Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT BIỆN CHỨNG GIỮA QUAN hệ sản XUẤT với lực LƯỢNG sản XUẤT TRONG lời tựa góp PHẦN PHÊ PHÁN KHOA KINH tế CHÍNH TRỊ của c mác ý NGHĨA CÔNG CUỘC đổi mới ở nước TA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.72 KB, 15 trang )

BIỆN CHỨNG GIỮA QUAN HỆ SẢN XUẤT VỚI LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT
TRONG LỜI TỰA “GÓP PHẦN PHÊ PHÁN KHOA KINH TẾ CHÍNH TRỊ”
CỦA C.MÁC. NHẬN THỨC VÀ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA TRONG
CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC HIỆN NAY
1. HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA TÁC PHẨM
Tác phẩm "Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị" được C.Mác viết từ
tháng 8/1858 đến tháng 2/1859 và xuất bản, phát hành tháng 6/1859. Tác phẩm ra
đời đánh dấu mốc quan trọng trong quá trình hình thành, phát triển khoa kinh tế
chính trị học mác xít. Nội dung lời tựa tác phẩm này là kết quả nghiên cứu của
C.Mác sau 15 năm với một khối lượng tài liệu đồ sộ.
Nội dung lời tựa tác phẩm "Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị",
C.Mác đã tóm tắt, khái quát quá trình nghiên cứu khoa kinh tế chính trị và tổng kết
thực tiễn từ 1842- 1843, khi làm biên tập tờ Rbéin Schezeitung đến tháng 2 năm
1859. C.Mác nói: "Lần đầu tiên tôi phải nêu ý kiến của mình về cái gọi là lợi ích vật
chất và điều đó đã làm cho tôi lúng túng" 1. Sau đó là những cuộc thảo luận, tranh
luận về vấn đề ăn trộm gỗ và phân nhỏ tài sản ruộng đất; về tình cảnh nông dân
vùng Mô den; cuối cùng là những cuộc tranh luận về tự do buôn bán và thuế quan
bảo hộ. C.Mác nói: "Lần đầu tiên đã thúc đẩy tôi nghiên cứu những vấn đề kinh tế" 2.
Sự thúc đẩy đó được bắt đầu từ khi C.Mác viết tác phẩm thứ nhất là tác phẩm " phê
phán triết học Pháp quyền của Hê ghen" (1843). C.Mác viết: " Tác phẩm thứ nhất
mà tôi đã viết để giải quyết những những điều băn khoăn đã ám ảnh tôi, là một sự
phân tích phê phán triết học pháp quyền của Hê ghen" 3. Kết quả của nó được C.Mác
khái quát là:" Không thể lấy bản thân những quan hệ pháp quyền cũng như những
hình thái nhà nước, cái gọi là sự phát triển chung của tinh thần con người để giải
thích những quan hệ và hình thái đó, trái lại, phải thấy rằng những quan hệ và hình
thái đó bắt nguồn từ những điều kiện sinh hoạt vật chất "4. Tiếp tục sự thôi thúc và
dựa trên kết quả nghiên cứu tác phẩm thứ nhất, C.Mác đã dày công nghiên cứu khoa
kinh tế chính trị và đến năm 1859 cho ra đời tác phẩm: “Góp phần phê phán khoa
kinh tế chính trị”. Nghiên cứu lời tựa cho thấy từ tác phẩm thứ nhất" phê phán triết
học pháp quyền của G.Ph.Hêghen đến lời tựa này có sự gián đoạn trong nghiên cứu
1,2,3,4



C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.13.


2

kinh tế chính trị, nhưng tiến trình như một dòng chảy liên tục. Quá trình đó xuyên
qua các tác phẩm như: "Sự khốn cùng của triết học" ( 1847); "Tuyên ngôn của đảng
cộng sản" ( 1848); "Diễn văn về tự do buôn bán" …
Với lời tựa này, C.Mác đã thể hiện sự chín muồi về thế giới quan, phương pháp
luận khoa học (CNDVLS) cho mọi sự nghiên cứu tiếp theo, mà trước hết là nội
dung tác phẩm này, tiếp ngay sau đó là bộ Tư bản đồ sộ. Có thể nói rằng, các tác
phẩm về sau là tiếp tục sự phát triển và vận dụng một cách nhuần nhuyễn thế giới
quan, phương pháp luận ở lời tựa vào giải quyết những vấn đề xã hội.
Trong lời tựa tác phẩm Mác đã khái quát toàn bộ nội dung của những tư tưởng
quan trọng về chủ nghĩa duy vật lịch sử. Nhất là Người đã trình bày khá rõ nét lý
luận hình thái kinh tế- xã hội. Tuy nhiên, với khả năng của người đang học và giới
hạn của một bài thu hoạch, tác giả chỉ xin tập trung luận giải mối quan hệ biện
chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất theo tư tưởng của C.Mác trong
tác phẩm này. Đồng thời trình bày những nhận thức và vận dụng quy luật về sự phù
hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta
hiện nay.
II. BIỆN CHỨNG GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN
XUẤT
Theo quan điểm của Mác, chúng ta hiểu phương thức sản xuất là biểu hiện
cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở những giai đoạn lịch sử
nhất định của xã hội loài người. Là sự thống nhất giữa lưc lượng sản xuất ở một
trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng. Trong đó lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất là các khái niệm dùng để chỉ quan hệ mà C.Mác gọi là “quan hệ
song trùng” của bản thân sự sản xuất xã hội: Quan hệ của con người với tự nhiên và

quan hệ của con người với con người.
Thông qua sự phân tích các yếu tố trong quá trình sản xuất C.Mác đã vạch ra
bản chất của quá trình sản xuất .Trong đó lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ
giữa con người với tự nhiên là sự thống nhất hữu cơ giữa lao động đã được tích luỹ
và lao động sống, nghĩa là toàn bộ những yếu tố vật và người của nền sản xuất cần
thiết để từ những đối tượng của tự nhiên sản xuất ra những vật có khả năng thoả
mãn những nhu cầu của con người. Lực sản xuất bao gồm người lao động với những
kỹ năng lao động của họ và tư liệu sản xuất trước hết là công cụ lao động. Trình độ


3

của lực lượng sản xuất phụ thuộc các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, mà người
lao động là yếu tố quan trọng nhất, “lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân
loại”11 V.I Lênin: toàn tập , Nxb tiến bộ ,Mãtcơva, 1977, tập 38, tr 430.
Người lao động giữ vị trí số một, là chủ thể tích cực, sáng tạo có vai trò quyết
định nhất trong lực lượng sản xuất. Bởi lẽ, người lao động với lao động cơ bắp và
lao động trí tuệ, cùng quá trình lịch sử lâu dài của xã hội loài người, trí tuệ hình
thành phát triển cùng với lao động, làm cho lao động ngày càng có hàm lượng trí tuệ
cao hơn; con người chế tạo ra các công cụ lao động, cải tiến đối tượng lao động, rồi
chính con người quyết định việc sử dụng các phương tiện, công cụ lao động và
nguyên vật liệu trong sản xuất; Không có con người với trí tuệ, biết chế tạo và sử
dụng công cụ lao động thì cũng không có bất cứ tư liệu lao động nào và quá trình
lao động nào. Công cụ lao động dù có năng động đến đâu cũng là sản phẩm của đôi
bàn tay và khối óc của con ngươì, với bản chất của con người là hoạt động có mục
đích và sáng tạo, bằng chí tuệ và các thế hệ công cụ sản xuất mới nhằm tác động vào
tự nhiên có hiệu quả hơn. Chính sự phát triển không ngừng của công cụ sản xuất từ
thủ công đến cơ khí và ngày nay là tự động hoá, đưa xã hội loài người chuyển qua
nền văn minh từ thấp đến cao, tự nó cũng đã nói lên tính vô tận và sức mạnh vô
cùng to lớn của trí tuệ con người.

Trình độ người lao động thể hiện ở sự khéo léo, ở kỹ năng kỹ xảo, kinh nghiệm
mà mỗi người lao động tích luỹ, rút kinh nghiệm và đặc biệt nhất là trình độ khoa
học kỹ thuật, khả năng tiếp thu ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào quá trình sản
xuất.
Tư liện sản xuất bao gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động, trước đây đối
tượng lao động chủ yếu là những bộ phận của tự nhiên, ngày nay đối tượng lao động
ngày càng là sản phẩm của lao động, của khoa học công nghệ mà hàm lượng vật liệu
tự nhiên trong đó ngày càng giảm, không phụ thuộc một cách tiên quyết vào nguồn
tài nguên thiên nhiên mà phụ thuộc chủ yếu vào tài nguyên con người với năng lực
trí tuệ cao. Tư liệu lao động gồm công cụ lao động và phương tiện lao động , trong
đó công cụ lao động là yếu tố quan trọng nhất và cách mạng nhất. Công cụ lao động
là kết tinh trí tuệ của con người, nó do con người chế tạo ra, nhưng khi sử dụng nó
đã thiết thực giúp con người nối dài bàn tay và các khí quan của mình. Do đó trình


4

độ phát triển của công cụ lao động là thước đo trình độ tự nhiên của con người ,nó là
yếu tố động nhất của lực lượng sản xuất, do sự hoàn thiện của công cụ sản xuất gây
ra những biến đổi sâu sắc trong lực lượng sản xuất và dẫn tới những cải biến trong
xã hội, những sự thay đổi trong các quan hệ sản xuất, các hình thức kinh tế xã hội.
Để giảm bớt lao động nặng nhọc và nâng cao năng xuất lao động, con ngưòi không
ngừng cải tiến, hoàn thiện và chế tạo ra những công cụ sản xuất mới. Khi lực lượng
ở trình độ càng cao thì phân công lao động hoá càng sâu, quy mô sản xuất càng mở
rộng, việc ứng dụng kỹ thuật hiện đại vào sản xuất ngày càng phổ biến . Một vấn đề
cần đề cập đến ở đây là tính chất của lực lượng sản xuất, khi người lao động trình độ
còn thấp, sử dụng công cụ thủ công là chủ yếu, phân công lao động kém phát triển,
từng người có thể đảm nhiệm tất cẩ các khâu của quá trình sản xuất thì lực lượng
sản xuất mang tính cá thể. Khi sản xuất dựa trên kỹ thuật cơ khí hiện đại, nhiều
người lao động cùng tham gia vào một dây truyền sản xuất, mỗi người đảm nhận

một khâu trong dây truyền đó, chuyên môn hoá ngày càng sâu thì lực lượng sản xuất
mang tính chất xã hội hoá ngày càng rộng .
Về quan hệ sản xuất, trước hết xét về mặt khái niệm quan hệ sản xuất là tổng
hợp các quan hệ kinh tế vật chất giữa con người với con người trong quá trình sản
xuất. Chúng ta thấy rằng trong quá trình vận động và phát triển của xã hội , con
người phải quan hệ với tự nhiên, dựa vào tự nhiên để sản xuất ra của cải vật chất,
từng bước nâng cao điều kiện sống của mình. Trong quá trình đó, con người không
tồn tại một cách độc lập mà có quan hệ với gắn bó với nhau. Bởi vậy mà C.Mác đã
viết: “Trong sản xuất người ta không chỉ quan hệ với tự nhiên. Người ta không thể
sản xuất được nếu không kết hợp với nhau theo một cách nào đó để hoạt động
chung và để trao đổi hoạt động với nhau . Muốn sản xuất được, người ta phải có
những mối liên hệ và quan hệ của họ với giới tự nhiên, tức là việc sản xuất chỉ diễn
ra trong khuôn khổ những mối liên hệ và quan hệ xã hội đó”44 C.Mác và
Ăngghen,toàn tập, tập 6, Nxb chính trị quốc gia hà nội 1993,tr 552 .
Như vậy là trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất, con người dù muốn hay
không cũng buộc phải thực hiện các mối quan hệ nhất định với nhau. Quan hệ giữa
người với người trong quá trình sản xuất, phân phối trao đổi và tiêu dùng của cải vật
chất đó gọi là quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của sản xuất,


5

biểu hiện mối quan hệ giữa người với người trong qúa trình sản xuất trên ba mặt cơ
bản:
- Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất
- Quan hệ về tổ chức và quản lý sản xuất
- Quan hệ về phân phối kết quả sản xuất
Ba mặt cơ bản của quan hệ sản xuất có mối quan hệ hữu cơ với nhau, trong đó
quan hệ đối với tư liệu sản xuất đóng vai trò quyết định.
Về mặt quan hệ đối với tư liệu sản xuất, quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất

nói lên rằng trong quá trình sản xuất, người lao động đang sử dụng những tư liệu
sản xuất đó là của ai, và ai là người có quyền định đoạt tư liệu sản xuất đó, hoặc là
quan hệ sở hữu phản ánh quyền sở hữu đối với tư liệu sản xuất chứa đựng các quyền
chiếm hữu quyền sử dụng và quyền định đoạt. Các quyền này có thể hợp nhất trong
một chủ thể, cũng có khi tách rời nhau và thuộc các chủ thể khác nhau, nhưng quyền
định đoạt có tính quyết định bao giờ cũng thuộc về người sở hữu và lợi ích kinh tế
xã hội của người sở hữu.
Trong quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất đóng vai trò
quyết định vì nó quyết định bản chất của quan hệ sản xuất. Bởi vậy cho nên quan hệ
sở hữu là quan hệ xuất phát, quan hệ cơ bản, quan hệ trung tâm của quan hệ sản
xuất. Chính nó quyết định mục đích, hình thức tổ chức kinh doanh, phương thức
quản lý, chi phối việc phân phối sản phẩm làm ra, cũng tức là quyết định địa vị của
các tập đoàn người trong hệ thống sản xuất xã hội. Trong xã hội có phân chia giai
cấp, giai cấp nào nắm quyền sở hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu thì giai cấp đó
nắm quyền chi phối tổng sản phẩm xã hội, nắm quyền thống trị xã hội. Tuy nhiên
trong sự tác động lẫn nhau của các yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất, thì quan hệ về
tổ chức và quản lý, quan hệ phân phối sản phẩm cũng có vai trò rất quan trọng.
Về quan hệ trong tổ chức và quản lý, chúng ta thấy rằng thích ứng với một kiểu
quan hệ sở hữu là một chế độ tổ chức và quản lý sản xuất nhất định. Trong các chế
độ mà nền kinh tế dựa trên chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất thì người sở
hữu tư liệu sản xuất là kể bóc lột còn người lao động không có tư liệu sản xuất là
người bị quản lý và bị bóc lột. Điển hình của sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất
trong lịch sử phát triển xã hội loài người phải kể đến ba loại hình là sở hữu chiếm
hữu nô lệ, sở hữu phong kiến và sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Trong các chế độ


6

xã hội mà tư liệu sản xuất dựa trên chế độ công hữu thì mọi thành viên đều có vị trí
bình đẳng trong tổ chức lao động xã hội và phân phối sản phẩm. Chế độ công hữu

về tư liệu sản xuất đã từng tồn tại trong buổi đầu của xã hội loài người - chế độ công
xã nguyên thuỷ, và trong chế độ cộng sản chủ nghĩa mà loài người đang hướng tới
mà giai đoạn đầu của nó là chủ nghĩa xã hội.
Tuy phụ thuộc vào quan hệ đối với tư liệu sản xuất nhưng trong thực tế quan
hệ tổ chức và quản lý cũng có vai trò rất quan trọng. Ngay cả khi chế độ sở hữu
chưa có gì thay đổi nếu có một phương thức quản lý hợp lý thì sản xuất vẫn phát
triển. Trong nhiều trường hợp nó là yếu tố quyết định trực tiếp đến quy mô, tốc độ
và hiệu quả của nền kinh tế, và khi lợi ích của người lao động mâu thuẫn với chủ sở
hữu và quản lý thì quan hệ tổ chức được điều chỉnh, mâu thuẫn được tháo gỡ thì
quan hệ trên mang tính hợp tác, dân chủ hơn và do vậy có thể khai thác được tính
chủ động sáng tạo của người lao động.
Về quan hệ phân phối sản phẩm, là cách thức phân phối kết quả sản xuất cho
những người có quan hệ với trình độ đó và điều đó phụ thuộc vào quan hệ của họ
đối với tư liệu sản xuất. Do hình thức sở hữu rất đa dạng nên phương thức phân phối
cũng rất phức tạp. Chính ở những khía cạnh này đã bộc lộ những mâu thuẫn về lợi
ích giữa những người tham gia vào quá trình sản xuất và đã xuất hiện các quan hệ
khác nhau trong cách thức phân phối.
Trong ba nội dung trên đây của quan hệ sản xuất thì quan hệ sở hữu đối với tư
liệu sản xuất đóng vai trò quyết định nó chi phối các mặt khác của quan hệ sản
xuất . Khi chế độ sở hữu thay đổi căn bản thì chế độ quản lý phân phối cũng thay
đổi căn bản.
Giữa nhiều mỗi Quan hệ tác động qua lại của quan hệ sản xuất với trình độ
phát triển cuả lực lượng sản xuất không chỉ có sự tác động qua lại giữa chúng phải
xác lập được mối quan hệ. Sự phù hợp này được xét từ lực lượng sản xuất, phải lấy
lực lượng sản xuất làm chuẩn. Sự phù hợp do yêu cầu của lực lượng sản xuất đặt ra
nhằm đáp ứng yêu cầu của lực lượng sản xuất Các Mác viết : “ Trong sự sản xuất xã
hội ra đời sống của mình. Con người ta có những quan hệ nhất định, tất yếu không
tuỳ thuộc vào ý muốn của họ - tức những quan hệ sản xuất những quan hệ này phù
hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuât vật chất của họ”55 C.Mác và
Ăngghen tuyển tập, gồm 6 tập, tập 2 Nxb sự thật hà nội,1981 tr637 . Sự phù hợp này



7

cũng chính là yêu cầu của quy luật là sợi dây liên hệ quy định sự hình thành của
quan hệ sản xuất và buộc quan hệ sản xuất phải tất yếu biến đổi theo sự biến đổi của
lực lượng sản xuất, nếu không có sự phù hợp thì các mối quan hệ của quan hệ sản
xuất với lực lượng sản xuất sẽ là không xác định, không có “ điểm tựa” để tác động
lẫn nhau của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và phương thức sản xuất.
Quan hệ sản xuất, do tính thể chế, tính pháp luật nên chậm biến đổi, trong khi
đó lực lượng sản xuất thường xuyên biến đổi, phát triển, nên sẽ phá vỡ trạng thái
phù hợp, tạo ra mâu thuẫn . Đó là mâu thuẫn tích cực, mâu thuẫn do sự phát triển
của lực lượng sản xuất tạo ra, đòi hỏi phải được tiếp tục phát triển; lúc đó yêu cầu
phù hợp của quy luật đòi hỏi phải thay quan hệ sản xuất đã không còn tác dụng, lỗi
thời bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ mới của lực lượng sản xuất.
Các Mác viết : “Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng các lực lượng sản
xuất vật chất của xã hội sẽ mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có, hay đây
chỉ là biểu hiện pháp lý của những quan hệ sản xuất đó, - mâu thuẫn với những quan
hệ sở hữu, trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển”66
C.Mác và Ăngghen, toàn tập, t 13,Nxb chính trị quốc gia ,hà nội 1993,tr 15. Quan
hệ sản xuất phù hợp tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển, nhưng khi quan
hệ sản xuất không còn phù hợp đã mâu thuẫn với lực lượng sản xuất thì khi đó: “ Từ
chỗ là những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, Mác viết, - những quan hệ
ấy trở thành những xiềng xích của lực lượng sản xuất . Khi đó bắt đầu của một của
một cách mạng xã hội”88 C.Mác và Ăngghen, toàn tập, t 13,Nxb chính trị quốc
gia ,hà nội 1993,tr 15. Khi đã mâu thuẫn, quan hệ sản xuất chẳng những không còn
cần thiết đối với lực lượng sản xuất, mà còn trở thành những ràng buộc, cản trở gây
khó khăn cho phát triển của lực lượng sản xuất. Vì vậy cần phải thay quan hệ sản
xuất cũ, đã không còn phù hợp bằng quan hệ sản xuất mới, phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất mới.

Lực lượng sản xuất mang tính kế thừa, là kết quả của sự phát triển kinh tế xã
hội loài người, các thế hệ sau khi ra đời đã có những lực lượng sản xuất do thế hệ
trước để lại. Đó là những cơ sở hạ tầng của sản xuất, là những công cụ sản xuất và
những tri thức mà thông qua đào tạo lớp người sau có thể học tập sử dụng các tư
liệu lao động đã có và tiếp tục sáng tạo ra những tư liệu lao động mới. Từ tính khách
quan của lực lượng sản xuất và tính quyết định của nó đối với quan hệ sản xuất nên


8

con người không thể tuỳ tiện tạo lập một quan hệ sản xuất theo ý muốn chủ quan,
cho dù điều đó là hết sức tốt đẹp về đạo lý và là nguyện vọng của con người luôn
hướng tới hoặc ngược lại ngưòi ta cũng không thể duy trì một quan hệ sản xuất đã
lạc hậu để bảo vệ lợi ích của một số người trong xã hội. Các Mác đã chỉ ra: “ Không
một hình thức xã hội nào diệt vong trước khi các lực lượng sản xuất mà hình thái xã
hội đó tạo được địa bàn đầy đủ cho phát triển vẫn chưa phát triển, và những quan hệ
sản xuất mới cao hơn, cũng không bao giờ xuất hiện trước khi những điều kiện vật
chất của những quan hệ đó chưa chín muồi trong lòng bản thân xã hội cũ”99 C.Mác
và Ăngghen, toàn tập, t 13,Nxb chính trị quốc gia ,hà nội 1993,tr 16.
Sự tồn tại và biến đổi quan hệ sản xuất là do lực lượng sản xuất quyết định.
Lực lượng sản xuất như thế nào thì quan hệ sản xuất như thế ấy. Lực lượng sản xuất
là yếu tố động nhất, nó không ngừng biến đổi, bởi trong quá trình sản xuất người lao
động dần dần tích luỹ được kinh nghiệm nâng cao kỹ năng, kỹ xảo của mình, họ tìm
cách cải tiến công cụ sản xuất để làm ra càng nhiều của cải vật chất vì chính lợi ích
của mình. Đạt được những kết quả xã hội đó chính là từ sự phát triển của lực lượng
sản xuất và tùy theo sự biến đổi của lực lương sản xuất mà quan hệ sản xuất, quan
hệ kinh tế giữa người ta với nhau cũng biến đổi. C. Mác đã viết: “ Những quan hệ
xã hội đều gắn liền mật thiết với những lực lượng sản xuất. Do có được những lực
lượng sản xuất mới, loài người thay đổi phương thức sản xuất của mình và do thay
đổi phương thức sản xuất... loài người thay đổi tất cả những quan hệ sản xuất xã hội

của mình. Cái cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa , cái cối xay chạy
bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản công nghiệp”110 C.Mác và Ăngghen,
toàn tập, t 4,Nxb chính trị quốc gia ,hà nội 1995,tr 1870. Ngay trong các nước tư
bản chủ nghĩa, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và lực lượng sản xuất
đã phá bỏ cái vỏ chật hẹp của sở hữu tư nhân tư bản trong buổi bình minh của nó.
Các hình thức sở hữu ngày càng càng được đa dạng hóa và thích ứng với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất.
Trình độ của lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ
sản xuất có tính độc lập tương đối của nó, điều này được biểu hiện quan hệ sản xuất
tác động trở lại lực lượng sản xuất theo hai chiều hướng. Khi quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ của lực lượng sản xuất thì nó thúc đẩy, ngược lại khi không phù
hợp thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp được biểu


9

hiện: là cả ba mặt của quan hệ sản xuất phải đáp ứng trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất; Quan hệ sản xuất phải tạo điều kiện, sử dụng và kết hợp tốt giữa tư
liệu sản xuất và sức lao động bảo đảm tái sản xuất mở rộng có hiệu quả; Nó mở ra
những điều kiện thích hợp cho việc kích thích vật chất, tinh thần đối với người lao
động. Khi quan hệ sản xuất phù hợp nó sẽ thành động lực thúc đẩy sự phát triển của
lực lượng sản xuất. Khi quan hệ sản xuất không còn thích ứng với trình độ của lực
lượng sản xuất nó sẽ trở thành vật cản, thậm trí kìm hãm sự phát triển của lực lượng
sản xuất trong một thời gian nhất định, nhưng không thể làm tan rã lực lượng sản
xuất. Sự phát triển của lực lượng sản xuất là do nhu cầu của xã hội và do mâu thuẫn
bên trong của lực lượng sản xuất, là mâu thuẫn giữa trình độ khả năng của lực lượng
sản xuất với nhu cầu chinh phục cải tạo tự nhiên, nhu cầu biến đổi đối tượng sản
xuất. Mâu thuẫn này thường xuyên đặt ra, liên tục phát sinh trong quá trình sản xuất.
Việc giải quyết mâu thuẫn bên trong này đòi hỏi phải áp dụng khoa học kỹ thuật,
công nghệ vào sản xuất, đưa những phát minh sáng chế vào sản xuất, làm cho công

cụ sản xuất không ngừng được hoàn thiện. Sự không phù hợp của quan hệ sản xuất
với lực lượng sản xuất có thể xẩy ra trong các trường hợp quan hệ sản xuất đã lạc
hậu lỗi thời hoặc quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, cũng có thể quan hệ
sản xuất tiến bộ được con người tạo dựng theo ý muốn chủ quan của mình khi mà
những cơ sở vật chất bảo đảm cho quan hệ sản xuất mới đó chưa xuất hiện, hoặc khi
mâu thuẫn đã bộc lộ gay gắt đòi hỏi phải giải quyết nhưng con người không phát
hiện được, cũng như phát hiện được mà không giải quyết hay giải quyết một cách
sai lầm, chủ quan, thì tác dụng kìm hãm của quan hệ sản xuất sẽ trở thành nhân tố
phá hoại đối với lực lượng sản xuất.
Trong lịch sử phát triển của các phương thức sản xuất xã hội đã qua, quan hệ
sở hữu tư liệu sản xuất là mặt quan trọng nhất của quan hệ sản xuất. Sự thay đổi chế
độ sở hữu sẽ kéo theo sự thay đổi chế độ quản lý và phân phối, cả ba mặt này sẽ dần
được củng cố và hoàn thiện, cùng với sự phát triển kinh tế. Khi quan hệ sở hữu về
cơ bản chưa biến đổi, những cải tiến quản lý và phân phối có thể tạo nên sự phát
triển đáng kể của sản xuất hoặc trong trường hợp ngược lại, chế độ quản lý và phân
phối có thể hạn chế, kìm hãm sự phát triến sản xuất khi nó ảnh hưởng đến lợi ích,
làm cho người lao động sản xuất kinh doanh không còn động lực và không quan tâm
đến kết quả sản xuất và như vậy nó sẽ phá hoại sản xuất làm cho lực lượng sản xuất


10

không phát triển được, sự kìm hãm của quan hệ sản xuất chỉ là tạm thời. Trong các
trường hợp quan hệ sản xuất đã lạc hậu, mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất với lực
lượng sản xuất sẽ nảy sinh. Biểu hiện mâu thuẫn này trong xã hội là sự đối kháng
giai cấp và cuộc đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn đến cách mạng xã hội, làm cho quan
hệ sản xuất cũ lỗi thời lạc hậu bị xóa bỏ, thay thế nó bằng quan hệ sản xuất mới, quy
định bản chất của nền kinh tế xã hội và mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển
sang một thời kỳ mới.
Cách mạng xã hội nổ ra, là lúc mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ

sản xuất đã trở nên cực kỳ gay gắt, lực lượng sản xuất khi đó đã phát triển cao, đòi
hỏi phải có quan hệ sản xuất mới. Giai cấp cách mạng, sau khi giành được chính
quyền, đưa những quan hệ mới - những quan hệ mà vì nó đã tiến hành đấu tranh vào các quá trình kinh tế - xã hội là có thể tạo nên sự phù hợp nhất định giữa quan
hệ sản xuất với lực lượng sản xuất. Khi mâu thuẫn được giải guyết thì cũng là lúc
quá trình phù hợp mới được xác lập, nhưng trên cơ sở mới của lực lượng sản xuất,
mâu thuẫn giải quyết đến đâu thì sự phù hợp được xác lập đến đó. Cũng như việc
giải quyết mâu thuẫn, quá trình phù hợp cũng diễn ra dần dần từng bước, từ ít đến
nhiều, từ thấp đến cao, từ từng mặt đến toàn bộ. Khi sự phù hợp đạt được về cơ bản,
thì có thể nói là đã tạo ra một sự thống nhất giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản
xuất. Trong sự vận động của các quá trình sản xuất của xã hội sự phù hợp và mâu
thuẫn của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất luôn chuyển hóa, thay đổi lẫn
nhau. Khi mâu thuẫn khi phù hợp, từ phù hợp đến mâu thuẫn và mâu thuẫn được
giải quyết sẽ tạo ra được sự phù hợp mới cao hơn, sự phát triển của lực lượng sản
xuất lại dẫn đến mâu thuẫn. Cứ như thế phù hợp mâu thuẫn chuyển hóa lẫn nhau tạo
nên quá trình tiến lên của lực lượng sản xuất, quá trình đổi mới liên tục các quan hệ
sản xuất, quá trình thay đổi tiến bộ hơn của các lực lượng sản xuất, đưa xã hội
chuyển từ phương thức sản xuất này sang phương thức sản xuất khác. Đó là sự vận
động của quy luật phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất.
III. NHẬN THỨC VÀ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA TRONG GIAI
ĐOẠN ĐỔI MỚI HIỆN NAY


11

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng năm 1986 chủ trương đổi mới
toàn diện, đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội phải đi từ đổi
mới kinh tế đến từng bước đổi mới chính trị, nhưng phải có bước đi thích hợp, trước
hết là phải đổi mới tư duy, đặc biệt là tư duy kinh tế. Với mốc lịch sử quan trọng
này, ở nước ta đã không còn thực hiện mô hình kinh tế kế hoạch hoa tập trung mà

chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Thực chất của công cuộc đổi mới trong lĩnh vực xây dựng và hoàn thiện quan
hệ sản xuất ở nước ta tự năm 1986 là nhận thức đúng, đầy đủ hơn quy luật khách
quan và vận dụng phù hợp vào hoàn cảnh Việt Nam. Nước ta đang trong quá trình
tiến lên từ một nền sản xuất nhỏ tới một lần sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Đó là quá
trình chuyển từ nền kinh tế tự cung, tự cấp sang nền kinh tế hàng hóa. Nền kinh tế
hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà tồn tại khách quan, cần thiết trong
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Điều kiện tiền đề của sản xuất hàng hóa là sự
phân công lao động và sự khác biệt cả chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất. Vì vậy phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần đa dạng các hình thức sở hữu, công hữu phải giữ
vai trò chi phối là xu hướng tất yếu ở nước ta hiện nay. Điều này cho phép phát triển
mạnh mẽ lực lượng sản xuất, đồng thời giữ được bản chất của chế độ xã hội chủ
nghĩa.
Từ nhận ấy Đại hội Đảng VI đã đưa ra quan điểm về nền kinh tế nhiều thàn
phần : “ Đi đôi phát triển nền kinh tế quốc doanh , kinh tế tập thể , tăng cường
nguồn tích lũy tập trung của nhà nước và tranh thủ vốn nước ngoài , cần có chính
sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thàng phần kinh tế khác”111 Văn kiện đại hội
Đảng VI,tr 561.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (6/1991) đã thông qua cương
lĩnh xây dựng đất ước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh đã chỉ
ra mô hình chú nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng với 6 đặc trưng cơ bản trong
đó có một đặc trưng: Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện
đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
Với chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước bằng pháp luật, chính sách kinh tế


12


hoặch và các công cụ khác. Đại hội lần thư VII của Đảng đòi hỏi phải phát huy cho
được “Thế mạnh của các thành phần kinh tế” trong thời kỳ quá độ ở nước ta là: kinh
tế quốc doanh kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản
nhà nước, các thành phần kinh tế này “ vừa cạnh tranh vừa hợp tác bổ xung cho
nhau trong nền kinh tế quốc dân thống nhất”. Nhằm tạo ra sự đa dạng hóa trong sản
xuất kinh doanh mở ra hướng đi mới cho nền kinh tế phát triển. Nhà nước khuyến
khích mọi người kinh doanh sản xuất làm giàu chính đáng, nhưng sẽ thông qua
chính sách điều tiết thu nhập và các chính sách bảo hiểm, bảo trợ xã hội để giảm bớt
chênh lệch về thu nhập quá lớn giữa các tầng lớp dân cư. Bằng cách đó nhà nước sẽ
thực hiện gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện công bằng xã hội.
Phát triển kinh tế nhiều thành phần gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện công
bằng xã hội là tư tưởng chủ đạo trong từng bước đi và trong suốt quá trình đi lên
chủ nghĩa xã hoọi ở nướcc ta. Đó cũng là yêu cầu cơ bản hàm chứa cả nội dung kinh
tế và chính trị, để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa khi đất nước chuyển sang
nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên nếu chủ nhấn mạnh đến công bằng xã hội mà
không thấy sự kích thích từ lợi ích kinh tế sẽ làm trtiệt tiêu sự hứng thú, lòng nhiệt
tình hăng say sáng tạo của mỗi người, với tư cách là những thành viên sáng tạo
trong hoạt động kinh doanh sản xuất. Cho nên cần phải giải quyết hài hòa các lợi ích
kinh tế, trong đó coi trọng lợi ích trực tiếp của người lao động, đa dạng hóa các hình
thức sản xuất kinh doanh, các hình thức thu nhập đối với người lao động, xóa bỏ xu
hướng phân phối bình quân, thực hiện phân phối theo kết quả lao, hiệu qủa trong
sản xuất kinh doanh, theo tài sản hay vốn đầu tư vào sản xuất, phân phối thông qua
các phúc lợi xã hội. Giải quyết đúng đắn chính sách thu nhập và các chính sách xã
hội khác sẽ góp phần tích cực vào quá trình đổi mới toàn diện các hoạt động kinh tế
xã hộ ở nước ta.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng khảng định đẩy mạnh công
nhiệp hóa, hiện đại hóa để tiếp tục phát triển đất nước. Đại hội đã đánh dấu một mốc
mới, đó là nhờ có chủ trương đổi mới đúng đắn, đã đưa nước ta thoát khỏi khủng
hoảng kinh tế và bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
và xác định, đó là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ.



13

Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã vạch ra mục tiêu phát triển của lực lượng sản
xuất nói chunglà: “Từ nay đến năm 2020 ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở
thành một nước cong nhiệp.
Lực lượng sản xuất đến lúc đó sẽ đạt trình độ tương đối hiện đại phần lớn lao
động thủ công được thay thế bằng lao động sử dung máy móc, điện khí hóa cơ bản
được thực hiện trong cả nước, năng xuất lao động xã hội và hiệu qủ sản xuất kinh
doanh cao hơn nhiều so với hiện nay.
Khoa học tự nhiên và công nghệ có khả năng nắm bắt và vận dụng được nhiều
thành tựu mới nhất của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ khoa học xã hội và
nhân văn có khả năng làm cơ sở cho việc xây dựng hình thái ý thức xã hội mới. Sự
phát triển của khoa học đủ sức cung cấp luận cứ cho viêc họch đinh các chính sách,
chiến lược và quy hoạch phát triển”112 Đảng cộng sản việt nam, văn kiện đai hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,Nxb chính trị quốc gia, 1996,tr 80,812.
Kế thừa và vận dụng sáng tạo tư tưởng đổi mới của các kỳ đại hội VI, VII,
VIII. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ: Ưu tiên phát triển
lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Chủ trương đó đã biểu hiện rõ trong xây dựng quan hệ sản xuất mới theo định
hướng xã hội chủ nghĩa trước hết phải ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất. Bởi một
nền sản xuát phát triển cao trước hết phải dựa vào lực lượng sản xuất hiện đại, do đó
phát triển xã hội là phải tập trung cho phát triển lực lượng sản xuất và xác lập quan
hệ sản xuất cũng nhằm giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất. Đặc trưng của
chủ nghĩa xã hội là có một nền sản xuất phát triển cao, dựa trên một lực lượng sản
xuất hiện đại đối với nền kinhtế nước tan còn nhiều mặt lạc hậu thì phải tập trung
sức phát triển sản xuất là nhiệm vụ qun trọng hàng đầu. Mặt khác có thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển từ đó mới có thể xác lập quan hệ sản xuất mới phù hợp với

trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, chống chủ quan duy ý chí nóng vội trong
cải tạo quan hệ sản xuất.
Để phát trtiển lực lượng sản xuất có hàm lượng công nghệ cao cần phải tận
dụng mọi khả năng để nắm bắt được trình độ tiên tiến, xây dựng và phát triển nền
kinh tế trí thức. Do đó văn kiện đại hội IX của Đảng chỉ rõ: “ Phát huy lợi thế của
đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt được trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt


14

là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều
hơn, ở mức cao và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học công nghệ, từng
bướcc phát triển kinh tế trí thức” 113 Đảng cộng sản việt nam, văn kiện đai hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IX,Nxb chính trị quốc gia, 2001,tr 913, coi “ Phát triển khoa
học và công nghệ cùng với phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là
nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”114 Đảng
cộng sản việt nam, văn kiện đai hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,Nxb chính trị quốc
gia, 2001,tr 1124, đông thời phát huy mọi nguồn lực trí tuệ và sức mạnhtinh thần
của người Việt Nam, phair coi con người là lực lượng sản xuất hàng đầu là “ yếu tố
cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững” 115 Đảng cộng
sản việt nam, văn kiện đai hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,Nxb chính trị quốc gia,
2001,tr 1095.
- Đại hội IX (2001) khẳng định đường lối và chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội là: “Ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất
phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa” . Về phương hướng cụ thể, văn kiện đại
hội IX chỉ rõ: “Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn với xây dựng quan hệ sản
xuất mới phù hợp trên cả 3 mặt sở hữu, quản lý và phân phối”; về xây dựng quan hệ
sản xuất, đại hội IX khẳng định, tiếp tục thực hiện nhất quán chính sách phát triển
nền kinh tế nhiều thành phần với 3 hình thức sở hữu cơ bản: Sở hữu toàn dân, tập
thể và sở hữu tư nhân. Với 6 thành phần kinh tế cơ bản: Kinh tế nhà nước; kinh tế

tập thể; kinh tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước; kinh
tế có vốn đầu tư nước ngoài. trong đó xác định: “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững
chắc của nền kinh tế quốc dân” .
- Đại hội X (2006) Tiếp tục đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới đất nước,
Đảng ta khẳng định phải: “Giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản
xuất, nâng cao đời sống nhân dân” . Mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được xác
định là xây dựng một nền kinh tế phát triển cao trên cơ sở lực lượng sản xuất hiện
đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu. Phát triển lực lượng sản xuất,
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu, “trong đó kinh tế nhà


15

nước giữ vai trò chủ đạo” . Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại nhằm tranh thủ vốn,
công nghệ, kinh nghiệm sản xuất, kinh doanh để phát triển kinh tế.
- Đại hội XI (2011) của Đảng đã khẳng định: Phát triển lực lượng sản xuất hiện
đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản
lý và phân phối. Đại hội xác định nội dung đặc trưng kinh tế của xã hội xã hội chủ
nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là: “Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng
sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp” . Sự phù hợp ở đây bao gồm
cả phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất hiện đại và phù hợp với
bản chất, mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, tạo điều kiện: “Phát triển mạnh mẽ lực
lượng sản xuất với trình độ khoa học, công nghệ ngày càng cao; đồng thời hoàn
thiện quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” .
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất có ý nghĩa phương pháp luận rất quan trọng trong hoạt động quân sự và xây
dựng quân đội. Quân đội nhân dân Việt Nam là một bộ phận thuộc kiến trúc thượng
tầng xã hội, là công cụ bạo lực vũ trang để bảo vệ chế độ kinh tế. Bởi vậy, cần thực

hiện tốt chức năng là đội quân lao động sản xuất, tham gia phát triển kinh tế để góp
phần tích cực vào sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay.
Quá trình nghiên cứu môn triết học ở bậc sau đại học, đã giúp tôi từng bước có
được nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn rất nhiều, trên tất cả các mặt, đặc biệt là nguồn
gốc, cơ sở lý luận và nhận thức sâu sắc hơn về quan điểm đường lối của Đảng ta
hiện nay. Đồng thời làm cơ sở để bản thân tôi tiếp tục học tập được tốt hơn trong
các môn học khác của chương trình tại Học viện Chính trị.


16



×