Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Tài liệu TIỂU LUẬN: Phép biện chứng về mối hệ phổ biến và vận dụng phân tích mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (473.37 KB, 27 trang )







TIỂU LUẬN:

Phép biện chứng về mối hệ phổ biến
và vận dụng phân tích mối liên hệ
giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự
chủ với hội nhập kinh tế






1. Xu hướng hội nhập thế giới xu hướng của thời đại:
Như chúng ta đã biết, cách đây hàng nghìn năm đã có sự trao đổi hàng hoá trong
từng quốc gia và giữa các quốc gia với nhau. Tuy nhiên, suốt thời gian dài dưới thời kì
chiếm hữu nô lệ và thời kì phong kiến quan hệ trao đổi hàng hoá phát triển không đáng
kể. Về mặt cơ bản, nền kinh tế của từng quốc gia vẫn mang tính tự cung tự cấp. Với sự
xuất hiện của chủ nghĩa tư bản, quan hệ trao đổi hàng hoá đã có sự thay đổi về chất.
Trong từng quốc gia, nền kinh tế với một thị trường thống nhất được hình thành, các
loại hàng hoá và số lượng hàng hoá trao đổi được tăng lên rất nhiều, đặc biệt sức lao
động cũng trở thành hàng hoá. Chủng loại hàng hoá và số lượng hàng trao đổi giữa các
quốc gia cũng tăng lên nhanh chóng. Chủ nghĩa tư bản ngày càng phát triển thì lượng
hàng hoá trao đổi giữa các quốc gia càng lớn, chính vì vậy sự phụ thuộc về mặt kinh tế
giữa các quốc gia càng chặt chẽ hơn.
Vào những năm 80 của thế kỉ XX, khoa học kĩ thuật phát triển như vũ bão, con


người đang dùng khối óc vĩ đại mà tự nhiên ban cho để khám phá và chinh phục thế
giới. Chính nhờ sự phát triển như vậy của khoa học kĩ thuật mà sự giao lưu giữa các
nước, các cá nhân, các nhà kinh doanh với nhau trở nên dễ dàng. Các nước có thể học
tập, trao đổi với nhau tạo nên sự đan xen đa chiều, vừa ảnh hưởng, vừa tuỳ thuộc vào
nhau. Dần dần, trên thế giới hình thành một xu thế đó là: xu thế “Toàn Cầu Hoá”. Hiện
nay, xu thế này đang ngày càng lan rộng thu hút hầu hết các nước trên thế giới tham
gia.
Việt Nam cũng là một thành viên trong ngôi nhà chung của thế giới nên cũng không
thể đứng ngoài vòng xoáy trên. Từ lâu nay, Đảng và Nhà Nước ta đã xác định rất rõ
thái độ của chúng ta với “Toàn Cầu Hoá”:
“ Việt Nam luôn ủng hộ quá trình hội nhập và hợp tác mọi bên cùng có lợi”
Điều này đã được các nhà lãnh đạo Đảng ta khẳng định rất rõ ràng trong các kì đại
hội. Việt Nam đã có tới 10 năm đổi mới và mở cửa để hội nhập và đang tiếp tục cố
gắng để hoà nhập vào xu thế chung của thế giới.
Từ 10 năm nay, Việt Nam không ngừng xây dựng đất nước vững mạnh và tăng tốc
hội nhập để theo kịp các nước trên thế giới. Chúng ta đã có được một số thành tựu nhất



định nhưng cũng còn rất nhiều thiếu sót. Tuy nhiên, nhân dân ta quyết một lòng xây
dựng đất nước nhanh chóng trở thành một nước phát triển và hội nhập thật tốt.
2. ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài này:
Như các nhà lãnh đạo của chúng ta đã khẳng định, Việt Nam luôn muốn hoà nhập
thật tốt vào hội nhập thế giới. Nhưng làm sao vừa hội nhập cho thật tốt lại vừa đảm bảo
được chủ quyền. Trên thực tế đã có rất nhiều bài học cay đắng của các nước đi trước,
do hội nhập không đúng đã dẫn tới mất chủ quyền phụ thuộc vào bên ngoài. Chính vì
vậy việc nghiên cứu đề tài này sẽ giúp tôi và các bạn hiểu rõ thêm về “Toàn Cầu Hoá”
đồng thời biết được những bước đi của Việt Nam trong quá trình hội nhập. Bản tiểu
luận này sẽ giúp chúng ta hiểu thêm về những thành tựu của nước ta đã thực hiện được
và những bước đi sắp tới.


Chương II : Phép biện chứng duy vật là khoa học về mối liên hệ phổ biến

1. Triết học Mac- LêNin:
Triết học Mac- LêNin cũng như toàn bộ chủ nghĩa Mac- LêNin ra đời vào những
năm 40 của thế kỉ XIX do C.Mac và Ph.Ăngghen sáng lập ra. Sau đó, V.I.LêNin phát
triển nó cao hơn.
Triết học Mac- LeNin ra đời không phải chỉ do sự suy tư cá nhân, sự tưởng tượng
của C.Mac và Ph.Ăngghen mà do những nguyên nhân kinh tế, xã hội và sự phát triển
của nhân loại trước đó quy định. Triết học Mac- LêNin ra đời dựa trên 3 cơ sở cơ bản
sau:
(a) Cơ sở về kinh tế và xã hội: Vào những năm đầu của thế kỉ XIX các cuộc
cách mạng công nghiệp đã đem lại cho các nước TBCN sự phát triển mạnh mẽ. Để
nhận xét về điều này C.Mac đã nói: “ Giai cấp tư sản trong quá trình thống trị giai cấp
chưa đầy một thế kỉ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực
lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước cộng lại”. Sự phát triển ấy đã chứng minh
tính chất tiến bộ của phương thức sản xuất TBCN hơn hẳn các chế độ khác trước đó.
Tuy nhiên, sự phát triển đó ngày càng làm hằn sâu thêm sự mâu thuẫn giữa giai cấp tư



sản và giai cấp vô sản. Giai cấp vô sản ngày càng lớn mạnh và đứng lên đấu tranh
giành quyền lợi. Chính vì vậy họ cần một thứ vũ khí lý luận sắc bén và triết học Mac-
LêNin ra đời đã thoả mãn được yêu cầu đó.
(b) Cơ sở lý luận: Triết học Mac- LêNin dựa trên phép biện chứng của
Hêghen và quan điểm duy vật triệt để của Phoi-ơ-băc. Hai ông C.Mac và Ph.Ăngghen
đã dựa và đó sáng lập ra phép biệnchứng duy vật. Các ông đã kế thừa và phát huy
những mặt tích cực của Hêghen và Phoi-ơ -băc. Đồng thời, hai ông cũng dần dần bù
đắp những thiếu sót.
(c) Cơ sở khoa học tự nhiên: Do sự phát triển mạnh của KH-TN đã đánh đổ

phương pháp tư duy đang thống trị lúc bấy giờ là: phương pháp siêu hình. Điều đó mở
đường cho sự ra đời và phát triển của phép biệ chứng duy vật. Trong số các phát minh
thì có 3 phát minh ảnh hưởng nhiều nhất tới sự ra đời của triết học Mac:
+ Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng.
+ Học thuyết về cấu tạo tế bào.
+ Học thuyết về sự tiến hoá.
2. Phép biện chứng duy vật là khoa học về mối liên hệ phổ biến
2.1 Liên hệ – Liên hệ phổ biến:
Liên hệ: là sự quy đinh lẫn nhau, tác động lẫn nhau giữa các yếu tố trong
cùng một sự vật hoặc giữa các sự vật hiên tượng với nhau.
Liên hệ phổ biến: là những mố liên hệ tồn tại một cách phổ biến cả trong
TN, XH và cả tư duy. Mối liên hệ phổ biến mang tính chất bao quát tồn tại thông qua
các mối liên hệ đặc thù của sự vật hiện tượng, nó phản ánh tính đa dạng và đặc thù của
thế giới.
2.2 Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến:
Thế giới được tạo thành từ những sự vật, những hiện tượng, những quá trình
khác nhau. Vậy chúng ta đặt ra hai câu hỏi:
+ Giữa chúng liệu có mối liên hệ qua lại với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau hay
chúng tồn tại biệt lập, tách rời nhau?



+ Nếu chúng tồn tại trong sự liên hệ qua lại, thì nhân tố gì quy định sự liên
hệ đó?
Để trả lời câu hỏi thứ nhất, các nhà triết học theo quan điểm biên chứng cho
rằng thế giới là một chỉnh thể thống nhất. Các sự vật, hiện tượng và các quá trình cấu
thành thế giới đó vừa tách biệt nhau, vừa có sự liên hệ qua lại, thâm nhập và chuyển
hoá lẫn nhau. Khi trả lời câu hỏi thứ hai, những người theo quan điểm biện chứng cho
rằng cơ sở của sự liên hệ qua lại giữa các sự vật và hiện tượng là tính thống nhất vật
chất của thế giới. Theo quan điểm này các dự vật, các hiện tượng đa dạng trên thế giới

chỉ là những dạng tồn tại khác nhau của một thế giới duy nhất là thế giới vật chất.
Ngay cả tư tưởng của con người cũng là một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc
người, nội dung của chúng cũng chỉ là kết quả phản ánh của các quá trình vật chất
khách quan. Ngoài ra, theo quan điểm duy vật biên chứng còn thừa nhận tính đa dạng
của sự liên hệ: có mối liên hệ bên ngoài, mối liên hệ bên trong; có mối liên hệ thứ yếu
và mối liên hệ chủ yếu Các loại liên hệ khác nhau có vai trò khác nhau đối với sự vận
động vầ phát triển của các sự vật hiện tượng. Trong đó, mối liên hệ bên trong giữ vai
trò quyết định đối với sự tồn tại, vân động, phảttiển của sự vật. Mối kiên hệ bên ngoài,
nói chung, không có ý nghĩa quyết định và thường phải thông qua mối liên hệ bên
trong mà phát huy tác dụng.Như vậy, quan điểm duy vật biện chứng về sự liên hệ đòi
hỏi phải thừa nhận tính tương đối trong sự phân loại các mối liên hệ. Các mối liên hệ
khác nhau có thể chuyển hoá lẫn nhau. Trong tính đa dạng của hình thức và các loại
liên hệ tồn tại trong tự nhiên, trong xã hội và tư duy con người, phép biện chứng duy
vật tập trung nghiên cứu những loại liên hệ chung mang tính phổ biến.
2.3 Yêu cầu của nguyên lý phổ biến:
2.3.1 Quan điểm toàn diện: Với tư cách là một nguyên tắc phương pháp
luận trong việc nhận thức các sự vật hiện tượng, quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta
phải xem xét nó:
+ Trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, các thuộc
tính khác nhau của chính sự vật đó.



+ Trong mối liên hệ qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác (kể cả trực
tiếp và gián tiếp).
Hơn thế nữa, quan điểm toàn diện còn đòi hỏi để nhận thức được sự vật
hiện tượng chúng ta cần xem xét nó trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con
người. Quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện không chỉ ở chỗ nó chú ý
tới nhiều mặt, nhiều mối kiên hệ. Việc chú ý tới nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự
vật vẫn có thể là phiến diện, nếu chúng ta đánh giá ngang nhau những thuộc tính,

những tính quy định khác nhau của sự vật được thẻ hiện trong những mối liên hệ khác
nhau đó. Quan điểm toàn diện chân thực đòi hỏi chúng ta phải đi từ tri thức về nhiều
mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật đến chỗ khái quát đẻ rút ra cái bản chất chi phối sự
tồn tại và phát triển của sự vật hay hiện tượng đó. Quan điểm toàn diện khác với chủ
nghĩa chiết trung và thuật nguỵ biện. Chủ nghĩa chiết trung tuy cũng tỏ ra chú ý tới
nhiều mặt khác nhau thế nhưng lại kết hợp vô nguyên tắc các mối liên hệ khác nhau
của sự vật. Chính vì vậy hoàn toàn bất lực khi phải đưa ra một quyết sách đúng. Còn
thuật nguỵ biện cũng để ý tới những mặt khác nhau của sự vật, nhưng lại đưa cái không
cơ bản thành cái cơ bản, cái không bản chất thành cái bản chất. Cả hai đều đưa đến
nhứng kết luận sai lầm.
2.3.2 Quan điểm lịch sử cụ thể:
Mọi sự vật hiện tượng đều tồn tại trong thời gian, không gian nhất định
và mang dấu ấn của thời gian, không gian đó. Việc vận dụng quan điểm đó đòi hỏi phải
chú ý đúng mức tới hoàn cảnh lịch sử cụ thể đã làm phải tính vấn đề, tới sự ra đời và
phát triển của nó, tới bối cảnh hiện thực – cả khách quan và chủ quan – quy định những
giải pháp, những phượng tiện để giải quyết vấn đế nảy sinh.
3. Vậy tại sao khi nghiên cứu vấn đề này chúng ta phải dùng mối liên hệ
phổ biến:
Toàn cầu hoá và việc xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ vững mạnh là hai
việc nhìn bề ngoài là hai việc tách biệt. Thế nhưng, chúng lại là hai vấn đề liên quan
mật thiết với nhau. Chính vì vậy, muốn hiểu được chúng liên quan với nhau như thế
nào thì chúng ta phải đi sâu vào nghiên cứu. Trong khi nghiên cứu chúng ta không thể



chỉ nhìn từ một phía mà cần có cái nhìn toàn diện. Như trong mối liên hệ phổ biến đã
khẳng định, chúng ta phải nhìn vào cái bản chất nhất của sự vật. Mà giữa Toàn cầu hoá
và việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ lại có mối liên hệ bản chất, cái này thúc
đẩy giúp cái kia trở nên vững mạnh hơn. Nếu chúng ta không dùng mối liên hệ phổ
biến để xem xét sẽ dễ dẫn đến chỉ nhìn thấy sự liên quan bên ngoài một cách sơ xài.


Chương III: Toàn cầu hoá
1. Toàn cầu hoá kinh tế là gì? Những đặc điểm của toàn cầu hoá kinh tế:
Con người là một loài sinh vật đặc biệt, chúng ta có trí thông minh và có trình
độ tổ chức xã hội cao. Con người sống với nhau dựa trên rất nhiều mối quan hệ, trong
đó quan hệ về kinh tế là chủ yếu. Có một số nhà nghiên cứu cho rằng “ toàn cầu hoá”
đã có từ rất lâu và trước đây chính là quá trình quốc tế hoá. Vậy trong tình hình hiện
nay “Toàn cầu hoá” là những mối quan hệ kinh tế vượt qua biên giới quốc gia, với quy
mô toàn thế giới, đạt trình độ và chất lượng cao hơn các quá trình quốc tế hoá trước
kia. Toàn cầu hoá kinh tế có một số đặc điểm sau khác với các quá trình quốc tế hoá
trước kia:
a) Sau khi Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ thì Mỹ là một siêu cường
lớn nhất thế giới. Tuy nhiên, trong tình hình hiện nay, Mỹ đang có chiều hướng chững
lại và các nước phát triển khác đang vươn lên, điều đó tạo nên một thế giới có nên kinh
tế không còn một cực như trước kia mà là đa cực.
b) Kinh tế thị trường nhiều kiểu, nhiều mức độ khác nhau đang lan tràn
khắp thế giới, kéo theo nó là sự tăng cường tự do hoá kinh tế và xu hướng vừa hợp tác
vừa cạnh tranh.
c) Cách mạng khoa học kĩ thuật làm cho con người có khả năng thực hiện
rất nhiều việc mà trước đây không thể. Chính điều này đã thúc đẩy sự toàn cầu hoá một
cách nhanh chóng.
d) Các mối quan hệ của toàn cầu hoá ngày càng toàn diện chứ không phải
chỉ dừng lại ở thương mại xuất – nhập khẩu.
e) Toàn cầu hoá được thúc đẩy bởi một số nhân tố sau:



+ Đó là các công ty cực lớn, vừa, nhỏ tới từng cá thể tích cực tham gia
vào quá trình toàn cầu hoá. Trong hàng triệu, hàng nghìn công ty trên, có vai trò lớn
nhất nằm trong tay khoảng chừng 50.000 công ty xuyên quốc gia

+ Đó là do sự thúc đẩy tích cực của các chính phủ.
+ Đó là do sự tác động của các tổ chức phi chính phủ, họ đang thành lập
ngày càng đông đảo, đa dạng và hoạt động ngày càng có hiệu quả trong quá trình toàn
cầu hoá.
+ Đó là các tổ chức kinh tế, tài chính, thương mại khu vực.
+ Đó là các tổ chức kinh tế, tài chính, thương mại quốc tế như WTO,
IMF
f) Toàn cầu hoá phải đi đôi với hội nhập khu vực và các quan hệ song
phương
g) Toàn cầu hoá, theo các nhà nghiên cứu thì đây là một quá trình “mở”
đang còn vân động và sẽ còn trải qua nhiều giai đoạn.
2.Bản chất của toàn cầu hoá:
Hiện nay, nói đến vấn đề này trên thế giới đang có hai thái cực tranh cãi nhau rất
gay gắt:
+ Quan điểm thứ nhất cho rằng: toàn cầu hoá là một điều tất yếu phải xảy ra.
Mọi quốc gia không thể tránh khỏi, chính sách hợp lý nhất mà các quốc gia phải theo là
tham gia và làm theo các quy tắc của cuộc chơi. Tuy nhiên quan điểm này lại biến con
người thành kẻ bị lệ thuộc vào chính sản phẩm mà họ tạo ra.
+ Quan điểm thứ hai cho rằng: toàn cầu hoá là một bước trong kế hoạch làm bá
chủ thế giới của Mỹ. Tuy nhiên, quan điểm này thì người ta lại quá đè cao sức mạnh
của Mỹ, mà trên thực tế không phải vậy.
Vậy đúng ra bản chất của toàn cầu hoá kinh tế là gì? Toàn cầu hoá kinh tế là
một xu hướng lớn của thời đại, nhưng dù nó khách quan đến mấy cũng do con người
tạo ra. Nó là kết quả của sự kết hợp giữa nhiều yếu tố, mà các yếu tố ấy đều do con
người tạo ra. Trong đó có 3 yếu tố chính:
- Cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật.



- Nền kinh tế thị trường hiện đại.

- Chính sách rất có tính toán của Mỹ và các nước cường quốc khác mà không
phải chỉ riêng Mỹ.
+ Một bản chất nữa của toàn cầu hoá là tính bất đối xứng của nó. Điều đó được
thể hiện như sau:
-Toàn cầu hoá phân phối thành quả rất bất công. Người giàu, nước giàu
ngày càng được nhiều lợi, nước nghèo, người nghèo bị thiệt. Dần dần một mảng lớn
dân cư trên thế giới bị loại khỏi quá trình toàn cầu hoá.
-Toàn cầu hoá hiện nay, không hài hoà, không đồng bộ, các lĩnh vực so
le, chênh lệch nhiều, cả về chiều sâu lẫn chiều rộng. Đặc biệt là: thứ nhất, toàn cầu hoá
kinh tế không đi đôi với sự quan tâm đúng mức về xã hội và con người. Điều này khiến
cho phần thua thiệt về xã hội và con người rất nặng nề. Thứ hai, toàn cầu hoá không đi
đôi với một cơ cấu và cơ chế quản lý toàn cầu tương xứng. Điều này dẫn đến toàn bộ
thế giới như một con tàu không người lái.
+ Toàn cầu hoá hiện nay bỏ qua các vấn đề khác, nó chỉ chú trọng tới thị trường,
xem nhẹ nhà nước và nhất là xã hội.
3. Toàn cầu hoá những cơ hội và thách thức
(a) Những cơ hội:
+ Thứ nhất, sự phát triển của toàn cầu hoá kinh tế phá bỏ những cản trở,
những hàng rào ngăn cách giữa các quốc gia. Nó mở ra những điều kiện thuận lợi cho
sự phát triển về quan hệ kinh tế thế giới. Từ đó, các quốc gia có thế lợi dụng để mở
rộng thị trường ra bên ngoài quốc gia mình.
+ Thứ hai, toàn cầu hoá phát triển giúp các nước chậm phát triển sớm tham
gia vào hệ thống phân công lao động quốc tế. Điều này, giúp các nước chậm phát triển
hình thành một cơ cấu kinh tế – xã hội hiệu quả, đẩy nhanh, rút ngắn tiến trình hiện đại
hoá nền kinh tế.
+ Thứ ba, toàn cầu hoá phát triển tạo điều kiện cho các nước tiếp cận với
những nguồn vốn và công nghệ kĩ thuật cao cũng như học tập công nghệ quản lý.




+ Thứ tư, toàn cầu hoá phát triển làm cho các nước liên hiệp với nhau thành
những khu vực tự do thương mại. Điều này giúp dỡ bỏ hàng rào thuế quan đối với các
nước thành viên, dẫn đến hàng hoá có thể nhanh chóng tiếp cần với thị trường thế giới.
Hơn nữa, với các nước đang phát triển thì việc hội nhập vào các tổ chức kinh tế thế
giới cũng chính là tham gia vào các diễn đàn kinh tế thế giới cho phép mình quyền
bình đẳng bày tỏ quan điểm, bảo vệ lợi ích của mình.
+ Thứ năm, toàn cầu hoá thực chất là quá trình mở cửa hội nhập của các
quốc gia. Tuy nhiên, không chỉ hội nhập riêng về kinh tế mà còn về nhiều vấn đề khác
nữa. Điều ấy giúp cho các quốc gia nhanh chóng tiếp cận được các thông tin, tri thức
khoa học mới nhất. Nó góp phần nâng cao trình độ dân trí, tạo cơ sở cho nền tảng cho
dân chủ phát triển.
+ Thứ sáu, toàn cầu hoá mở ra khả năng phối hợp nguồn lực của các quốc
gia trên thế giới để giải quyết các vấn đề có tính toàn cầu như: môi trường,dân số,
chiến tranh và hoà bình
(b) Những thách thức của toàn cầu hoá:
+ Thứ nhất, do tính bất đối xứng của toàn cầu hoá, nó phân chia thành quả
rất bất công. Chính vì thế, toàn cầu hoá không phân chia công bằng các cơ hội và lợi
ích giữa các khu vực, quốc gia và trong môi quốc gia và từng nhóm dân cư. Trên thực
tế, trong toàn cầu hoá thì các nước phát triển và những người giàu có là được lợi nhiều
nhất. Vì vậy, toàn cầu hoá làm tăng thêm tình trạng bất công và gia tăng khoảng cách
giàu nghèo.
+ Thứ hai, việc mở cửa hội nhập một mặt làm cho các nước chậm phát triển
tiếp xúc với các nền kỹ thuật tiên tiến hiện đại làm tăng năng xuất, thế nhưng các
doanh nghiệp trong nước phải cạnh tranh gay gắt với dòng sản phẩm công nghệ cao và
các nguồn lực mạnh dễ dàng lấn át. Chính vì vậy, nó dẫn đến tình trạng phá sản, thất
nghiệp, làm trầm trọng thêm các vấn đề xã hội vốn đã rất nan giải ở các nước chậm
phát triển.
+ Thứ ba, toàn cầu hoá mở ra cho các nước cơ hội tranh thủ nguồn vốn bên
ngoài. Song chính điều ấy sẽ làm các nước phụ thuộc vào hệ thống phân công lao động




quốc tế. Nếu như không xác định được một đường lối phát triển nội lực là chính thì các
nước rất dễ bị phụ thuộc và mất quyền tự chủ.
+ Thứ tư, toàn cầu hoá cho phép vận dụng nguồn vốn bên ngoài nhằm rút
ngắn quá trình phát triển. Tuy nhiên trong đó cũng ẩn chứa nhiều nguy hiểm không
vững chắc.
+ Thứ năm, toàn cầu hoá còn đặt ra nhưng hậu quả phi kinh tế. Đó là vấn đề
lan toả các dịch bệnh, đặc biệt là HIV/AIDS. Ngoài ra, các luồng văn hoá ngoại lai tác
động không nhỏ tới thuần phong mỹ tục làm bại hoại đạo đức con người. Chính vì vậy,
xu hướng toàn cầu hoá đã nổi lên xu hướng dân tộc, bảo vệ bản sắc dân tộc.

Chương IV: Xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ vững mạnh
1. Nền kinh tế như thế nào được gọi là một nền kinh tế độc lập tự chủ:
Thực ra, khái niệm nền kinh tế độc lập tự chủ đã không ít lần được nhắc tới. Tuy
nhiên, quan niệm về nền kinh tế độc lập tự chủ trước đây và hiện nay có những nét
khác nhau. Vậy thế nào là nền kinh tế độc lập tự chủ?:
+ Nền kinh tế độc lập tự chủ là nền kinh tế không bị lệ thuộc, phụ thuộc vào
nước khác, hoặc một tổ chức kinh tế nào đó về đường lối, chính sách phát triển, không
bị bất cứ ai dùng những điều kiện kinh tế, tài chính, thương mại, viện trợ để áp đặt,
khống chế, làm tổn hại chủ quyền quốc gia và lợi ích cơ bản của dân tộc.
+ Nền kinh tế độc lập tự chủ là nền kinh tế trước những biến động của thị
trường, trước sự khủng hoảng kinh tế tài chính ở bên ngoài, nó vẫn có khả năng cơ bản
duy trì sự ổn định và phát triển; trước sự bao vây, cô lập và chống phá của các thế lực
thù địch, nó vẫn có khả năng đứng vững, không bị sụp đổ, không bị rối loạn.
+ Tuy nhiên, trong thời đại hiện nay, nói tới độc lập tự chủ về kinh tế không ai
hiểu đó là nền kinh tế khép kín, tự cung tự cấp, mà đặt trong mối liên hệ biện chứng
với mở cửa, hội nhập, chủ động tham gia sự giao lưu, hợp tác và cạnh tranh quốc tế
trên cơ sở phát huy tốt nhất nội lực và lợi thế so sánh quốc gia, từng bước xây dựng
một cơ cấu sản xuấtđáp ứng được cơ bản nhu cầu thiết yếu về đời sống của nhân dân




và có khả năng trang bị lại ở mức cần thiết cho nhu cầu phát triển kinh tế , củng cố
quốc phòng – an ninh.
2. Vì sao chúng ta phải xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ vững
mạnh:
Theo như trên ta đã thấy một nền kinh tế độc lập tự chủ là như thế nào. Vậy tại
sao trong khi hội nhập kinh tế thế giới chúng ta phải xây dựng một nền kinh tế độc lập
như vậy? Có ý kiến cho rằng, trong điều kiện “Toàn cầu hoá” nền kinh tế, mở cửa hội
nhập mà lại đặt vấn đề xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ là thiếu nhạy bén, không
thức thời, thạm chí là bảo thủ, tư duy kiểu cũ. Thế giới bây giờ là một thị trường thống
nhất, cần thứ gì thì mua, thiếu tiền htì đi vay, sao lại chủ trương xây dựng nền kinh tế
độc lập tự chủ? Nói như vậy khi nghe có vẻ có lí, nhưng nếu đi sâu vào thực tế thì thấy
hoàn toàn thiếu cơ sở, vì nó quá ư đơn giản và phiến diện. Thực tiễn cho thấy nếu
không có một nền kinh tế độc lập tự chủ sẽ không những không thể có sự độc lập về
chính trị, không thể bảo đảm được lợi ích cơ bản của dân tộc cũng như chủ quyền quốc
gia mà bản thân việc mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế cũng không đạt được kết quả
như mong muốn. Sự cần thiết phải xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ cùng với
việc đẩy mạnh quá trình chủ động hội nhập kinh tế xuất phát từ một số luận điểm sau
đây:
+ Tất cả các nước tham gia hội nhập kinh tế đều xuất phát từ mục tiêu bên trong,
phục vụ cho yêu cầu, nhiệm vụ trong nước. Toàn cầu hoá, tự do hoá làm cho các nền
kinh tế phụ thuộc, đan xen vào nhau. Tuy nhiên sự ràng buộc về lợi ích đó không có sự
ràng buộc thuần tuý, vô điều kiện mà chính là vì phải chia sẻ lợi ích một cách hợp lí,
nhằm mục đích cuối cùng là thu được nhiều hơn lợi ích cho đất nước mình, dân tộc
mình, giữ được tính độc lập của nền kinh tế qua mối quan hệ ràng buộc, phụ thuộc lẫn
nhau, một sự ràng buộc đa phương về lợi ích. Tất cả các nước tham gia vào quá trình tự
do hoá thương mại đều trước hết vì lợi ích của mình, tuyệt nhiên không vì lợi ích của
nước khác. Thế nhưng, những lợi ích ấy có được hay không còn phụ thuộc vào nhiều

yếu tố, trong đó cơ bản nhất là nội lực của nền kinh tế nước đó. Nước nào mạnh thì thu
được nhiều lợi hơn. Toàn cầu hóa, thương mại hoá, vừa tạo ra sự hợp tác, phụ thuộc



lẫn nhau, đồng thời cũng tạo nên sự cạnh tranh rất khốc liệt và rất không cân sức giữa
các nền kinh tế. Sự cạnh tranh ấy khốc liệt đến nỗi có thể tạo nguy cơ gây mất ổn định
về kinh tế và chính trị. Thậm chí còn có thể xảy ra xung đột giữa các nước với nhau.
Chính vì lẽ đó, các nước không thể đứng nhìn toàn cầu hoá tác động tới mình, mà họ
phải chủ động tham gia, đưa ra các quyết sách nhằm hội nhập xu hướng của thế giới,
đồng thời làm sao thu lợi nhiều nhất mà vừa bảo vệ được nền kinh tế của mình. Trên
thực tế đã có rất nhiều nước tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, tham gia
vào các tổ chức kinh tế, tài chính, thương mại thế giới từ lâu nhưng vẫn trong tình
trạng trì trệ, thậm chí mức độ bị phụ thuộc, mất tự do lại còn tăng hơn. Như vậy đủ
thấy là mỗi nước sẽ không thể thực hiện được những mục đích đã định ra nếu không có
ọt nền kinh tế của chính mình và đủ mạnh.
+ Chúng ta cần một nền kinh tế độc lập vững mạnh vì sự phát triển vững chắc và
đảm bảo tính an toàn. Trong quá trình toàn cầu hoá hiện nay ẩn chứa rất nhiều những
yếu tố bất ổn, bất lường, bất công mà mức độ cũng như khả năng phòng tránh, khắc
phục nó lại tuỳ thuộc rất nhiều ở trình độ phát triển của các nền kinh tế. Ai cũng rõ,
toàn cầu hoá làm lây lan nhanh chóng những cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính, tiền
tệ làm trầm trọng thêm những vấn đề mang tính toàn cầu mà thế giới chưa tìm được
lối thoát. Điều đó cũng có nghĩa là các nền kinh tế trở nên dễ biến động, bất ổn định
hơn trước. Ví dụ: Trong những năm 1997 – 1998, Châu á gặp phải một cuộc khủng
hoảng tài chính – tiền tệ trầm trọng. Tuy nhiên, các nước này nhanh chóng phục hồi là
nhờ lúc đó nền kinh tế Mỹ đang tăng trưởng khá. Hiện nay, từ sau ngày 11 – 9, nền
kinh tế Mỹ đang ngập trong khó khăn thì người ta dự đoán rằng nền kinh tế ở một số
nước Châu á khó bề vươn dậy được. Lý do, họ dựa quá nhiều và xuất khẩu mà không
tranh thủ thời cơ để tiến hành cải cách cần thiết trong nước. Rồi đến Châu Phi đang
phải gánh chịu một bài học đắt giá về việc chỉ biết sống dựa vào bên ngoài, phụ thuộc

hẳn vào bên ngoài thì nền kinh tế trong nước sẽ không bao giờ cất mình lên nổi.
+Hiện nay tiêu chí sản phẩm hàng hoá cùng với các thiết chế, luật kinh tế đang
trở thành luật chơi trong sân chơi toàn cầu. Muốn tham gia vào sân chơi này thì mỗi
nước phải tự khẳng định mình, tìm cho mình một vị trí đứng. Muốn vậy điều quan



trong bậc nhất là tạo ra thật nhiều sản phẩm mà ai cũng thấy cần và được chấp nhận.
Như vậy, nước nào muốn thu được nhiều lợi nhuận thì phải nắm công cụ quan trọng là
khoa học công nghệ hiện đại. Để thực hiện việc chuyển giao công nghệ, mỗi nước phải
đạt tới một trình độ nhất định mới tiếp thu được công nghệ hiện đại. Thế nhưng một
vấn đề quan trọng hơn, là phải phá vỡ bức rào cản do các công ty xuyên quốc gia đặt ra
về tình trạng độc quyền các công nghệ hiện đại. Trong nhiều trường hợp, dựa vào ưu
thế công nghệ hiện đại, họ tự cho mình quyền chi phối các tổ chức kinh tế, tài chính
quốc tế, quyền đưa lợi ích kinh tế đi kèm với các điều kiện chính trị, áp đặt tư tưởng.
Thậm chí, một số nước phát triển còn đưa ra quyền trừng phạt các nước dưới nhiều
hình thức. Vì vậy, để khắc phục đến mức thấp nhất tình trạng bị rơi vào thế lệ thuộc, tất
cả các nền kinh tế bằng mọi cách phải nâng cao nguồn nội lực của mình, nâng sức
mạnh kinh tế tring nước, chống sự can thiệp quá sâu từ bên ngoài.
Trong bối cảnh quốc tế phức tạp và đầy mâu thuẫn như đã phân tích, đối với đất
nước ta, việc xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ càng cần thiết hơn bởi nó là
điều kiện quyết định giữ vững được định hướng phát triển mà chúng ta đã lựa chọn.
Nói một cách khác, có xây dựng được một nền kinh tế độc lập tự chủ thì mới tạo được
cơ sở kinh tế, cơ sở vật chất – kĩ thuật của chế độ chính trị độc lập tự chủ. Độc lập tự
chủ về kinh tế được đặt trong mối quan hệ biện chứng với độc lập tự chủ về các mặt
khác sẽ tạo ra sự độc lập tự chủ và sức mạnh tổng hợp của một quốc gia. Tóm lại, chỉ
có xây dựng được nền kinh tế độc lập tự chủ, chúng ta mới có cơ sở và điều kiện để
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
3. Làm như thế nào đẻ đảm bảo được một nền kinh tế độc lập vững mạnh:

Một là, phải có đường lối chính sách đúng đắn, chính sách độc lập tự chủ. Độc
lập tự chủ về đường lối, chính sách kinh tế có nghĩa là chúng ta tự lựa chọn định hướn
phát triển, tự mình xác định chủ trương chính sách và mô hình kinh tế, không bị động
và lệ thuộc bên ngoài, không chịu sức ép của bất cứ ai vì mục đích không lành mạnh
của họ. đại hội IX của Đảng đã xác định đường lối kinh tế của nước ta: Đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành



một nước công nghiệp; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan
hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực, đồng
thời tranh thủ nguồn lực từ bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát
triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá,
từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội, bảo về và cải thiện mội trường; kết hợp phát triển kinh tế – xã hội
với tăng cường quốc phòng – an ninh.
Hai là, Chúng ta phải có một nền kinh tế đủ mạnh:
- Toàn bộ giá trị sản xuất trong nước phải đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng
của nhân dân và có tích luỹ cần thiết từ nội bộ nền kinh tế quốc dân để tái sản xuất mở
rộng trong nền kinh tế.
- Phải có thể chế kinh tế – xã hội bền vững, có cơ cấu kinh tế gắn bó với
cơ cấu công nghệ, phát huy được lợi thế so sánh có đủ khả năng tạo ra sức cạnh tranh
và hiệu quả, trả được nợ, tạo được tích luỹ, đáp ứng được nhu cầu của thị trường trong
nước, chiếm lĩnh và giữ được thị trường ngoài nước; bảo đảm được nhịp độ tăng
trưởng nhanh, ổn định, bền vững.
- Phải có một năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ để làm chủ công
nghệ nhập khẩu và sáng tạo công nghệ mới của Việt Nam, bảo đảm cho sự trao đổi
bình đẳng về kinh tế và công nghệ với bên ngoài, nhất là trong điều kiện ngày nay, khi
sức mạnh kinh tế ngày càng dựa vào thế mạnh và khả năng về khoa học, công nghệ.
- Phải luôn luôn giữ được sự ổn định kinh tế vĩ mô với hệ thống tài chính,

tiền tệ lành mạnh, bảo đảm giữ được cán cân thương mại và cán cân thanh toán, có dự
trự ngoại tệ cần thiết, có chiến lược vay và trả nợ hợp lý, không để bị động và lệ thuộc.
- Phải có một số yếu tố vật chất đảm bảo an toàn và điều kiện cơ bản cho
phát triển. Trước hết là các yếu tố: an ninh lương thực, an toàn năng lượng, an toàn môi
trường, kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội được xây dựng đồng bộ và tương đối có chất
lượng. Đồng thời có một số ngành và cơ sở công nghiệp nặng, công nghiệp có tính chất
nền tảng để tạo sức mạnh công nghiệp quốc gia, đặc biệt là nếu phải đương đầu với các
tình huống gay cấn, phức tạp(như bị bao vây cấm vận, chiến tranh xâm lược )



- Muốn có thực lực kinh tế đủ mạnh thì phải nhất thiết phải đẩy nhanh quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, coi đây là nhiệm vụ trung tâm của toàn Đảng toàn
dân ta trong suốt thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Có công nghiệp hoá, hiện đại hoá
thì mới tạo ra cơ sở vật chất, kĩ thuật cho chủ nghĩa xã hội, tạo ra thực lực của đất
nước, nâng cao đời sống của nhân dân.

Chương V: Việt Nam sau 10 năm đổi mới
1.Các bước đi của nước ta trong quá trình hội nhập:
+) Năm 1993, chúng ta khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính, tiền
tệ quốc tế như IMF, WB, ADB. IMF, WB đã hỗ trợ chúng ta thông qua chương trình
tín dụng trung hạn: Chương trình điều chỉnh cơ cấu (SAC) cuẩ WB và chương trình
điều chỉnh cơ cấu mở rộng (ESAF) của IMF. Nội dung đàm phán với các tổ chức này
gắn bó mật thiết với các điều kiện của tổ chức Thương Mại Quốc Tế (WTO). Trong
quan hệ với các tổ chức này, chúng ta chỉ chấp nhận sự hỗ trợ tài chính nếu yêu cầu
của hộ không trái với đường lối chính sách của chúng ta; có năm họ đưa ra điều kiện vi
phạm chủ quyền lợi ích quốc gia nên ta không chấp nhận.
+) Ngày 25/7/1995, nước ta đã chính thức gia nhập ASEAN, đồng thời
tham gia Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). Từ ngày 01 tháng01 năm 1996,
chúng ta bắt đầu thực hiện các cam kết và các nghĩa vụ trong Chương trình ưu đãi thuế

quan có hiệu lực chung (CEPT) cuẩ AFTA. Theo quy định của CEPT, tới năm 2006
chúng ta có nghĩa vụ phải giảm thuế nhập khẩu xuống còn o – 5% ( trừ một số hàng
nông sản nhạy cảm sẽ thực hiệ tới năm 2010). Tới năm 2010 sáu nước thành viên cũ
của ASEAN sẽ thực hiện toàn bộ các mặt hàng có thuế suất bằng 0%, với Việt Nam là
2015.
+) Tháng 3 năm 1996, nước ta đã tham gia Diễn Đàn Hợp Tác á - Âu
(ASEM) với tư cách là thành viên sáng lập. Nội dung thảo luận chủ yếu tập trung vào
thuận lợi hoá thương mại và đầu tư và hợp tác giữa các nhà doanh nghiệp á - Âu. Cam
kết tự do hoá thương mại, đầu tư chưa được đặt ra.



+) Ngày 15 tháng 6 năm 1996, Việt Nam gửi đơn xin gia nhập Diễn Đàn
Hợp Tác Kinh Tế Châu á - Thái Bình Dương (APEC) lúc bấy giờ gồm 18 nước và lãnh
thổ (ngày nay là 21) và tháng 11 năm 1998 đã được công nhận là thàng viên chính thức
của tổ chức này. APEC quyết định hội nhập đầy đủ vào năm 2010 đối với các thành
viên phát triển, và 2020 đối với các nước đang phát triển (trong đó có Việt Nam).
+) Tháng 12 năm 1994, chúng ta đã gửi đơn xin gia nhập tổ chức Thương
Mại Thế Giới (WTO). Cho tới nay chúng ta đã thực hiện được 4 phiên đàm phán. Để
gia nhập được vào WTO chúng ta cần đàm phán đa phương với WTO và song phương
với khoảng 30 nước, Việt Nam đang rất nỗ lực để hoàn thành.
2.Những thành tựu và hạn chế:
(a) Những thành tựu:
+ Chúng ta đã làm thất bại âm mưu bao vây, cấm vận, cô lập về kinh tế
của các nước đối địch. Chúng ta đã tạo được môi trường quốc tế và khu vực thuận lợi
cho việc phát triển và bảo vệ Tổ Quốc, nâng cao vị thế của nước ta trên chính trường
quốc tế.
+ Không những chúng ta khắc phục được tình trạng khủng hoảng kinh tế
do Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa sụp đổ, mà còn mở rộng thêm thị trường
xuất nhập khẩu. Trong quá trình hội nhập, chúng ta không ngừng mở rộng thị trường

xuất nhập khẩu mà còn thúc đẩy nền kinh tế trong nước phát triển. Chúng ta đã thu
được một số thành quả: nếu năm 1990 kim ngạch xuất khẩu là 2,404 tỷ USD và kim
ngạch nhập khẩu là 2,752 tỷ USD, thì tới năm 2001 kim ngạch xuất khẩu là 15,1 tỷ
USD ( nếu tính cả dịch vụ thì là 17,6 tỷ USD ). Như vậy, trung bình mỗi năm tăng
20%, có năm tăng 30%.
+ Nền kinh tế trong nước đạt mức tăng trưởng khá:
+) Tổng sản phẩm trong nước tăng bình quân hàng năm là 7,4%.
Trong đó nông nghiệp tăng trương khá, giá trị sản phảm toàn nghành tăng 5,6%, thuỷ
sản tăng 9,1%, nông nghiệp tăng 5,4%, lâm nghiệp tăng 2,1%. Việt Nam từ một nước
phải nhập khẩu lương thực trở thành một nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai thế giới.
Nghành dầu khí là một nghành tăng trưởng mạnh nhất, sản lượng dầu thô của năm



2002 tăng gấp 6 lần năm 1990. Sản lượng điện tăng gấp 3 lần. Giá trị công nghiệp xuất
khẩu tăng hàng năm là 20%. Các nghành du lịch tăng trưởng không ngưng, khách nước
ngoài đến với nước ta tăng hàng năm 26%. Đặc biệt, trong năm 2002, số lượng khách
đến với nước ta tăng đột biến. Các nghành dịch vụ khác cũng có mức tăng trưởng khá.
+ Chúng ta đã ban hành luật “Đầu tư trực tiếp nước ngoài” vào năm
1987. Từ đó, chúng ta đã thu hút được 42 tỷ USD tiền vốn với hơn 3000 dự án. Trong
số đó, chúng ta đã thực hiện được 21 tỷ USD. Vốn đầu tư nước ngoài đóng góp một
phần quan trọng vào nền kinh tế trong nước.
+ Tranh thủ được nguồn viên trợ phát triển chính thức và ngày càng giảm
thiểu nợ nước ngoài.
+ Tiếp thu khoa học kỹ thuật, khoa học quan lý, góp phần và việc đào tạo
một lực lượng cán bộ năng động, sáng tạo.
+ Từng bước đưa hoạt động kinh tế và cả nền kinh tế vào môi trường
cạnh tranh, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao hiệu quả kinh doanh.
(b) Những hạn chế:
+ Chủ trương hội nhập toàn cầu hoá đã được khẳng định trong nhiều văn

kiện của Đảng. Tuy nhiên, nhận thức về từng bước đi, lộ trình hội nhập còn đơn giản;
nhiều cán bộ, đơn vị chưa nhận thức được những cơ hội và thách thức của quá trình hội
nhập, chữ chủ động tìm hiểu vượt qua các thách thức nắm bắt cơ hội vươn lên. Một số
đơn vị còn có chính sách lạc hậu không bắt kịp quá trình phát triển gây trở ngại cho
toàn cục.
+ Chủ trương hội nhập mới chỉ được triển khai ở các đơn vị cấp TW, các
thành phố lớn chưa có sự phối hợp đồng bộ của nhiều đơn vị. Chính vì vậy nó mất đi
sức mạnh của khối đại đoàn kết.
+ Chúng ta chưa có một kế hoạch lâu dài cho quá trình hội nhập và chưa
có lộ trình hợp lý cho việc hội nhập.
+ Nhiều doanh nghiệp lạc hậu, thiếu sự năng động, thiếu hiểu biết về
luật pháp quốc tế, khả năng cạnh tranh kém, lại quá ỷ lại vào sự bao cấp của Nhà Nước
còn nặng.



+ Nước ta tuy đã biến đổi nhiều nhưng môi trường kinh doanh vẫn chưa
thật sự thông thoáng. Hệ thống pháp luật tuy đã được cải thiện nhiều nhưng vẫn chưa
đồng bộ, rườn rà. Kết cấu hạ tầng kém, hệ thống hành chính vẫn có nhiều biểu hiện
quan liêu, tham nhũng. Trình độ năng lực nghiệp vụ còn yếu kém, chưa được đào tạo
đến nơi đến chốn.
+ Đội ngũ làm kinh tế đối ngoại còn thiếu và yếu. Các cơ quan chức năng
còn chưa chuẩn bị cho các doanh nghiệp hội nhập kinh tế.
3. Những giải pháp cho Việt Nam:
(a) Hội nhập kinh tế là một xu hướng đang phát triển mạnh mẽ trên thế
giới. Việt Nam là một thành viên trong một mái nhà không thể đứng ngoài cuộc. Chính
vì vậy, trong rất nhiều kỳ họp Đảng ta đã đưa ra mục tiêu và một số quan điểm chỉ đạo
sau:
+ Về mục đích của hội nhập kinh tế: Chủ động hội nhập kinh tế nhằm mở
rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ khoa học kỹ thuật, khoa học quản lý

nhằm đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
+ Một số ý kiến chỉ đạo của Đảng và Nhà Nước:
(1) Quán triệt chủ chương đã được xác định ở đại hội Đảng lân thứ
IX: “Chủ động hội nhập kinh tế theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao khả
năng hợp tác quốc tế, đảm bảo độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa; bảo vệ
lợi ích dân tộc; an ninh quốc gia; giữ vững bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi
trường”.
(2) Hội nhập kinh tế là sự nghiệp của toàn dân; trong khi hội nhập cần
phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của mọi thành phần kinh tế, của toàn xã hội,
trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
(3) Hội nhập kinh tế là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh và cạnh
tranh, vừa có nhiều cơ hội, vừa có nhiều thách thức, vì vậy cần tỉnh táo, linh hoạt trong
việc xử lý tính hai mặt của hội nhập tuỳ theo đối tượng, trường hợp thời điểm cụ thể;
vừa phải tránh tư tưởng thụ động trì trệ, vừa phải tránh tư tưởng nôn nóng giản đơn.



(4) Nhận thức đầy đủ tình hình đặc điểm của nền kinh tế nước ta, từ
đó đề ra kế hoạch và lộ trình hội nhập phù hợp với trình độ phát triển của nước ta, vừa
đáp ứng đầy đủ các quy định của các tổ chức quốc tế mà nước ta tham gia; tranh thủ ưu
đãi dành cho các nước đang phát triển và các nước đang chuyển từ nền kinh tế bao cấp
sang nền kinh tế thị trường. Nhà Nước phải đưa ra một chính sách kinh tế vĩ mô và
điều khiển nó sao cho có hiệu quả.
(5) Kết hợp chặt chẽ giữa hội nhập nền kinh tế với việc đảm bảo an
ninh quốc phòng, thông qua hội nhập để tăng thêm sức mạnh tổng hợp quốc gia, nhằm
giữ vững độc lập chủ quyền, cảnh giác các thế lực thù địch thông qua hội nhập kinh tế
để thực hiện “Diễn Biến Hoà Bình” với nước ta.
Nhà nước ta dựa trên những ý kiến trên đã đặt ra cho chúng ta những nhiệm
vụ cần thiết:

+ Tuyên truyền rộng rãi, giải thích đối với mọi tầng lớp về vấn đề hội nhập
kinh tế quốc tế. Làm sao cho nhân dân ta thấy rằng đó là một bước đi tất yếu và có
niềm tin để tham gia vào quá trình hội nhập.
+ Nhgiên cứu và xây dựng một lộ trình phù hợp với điều kiện của nước ta.
Đồng thời trong khi hội nhập cần chú ý tới các ngành mà ta còn yếu kém như viễn
thông, dịch vụ
+ Chủ động và khẩn trương chuyển đổi cơ cấu của nền kinh tế, nâng cao
trình độ khoa học kĩ thuật, nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam.
Chúng ta phải không ngừng nâng cao chất lượng, đồng thời phải tìm cách hạ giá thành
sản phẩm.
+ Tích cực hoàn thành một cơ cấu quản lý đồng bộ theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Nhà nước cần thúc đẩy làm nhanh chóng hình thành nên các thị trường hàng
hoá, bất động sản, thị trường chứng khoán
+ Có kế hoạch về đào tạo nhân lực tinh thông về nghiệp vụ, vững vàng về
chính trị.
+ Kết hợp hoạt động đối ngoại về chính trị và kinh tế chính trị.
+ Chủ chương hội nhập kinh tế với đảm bảo an ninh quốc phòng.



+ Tích cực đàm phán để tham gia vào Tổ Chức Thương Mại Thế Giới
WTO.
+ Kiện toàn Uỷ ban kinh tế quốc tế đủ năng lực và thẩm quyền.
(b) Khai thông thị trường, chủ động hội nhập quốc tế: Sau gần 15 năm
thực hiện đường lối đổi mới và mở cửa theo tinh thần Đại Hội VI của Đảng, nền kinh
tế nước ta đã đạt được những thành tựu rất quan trọng, tạo thế và lực lượng khá vững
chắc cho đất nước bước vào thế kỉ XXI. Đến nay quy mô nền kinh tế đã tăng gấp hai
lần so với năm 1990. Chúng ta đã thiết lập quan hệ với hơn 170 nước, tranh thủ được
đầu tư trực tiếp của gần 100 nước với 2290 dự án, vốn đăng kí trên 35,5 tỉ USD và vốn
thực hiện đạt trên 15,1 tỉ USD. Đáng chú ý là chúng ta đã khai thông được quan hệ với

các tổ chức tài chính – tiền tệ lớn trên thế giới như WB,IMF ; mở rộng thị trường xuất
nhập khẩu sang EU, Bắc Mỹ.Tuy nhiên, chúng ta cũng có không ít hạn chế như:
+ Sự ách tắc trong lưu thông hàng hoá, tổng cung lớn hơn tổng cầu, nhiều
hàng hoá bị ứ đọng dẫn đến sản xuất bị thu hẹp, người lao động thất nghiệp. Nhiều
doanh nghiệp còn trong tình trạng kinh doanh theo tứng thương vụ, tìm kiếm lợi nhuận
tức thời, chưa chú trọng cho kế hoạch lâu dài.
+ Tiềm năng của thị trường nước ta còn lớn nhưng chưa được khai phá
hết: thị trường chứng khoán đã được mở nhưng còn non trẻ, thị trường bất động sản
chưa được khai thông còn nhiều cản trở, thị trường lao động đang hình thành, thị
trường dịch vụ đang có dấu hiệu chững lại ; trên từng địa bàn, địa phương còn bị
chính quyền địa phương gây khó khăn; thị trường nông thôn, vùng sâu vùng xa còn
kém phát triển.
Chính vì vậy, một nhiệm vụ đặt ra trước mắt là phải khai thông được thị
trường trong nước để xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ. Để giải quyết những
vấn đề còn tồn đọng, chúng ta có một số biện pháp sau:
1. Đối với thị trường hàng hoá và dịch vụ: xoá bỏ sự chia cắt thị trường nội
địa thông qua bãi bỏ thuế buôn chuyến, các khoản phí, lệ phí bất hợp lý do các bộ,
ngành, địa phương tự đặt ra gây cản trỏ giao lưu hàng hoá. Đi đôi với chính sách hỗ trợ
tiêu thụ một số mặt hàng còn tồn đọng lớn ( như than, xi măng ). Có chính sách



khuyến khích mua trả góp những mặt hàng tiêu dùng sản xuất trong nước, hướng dẫn
cơ chế tài chính với các doanh nghiệp bán hàng trả góp; miễn hoặc giảm thuế thu nhập
doanh nghiệp đối với phần lãi thu được từ bán hàng trả góp Điều này nhằm làm tăng
thêm tính sôi động của thị trường. Về dịch vụ, cần khuyến khích và có chính sách hỗ
trợ.
2. Đối với thị trường khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa: Nhà
nước nên áp dụng giá sàn để thu mua một số sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu; hỗ trợ
hoạt động thương mại miền núi, vùng sâu, vùng xa thông qua việc tiếp tục trợ giá cho

các mặt hàng thiết yếu; hỗ trợ lãi xuất cho các cơ sở thu mua sản phẩm nông
nghiệp Nhà nước nên chú trọng nâng cao thu nhập cho nông dân; giảm thuế nông
nghiệp cho nông dân và có chính sách bao tiêu sản phẩm
3. Đối với thị trường bất động sản: đẩy nhanh quá trình cấp giấy sử dụng
đất, khuyến khích tất cả các hộ đăng kí và làm thủ tục hợp pháp hoá quyền sử dụng đất
để có thể giao dịch trên thị trường được dễ dàng. Đơn giản hoá thủ tục mua bán, kinh
doanh nhà đất, có giải pháp khuyến khích đối với các công ty bán nhà trả góp, giảm giá
thuế chước bạ
4. Đối với thị trường sức lao động: Nhà nước cần xác định đầu tư tối ưu
cho giáo dục - đào tạo là đầu tư cho tương lai, đầu tư cho phát triển. Một mặt tăng ngân
sách cho GD - ĐT. Mặt khác, khuyến khích đầu tư từ nhiều nguồn, đặc biệt chú trọng
hoạt động đào tạo, dạy nghề cung ứng cho thị trường nguồn nhân lực có chất lượng.
5. Đối với thị trường ngoại hối: để ổn định tình hình của thị trường này cần
tiếp tục cơ chế điều hành tỉ giá linh hoạt, từng bước đưa đồng Việt Nam tới giá trị thực
nhằm khuyến khích xuất khẩu. Tăng cường các giao dịch kì hạn trên thị trường ngoại
tệ liên ngân hàng, kiểm soát giao dịch trên thị trường tự do, tiến tới chỉ dùng đồng Việt
Nam trên lãnh thổ Việt Nam (trừ những khu vực cửa khẩu, khu thương mại tự do )
6. Đối với thị trường chứng khoán: Vì mới được thành lập chưa lâu tuy có
một số điểm khả quan, nhưng do nhận thức về thị trường mới mẻ này còn ít của người
dân vì vậy sẽ cần sự can thiệp rất nhiều của nhà nước. Nhà nước nên có một bộ luật



hoàn chỉnh về thị trường chứng khoán, theo dõi sát xao và có chính sách thúc đẩy thị
trường này phát triển.
(c) Nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước:
Như đã nói ở trên, hội nhập kinh tế không những đem lại cho chúng ta
những cơ hội mà còn đem đến cho chúng ta những thách thức hết sức to lớn. Trong đó,
việc phải cạnh tranh với các nước tiên tiến là rất khó khăn. Hơn lúc nào hết, chúng ta
phải tự nâng cao sức cạnh tranh của mình. Muốn nâng cao sức cạnh tranh của nước ta

thì không còn cách nào khác là nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong
nước. Trước hết, chúng ta phải khẩn trương nâng cao sức cạnh tranh của từng sản
phẩm, từng doanh nghiệp và của cả nền kinh tế. Đây là yếu tố quyết định để chủ động
hội nhập thắng lợi.Sức cạnh tranh của sản phẩm phải được thể hiện ở chất lượng sản
phẩm, giá cả, khẳ năng tiếp thị. Sức cạnh tranh của các doanh nghiệp phải được thể
hiện ở sản phẩm và dịch vụ tiêu thụ trên thị trường trong nước và ngoài nước. Sức cạnh
tranh của các doanh nghiệp còn được thể hiện ở sản xuất kinh doanh phải có hiệu quả,
có lợi nhuận cần thiết để ngày càng phát triển sản xuất. Sức cạnh tranh của quốc gia
dựa vào sức cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ của các doanh nghiệp là cơ bản; đồng
thời còn phải tạo điều kiện, môi trường kinh tế vĩ mô, môi trường xã hội, chính trị ổn
định, thuận lợi cho đầu tư và sản xuất kinh doanh của các chủ thể kinh tế trong nước và
ngoài nước. Nhìn chung, ở thời điểm hiện nay, sức cạnh tranh của nước ta trên cả 3
phương diện: sản phẩm, doanh nghiệp, quốc gia còn thấp. Đây chính là một nhiệm vụ
trước mắt cần điều chỉnh. Muốn nâng sức cạnh tranh của các doanh nghiệp, của sản
phẩm hay của chính quốc gia thì chúng ta phải không ngừng nâng cao khoa học kĩ
thuật, các doanh nghiệp phải không ngừng tìm hiểu, năng động sáng tạo tìm ra hướng
đi. Các doanh nghiệp không ngừng đào tạo đội ngũ cán bộ trở nên lành nghề, và có
năng lực tiến bộ hơn. Tóm lại, các doanh nghiệp phải không ngừng cải tiến kĩ thuật,
đào tạo đội ngũ nhân viên và năng động tự tìm cho mình một lối đi phù hợp.
(d) Nhà nước cần đầu tư và phát triển GD - ĐT: Đây là một trong
những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là điều
kiện để phát huy nguồn lực con người – yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng



kinh tế nhanh và bền vững. Chúng ta phải không ngừng tiếp tục nâng cao chất lượng
giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và
hệ thống quản lý giáo dục. Thực hiện chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá giáo dục.
Phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ, sáng tạo của học sinh, sinh viên, đề cao năng lực
tự học, tự hoàn thiện tay nghề, đẩy mạnh phong trào học tập trong nhân dân bằng các

hình thức giáo dục chính quy, không chính quy, thực hiện giáo dục mọi người, cả nước
trở thành một xã hội học tập. Thực hiện phương châm học đi đôi với hành, giáo dục kết
hợp với sản xuất, nhà trường gắn với xã hội. Chăm lo phát triển giáo dục mầm non, mở
rộng hệ thống nhà trẻ và trường lớp mẫu giáo trên mọi địa bàn dân cư, đặc biệt là vùng
nông thôn và những vùng khó khăn. Củng cố thành tựu xoá nạn mù chữ và phổ cập
giáo dục tiểu học, đồng thời đẩy nhanh quá trình phổ cập trung học. Tăng ngân sách
nhà nước dành cho giáo dục và đào tạo nghề theo đầ tăng trưởng của nền kinh tế. Hiện
đại hoá các cơ sở giáo dục. Mở rộng hợp lý quy mô giáo dục đại học, làm chuyển biến
rõ nét về chất lượng và hiệu quả đào tạo. Tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo
đức, lối sống cho học sinh sinh viên. Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, tạo
điều kiện chó người nghèo có cơ hội học tập. Chính phủ tăng cường chính sách hỗ trợ
đặc biệt những học sinh có năng khiếu, vượt khó học giỏi; có quy hoạch và chính sách
tuyển chọn người giỏi. Tăng ngân sách cho việc cử người đi học tập ở các nước tiên
tiến.
(e) Nhà nước cần đầu tư hơn nữa cho phất triển khoa học và công
nghệ: cùng với giáo dục và đào tạo thì đây là quốc sách hàng đầu, là nên tảng và động
lực đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Chúng ta phải coi trọng việc nghiên cứu
cơ bản trong khoa học. Tăng đầu tư ngân sách và huy động các nguồn lực khác cho
khoa học và công nghệ. Sắp xếp, đổi mới hệ thống nghiên cứu khoa học, phối hợp chặt
chẽ nghiên cứu khoa học tự nhiên, khoa học - công nghệ với khoa học xã hội và nhân
văn. Hoàn thành việc xây dựng những khu công nghệ cao và hệ thống phòng thí
nghiệm trọng điểm quốc gia. Sử dụng có hiệu quả các quỹ hỗ trợ cho khoa học và công
nghệ. Đẩy mạnh việc hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học và công nghệ. Thực



hiện tốt chính sách bảo hộ sở hữu trí tuệ. Nhà nước cần có chính sách thưởng và đãi
ngộ đối với các nhà khoa học có công trình xuất sắc.
(f) Mở rộng quan hệ đối ngoại: Nhiệm vụ đối ngoại của chúng ta là tiếp
tục giữ vững môi trường hoà bình và tạo điều kiện quốc tế thuận lợi để đẩy mạnh phát

triển kinh tế – xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ
Quốc, bảo đảm độc lập và chủ quyền quốc gia, đồng thời góp phần tích cực và cuộc
đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ
xã hội. Mở rộng quan hệ nhiều mặt, song phương, đa phương với các nước và vùng
lãnh thổ, các trung tâm chính trị, kinh tế quốc tế lớn, các tổ chức quốc tế và khu vực
theo nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào
công việc nội bộ của nhau, không dùng vũ lực và đe doạ vũ lực; bình đẳng và cùng có
lợi; giải quyết các bất đồng và tranh chấp bằng thương lượng hoà bình.
(g) Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân: Đại đoàn kết là truyền
thống và cũng là sức mạnh và động lực to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc. Xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn xã
hội. Thực hiện đại đoàn kết các dân tộc, tôn giáo, giai cấp, tầng lớp, thành phần kinh tế,
mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng đất nước, mọi thành viên trong đại gia đình dân tộc
Việt Nam dù sống trong nước hay ngoài nước. Phát huy sức mạnh của cả cộng đồng
dân tộc, truyền thống yêu nước, ý trí tự lực tự cường và lòng tự hào dân tộc, lấy mục
tiêu giữ vững độc lập, thống nhất, vì dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh
làm điểm tương đồng. Thực hiện dân chủ trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá,
xã hội ở tất cả các cấp, các ngành. Xây dựng đồng bộ các chính sách kinh tế – xã hội
đúng đắn, phát huy mọi khả năng sáng tạo của nhân dân. Đổi mới và hoàn thiện chính
sách cụ thể đối với mỗi giai cấp, dân tộc, tôn giáo


Chương VI: Kết luận

×