
loạt nữa” là “một thoáng xao động vút rất nhanh trong đôi mắt mở to, một chút chuyển
màu trên đôi môi không son phấn, một chút rung giật ở gò má phơn phớt hồng” của người
đàn bà chối bỏ quá khứ - Ba Sương.
Thông thường, dạng đơn thoại là vắng lời đáp, mỗi nhân vật tự đeo đuổi một ý nghĩ
riêng của mình nhưng đều tuân theo một logic. Ở nhân vật Hai Hùng, sự dồn đuổi đến tận
cùng để tìm ra sự thật về người con gái anh yêu đã chết đau đớn trong trận càn của địch mà
anh là người chứng kiến. Còn ở Ba Sương, sự ngây ngất trong vầng hào quang giả dối đã
khiến cô quay lưng với tất cả kỷ niệm xưa. Sự im lặng của Ba Sương trong đoạn thoại trên
có tác động sâu sắc đến nội dung phát ngôn của nhân vật Hai Hùng.
1.1.3.2. Song thoại
16
Đây là dạng thoại chủ yếu và được quan tâm nhiều nhất trong lý thuyết hội thoại.
Theo Nguyễn Đức Dân: “Nếu không có chú thích gì đặc biệt thì thuật ngữ hội thoại được
hiểu là song thoại” [32, tr.77]. Song thoại là lời của người trao hướng đến người nghe và có
sự đối đáp bằng hành vi ngôn ngữ. Chúng tôi gọi là hành vi trao lời và hành vi đáp lời. Ở
dạng thoại này, nhân vật trực tiếp đưa lời nói của mình vào hội thoại, bảo đảm yếu tố lời
trao và lời đáp của nhân vật, bảo đảm nguyên tắc luân phiên lượt lời hội thoại.
Kính râm đen rầm, ria mép đen nhức, bắp tay xoắn bện như xoắn thừng, anh ta tiến
đến, hất mặt hỏi rất hỗn:
- Có gì không mấy anh?
- Không... Không có gì. Đứng hóng mát thôi - Ông trưởng phòng lúng túng trả lời.
- Hóng mát thì mời đi chỗ khác. Chỗ này vừa thi công xong, nóng thấy mẹ, có gì
mà mát. Rảnh việc! [XV, tr.255].
Ở dạng song thoại, có thể không có lời dẫn và từ dẫn mà được biểu hiện bằng dấu
hình thức “gạch ngang đầu dòng”.
- Kìa... Đừng anh! Em sợ...
- Sợ cái gì nữa cơ chứ? Chúng mình chả đã từng gần nhau... cho nhau hết một lần
rồi ư?
- Chính vì thế mà em biết anh không thương em.
- Tầm bậy nào! Không thương mà tối tăm, mưa gió thế này, anh bỏ cả văn phòng
giám đốc, bỏ cả vợ con xuống đây chỉ cốt được gặp em à?... Im! Ngoan nào...Cho anh lần
nữa nhé!
- Kìa! Đừng làm thế! Đứt hết khuy áo bây giờ... đấy, đứt rồi! Bỏ ra đi! Em không
đùa đâu!
- Ai đùa! Em ác lắm!... Em có biết rằng mấy tuần nay... không lúc nào anh không
mơ tưởng về em...Về bộ ngực...về thân thể nóng rực của em. Anh... thèm em.
- Không được! Dơ hết quần áo bây giờ... Kìa, dơ!
- Dơ, anh đền cho một trăm bộ, một ngàn bộ khác... Ôm anh đi! Ôm chặt vào... Ôi!
Ngực em ấm quá... Bộ ngực trinh nữ của em... Cả cặp đùi nữa! Anh chưa từng thấy ai có
cặp đùi tròn và rắn như thế này...
- Ái đau... Cắn đau thế!
- Anh xin lỗi! Tại em đấy. Ai bảo em cứ ngon như một khúc giò. Nào! Mở chân ra
một chút đi! Anh xin...
17
- Không... [XVI, tr.118].
Tuy không có lời dẫn và từ dẫn nhưng người đọc vẫn hình dung được thái độ, tình
cảm, hành động của nhân vật trong cuộc thoại trên. Đây là nhân vật được tạo nên từ cái
nhập nhằng, nhá nhem giữa bóng tối và ánh sáng. Bề ngoài thì lịch sự, hiểu biết nhưng bên
trong lại là một tâm địa vô cùng đen tối, đểu giả ngay cả trong quan hệ tình cảm.
Ở dạng song thoại còn xuất hiện xen độc thoại như là một hình thức để nhân vật
bộc lộ suy nghĩ thầm kín của mình hơn nữa trong dụng ý của tác giả:
- Sinh nhật chị.
- Sinh nhật tôi? - Chị tròn mắt rồi chợt nhớ và phá lên cười, cái cười còn trẻ trung
lắm - Chết thật! Năm nào cũng không nhớ và năm nào cũng được Hoàng tặng hoa, kể từ
ngày còn ở Hà Nội. Cám ơn! - Chị lúng túng nhận bó hoa, không dấu được một chút cảm
động ánh lên trong mắt - Cám ơn nhiều lắm! [XV, tr.336].
Song thoại là dạng thức hội thoại cơ bản của lý thuyết hội thoại và cùng là dạng
thoại xuất hiện chủ yếu trong ngôn ngữ hội thoại tiểu thuyết.
1.1.3.3. Tam thoại
Tam thoại là dạng thoại xuất hiện khi có ba nhân vật giao tiếp cùng một chủ đề, một
không gian và cùng một thời điểm. Ở mọi cuộc trao đổi, giao tiếp trong cuộc sống cũng
như trong văn chương luôn xảy ra hiện tượng có hơn hai nhân vật giao tiếp trở lên. Ở hình
thức giao tiếp này có thể quy về dạng tam thoại. Trong tiểu thuyết Chu Lai, dạng thức hội
thoại này khá nhiều, điều đó cũng thể hiện mối quan hệ đan xen nhiều chiều, phức tạp giữa
các nhân vật tiểu thuyết.
Anh vụt đứng dậy, móc hộp quẹt Zipo Mỹ còn giữ được, quẹt vào giữa mặt kẻ dâm
tặc, giọng rung lên vì giận:
- Bỏ cô ấy ra! Làm thằng đàn ông như vậy là rất nhục!
- Nhục kệ cha tao! - Sau phút quếnh quáng trước quầng sáng lửa, gã lấy lại giọng
hách dịch - Mày là thằng nào? Mày chui ở xó nào ra thế? Định giở trò rình rập hả? Đội
mấy, nói!
Không thèm trả lời, anh quay lại phía cô gái lúc này đang cuống cuồng bận lại
áo xống:
- Cô về đi! Đối với loại đàn ông chó dái này, cô nên hết sức cẩn thận... [XV, tr.119].
Ở đoạn thoại này có ba nhân vật giao tiếp: cô gái, gã, anh. Khi nhân vật gã hướng
câu hỏi liên tiếp đến nhân vật anh nhưng câu trả lời không xuất hiện mà câu trao lại hướng
đến nhân vật thứ ba là cô gái.
18
Cả trường hợp hai lời trao cùng hướng đến vai nhận, dẫn đến thoại căng thẳng theo
tình tiết truyện.
- Nổ đi! Mày có thể nâng súng lên mà nổ được rồi đấy - Năm Thành gượng đứng
dậy, mặt chuyển màu tái nhợt - Tao biết trước...
Câu nói ấy đánh thốc vào mặt Sáu Nguyện như một cành trà gai. Khẩu súng anh
vừa đưa lên lại hạ thấp dần xuống. Cùng lúc đó, Tư Chao từ trong phòng chạy ào ra, gần
như quỳ xuống chân anh, giọng nghẹn tắc:
- Đừng... Đừng bắn! Không phải...- Nói đến đây, giọng chị ta nấc lên, nước mắt
trào ra - Em chỉ thương nó... Nó đã biết gì đâu...
- Nó nào? - Sáu Nguyện gạt mạnh cánh tay mảnh dẻ đang cố bám lấy mình - Nó là
ai?
- Con em... [XV, tr.71].
1.1.3.4. Đa thoại
Đa thoại là lời của nhiều nhân vật đan xen vào nhau trong một ngữ cảnh hội thoại
cụ thể; chúng tôi gọi đây là lời của đám đông (nhân vật). Sử dụng dạng thức đa thoại là sự
sắp đặt đầy dụng ý của tác giả.
Tiếng cười âm u, tiếng thở dài nhớt nhát, tiếng nói lạnh lẽo úp chụp, đậu lên vai,
luồn vào tóc, chui cả vào ngực nhồn nhột, không mùi không vị: “Thủ trưởng ôi! Thủ
trưởng đi đâu đấy? Có nhận ra chúng tôi không? Có nhớ chúng tôi không...” Tôi càng đi
nhanh. Cái bóng của Viên vượt lên, hơi thở ram ráp liếm vào tai tôi: “Anh quên em rồi sao
anh Hai?...”. Bóng Viên biến mất, cái bóng của Bảo thay thế, cũng hơi thở ram ráp: “Sao
lại chôn vội thế thủ trưởng ơi!..”. Cái bóng của Khiên xồ tới, tanh nồng và rách rưới: “Anh
khỏi áy náy... [XIII, tr.156].
Hay đoạn thoại trong một buổi sáng đình công ở nhà máy:
- Thế cánh chủ thợ họ trả lời thế nào mấy anh? - Sáu Nguyện hỏi.
- Trả lời cái mẹ gì! - Một người quật con bài đánh chát xuống mặt bàn - Tất nhiên
là đổ cho con nhỏ...
- Thật tội cho cô ấy - Người khác chêm vào với giọng từ tốn hơn - Mẹ thì già, bố
lâm trọng bệnh...
- Giúp!- Người nữ lại dằn giọng - Giúp thì dễ quá...? [XV, tr.236, 237].
Dạng thức đa thoại trong lý thuyết hội thoại đã xác định số lượng nhân
vật tham gia vào hội thoại: đám đông nhân vật, mà ở đó nhân vật được miêu
19
tả rõ nét nó nằm trong hệ thống nào, chỉ biết rằng nó xuất hiện cùng với lượt
lời để có thể nhận ra có nhân vật ấy trong đám đông ấy. Trong tiểu thuyết Chu
Lai, hình thức đa thoại không được sử dụng nhiều.
Tóm lại, trên cơ sở trình bày những vấn đề chung về hội thoại, có thể
dẫn ý kiến của Đỗ Hữu Châu làm định nghĩa khái niệm này:“Hội thoại là hoạt
động giao tiếp căn bản, thường xuyên, phổ biến của sự hành chức ngôn ngữ.
Các hình thức hành chức khác của ngôn ngữ đều được giải thích dựa vào hoạt
động căn bản này... Vấn đề phải nghiên cứu sự hành chức của những cặp trả
lời như cặp hỏi/trả lời theo một quan điểm hội thoại, tức trong sự đối đáp của
các nhân vật giao tiếp trong một hoàn cảnh nhất định ” [20, tr.276, 267].
1.1.4. Ngôn ngữ hội thoại
Việc nghiên cứu hội thoại tất yếu liên quan đến việc làm rõ ngôn ngữ hội thoại.
Ngôn ngữ hội thoại là một trong những vấn đề đã được đặt ra trong ngôn ngữ học nói
chung, ngữ dụng học và ngôn ngữ học văn bản nói riêng của ngôn ngữ học hiện đại. Đã có
nhiều công trình nghiên cứu ở nước ngoài về lĩnh vực này, như: O. M. Moskalskaija, I.
R.Galperin, J. Lyon (dẫn theo Phan Mậu Cảnh, 2008)... Ở trong nước, giới Việt ngữ học
khi nói đến lĩnh vực văn bản và ngữ dụng học cũng có những cuốn tiểu thuyết đạt giải
nhiều tác giả đề cập đến vấn đề hội thoại như Đỗ Hữu Châu (2003), Diệp Quang Ban
(1998), Trần Ngọc Thêm (2005), Đỗ Thị Kim Liên (2005)...
Qua các nghiên cứu, có thể thấy, ngôn ngữ hội thoại là loại ngôn ngữ thuộc phong
cách hội thoại, tức là “Việc tổ chức, xây dựng lời nói dưới dạng hội thoại” [52; tr.219]. Hội
thoại có thể thể hiện trong giao tiếp hàng ngày (thuộc phong cách khẩu ngữ) hay xuất hiện
trong tác phẩm văn học (thuộc phong cách nghệ thuật), tức là đều dưới dạng lời nói (có sự
trao đáp bằng lời qua lại giữa các nhân vật giao tiếp). Ngôn ngữ hội thoại “là hình thái nói,
nhưng có cách nói tuỳ tiện (gọi là khẩu ngữ); có cách nói trau dồi, trong cách nói trau dồi
này, có cách nói thông thường, văn nghệ hoặc khoa học. Ở hình thái viết cũng vậy, có cách
viết hệt như khẩu ngữ, có cách viết thông thường, văn nghệ hoặc khoa học. Đó là các dạng
khác nhau trong việc vận dụng các phương tiện của ngôn ngữ toàn dân, gọi là các phong
cách” [52; tr.215].
Theo các nhà nghiên cứu, ngôn ngữ trong tác phẩm văn học (văn xuôi tự sự) có
hình thức tổ chức theo lối mô phỏng ngôn ngữ tự nhiên thể hiện trong cách sử dụng từ ngữ,
20
các kiểu câu, các yếu tố ngữ âm... Đó là điều mà Hegel gọi là cái nôm na của tác phẩm tự
sự [68; tr.175]. Điều này đúng với ngôn ngữ nhân vật thể hiện qua lời thoại nhân vật. Lời
đối thoại giữa các nhân vật là một thành phần chủ yếu trong kết cấu lời nói của tác phẩm tự
sự, vừa thể hiện tư tưởng của nhân vật, của tác phẩm vừa là “khúc xạ những ý chỉ của tác
giả và do đó, đến một mức độ nhất định, có thể được coi là ngôn ngữ thứ hai của tác giả”
[68; tr.195]...
Tóm lại, khái niệm hội thoại, những vấn đề liên quan đến hội thoại theo quan điểm
và kết quả nghiên cứu của các công trình đi trước là cơ sở để chúng tôi tìm hiểu, làm rõ đặc
điểm ngôn ngữ nhân vật trong các chương tiếp theo của luận án.
1.2. Tác phẩm văn học, nhân vật văn học
1.2.1. Tác phẩm văn học
Tác phẩm văn học là một loại văn bản thuộc phong cách nghệ thuật; là công trình
nghệ thuật ngôn từ do một cá nhân hay tập thể sáng tác nhằm phản ánh cuộc sống bằng
hình tượng thông qua các thủ pháp nghệ thuật. Tác phẩm văn học có thể tồn tại dưới hình
thức truyền miệng hay hình thức văn bản được ghi lại bằng văn tự, có thể được viết bằng
văn vần hoặc văn xuôi. Các tác phẩm có dung lượng rất khác nhau và có thể chia thành ba
loại hình cơ bản: tác phẩm tự sự, tác phẩm trữ tình, tác phẩm kịch.
Mỗi tác phẩm văn học là một hệ thống phức tạp bao gồm nhiều yếu tố như chủ đề,
tư tưởng, kết cấu, ngôn ngữ, hình tượng, v.v.. Ở những tác phẩm có giá trị, sự kết hợp hài
hoà và tác động qua lại giữa các yếu tố ấy khiến tác phẩm trở thành một chỉnh thể nghệ
thuật mang tính thống nhất hữu cơ, biện chứng giữa nội dung thẩm mỹ và hình thức nghệ
thuật. Tính phức tạp của tác phẩm văn học không chỉ biểu hiện qua cấu trúc nội tại của bản
thân nó mà còn biểu hiện qua hàng loạt quan hệ khác. Với chủ thể sáng tạo, tác phẩm là
nơi ký thác, nơi khẳng định quan điểm nhân sinh, lý tưởng thẩm mỹ. Với hiện thực khách
quan, tác phẩm là hình ảnh phản ánh đời sống, là tấm gương ghi giữ diện mạo lịch sử của
một giai đoạn, một thời kỳ một đi không trở lại và dự báo tương lai. Với người đọc, tác
phẩm là đối tượng tích cực của cảm thụ thẩm mỹ. Cố nhiên, trong thực tế, những quan hệ
ấy xuyên thấm, tổng hoà với nhau một cách biện chứng và sinh động.
1.2.2. Nhân vật văn học
Nhân vật văn học là yếu tố cơ bản nhất, là hạt nhân trung tâm của mỗi
tác phẩm văn học. Nhân vật là sự thể hiện quan niệm nghệ thuật của nhà văn.
Nhân vật văn học là thuật ngữ chỉ hình tượng nghệ thuật về con người, một
21
dấu hiệu về sự tồn tại toàn vẹn của con người. Bên cạnh con người, nhân vật
còn là các con vật, các loài cây, các sinh thể hoang đường được gán cho
những đặc điểm giống với con người. Nhân vật là phương thức nghệ thuật
nhằm khai thác những nét thuộc tính con người, nhân vật có ý nghĩa trước hết
ở các loại văn học tự sự, sân khấu, điện ảnh.
1.2.2.1. Kiểu loại nhân vật
Nhân vật trong văn học là một hiện tượng đa dạng về mặt kiểu loại.
Các nhà nghiên cứu (như: Phan Cự Đệ (2001), Đỗ Văn Khang (1996), Bùi
Việt Thắng (1994) và nhiều tác giả khác) đã phân chia nhân vật văn học thành
nhiều kiểu loại khác nhau: Nhân vật trong văn học dân gian khác nhân vật
trong văn học viết. Nhân vật thần thoại khác nhân vật truyền thuyết và cổ tích.
Xét về phương pháp sáng tác, nhân vật cổ điển khác nhân vật lãng mạn và
nhân vật hiện thực. Xét về thể loại, nhân vật tự sự khác nhân vật kịch và nhân
vật trữ tình. Xét về kết cấu, nhân vật chính khác nhân vật phụ, nhân vật trung
tâm. Xét về ý thức hệ, nhân vật chính diện khác nhân vật phản diện. Xét về
cấu trúc hình tượng, nhân vật chức năng, nhân vật loại hình, nhân vật tính
cách, nhân vật tư tưởng đều có những đặc trưng khác biệt nhau. Dưới đây là
một số kiểu loại cơ bản được phân biệt ở ba khía cạnh: kết cấu, ý thức hệ và
cấu trúc liên quan trực tiếp đến việc phân tích lời thoại nhân vật trong luận án.
- Xét về mặt cấu trúc: Dựa vào vị trí đối với nội dung cụ thể, với cốt
truyện của tác phẩm, nhân vật văn học được chia thành nhân vật chính và
nhân vật phụ, nhân vật trung tâm.
Nhân vật chính là nhân vật đóng vai trò chủ chốt giữ vị trí then chốt
trong việc triển khai diễn biến của sự kiện. Nhân vật chính thường tham gia
xuyên suốt, xuất hiện nhiều lần trong tác phẩm. Đó cũng là nhân vật được tác
giả dày công miêu tả, khắc họa, được hiện lên rõ nét, gây ấn tượng sâu đậm
với người đọc. Nhưng chủ yếu nhất, nhân vật chính vẫn là nhân vật có vai trò