Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT đặc điểm và GIÁ TRỊ của TRIẾT học HY lạp cổ đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.4 KB, 13 trang )

1

ĐẶC ĐIỂM VÀ GIÁ TRỊ CỦA TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI

Vào thời cổ đại Hy Lạp là nước phát triển nhất Châu âu với lãnh thổ
rộng lớn. Hy Lạp là cầu nối, là điểm nút của giao lưu kinh tế và văn hoá giữa
ba châu lục Âu - á- Phi, việc giao lưu quan hệ với các nước rất phát triển. Mặc
dù ra đời muộn hơn so với các quốc gia phương đông như Ai Cập, Ân Độ,
Trung Quốc cổ đại nhưng nhờ được kế thừa và phát triển những tri thức tinh
hoa của nhân loại nên kinh tế Hy Lạp phát triển nhanh, đặc biệt là công cụ lao
động.
Triết học Hy Lạp cổ đại ra đời vào thế kỷ VI TCN và đạt đến đỉnh cao
vào thế kỷ III TCN.
Vào thế kỷ IX đến thế kỷ VII TCN, nền sản suất chiếm hữu nô lệ ở Hy
Lạp đã phát triển cao,thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp. Sự phát triển
của thủ công nghiệp đã dẫn đến sự phát triển của thương nghiệp và hình thành
các thành thị như Aten và SPác nổi tiếng thế giới. Người Hy Lạp đã đóng
được những chiến thuyền lớn cho phép họ vượt Địa Trung Hải đến những
vùng đất mới, tạo điều kiện cho sự giao lưu văn hoá giữa các dân tộc. Nền
văn hoá Hy Lạp thời kỳ này cũng phát triển mạnh mẽ với sự ra đời của hai tập
trường ca bất hủ là I li át và Ô đi xê đây là hai viên ngọc quý trong di sản văn
hoá cổ đại của nhân loại . Sự phân công lao động trong xã hội Hy Lạp cổ đại
đã làm hình thành một tầng lớp những người lao động trí óc. Nhờ đó các tri
thức khoa học nảy nở và phát triển , chính sự xuất hiện các tri thức khoa học
sơ khai, như việc phát hiện ra lịch năm 12 tháng với 365 ngày của Ta lét,
những phát kiến về toán học của Ta Lét và Pi Ta Go, về hình học của Ơ Cơ
Lít, về vật lý học của ác Si Mét … đã tạo điều kiện rất lớn thúc đẩy sự hình
thành và phát triển của triết học Hy Lạp. Mặt khác cuộc đấu tranh giữa giai


2



cấp chủ nô và giai cấp nô lệ trên lĩnh vực tư tưởng, triết học đã diễn ra hết sức
gay gắt.
Tư tưởng triết học Hy Lạp cổ đại phát triển hết sức phong phú và sâu
sắc, một số trường phái còn ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều thế kỷ sau.
Quá trình hình thành và phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại qua ba
giai đoạn sau :
Thứ nhất, triết học Hy Lạp trong giai đoạn hình thành và bước đầu
phát triển của chế độ chiếm hữu nô lệ
Từ thế kỷ VI đến thế kỷ V TCN là giai đoạn hình thành và bước đầu
phát triển của chế độ chiếm hữu nô lệ ở Hy Lạp. Đây cũng là giai đoạn khởi
đầu của triết học Hy Lạp cổ đại và được đánh dấu bằng sự ra đời của trường
phái duy vật Milê với các đại biểu là Talét, Anaximanđrơ, Anaximen và
trường phái Êlê với các đại biểu như Xênôphan, Pácmênít, Dênông … Cũng
trong giai đoạn này nổi bật lên đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa duy vật là
Hêraclít. Về phía chủ nghĩa duy tâm nổi lên trường phái của Pitago.
Thứ hai, triết học Hy Lạp cổ đại trong giai đoạn phồn vinh của chế độ
chiếm hữu nô lệ
Từ thế kỷ V TCN trở đi là thời kỳ hưng thịnh của chế độ chiếm hữu nô
lệ ở Hy Lạp. chiến thắng của người Hy Lạp trong cuộc chiến tranh Hy LạpBa Tư (500- 449 TCN) đã giúp họ mở rộng lãnh thổ và ảnh hưởng của mình
trên toàn vùng Địa Trung Hải. Hy lạp giờ đây bao gồm hàng trăm quốc gia
thành bang với những hình thức nhà nước và trình độ phát triển kinh tế xã hội
khác nhau. Các thành bang nói trên tuy liên minh với nhau nhưng lại mâu
thuẫn với nhau, đôi khi dẫn đến chiến tranh thôn tính lẫn nhau. Cuộc chiến
tranh Pơlôpônedơ(431- 404TCN) là biểu hiện của mâu thuẫn gay gắt giữa một
bên là bộ phạn chủ nô dân chủ do Aten đứng đầu với một bên là bộ phận chủ


3


nô quý tộc do Spáctơ đứng đầu .Trong cuộc chiến tranh này phía Aten bị thất
bại kéo theo sự suy giảm lực lượng của phái chủ nô dân chủ. Về sau, phía
Aten tuy khôi phục được chính quyền nhưng đến nửa cuối thế kỷ IV TCN lại
bị Maxeđoan chinh phục. Tình hình kinh tế, chính trị, xã hội phức tạp và đầy
biến động nói trên về khách quan đã thúc đẩy triết học Hy lạp cổ đại phát
rtiển lên đỉnh cao : vừa sâu sắc, vừa phong phú về nội dung, vừa đa dạng, vừa
phức tạp trong hình thức thể hiện của các trường phái và của các hệ thống.
Trường phái duy vật tiếp tục phát triển đạt đến đỉnh cao với học thuyết
nguyên tử luận của Đêmôcrít. Trường phái duy tâm thông qua đại biểu xuất
sắc là Platon cũng phát triển thành một hệ thống hoàn chỉnh. Ngoài hai trường
phái lớn nói trên còn xuất hiện một trường phái mới, đó là trường phái nguỵ
biện (Sôphít). Cũng trong thời kỳ này đã sản sinh ra một bộ óc bách khoa toàn
thư, một nhà triết học uyên bác nổi tiếng thời cổ đại là Arixtốt.
Thứ ba, triết học Hy Lạp trong thời kỳ khủng hoảng và suy tàn của chế
độ chiếm hữu nô lệ
Thời kỳ khủng hoảng và suy tàn của chế độ chiếm hữu nô lệ ở Hy Lạp
kéo dài từ thế kỷ IV TCN cho đến khi chế độ nô lệ ở Hy Lạp, La Mã bị sụp
đổ ( thế kỷ V sau công nguyên ) .Trong thời kỳ lịch sử này đã có nhiều sự
kiện ảnh hưởng đến sự phát triển và suy tàn của triết học Hy Lạp cổ đại. Sự
kiện đầu tiên là sự thôn tính của một nước ở phía bắc Hy Lạp đối với toàn bộ
bán đảo Hy Lạp. Tiếp theo là cuộc viễn chinh của Alếchxăngđrơ tới nhiều
nước ở châu á, châu Phi đã biến Hy Lạp thành một đế chế rộng nhất thời cổ
đại. Đây cũng là thời kỳ mà ngôn ngữ và văn hoá của Hy lạp đã theo đội quân
viễn chinh bành trướng đến các nước bị nó xâm lược.Tuy nhiên chính La Mã
lại bị nền văn hoá rực rỡ lâu đời của Hy Lạp chinh phục lại.Có thể nói thời kỳ
Hy Lạp hoá là đỉnh cao của sự giao lưu văn hoá giữa các quốc gia thuộc đế


4


chế Hy Lạp, đồng thời nó cũng mang đến cho triết học Hy Lạp cổ đại những
sắc thái mới và những nét đặc thù so với thời kỳ trước. Trong thời kỳ này các
nhà triết học ít chú ý đến những vấn đề về tự nhiên, xã hội mà tập trung tìm
hiểu vấn đề hạnh phúc của con người , làm thế nào để con người thoát khỏi
khổ đau. Đây cũng là thời kỳ lan truyền của chủ nghĩa triết trung và chủ nghĩa
hoài nghi. Còn các nhà yêu nước ,dân chủ, tiến bộ vẫn kiên trì chủ nghĩa duy
vật chống lại chủ nghĩa duy tâm.Tiêu biểu nhất trong số họ là Êpiquya.
Những điều kiện đặc thù về kinh tế, xã hội giai cấp ,văn hoá và
khoa học ở xã hội hội Hy Lạp đã quy định nét đặc thù của triết học Hy
Lạp thời kỳ này.
Thứ nhất, triết học hy lạp cổ đại gắn chặt với khoa học tự nhiên, nó là
sự thống nhất giữa triết học với khoa học tự nhiên, chưa có sự tách rời giữa
triết học với khoa học nên gọi là triết học tự nhiên , hay triết học là khoa học
của mọi khoa học. Triết Học Hy Lạp cổ đại thể hiện tính bao trùm của nó về
mọi lĩnh vực thế giới quan của con người cổ đại, nó ra đời trong bối cảnh các
tri thức khoa học còn quá ít và sơ khai, nên trình độ phát triển của tư tưởng và
của văn hoá tinh thần nhân loại loại lúc bấy giờ nói chung là còn thấp.
Triết học Hy Lạp cổ đại gắn chặt với khoa học tự nhiên bởi nó xuất
phát từ nhu cầu sản xuất hàng hoá, nhu cầu mở rộng chiến tranh để có thêm
nô lệ và tài nguyên. Đặc trưng của chế độ chiếm hữu nô lệ ở Hy Lạp - La Mã
cổ đại là nền kinh tế dựa trên buôn bán nô lệ, nô lệ được coi là công cụ lao
động biết nói, là hàng hoá mà các chủ nô đem trao đổi buôn bán với nhau, nô
lệ được sử dụng để để sản xuất ra của cải vật chất cho giai cấp chủ nô. Để có
nhiều nô lệ, người ta phải mở rộng chiến tranh, còn chiến tranh thì còn nô lệ
để buôn bán và phát triển chế độ chiếm hữu nô lệ. Để đáp ứng đòi hỏi đó thì
thần thánh không thể giúp họ được mà đòi hỏi người ta phải có tri thức, có


5


khoa học, điều đó được lặp đi lặp lại trong thực tế cuộc sống của người Hy
lạp - La mã cổ đại và nó thúc đẩy khoa học và triết học cùng phát triển , triết
học luôn gắn chặt với khoa học tự nhiên.
Thời Hy Lạp cổ đại những nhà triết học đồng thời cũng là các nhà toán
học, thiên văn học, vật lý học…và họ cũng là những người có điều kiện đi
đây đó khắp nơi. Họ có điều kiện để học hỏi và tiếp thu những tinh hoa tri
thức văn hoá, khoa học của nhân loại mà trực tiếp là của Ba- Tư và ấn Độ cổ
đại. Điều đó lý giải vì sao triết học và khoa học Hy Lạp cổ đại ra đời sau
nhưng phát triển rất mạnh mẽ.
Thứ hai, sự phân chia và đối lập giữa các trường phái triết học,duy vật
và duy tâm, biện chứng và siêu hình, vô thần và hữu thần là nét nổi bật của
quá trình phát sinh phát triển triết học Hy Lạp- La Mã cổ đại, trong đó nổi bật
là cuộc đấu tranh giữa hai đường lối triết học, đường lối duy vật của Đê Mô
Cơ Rít và đường lối duy tâm của Platon.
Đấu tranh giữa đường lối triết học duy vật vô thần của Đêmôcrít với
đường lối triết học duy tâm khách quan thần bí của Platôn là cuộc đấu tranh
điển hình trong lịch sử triết học, nó thể hiện ở nhiều lĩnh vực như : bản thể
luận, nhận thức luận, lô- gích học,đạo đức học, và chính trị xã hội.
ở bản thể luận, tính quyết liệt và triệt để của cuộc đấu tranh này là cơ
sở cho những vấn đề khác. Đêmôcrít kiên định lập trường duy vật vô thần.
Ông cho rằng cội nguồn của thế giới là nguyên tử, là vật chất. Đêmôcrít đã
phát triển thuyết nguyên tử của Lơxíp, người thầy của mình lên trình độ mới.
Ông cho rằng, nguyên tử là hạt vật chất cực nhỏ, không phân chia được,
không nhìn thấy được, không mùi ,vị, âm thanh và tồn tại vĩnh viễn . Các
nguyên tử đồng nhất về chất, chỉ khác nhau về lượng,về hình thức (cấu tạo ),
về tư thế (xoay trở) và về trật tự (kế tiếp).Sự hình thành ,tan rã và sự khác


6


nhau của các sự vật hiện tượng là do sự kết hợp hay tách ra của các nguyên tử
theo những cách thức khác nhau của nguyên tử ,Thuyết vũ trụ của ông cũng
không có chỗ cho thần thánh, trong đó chỉ có các nguyên tử vận động theo
những cơn lốc xoáy. Các nguyên tử cùng loại cố kết với nhau làm thành
những vòng lớp nguyên tử, càng nặng càng ở gần tâm, càng nhẹ càng xa tâm.
Đất, nước, lửa,không khí là những vòng ở trung tâm cơn lốc. Từ đó hình
thành các hành tinh và trái đất. còn sự sống và con người, theo ông là kết quả
tất yếu của tự nhiên phát triển từ thấp đến cao, từ sự vật tới sinh vật, từ sinh
vật tới con người .Con người có linh hồn, còn sự vật không có linh hồn. Linh
hồn của con người được cấu tạo từ những nguyên tử hình cầu, giống như
nguyên tử lửa vận động với vận tốc lớn. Linh hồn mất đi cùng với sự chết của
con người. Như vậy, ông đã bác bỏ thuyết linh hồn bất tử của tôn giáo, của
Platon.
Đối lập với Đêmôcrít, Platon đứng trên lập trường duy tâm thần bí. ông
khẳng định rằng bản nguyên của thế giới là “thế giới ý niệm”, mà ông gọi là
“những ý tưởng có trước”, một thế giới trừu tượng , bất biến, tĩnh tại, đông
lạnh không có sự sống.Chỉ có cái chung là tồn tại chân thực. Linh hồn do
thánh tạo ra có động cơ và mục đích khác nhau đã khuyến khích các ý niệm
vận động rồi in dấu vào “ không tồn tại”, cái mà ông gọi là “ vật chất” theo
những “tương quan toán học” những hoà điệu khác nhau mà sinh ra giới tự
nhiên, “ thế giới các sự vật cảm tính” muôn hình muôn vẻ , xấu đẹp khác
nhau. Chẳng hạn từ ý niệm nhà sinh ra cái nhà cụ thể, từ ý niệm cây sinh ra
những loài cây cụ thể…Như vậy, “thế giới các sự vật cảm tính” chỉ là sản
phẩm của “thế giới ý niệm”, chỉ là cái bóng của “của thế giới ý niệm” nên nó
là tồn tại không chân thực.Chúng giống như những cái bóng của các sự vật in
vào vách hang, khi chúng lướt qua ở ngoài hang, còn người ngồi ở cửa


7


hang,quay mặt vào trong thì chỉ nhìn thấy những cái bóng ấy mà thôi. Bàn về
sự sống của con người, Platon đưa ra thuyết linh hồn bất tử. cơ thể con người
do lửa, không khí, và đất tạo ra nên cơ thể không bất diệt, còn linh hồn do
thánh ban nên bất tử .
Sự đối lập còn thể hiện rõ trong quan niệm về vận động. Tuy
Đêmôcrít chưa tìm ra nguyên nhân của sự vận động và ông còn tách
không gian “không tồn tại” ) ra khỏi sự vật, nhưng ông đã cố gắng giải
thích sự vận động gắn với vật chất, vận động có động cơ tự thân của
nguyên tử, còn không gian là điều kiện của vận động. kết luận của
Đêmôcrít cho rằng thế giới là sự thống nhất giữa tồn tại của nguyên tử với
không tồn tại (không gian) là một kết luận duy vật triệt để. Ngược lại,
Platon đi tìm nguyên nhân của sự vận động ở lực tinh thần, “ở thần tình
ái” của linh hồn, linh hồn thế giới làm cho vũ trụ vận động,còn linh hồn
riêng biệt làm cho sự vật vận động. Dựa trên sự vận động của nguyên tử,
Đêmôcrít đã khái quát được quy luật nhân quả. Ông nói rằng “tìm được
cách giải thích hiện tượng theo nguyên nhân của nó còn thích hơn là
chiếm được ngôi vua Ba Tư”. Nhược điểm của ông là phủ nhận tính ngẫu
nhiên. Theo ông, mọi cái đều là tất yếu, đều đã được quyết định sẵn theo
nguyên nhân của nó. Đó là bản chất thuyết quyết định luận duy vật mang
màu sắc “định mệnh” của ông. Ngược lại, Platon đưa ra thuyết mục đích
luận cho rằng mọi vật được tạo ra như thế nào là phụ thuộc vào mục đích
của thần thánh.
Về nhận thức luận, nếu Platon vẫn duy tâm hoá nó thì Đêmôcrít lại phát
triển nhận thức luận duy vật. ở Đêmôcrít, đối tượng của nhận thức là giới tự
nhiên, mục tiêu là đạt tới bản chất của sự vật. Còn ở Platon, đối tượng và mục
tiêu của nhận thức lại là “ thế giới ý niệm”. Theo Đêmôcrít, trình độ nhận


8


thức cảm tính mờ tối, tuy chỉ theo dư luận nhưng là cơ sở của trình độ lý tính.
Nhận thức cảm tính cung cấp tài liệu để nhận thức lý tính. Trong khi đó
Platon lại tuyệt đối hoá nhận thức lý tính. Platon cho rằng nhận thức cảm tính
chỉ là những tưởng tượng, những kiến giải về “ cái bóng của ý niệm” nên nó
không chân thực. chỉ có lý tính ở trình độ “ trực giác trí tuệ” mới thấy được “ý
niệm” , đó mới là chân thực. “trực giác trí tuệ” chính là quá trình hồi tưởng
của linh hồn, linh hồn nhớ lại những gì mà nó đã thấy rõ khi nó tồn tại ở “ thế
giới ý niệm”, cái mà nó đã quên đi khi nhập vào thể xác con người . Để hồi
tưởng tốt, phải đoạn tuyệt với thế giới cảm tính. Platon cho rằng chỉ có những
con người có linh hồn ưu tú mới thực hiện được, đó là phương pháp đàm
thoại trực tiếp ( đặt ra và trả lời những câu hỏi) nhằm phát hiện ra mâu thuẫn
của đối phương trên cơ sở đối chiếu những khái niệm đối lập nhau từng cặp.
Tuy có một số yếu tố biện chứng nhưng đó là phương pháp biện chứng duy
tâm, nó tách rời khỏi sự vật, chỉ hoàn toàn sử dụng khái niệm với tư duy tự
biện.
Về lô gích học, hai ông đều có công phát triển lô gích học, nhưng trong
đó tính chất đối lập cũng rất rõ. Nếu Đêmôcrít coi lô gích là công cụ của nhận
thức, nhấn mạnh phương pháp quy nạp nhằm vạch ra bản chất của giới tự
nhiên, thì Platon lại xem xét lô gích xen kẽ với phép biện chứng duy tâm
nhằm đạt tới “ý niệm”, coi trọng phương pháp diễn dịch.
Về đạo đức học, Đêmôcrít hướng đạo đức học vào đời sống hiện thực.
Hạt nhân của nó là lương tâm trong sáng, tinh thần lành mạnh của từng cá
nhân.Tư tưởng về đời sống kinh tế- xã hội là cơ sở của đời sống đạo đức, là tư
tưởng có giá trị của ông. Một người có đạo đức, theo ông là người sống đúng
mức, không gây hại cho người khác. Ngược lại, Platon hướng đạo đức vào
đời sống của thế giới “ ý niệm” trong sự tha hoá của nó thành thiện, ác, thành


9


sự thông thái và lòng dũng cảm. Ông cho rằng chỉ có tầng lớp các nhà triết
học và quý tộc mới đạt tới đạo đức thanh cao. Còn đạo đức của thường dân
chỉ là sự kiềm chế dục vọng thấp hèn. Nô lệ không có đạo đức. Như vậy, đạo
đức của Platon là thứ đạo đức học duy tâm tôn giáo, phân biệt đẳng cấp, hoàn
toàn đối lập đạo đức học tiến bộ duy vật của Đêmôcrít .
Cuộc đấu tranh giữa đường lối Đêmôcrít với đường lối Platon là sự
phản ánh cuộc đấu tranh quyết liệt giữa tầng lớp chủ nô tiến bộ mà Đêmôcrít
là người đại diện với tầng lớp chủ nô quý tộc phản dân chủ mà platon là
người đại diện. Đêmôcrít ca ngợi chế độ dân chủ chủ nô, bảo vệ tự do, tinh
thần nhân ái và lợi ích công dân. Còn Platon lại bảo vệ chế độ quân chủ chủ
nô, bảo vệ lợi ích của tầng lớp quý tộc chống lại dân chủ.
Thứ ba, các hệ thống triết học Hy Lạp-La Mã cổ đại nói chung đều có
xu hướng đi sâu giải quyết các vấn đề về bản thể luận triết học, là những vấn
đề về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.
Khác với các nhà triết học Trung Quốc và ấn Độ cổ đại đi sâu vào
nghiên cứu con người, nghiên cứu đời sống chính trị, đạo đức xã hội và đời
sống tâm linh con người. Các nhà triết học Trung Quốc và ấn Độ cổ trung đại
cũng đề cập đến vấn đề bản thể luận, nhận thức luận nhưng hết sức mờ nhạt
và cũng chỉ nhằm làm sâu sắc thêm vấn đề con người và đời sống chính trị,
đạo đức và tâm linh của con người mà thôi. Còn các nhà triết học Hy Lạp - La
Mã cổ đại thì ngược lại, từ hêracơlít, Talét,Pitago, Arixtốt, Đêmôcỏrít,
Platon… đều có xu hướng đi sâu giải quyết các vấn đề về bản thể luận, nhận
thức luận.
Họ đều tập trung lý giải thế giới xung quanh ta là gì, nó tồn tại như thế
nào, con người có thể nhận thức được thế giới hay không. Các nhà triết học và
khoa học thời Hy Lạp cổ đại đều hướng vào giới tự nhiên để nghiên cứu lý


10


giải về nó. Họ đều tập trung làm rõ thế giới này do cái gì tạo nên, là nước,
nguyên tử, hay là lửa…Thế giới này là vật chất hay là thế giới do “ ý niềm”
tạo nên. các sự vật hiện tượng trong thế giới này tồn tại như thế nào, chúng có
quan hệ, liên hệ gì với nhau không, có vận động biến đổi hay không. Tất cả
những vấn đề đó nhằm giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, là giải
quyết vấn đề cơ bản của triết học. Vì vậy, quan điểm triết học của người Hy
Lạp cổ đại là phải có bốn học thuyết khai thác trên bốn mặt:
Bản thể luận.
Vũ trụ luận.
Tri thức luận.
Nhận thức luận
Thứ tư, nền triết học Hy lạp - La Mã cổ đại nói chung còn ở trình độ
trực quan, chủ nghĩa duy vật còn thô sơ mộc mạc và phép biện chứng còn ở
trình độ tự phát chưa được chứng minh bởi khoa học.
Những quan điểm của các nhà duy vật thời kỳ này, về cơ bản là đúng
đắn nhưng mang tính trực quan dựa vào quan sát trực tiếp và suy luận của các
nhà triết học, chứ chưa có cơ sở khoa học để chứng minh vì lúc này các ngành
khoa học chưa phát triển.
Chẳng hạn như Ta lét cho rằng thế giới có bản nguyên là nước, mọi sự
vật hiện tượng đều sinh ra từ nước và khi bị phân huỷ thì trở lại thành nước.
Ta Lét nhìn thế giới tồn tại tựa như một vòng tuần hoàn khép kín của nước,
thế giới tồn tại thống nhất ở nước.
Anaximanđrơ cho rằng bản nguyên đầu tiên sinh ra các sự vật hiện
tượng là “Apâyrôn”, Apârôn không có hình dạng xác định, là chất vô định
hình, vô cùng vô tận , tồn tại vĩnh viễn, không do ai sinh ra và tiêu diệt được,
là cái mang tính vật chất. “Apâyrôn” là cơ sở của sự vận động biến đổi của sự


11


vật hiện tượng, là nguồn gốc của sự thống nhất của các sự vật đối lập nhau
như nóng lạnh, sinh ra, chết đi… toàn bộ vũ trụ được cấu tạo từ “Apayrôn”,
thế giới tồn tại trong sự vận động biến đổi không ngừng.
Hay Hêracơlít ( 544- 485 TCN ) đại biểu lớn nhất của chủ nghĩa duy
vật và phép biện chứng trong giai đoạn đầu của triết học Hy Lạp cổ đại. Nếu
như Talét tìm thấy khởi nguyên của thế giới là nước, Anaximen là không khí
thì Hêracơlít lại coi “lửa” là bản nguyên của thế giới, Ông cho rằng:thế giới
đã, đang, sẽ và mãi mãi bùng cháy và tàn lụi theo quy luật của nó. Mọi sự vật
hiện tượng trong thế giới đều được sinh ra từ lửa.
Hêracơlít cho rằng thế giới vận động biến đổi và có sự tác động giữa
các sự vật hiện tượng là do thêm hay bớt lửa. Sự vận động của các sự vật là đi
lên nếu được thêm lửa, sự vận động đó sẽ đi xuống nếu bớt lửa (lửa cháy
thành không khí, bớt lửa thành nước, nước bớt lửa thành đá, đất; đất thêm lửa
thành không khí ).
Hêracơlít vừa là một nhà triết học duy vật mộc mạc thời cổ, vừa là một
trong các nhà triết học đầu tiên sáng lập ra phép biện chứng. Ông có nhiều
câu nói nổi tiếng thể hiện tư tưởng biện chứng như : “chúng ta không thể tắm
hai lần trên cùng một dòng sông, vì nước sông không ngừng chảy”.
Hêracơlít là nhà triết học vô thần, ông cho rằng vũ trụ không phải do
chúa trời hay một lực lượng siêu nhiên nào tạo ra, mà nó “mãi mãi đã, đang
và sẽ là ngọn lửa vĩnh viễn, đang không ngừng bùng cháy và tàn lụi”.
Người đương thời không hiểu được tư tưởng biện chứng của Hêracơlít,
không thể hiểu được sự vật tồn tại lại vừa không tồn tại, vừa là nó vừa là cái
khác. Họ đã gọi triết học của Hêracơlít là triết học tối tăm.
Hêracơlít cũng thấy rõ vai trò của cảm giác, ông khẳng định không có
cảm giác thì thì không có nhận thức, “mắt, tai là người thầy tốt nhất nhưng


12


mắt là nhân chứng chính xác hơn tai”. Hêracơlít đòi hỏi sự nhận thức phải đạt
tới nhận thức quy luật phát triển của sự vật, chỉ ra bản chất của sự vật đó.
Hêracơlít cũng thấy rõ tính tương đối và chuyển hoá biện chứng giữa tốt xấu, thiện- ác, lợi- hại, là tuỳ điều kiện cụ thể. C.Mác và Ph.Ăngghen đánh
giá cao chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng của Hêracơlít và coi Hêracơlít
là đại biểu xuất sắc của phép biện chứng thời cổ đại. Về mặt chính xã hội
Hêracơlít là người theo phái bảo thủ, chống lại dân chủ, thù địch với nhân
dân. Hêracơlít cũng là người giải quyết duy vật vấn đề “linh hồn” con người.
Ông cho rằng, “linh hồn” con người cũng do lửa tạo ra.
Hay Đêmôcrít cho rằng nguyên tử là cơ sở cấu tạo nên vạn vật trong
vũ trụ. Như vậy triết học Hy Lạp cổ đại đã đặt ra hầu hết các vấn đề triết
học phải giải quyết, chứa đựng những mầm mống của hầu hết các thế giới
quan triết học sau này, từ duy vật đến duy tâm, biện chứng và siêu hình,
hoài nghi, nguỵ biện…
Như vậy, xuất phát từ nhu cầu tìm hiểu thế giới và lý giải những vấn đề
phức tạp do cuộc sống đặt ra đã khiến cho triết học Hy Lạp ngay từ khi mới ra
đời đã có một nội dung phong phú, đa dạng, bao trùm mọi lĩnh vực tri thức
của con người cổ đại, và do đó chưa đựng mầm mống của hầu hết các loại thế
giới quan sau này. Trong điều kiện khoa học và nhạn thức của con người lúc
đó còn sơ khai, những thành tựu mà triết học Hy Lạp cổ đại đạt được nhất là
thuyết nguyên tử và phép biện chứng chất phác cùng với những đóng góp về
lô gích hình thức, đã khẳng định khả năng trực giác và tài phán đoán của
người Hy Lạp cổ đại. Nhiều vấn đề về thế giới quan, về lý luận nhận thức, về
con người… mà triết học Hy Lạp đặt ra cách đây hơn hai ngàn năm đến nay
vẫn còn mang ý nghĩa thời sự, khiến ta phải tiếp tục suy nghĩ và tìm câu giải
đáp trong điều kiện thời đại của mình.


13

Lịch sử của triết học Hy Lạp cổ đại gắn liền với số phận của chế độ

chiếm hữu nô lệ ở Hy Lạp và chịu ảnh hưởng sâu sắc của cuộc đấu tranh giai
cấp trong xã hội đó. Nghiên cứu triết học Hy Lạp cổ đại ta càng thấy rõ tính
chất gay gắt và quyết liệt của cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa duy tâm, giữa phép biện chứng và phép siêu hình, giữa “ đường lối
Đêmmôcrít” và “ đường lối Platon”, phản ánh tính chất gay gắt và quyết liệt
của cuộc đấu tranh về tư tưởng giữa những lực lượng dân chủ tiến bộ với
những lực lượng phản động bảo thủ lạc hậu trong xã hội Hy Lạp cổ đại. Cuộc
đấu tranh đó thể hiện “ tính đảng” trong triết học, về khách quan đã góp phần
thúc đẩy sự phát triển tư duy triết học của người Hy Lạp cổ đại, làm xuất hiện
những nhà thông thái, những bộ óc bách khoa tiêu biểu như Đêmôcrít,
Arixtốt… mà những cống hiến của họ cho triết học đã trở thành niềm tự hào
của Hy lạp và của cả nhân loại.
Triết học Hy Lạp cổ đại vừa là sự thể hiện của truyền thống văn minh
phương tây, đồng thời còn là kết quả của sự giao lưu văn hoá của các dân tộc
thời cổ đại, trong đó có những đóng góp quan trọng của văn hoá phương đông
cổ đại mà trực tiếp là Ba Tư và ấn Độ cổ đại. Vì vậy, nghiên cứu triết học Hy
Lạp cổ đại và có quan điểm đúng về nó không chỉ giúp ta hiểu được nguồn
gốc của tư tưởng và văn hoá phương tây, mà còn thấy được những nét đặc sắc
trong sự giao lưu văn hoá giữa phương tây và phương đông. Đó cũng là chìa
khoá giúp ta tìm hiểu sự phát triển của tư duy nhân loại trong những hoàn
cảnh địa lý và lịch sử khác nhau cũng như hiểu được cội nguồn lịch sử và bản
chất của nhiều vấn đề hiện đại.



×