Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

TIỂU LUẬN PHÊ PHÁN TRIẾT học đức TRONG tác PHẨM “hệ tư TƯỞNG đức” của c mác và PH ĂNG GHEN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.98 KB, 16 trang )

1

PHÊ PHÁN TRIẾT HỌC ĐỨC TRONG TÁC PHẨM “HỆ TƯ TƯỞNG
ĐỨC” CỦA C. MÁC VÀ PH. ĂNG-GHEN
1. Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm
Tác phẩm Hệ tư tưởng Đức được soạn thảo khoảng năm 1845-1846
nhằm nêu bật lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học giải phóng giai cấp vô sản,
thế giới quan triết học của chủ nghĩa Mác như sự đối lập với các hệ tư tưởng
tư sản và tiểu tư sản ở Đức lúc bấy giờ. Phê phán việc kế thừa những yếu tố
không phù hợp của triết học Hê-ghen và Phoi-ơ-bắc để phục vụ lợi ích của
giai cấp tư sản và tiểu tư sản ở Đức như “thánh Brunô, thánh Ma-xơ”.
Đầu của thế kỷ XIX, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển
rất mạnh mẽ, và đã bộc lộ những mâu thuẫn sâu sắc, mâu thuẫn giữa giai cấp
vô sản và giai cấp tư sản ngày càng gay gắt và quyết liệt. Mặt khác phong trào
đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển mạnh mẽ như: Cách mạng tư sản
ở các nước Châu Âu đã nổ ra ngay từ những năm cuối của thế kỷ XIIX (cách
mạng tư sản Anh; cách mạng tư sản Pháp). Trong quá trình vận động của
mình, cách mạng tư sản đã bộc lộ rất nhiều điểm yếu. Trong khi đó, nước Đức
những năm 40 của thế kỷ XIX, mới đang ở đêm trước của cách mạng tư sản.
Trung tâm của cách mạng chuyển về Đức. Song trong nội bộ nước Đức, giai
cấp tư sản lại yếu hèn cả về kinh tế lẫn chính trị. Thực tế đó đặt ra giai cấp
nào sẽ lãnh đạo cách mạng ở Đức. Mặt khác, giai cấp vô sản đã bước lên vũ
đài lịch sử của mình; trong tất cả các giai cấp hiện tại đang đối mặt với giai
cấp địa chủ phong kiến chỉ có giai cấp vơ sản là giai cấp cách mạng nhất.
Đương nhiên để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp vơ sản khơng
những cần phải phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng, mà cịn phải có
hệ tư tưởng cách mạng và khoa học.
Trong điều kiện hồn cảnh lịch sử đó, C.Mác và Ph. Ăngghen nhận thấy
hệ tư tưởng cũ khơng cịn đáp ứng được yêu cầu của cách mạng, nó đã trở nên



2

lỗi thời, phong trào cách mạng lúc này đòi hỏi phải có một hệ tư tưởng mới
trang bị cho giai cấp công nhân hệ tư tưởng cách mạng để thực hiện sứ mệnh
lịch sử của giai cấp. Tình hình phát triển lý luận ở nước Đức lúc này, phong
trào công nhân đang chịu ảnh hưởng tư tưởng của chủ nghĩa xã hội không
tưởng của Pháp; triết học của Hê-ghen, Phoi-ơ-bắc. Nhu cầu của phong trào
cách mạng lúc này là: đấu tranh nhằm gạt bỏ ảnh hưởng của các loại tư tưởng
phản động, đồng thời phải xây dựng một lý luận khoa học về xã hội.
Khi phê phán chủ nghĩa xã hội không tưởng, phải tiến hành lược bỏ
những tư tưởng sai lầm của các nhà triết học cũ, phải có một thế giới quan
duy vật biện chứng... Điều đó, đã thôi thúc C. Mác và Ph. Ăngghen tiến hành
một cuộc cách mạng về thế giới quan, giải phóng cho nhân dân thốt khỏi ách
nơ lệ của tinh thần. Mặt khác, năm 1844 Phoi-ơ-bắc tự tuyên bố là nhà cộng
sản, vì thế các thế lực thù địch dấy lên phong trào chống chủ nghĩa cộng sản,
từ đó hai ơng đã quyết định cùng nhau viết chung tác phẩm: “Hệ tư tưởng
Đức”. Đây là tác phẩm bút chiến, nhằm đấu tranh, bảo vệ và phát triển lý
luận, tư tưởng chủ nghĩa cộng sản. Thông qua việc, các ông phê phán những
học thuyết triết học ở Đức đương thời và các trào lưu tư tưởng “chủ nghĩa xã
hội chân chính”, đồng thời kế thừa những giá trị tư tưởng của nhân loại, để
trình bày thế giới quan mới của mình. Tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, được
viết vào năm 1845 nhưng đến năm 1932 tác phẩm mới được xuất bản lần đầu
tiên bằng tiếng Đức. Tác phẩm được in trong bộ C. Mác và Ph. Ănghen,
Tồn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995. tr. 15-793.
2. Kết cấu tác phẩm
Tác phẩm: “Hệ tư tưởng Đức”, gồm: Lời tựa và 2 tập và 8 chương nhưng
hiện nay chương 2 và chương 3 khơng tìm thấy
Tập 1: “Phê phán triết học Đức hiện đại qua các đại biểu của nó là Phoiơ-bắc, B.Bauơ, Stiếcnơ” gồm 3 chương



3

Lời tựa
Chương I: Phoi-ơ-bắc sự đối lập giữa quan điểm duy vật và quan điểm
duy tâm
Chương II: Thánh Brunô (biệt danh của Bauơ)
Chương III: Thánh Maxơ (biệt danh của Stuyếcnơ)
Tập II: “Phê phán chủ nghĩa xã hội Đức thông qua các nhà tiên tri khác
nhau của nó” gồm 5 chương:
Chương I: Phê phán những cơ sở triết học của “chủ nghĩa xã hội chân chính”
Chương II và Chương III đến nay khơng cịn
Chương IV: Trào lưu chủ nghĩa xã hội ảnh hưởng ở Pháp, Bỉ
Chương V: Phê phán các quan điểm chủ nghĩa xã hội tiểu tư sản của
Cunman
Trong tác phẩm này, các ông đã phê phán Bauơ, Stuyếcnơ đã lợi
dụngnhững hạn chế của triết học của Hê-ghen và Phoi-ơ-bắc để truyền bá tư
tưởng của giai cấp tư sản và tiểu tư sản. Cho nên, bằng phê phán triết học Hêghen và Phoi-ơ-bắc, C. Mác và Ph. Ăngghen làm rõ được quan điểm của
mình khác với quan điểm của Hê-ghen và Phoiơbắc.
Như vậy, C. Mác và Ph. Ăng-ghen muốn chỉ ra rằng, triết học C. Mác và
Ph. Ăng-ghen cũng có tiền đề lý luận từ triết học của Hê-ghen và triết học của
Phoi-ơ-bắc, trong đó chủ nghĩa duy vật của Phoi-ơ-bắc đó là khâu trung gian
giữa triết học của Hêghen và triết học Mác.
3. Nội dung C. Mác và Ph. Ăng-ghen phê phán triết học Đức
Mác và Ăng-ghen trong giai đoạn này đã xây dựng, khởi thảo những
nguyên lý về chủ nghĩa duy vật lịch sử nhằm chống lại những quan niệm sai
trái của chủ nghĩa duy vật của Phoi-ơ-bắc, và chủ nghĩa duy tâm của Hê-ghen.


4


Ở xã hội Đức lúc này các nhà triết học như Bauơ, Stuyếcnơ đang lợi dụng
những tư tưởng triết học duy vật của Phoi-ơ-bắc và triết học của Hê-ghen để
tuyên truyền vào giai cấp vô sản ở Đức, làm sai lệch những giá trị đích thực
của triết học cổ điển Đức “Những nguyên lý thay thế lẫn nhau, những anh
hùng tư tưởng đẩy nhau ngã với một tốc độ nhanh chưa từng thấy, và chỉ
trong ba năm từ 1842 đến 1845 ở Đức, người ta đã dọn sạch được nhiều hơn
trong ba thế kỷ trước kia”(1). Trước tình hình xã hội Đức lúc bấy giờ những tư
tưởng của chủ nghĩa duy tâm của Hê-ghen đang đầu độc giai cấp công nhân
và nhân dân lao động và cả dân tộc Đức, các luồng tư tưởng tranh giành nhau
ảnh hưởng của hệ tư tưởng của phái mình, lơi kéo lực lượng tham gia gia
“Những người làm nghề triết học từ trước đến nay vẫn sống bằng việc khai
thác tinh thần tuyệt đối, bây giờ lại lao vào những hỗn hợp mới đó”(2).
Với xã hội mà giai cấp tư sản yếu hèn, giai cấp cơng nhân đang hình
thành và phát triển nhưng chưa có một hệ tư tưởng cách mạng dẫn đường, họ
chưa xác định được phương hướng tiến hành cuộc cách mạng, họ thụ động
không dám đứng lên làm cách mạng như ở Anh, Pháp, Hà Lan…Trong khi đó
họ biết xã hội Đức với một chế độ lạc hậu, kém phát triển, đời sống nhân dân
Đức nghèo khổ, trong khi đó ở các nước xung quanh thì đã tiến hành cách
mạng tư sản lật đổ chế độ phong kiến, xây dựng chủ nghĩa tư bản “Trong sự
hỗn độn khắp nơi đó, những cường quốc hùng mạnh đã xuất hiện để rồi lại
chìm nghỉm đi liền ngay đó, những anh hùng đã xuất hiện trong khoảnh khắc
để rồi lại bị những đối thủ táo bạo hơn và mạnh hơn quẳng vào bóng tối”(3).
3.1 C. Mác và Ph. Ăng-ghen phê phán triết họcPhoi-ơ-bắc
Phoi-ơ-bắc đã dựa vào khái niệm con người cộng đồng để tuyên bố
mình là người cộng sản, con người theo ơng là sản phẩm của tự nhiên, là cái
gương của vũ trụ, thơng qua đó giới tự nhiên ý thức và nhận thức chính bản
C. Mác và Ph. Ănghen, Tồn tập, Nxb CTQG, H.1995, tập 3, tr 23
C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb CTQG, H.1995, tập 3, tr 24
(3) C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb CTQG, H.1995, tập 3, tr 23
(1)


(2)


5

thân mình. Bản chất con người là tổng thể các khát vọng, khả năng, nhu cầu,
ham muốn. Ông khẳng định sự thống nhất hữu cơ giữa con người và giới tự
nhiên, là điều kiện sống, mơi trường, hồn cảnh tác động đến tư duy và ý thức
con người. Đến khi xem xét con người trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể thì quan
điểm của Phoi-ơ-bắc trở thành duy tâm về lịch sử “Khi Phoi-ơ-bắc là nhà duy
vật thì ơng khơng bao giờ đề cập đến lịch sử; cịn khi ơng xem xét đến lịch sử
thì ơng khơng phải là nhà duy vật. Ở Phoi-ơ-bắc, lịch sử và chủ nghĩa duy vật
hồn tồn tách rời nhau, điều này đã được nói rõ”(4).
Quan điểm về con người của Phoi-ơ-bắc có nhiều điểm hợp lý nhất
định, đó là ơng xem con người và xã hội loài người là sản phẩm của tự nhiên,
đề cao tính cá thể con người. Điều này thể hiện nguyện vọng của giai cấp tư
sản Đức tiến bộ thời đó muốn đấu tranh địi giải phóng nhân cách cá nhân con
người khỏi mọi hệ thống giáo lý, giáo luật của xã hội hà khắc của nước Đức
phong kiến quí tộc. Tuy nhiên, hạn chế của Phoi-ơ-bắc ở chỗ, ông không nhận
thấy bản chất xã hội của con người, cũng như vai trò của hoạt động thực tiễn
con người trong nhận thức và cải tạo thế giới. Con người trong quan niệm của
ông là con người phi lịch sử, phi giai cấp, con người trừu tượng. Trên cơ sở
phân tích quan niệm con người của Phoi-ơ-bắc khi đưa vào xem xét xã hội ở
Đức thì ơng cho đó là “người cộng sản” danh từ này để chỉ thế giới hiện nay
“Toàn bộ suy diễn của Phoi-ơ-bắc về vấn đề quan hệ giữa người với người
chỉ nhằm chứng minh rằng người ta cần lẫn nhau và bao giờ cũng vẫn như
vậy. Ông muốn xác lập ý thức về sự việc đó, vậy là như các nhà lý luận khác,
ông chỉ muốn gây ra một ý thức đúng đắn về môt sự việc hiện có, trong khi
điều quan trọng đối với một người cộng sản thật sự là lật đổ cái hiện có ấy”(5)

Với quan điểm con người của Phoi-ơ-bắc, anh em nhà Bauơ đã đem
quan niệm con người của Phoi-ơ-bắc thay vào đó bằng con người cộng sản và
chống lại quan điểm của Mác-xít về con người. Trước tình hình đó C. Mác và
(4)
(5)

C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb CTQG, H.1995, tập 3, tr 264
C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb CTQG, H.1995, tập 3, tr 60


6

Ph. Ăng-ghen đã chống lại các quan điểm về con người của anh em nhà Bauơ
để bảo vệ quan điểm của mình “Nhưng điều đáng chú ý là thánh Brunơ và
thánh Ma-xơ lập tức đem quan điểm của Phoi-ơ-bắc về người cộng sản thay
cho người cộng sản thực sự và họ đã làm một phần như vậy để có thể đấu
tranh chống chủ nghĩa cộng sản coi là tinh thần của tinh thần, là một phạm
trù triết học, là một đối thủ ngang hàng với mình, cịn thánh Brunơ thì làm
thế lại cịn vì những lợi ích thực dụng nữa”(6) Thật ra, đối với nhà duy vật thực
tiễn thì tất cả vấn đề là ở chỗ cách mạng hoá thế giới, thay đổi thực tiễn trạng
thái sự vật, nhìn sự vật hiện tượng một cách cụ thể. Đó là những quan điểm
không bao giờ vượt xa hơn những điều trực giác rời rạc và ảnh hưởng đến thế
giới quan khi nhìn nhận xem xét thế giới hiện thực. Quan niệm của Phoi-ơbắc về thế giới cảm giác chỉ được giới hạn ở chỗ chỉ ngắm nhìn thế giới đó ở
cảm giác đơn thuần với một kiểu con người với tính cách là con người chứ
không phải con người của lịch sử, hiện thực. Trong trường hợp khi nhìn nhận
thế giới bằng cảm giác thì Phoi-ơ-bắc vấp phải những sự vật mâu thuẫn với ý
thức và tình cảm của ơng, làm tan vỡ sự hài hoà của cái tổng thể thế giới và
nhất là giữa tự nhiên với con người. Để khắc phục cái hạn chế đó thì Phoi-ơbắc đã sử dụng tính hai mặt trong triết học, đó là phân biệt cái nhìn thấy được
và cái nhìn của triết học, có nghĩa là thấy được bản chất của sự vật hiện
tượng. C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã phê phán tính hai mặt trong cách nhìn về

con người của Phoi-ơ-bắc “Ơng không thấy rằng thế giới cảm giác được bao
quanh ông không phải là một sự vật đã tồn tại trực tiếp từ ngàn xưa và ln
ln giống bản thân nó, mà lại là sản phẩm của công nghiệp và của trạng
thái xã hội, và hơn nữa với cái nghĩa là đó là một sản phẩm lịch sử, một kết
quả hoạt động của cả một loạt thế hệ sau đứng lên vai thế hệ trước, tiếp tục
phát triển công nghiệp và phương thức giao tiếp của mình và cải biến chế độ
xã hội của mình tuỳ theo sự biến đổi những nhu cầu của mình”(7).
(6)
(7)

C. Mác và Ph. Ănghen, Tồn tập, Nxb CTQG, H.1995, tập 3, tr 60
C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb CTQG, H.1995, tập 3, tr 62


7

Thế giới cảm giác được Phoi-ơ-bắc được đề cập trong triết học của ơng
chỉ là thế giới có sẵn, tồn tại hàng ngàn năm qua, mà còn là thế giới như kết
quả công nghiệp và của trạng thái xã hội. Chủ nghĩa duy vật tự nhiên ấy chưa
lột tả được hoạt động thực tiễn, hoạt động có tính cải tạo con người. Sự ngắm
nhìn thế giới như cái có sẵn ấy cũng trái với quan điểm phát triển, tức là quan
điểm biện chứng về thế giới. Hơn nữa, trong quan niệm của Phoi-ơ-bắc xem
xét những sự vật đúng y như chúng đang tồn tại trong thực tế và đang diễn ra
trong thực tế thì bất cứ vấn đề triết học sâu sắc nào cũng chỉ đơn giản biến
thành một sự kiện kinh nghiệm.
Mặc khác, cách tiếp cận ngắm nhìn tự nhiên trong dạng thuần khiết của
nó, chứ khơng phải trong quá trình vận động, biến đổi, trong quá trình giới tự
nhiên thể hiện mình như cơ sở tự nhiên của sự tồn tại và hoạt động của con
người, đã khiến cho Phoi-ơ-bắc chưa vượt qua khỏi tự nhiên khi xem xét con
người trong lịch sử “Phoi-ơ-bắc đặt biện nói đến trực quan của khoa học tự

nhiên, ông nhắc tới những điều bí mật mà chỉ có con mắt của nhà vật lý học
và nhà hố học mới nhìn thấy được; nhưng nếu khơng có cơng nghiệp và
thương nghiệp thì khoa học tự nhiên sẽ ra sao?”(8). Phoi-ơ-bắc cố gắng khắc
phục chủ nghĩa giáo điều qua hình ảnh con người hiện thực, cụ thể, bằng
xương, bằng thịt, biết tư duy, xúc cảm nhưng ông không xem xét con người
trong mối quan hệ xã hội nhất định của họ, trong những điều kiện sinh hoạt
hiện có của họ, trong những điều kiện làm cho họ trở thành những con người
đúng nghĩa.
Ở chủ nghĩa duy vật Phoi-ơ-bắc, như ta thấy, ý thức con người được
xem xét chủ yếu như sự phản ánh giới tự nhiên. Nội dung xã hội của phản ánh
hầu như không được đề cập, hoặc đề cập khá mờ nhạt. Thiếu quan điểm thực
tiễn chính là do thiếu cách hiểu nhất quán về tồn tại xã hội. “Hơn nữa cái giới
tự nhiên có trước lịch sử lồi người ấy lại không phải là giới tự nhiên trong
(8)

C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb CTQG, H.1995, tập 3, tr 63


8

đó Phoi-ơ-bắc đang sống; ngày nay giới tự nhiên ấy khơng cịn tồn tại ở đâu
cả, có lẽ chỉ trừ ở mấy hịn đảo san hơ mới hình thành ở Ơ-xtơ-rây-li-a, như
vậy nó cũng khơng tồn tại cả đối với Phoi-ơ-bắc”(9).
Phoi-ơ-bắc đã chứng minh rằng thế giới là vật chất, giới tự nhiên khơng
do ai sáng tạo ra, nó tồn tại độc lập với ý thức của con người. Do đó, cơ sở
tồn tại của giới tự nhiên nằm ngay trong lòng tự nhiên. Chống lại hệ thống
duy tâm của triết học Hê-ghen, đó là, Hê-ghen coi giới tự nhiên là sự tồn tại
khác của tinh thần, Phoi-ơ-bắc chỉ ra rằng triết học mới này phải có tính chất
nhân bản, phải kết hợp với khoa học tự nhiên. Triết học nhân bản của Phoi-ơbắc xoá bỏ sự tách rời giữa tinh thần và thể xác do triết học duy tâm và triết
học nhị nguyên tạo ra.

Mặt tích cực trong triết học nhân bản Phoi-ơ-bắc cịn thể hiện ở chỗ
ơng đấu tranh chống các quan niệm tôn giáo, đặc biệt là thượng đế và ơng
khẳng định: chính con người sáng tạo ra thượng đế, bản chất tự nhiên của con
người là muốn hướng tới cái chân, cái thiện, hướng đến cái đẹp của con người
nhưng trong thực tế những cái đó con người chưa đạt được mà chỉ là ước mơ.
Mặt hạn chế của triết học Phoi-ơ-bắc là đứng trên lập trường của chủ
nghĩa tự nhiên để xem xét mọi hiện tượng thuộc về con người và xã hội. Con
người trong quan niệm của Phoi-ơ-bắc là con người trừu tượng , phi xã hội,
mang những thuộc tính bẩm sinh. Cơng lao của Phoi-ơ-bắc còn ở chỗ là đấu
tranh chống chủ nghĩa duy vật tầm thường, ông đã phê phán kịch liệt những
người theo chủ nghĩa hồi nghi và thuyết khơng thể biết. Trong khi phát triển
lý luận nhận thức duy vật , Phoi-ơ-bắc đã dựa vào thực tiễn, hiểu được thực
tiễn là tổng hợp những yêu cầu của con người về tinh thần và thực tiễn là cơ
sở của nhận thức cảm tính và lý tính. C. Mác và Ph. Ăng-ghen phê phán Phoiơ-bắc nhưng các ông cũng đã thấy công lao to lớn của Phoi-ơ-bắc là đấu
tranh chống chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo. Phoi-ơ-bắc đã chỉ ra mối liên hệ
(9)

C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb CTQG, H.1995, tập 3, tr 64


9

giữa chủ nghĩa duy tâm với tôn giáo, chỉ ra sự cần thiết phải đấu tranh loại bỏ
tôn giáo hữu thần, coi đó là sự tha hố bản chất của con người. Đây là những
cống hiến to lớn đối với triết học nhân loại, góp phần làm cơ sở cho C. Mác và
Ph. Ăng-ghen sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử.
3.2 C. Mác và Ph. Ăng-ghen phê phán triết học của Hê-ghen
Mở đầu tác phẩm Hệ tư tưởng Đức C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã vạch ra
thực chất của cái gọi là sự cải biến cách mạng của phái Hê-ghen trẻ đối với

hệ thống Hê-ghen. Các đại diện của phái Hê-ghen trẻ, tự xưng là “những nhà
triết học cách mạng Đức hiện đại” với những lời lẽ khoa trương về khạt vọng
giải thoát chủ nghĩa giáo điều, trên thực tế chỉ là “trò bịp bợm triết học”. Hầu
như đại diện của phái Hê-ghen trẻ cũng điều tự nhận mình đã vượt qua Hêghen, tuy nhiên C. Mác và Ph. Ăng-ghen nhận thấy, người ta chỉ nhào nặn lại
các phạm trù của Hê-ghen, gọi chúng bằng cái tên có vẻ trần tục hơn “cuộc
luận chiến của họ chống lại Hê-ghen và chống lại nhau chỉ đóng khung ở chỗ
mỗi người trong bọn họ tách riêng một mặt nào đó của hệ thống Hê-ghen và
đem mặt đó chống lại tồn bộ hệ thống cũng như chống lại những mặt do
người khác tách riêng ra”(10)
Phái Hê-ghen trẻ khơng đủ dũng khí làm cách mạng trong lĩnh vực
thực tiễn nên họ chỉ nói bóng gió về tính tất yếu của sự phát triển. Sự khác
nhau cơ bản giữa phái Hê-ghen trẻ và Hê-ghen là duy lý hố niềm tin, thần bí
hố nhà nước, xác định lịch sử tôn giáo như sự vận động của ý thức; cịn phái
Hê-ghen trẻ thì phê phán tơn giáo.
Tính chất của những nhà triết học duy tâm với phương pháp tư biện,
phương pháp suy diễn theo lập trường duy tâm nhưng thực chất là lập lại toàn
bộ phép biện chứng duy tâm khách quan của Hê-ghen mà chúng ta nói đó là
phép biện chứng lộn ngược, đối với phái Hê-ghen trẻ cũng lặp lại của Hê(10)

C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb CTQG, H.1995, tập 3, tr 26


10

ghen mà thôi và chỉ gọi cái tên khác đi nhưng bản chất vấn đề thì khơng thay
đổi “chúng ta thấy kiểu lập luận bắt chước một cách trung thành phương
pháp tư biện, theo đó con sinh ra cha, cái có sau ảnh hưởng cái có trước”(11).
Để thay đổi xã hội Đức phái Hê-ghen trẻ đã tuyên truyền tư tưởng của
phái mình nhằm gây ảnh hưởng đến quần chúng nhằm làm cuộc cách mạng
thay đổi nước Đức nhưng thực tế những tư tưởng họ đưa ra chỉ là sự sao chép

tư tưởng triết học của Hê-ghen, họ đã lặp lại tính hai mặt trong triết học của
Hê-ghen, muốn làm cách mạng nhưng sợ đấu tranh, sợ mất lợi ích đang có
“Những con bn tư tưởng kiêu kỳ và khốc lác ấy tưởng rằng họ đứng rất
cao vượt lên trên mọi thành kiến dân tộc, nhưng trong thực tế họ còn mang
tính dân tộc hẹp hịi nặng hơn cả những tên phi-li-xtanh trong các quán bia
đang mơ tưởng đến sự thống nhất nước Đức”(12)
Phái Hê-ghen trẻ phê phán triết học Hê-ghen bằng cách thay thế những
quan niệm tôn giáo hoặc tuyên bố mọi cái đều có tinh thần học và như vậy thì
dẫn đến cho mọi người tin tưởng, nhất trí rằng tôn giáo là cái phổ biến thống
trị thế giới hiện có và cho đó là sự phợp pháp của xã hội Đức lúc bấy giờ
“phái Hê-ghen trẻ chỉ cần tiến hành đấu tranh chống lại những ảo tưởng đó
của ý thức mà thơi. Vì theo họ tưởng tượng, những quan hệ của con người,
tất cả mọi hành động và cử chỉ của con người, mọi xiềng xích và giới hạn đối
với con người đều là sản phẩm của ý thức của họ”(13). Trước những diễn biến
xã hội Đức C. Mác và Ph. Ăng-ghen cần vạch rõ thủ đoạn lừa bịp, mị dân của
phái Hê-ghen trẻ, giúp cho nhân dân Đức và những tầng lớp tiến bộ thấy rõ bộ
mặt thật của họ “Muốn đánh giá đúng toàn bộ cái trị bịp bợm triết học đó, nó
thậm chí làm thức tỉnh trong lòng người thị dân Đức trung thực một tình cảm
dân tộc dễ chịu, muốn nêu rõ tính nhỏ nhen, tính thiển cận địa phương của
tồn bộ phong trào của Phái Hê-ghen trẻ đó, và đặc biệt muốn vạch rõ sự
C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb CTQG, H.1995, tập 3, tr 192
C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb CTQG, H.1995, tập 3, tr 59
(13) C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb CTQG, H.1995, tập 3, tr 27
(11)

(12)


11


trái ngược vừa bi đát vừa buồn cười giữa những chiến cơng hiện thực của vị
anh hùng đó, với những ảo tưởng của họ về chính những chiến cơng ấy thì
cần phải xem xét tất cả sự ầm ĩ đó theo một quan điểm ở bên ngoài nước
Đức”(14).
Trong triết học Hê-ghen nền tảng thế giới quan của ông là tinh thần
tuyệt đối, ơng coi đó như là đấng tối cao sáng tạo ra thế giới tự nhiên và con
người. Mọi sự vật hiện tượng xung quanh ta, từ những sự vật tự nhiên cho đến
những sản phẩm hoạt động của con người, chỉ là hiện thực của tinh thần tuyệt
đối được hiểu như là thực thể sinh ra mọi cái trên thế gian. Con người là sản
phẩm, và cũng là giai đoạn phát triển cao nhất của tinh thần tuyệt đối. Hoạt
động nhận thức và cải tạo thế giới của con người chính là cơng cụ để tinh thần
tuyệt đối nhận thức chính bản thân mình. Hê-ghen cho rằng khái niệm là dạng
nhận thức cao nhất của con người, khái niệm là bản chất đích thực của sự vật
và ơng đã đề cao vai trị tư duy lơgíc khái niệm; khái niệm là hình thức thể
hiện cao nhất của cái tuyệt đối của Hê-ghen.
Phái Hê-ghen trẻ đã phê phán triết học của Hê-ghen, nhất là lơgíc học
của ơng, bằng cách họ thay thế mọi cái bằng những quan niệm tôn giáo hoặc
họ tuyên bố mang tính thần học, họ cho rằng những quan niệm, ý niệm, khái
niệm nói chung là những sản phẩm của ý thức họ gán cho là có một sự tồn tại
độc lập, đều là xiềng xích đối với con người. Kết quả duy nhất mà sự phê
phán triết học mà phái Hê-ghen trẻ phê phán là thuyết minh về mặt lịch sử tôn
giáo và rất phiến diện, tất cả vấn đề họ phê phán chỉ là sự tô điểm cho tham
vọng để tuyên truyền tư tưởng của họ mà thội.
Triết học Hê-ghen coi sự phát triển như một quá trình vận động liên tục
theo quy luật phủ định của phủ định, Hê-ghen coi một trong những nguyên
tắc xây dựng hệ thống triết học của mình nhằm thể hiện quá trình phát triển
của tinh thần tuyệt đối là tam đoạn thức, trong đó giữa các yếu tố điều có mối
(14)

C. Mác và Ph. Ănghen, Tồn tập, Nxb CTQG, H.1995, tập 3, tr 24-25



12

liên hệ hữu cơ, chuyễn hố lẫn nhau. Cịn phái Hê-ghen trẻ thì cho rằng sự
phát triển là sự thay thế lẫn nhau một cách đơn thuần. C. Mác và Ph. Ăngghen đã phê phán tư tưởng này và chỉ ra sự phát triển xuất phát từ sự phân
công lao động và sự phát triển của lực lượng sản xuất “Những giai đoạn phát
triển khác nhau của sự phân công lao động cũng đồng thời là những hình
thức khác nhau của sở hữu, nghĩa là mỗi giai đoạn của phân công lao động
cũng quy định những quan hệ giữa cá nhân với nhau, tuỳ theo quan hệ của họ
với tư liệu lao động, công cụ lao động và sản phẩm lao động”(15)
Con người là chủ thể, đồng thời là kết quả của quá trình hoạt động của
mình. Tư duy và trí tuệ con người hình thành và phát triển trong chừng mực
con người nhận thức và cải tạo thế giới, biến tự nhiên từ cái đối lập với mình
thành cái của mình và bằng cách đó làm chủ tự nhiên. đây là quá trình liên
tục. Vì vậy chân lý là sự thống nhất giữa tinh thần và vật chất, hoạt động của
con người càng phát triển bao nhiêu, thì sự thống nhất giữa tinh thần và vật
chất càng gắn bó hữu cơ bấy nhiêu. C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã khẳng định
“Chúng ta đã thấy sự đối lập giữa thành thị và nông thôn, và về sau-sự đối
lập giữa những quốc gia đại biểu cho lợi ích của nơng thơn; và ngay bên
trong các thành thị, chúng ta thấy có sự đối lập giữa công nghiệp và thương
nghiệp hàng hải. Những quan hệ giai cấp giữa công dân và nô lệ đã phát
triển hoàn toàn”(16)
Quan niệm của Hê-ghen về bản chất của triết học và lịch sử triết học
ông cho rằng tinh thần tuyệt đối là thực thể và bản chất của tồn bộ thế giới,
trong đó con người và xã hội là giai đoạn phát triển cao nhất, còn triết học là
hình thức hình thức thể hiện cao nhất của hình thức tinh thần tuyệt đối. Theo
C. Mác và Ph. Ăng-ghen thì tinh thần tuyệt đối của Hê-ghen là ý thức xã hội,
nhưng đã bị ơng thần thánh hố, coi là bản chất của thế giới hiện thực. Ở đây
Hê-ghen đã hiểu sự phát triển của tư tưởng nhân loại là một tiến trình thống

(15)
(16)

C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb CTQG, H.1995, tập 3, tr 31
C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb CTQG, H.1995, tập 3, tr 32


13

nhất mang tính kế thừa mà triết học là sự thể hiện tồn bộ tiến trình đó. Cho
nên, mỗi học thuyết triết học thể hiện một giai đoạn phát triển nhất định của
lịch sử tư tưởng nhân loại. Từ quan điểm của Hê-ghen về triết học và lịch sử
triết học phái Hê-ghen trẻ đã lợi dụng để xuyên tạc quan điểm này nhằm đề
cao vai trò thống trị xã hội của triết học, thấy được sự tư biện của phái Hêghen trẻ, C. Mác và Ph. Ăng-ghen viết: “Chính Hê-ghen, trong phần cuói của
cuốn Triết học lịch sử đã thú nhận rằng ông xem sự vận động đi lên chỉ riêng
của khái niệm mà thôi, và trong lịch sử, ông đã trình bày thần luận chân
chính. Thế là bây giờ, người ta lại có thể quay trở về với những người sản
xuất ra khái niệm, với những nhà lý luận, nhà tư tưởng, nhà triết học, để đi
đến kết luận rằng những nhà triết học, nhà tư tưởng với tư cách như vậy, xưa
nay vẫn thống trị lịch sử”(17). Sự thống nhất giữa triết học và lịch sử là sự
thống nhất giữa tính lơgíc và tính lịch sử. Chính sự phát triển tư duy được thể
hiện trong lịch sử triết học, được thể hiện trong cả bản thân triết học. Sự khái
quát của Hê-ghen về vấn đề trên sau này dược C. Mác và Ph. Ăng-ghen tiếp
thu và phát triển lên tầm cao mới.
Tóm lại, trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã
giải quyết nhiều vấn đề đặt ra trong thực tiễn và đã khẳng định sự đúng đắn
của triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. đứng trên lập trường giai
cấp công nhân. C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã giúp cho giai cấp công nhân nhận
thức về con đường, biện pháp đấu tranh giải phóng cho giai cấp mình.


(17)

C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb CTQG, H.1995, tập 3, tr70


14

4. Ý nghĩa của tác phẩm trong cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng lý
luận hiện nay
Nghiên cứu tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” không những cho chúng ta thấy sự
ra đời của triết học Mác thực sự là cuộc cách mạng trong lĩnh vực triết học, mà
con cung cấp cho mỗi người cơ sở lý luận để hình thành thế giới quan duy vật
mác-xít và phương pháp luận khoa học trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Và
có cơ sở khoa học để khẳng định rằng, ngày nay chủ nghĩa Mác- Lênin là nền tảng
tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của giai cấp công nhân và của Đảng cộng
sản. Hệ tư tưởng Đức là một trong những tác phẩm mà C. Mác và Ph. Ăng-ghen
đã trình bày một cách có hệ thống. Các ơng đánh giá có phê phán phương pháp
biện chứng của Hê-ghen mà đặc biệt là chủ nghĩa duy vật trong triết học của Phoiơ-bắc. C. Mác và Ph. Ăng-ghen chứng minh rằng: cả phép biện chứng duy tâm
của Hê-ghen cũng như chủ nghĩa duy vật siêu hình của Phoi-ơ-bắc đều có hạt
nhân hợp lý, quan trọng là chúng ta biết khai thác yếu tố hợp lý đó một cách khoa
học.
C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã giải đáp được các vấn đề mà trước đó nhân loại
chưa giải đáp được hoặc giải đáp chưa triệt để. Đồng thời các ông tiếp tục nghiên
cứu, bổ sung, hoàn thiện, phát triển đến đỉnh cao, hoàn bị cả về lý luận và thực
tiễn của đời sống xã hội. Hệ thống lý luận đó thống nhất thế giới quan và phương
pháp luận, cách mạng và khoa học, lý luận và thực tiễn, nhận thức thế giới và cải
tạo thế giới. Mặt khác, với phát kiến ra chủ nghĩa duy vật lịch sử, một thành quả vĩ
đại, C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã trở thành nhà tư tưởng vĩ đại, các ơng đã đưa triết
học của mình trở thành thế giới quan khoa học của giai cấp công nhân, là chìa
khố để khám phá, lịch sử xã hội, với quan điểm nhất nguyên duy vật các ông

khẳng định sản xuất vật chất là nền tảng của đời sống xã hội; xã hội lồi người trải
qua các hình thái kinh tế-xã hội từ thấp đến cao là một quá trình lịch sử tự nhiên;
xã hội bóc lột tồn tại dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất; trong xã hội có


15

giai cấp, đấu tranh giai cấp là nguồn gốc động lực trực tiếp thúc đẩy các xã hội có
giai cấp phát triển...đó là những kết quả của q trình nghiên cứu khoa học
nghiêm túc, sự cần cù sáng tạo và thiên tài của C. Mác và Ph. Ăng-ghen.
Trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức Ph. Ăng-ghen đã góp phần cống hiến vô
giá vào việc đưa chủ nghĩa Mác thâm nhập vào phong trào cơng nhân quốc tế. Tác
phẩm đã góp phần quyết định vào việc trang bị cho giai cấp công nhân ý thức
rằng: thế giới quan khoa học và đảng cách mạng của giai cấp là một thể thống
nhất không thể tách rời. Tác phẩm là cơ sở lý luận cho cuộc đấu tranh của giai cấp
công nhân chống lại triết học tư sản. Từ đây giai cấp vô sản có một học thuyết
cách mạng và khoa học, trở thành hệ tư tưởng vô sản, đưa cuộc đấu tranh của giai
cấp công nhân từ tự phát lên tự giác. Tác phẩm cho chúng ta thấy đặc trưng nổi
bật thể hiện sự sáng tạo, đó cũng là đặc trưng của triết học Mác. C. Mác và Ph.
Ăng-ghen đã công phu trình bày tác phẩm trên cơ sở đấu tranh có phê phán các
nhà triết học trước đó và là kết quả lao động sáng tạo không mệt mỏi của các ông.
Học thuyết triết học của C. Mác và Ph. Ăng-ghen là một học thuyết chân
chính và khoa học nó gắn với thực tiễn sinh động của phong trào công nhân. Qua
tác phẩm này chúng ta cũng thấy rằng triết học Mác là học thuyết phản ánh thế
giới vật chất luôn luôn vận động phát triển. Triết học Mác luôn là hệ thống mở và
được bổ sung hoàn thiện, coi triết học của các ông chỉ là kim chỉ nam cho nhận
thức và hành động, cần phải vận dụng một cách sáng tạo trong những điều kiện
hoàn cảnh cụ thể.
Tác phẩm Hệ tư tưởng Đức có thể nói đây là tác phẩm thể hiện xuất sắc nhất
tính đảng, với tinh thần bút chiến của C. Mác và Ph. Ăng-ghen. Lần đầu tiên trong

lịch sử, các ơng đã cơng khai tính Đảng của triết học, một hệ thống triết học mang
tính triệt để khi nó đứng hẳn trên lập trường chủ nghĩa duy vật. C. Mác và Ph.
Ăng-ghen biến triết học của mình thành vũ khí tinh thần của giai cấp vơ sản. Sự
thống nhất giữa tính đảng và tính khoa học trong triết học Mác là sự thống nhất


16

hữu cơ với nhau. Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận của chủ nghĩa Mác với
phong trào công nhân đã tạo nên bước chuyển biến về chất của phong trào từ trình
độ tự phát lên tự giác, một điều kiện tiên quyết để giai cấp công nhân thực hiện
được sứ mệnh lịch sử vĩ đại của mình./.



×