Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT học sự THỐNG NHẤT của tư TƯỞNG BIỆN CHỨNG với lý LUẬN NHẬN THỨC TRONG TRIẾT học hê RA CLÍT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.73 KB, 22 trang )

SỰ THỐNG NHẤT CỦA TƯ TƯỞNG BIỆN CHỨNG VỚI LÝ
LUẬN NHẬN THỨC TRONG TRIẾT HỌC HÊ-RA-CLÍT

MỞ ĐẦU
Hê-ra-clít (544-483 tr.CN), nhà triết học duy vật, đại biểu xuất sắc của tư
tưởng biện chứng Hy Lạp cổ đại. Theo đánh giá của các nhà kinh điển của
chủ nghĩa Mác-Lênin, Hê-ra-clít là người sáng lập tư tưởng biện chứng trong
triết học phương tây cổ đại, hơn thế nữa tư tưởng biện chứng của ông là biện
chứng trên lập trường duy vật. Có thể xem Hêraclít là đại biểu lớn nhất của chủ
nghĩa duy vật và phép biện chứng trong giai đoạn đầu của triết học Hylạp cổ đại.
Hê-ra-clít sinh ra ở thành phố E-phe-dơ một trung tâm kinh tế văn hóa nổi
tiếng của Hy Lạp cổ đại. Ông thuộc tầng lớp chủ nô quý tộc, là dòng dõi quý
tộc ở vùng Iônia, mang tính “cha truyền con nối”, nhưng ông là người say mê
nghiên cứu khoa học nên đã nhường quyền cai trị kế vị cho em trai của mình
tập trung nghiên cứu triết học. Trong triết học, nếu như Talét tìm thấy khởi
nguyên của thế giới ở nước, Aneeximen ở trong không khí thì Hêraclít lại coi
"lửa" là bản nguyên của thế giới. Ông cho rằng: Thế giới đã, đang, sẽ và mãi
mãi bùng cháy và tàn lụi theo quy luật của nó. Mọi sự vật, hiện tượng trong
thế giới đều được sinh ra từ lửa .
Hêraclít cho rằng, thế giới vận động, biến đổi và có sự tác động giữa các
sự vật, hiện tượng là do thêm lửa hay bớt lửa. Sự vận động của các sự vật là
đi lên nếu được thêm lửa, sự vận động đó sẽ đi xuống nếu bớt lửa ( Lửa cháy
thành không khí, bớt lửa thành nước, nước bớt lửa thành đá, đất; đất thêm lửa
thành không khí…)
Hêraclít không chỉ là một nhà triết học duy vật mộc mạc thời cổ mà còn
là một trong các nhà triết học đầu tiên sáng lập phép biện chứng. Ông có


2

nhiều câu nói nổi tiếng thể hiện tư tưởng biện chứng như: ''Chúng ta không


thể tắm hai lần trên cùng một dòng sông, vì nước sông không ngừng chảy ''.
Hêraclít là nhà triết học vô thần, ông cho rằng, vũ trụ không phải do chúa
trời hay một lực lượng siêu nhiên nào tạo ra, mà nó'' mãi mãi đã, đang và sẽ là
ngọn lửa vĩnh viễn, đang không ngừng bùng cháy và tàn lụi".
Người đương thời không hiểu được tư tưởng biện chứng của Hêraclít
không thể hiểu được "sự vật tồn tại lại vừa không tồn tại, vừa là nó vừa là cái
khác". Họ đã gọi triết học Hêraclít là triết học tối tăm.
Hêraclít cũng thấy rõ vai trò của cảm giác, ông khẳng định không có cảm
giác thì không có nhận thức, "mắt, tai là người thầy tốt nhất nhưng mắt là
nhân chứng chính xác hơn tai". Hêraclít đòi hỏi sự nhận thức phải đạt tới nhận
thức quy luật phát triển của sự vật, chỉ ra bản chất của sự vật đó. Hêraclít
cũng thấy rõ tính tương đối và chuyển hoá biện chứng giữa tốt - xấu, thiện ác, lợi - hại là tuỳ điều kiện cụ thể. C.Mác, Ph.Ăngghen đánh giá cao chủ
nghĩa duy vật và phép biện chứng của Hêraclít và coi Hêraclít là đại biểu xuất
sắc của phép biện chứng thời cổ.
Về mặt chính trị xã hội, Hêraclít là người theo phái bảo thủ, chống lại
dân chủ, thù địch với nhân dân. Hêraclít cũng là người giải quyết một cách
duy vật vấn đề ''linh hồn'' con người. Ông cho rằng, ''linh hồn '' con người
cũng do lửa tạo ra.
NỘI DUNG
Sự thống nhất của tư tưởng biện chứng với lý luận nhận thức trong
triết học Hê ra clít
Hê-ra-clít đã đứng trên lập trường duy vật để giải quyết vấn đề “cơ sở
đầu tiên” của thế giới. Ông cho rằng lửa là bản nguyên của thế giới, là cơ sở
duy nhất và phổ biến của tất cả mọi sự vật, hiện tượng tự nhiên. Ông thừa
nhận lửa là bản nguyên của mọi vật. Lửa là yếu tố căn bản, duy nhất, phổ biến
của thế giới. Ông lấy lửa để giải thích mọi hiện tượng tự nhiên; tất cả đều
được trao đổi với lửa và lửa trao đổi với tất cả như vàng thành hàng hóa và


3


hàng hóa thành vàng, theo ông; các dạng vật chất, đều phát sinh từ lửa, cái
chết của lửa-là sự ra đời của không khí, và cái chết của không khí là sự ra đời
của nước, từ cái chết của nước sinh ra không khí, (từ cái chết của không khí
sinh ra lửa và ngược lại), tùy theo mức độ của lửa mà mọi vật có thể chuyển
hóa từ trạng thái này sang trạng thái khác. Vũ trụ không phải do một lực
lượng siêu nhiên thần bí nào sáng tạo ra, cũng không phải do con người tạo
ra, mà là- xưa là thế, nay là thế và mai sau vẫn là như thế. Nó “mãi mãi đã,
đang và sẽ là ngọn lửa vĩnh viễn không ngừng bùng cháy và tàn lụi”. Xem
toàn bộ vũ trụ như ngọn lửa bất diệt, Hêraclít đã đưa ra quan niệm duy vật
nhấn mạnh tính vĩnh viễn và bất diệt của thế giới.
Hêralít cho rằng: Thế giới các sự vật, hiện tượng thống nhất ở lửa. Theo
quan niệm của ông, lửa không phải theo nghĩa thông thường, mà là lửa vũ trụ,
lửa sản sinh ra không chỉ các sự vật vật chất, mà cả những hiện tượng tinh
thần, cả linh hồn con người. Đặc biệt ông đã nêu ra những tư tưởng biện
chứng, nhấn mạnh tính vận động của vật chất thông qua sự đấu tranh giữa các
mặt đối lập, khẳng định mọi sự vật, hiện tượng đều vận động, biến đổi không
ngừng. Hêraclít đưa ra luận điểm nổi tiếng: “Chúng ta không thể tắm hai lần
trên cùng một dòng nước” “Mặt trời mỗi ngày một đổi mới, nó luôn luôn đổi
mới và vĩnh viễn đổi mới”. Điều đó nói lên rằng; mọi sự vật luôn vận động
biến đổi không ngừng, cứ vận động, cứ trôi đi, chảy đi bất tận. Mọi cái chỉ
xảy ra có một lần, không lặp lại mặc dù giữa các sự vật có thể có sự kế thừa
nhất định. Ông thừa nhận sự tồn tại và thống nhất của các mặt đối lập nhưng
trong các mối quan hệ khác nhau và đó là nguồn gốc của sự vận động biến đổi
sự vật. Tuỳ theo mỗi quan hệ mà sự vật biểu hiện những thuộc tính riêng biệt
của nó. Chẳng hạn, “đối với loài cá Ông nói-thì nước là rất cần thiết cho sự
sống của nó, nhưng đối với con người thì đó là một độc tố có hại” cũng như;
một con khỉ dù đẹp đến đâu nhưng vẫn là xấu nếu đem so sánh nó với con



4

người. “ Cùng ở trong mỗi chung ta- sống và chết, thức và ngủ, trẻ và già,” “
cái lạnh nóng lên, cái nóng lạnh đi; cái ướt khô đi, cái khô ước lại” “ mọi
vấtinh ra duy nhất, duy nhất sinh ra mọi vật”.
Trong nhận thức phải nhận thức cái bản chất của sự vật- tức cái lôgos
của nó. Bản thân logos là sự thống nhất của các mặt đối lập. Vũ trụ là một thể
thống nhất, nhưng trong lòng nó luôn luôn diễn ra các cuộc đấu tranh giữa các
sự vật, lực lượng đối lập, nhờ các cuộc đấu tranh đó mà mới có hiện tượng sự
vật này chết đi, sự vật khác ra đời. Dưới con mắt của Hêraclít, mọi sự vật
trong thế giới của chúng ta đều thay đổi, vận động, phát triển không ngừng.
Hêghen từng nhận xét: “khi nói rằng mọi cái đang trôi đi, Hêraclít coi sinh
thành là phạm trù cơ bản của mọi tồn tại”1.
Trong nhận thức về sự vật, hiện tượng, Hêraclít đã chỉ ra nhưng còn
“mang tính phỏng đoán” về sự phân đôi của một thể thống nhất thành những
mặt đối lập bài trừ nhau nhưng chúng vẫn gắn liền với nhau, về sự đấu tranh
và thống nhất của những mặt đối lập ấy. Đây là một tư tưởng tiến bộ lúc bấy
giờ, sau này Lênin đã chỉ ra: Phân đôi cái thống nhất và nhận thức các bộ
phận đối lập của nó là thực chất của phép biện chứng. Vì thế đấu tranh là
vương quốc của mọi cái, là quy luật phát triển của vũ trụ. Mặc dù, phép biện
chứng của Hêraclít chưa được trình bầy dưới dạng một hệ thống khoa học,
nhưng hầu hết các luận điểm cốt lõi của phép biện chứng đã được ông đề cập
đến dưới dạng các câu danh ngôn, có tính thi văn và triết lý.
Khác với nhiều nhà triết học thuộc trường phái milê, họ chỉ chủ yếu quan
tâm tới vấn đề bản thể luận, đi tìm cái bản nguyên đầu tiên của vũ trụ.
Hêraclít không chỉ đầu tư trí tuệ của mình cho việc nhận thức, đi tìm cái bản
nguyên và lý giải cái bản nguyên vật chất ấy cuat thế giới là lửa, mà ông còn
giành nhiều công sức để luận chứng cho sự nhận thức cái bản nguyên vật chất
1


G.V. Ph. Hêgen: Bách khoa toàn thư triết học, Nxb. Tư tưởng, Mát xcơva, 1974, t1,tr226 (tiếng Nga)


5

từ lửa. Lý giải nguồn gốc và bản chất lửa của thế giới, nhận thức thế giới và
những sự vật, hiện tượng cũng được sinh ra từ lửa. Theo Hêraclít lửa là cơ sở
của thực tại, mọi cái biến đổi thành lửa và lửa thành mọi cái. Mọi thứ kể cả
linh hồn, đều là biến thái của lửa, đó chính là sự thống nhất giữa tư tưởng biện
chứng với vấn đề nhận thức luận trong hệ thống triết học của Ông.
Tính thống nhất giữa tư tưởng biện chứng với lý luận nhận thức của triết
học Hêraclit biểu hiện ở chỗ Ông cho rằng: Nhiệm vụ của nhận thức là phải
hiểu biết sâu sắc về tự nhiên. Ông quan niệm, tư tưởng có giá trị rất vĩ đại, trí
tuệ là ở chỗ biết lý giải sự thật và lắng nghe tự nhiên để giải thích và hành
động theo tự nhiên. Trên cơ sở đó Hêraclít đã xây dựng nên một học thuyết
về lý luận nhận thức. Biện chứng trong lý luận nhận thức của Hêraclít thể
hiện ở chỗ ông chỉ ra rằng: Nhận thức bắt đầu từ cảm giác, không có các cảm
giác thì không thể có bất cứ nhận thức nào, ông đánh giá cao vai trò của các
giác quan trong nhận thức các sự vật đơn lẻ, chính quá trình cảm giác mà
chúng đem lại cho con người ta những hiểu biết xác thực và sinh động về sự
vật, hiện tượng. Mặt khác, Ông chỉ ra rằng, mục đích tối cao của chúng ta là
phải nhận thức cái logos, nhận thức bản chất sự thống nhất của vũ trụ và sự
thông thái tối cao. Ông khẳng định, mắt và tai là những người thầy tốt nhất,
nhưng mắt là người thầy tốt hơn tai. Trăm nghe không bằng một thấy. Điều
đó được thể hiện ở tính độc đáo và sâu sắc những vấn đề về lý luận nhận thức
trong hệ thống triết học của Ông: kiểu tư duy suy luận đặc thù, phương pháp
nhận thức, sự thống nhất giữa các giai đoạn của quá trình nhận thức cho đến
tính tương đối của cả quá trình nhận thức. Trong thế giới quan của Hêraclít,
cái thể hiện rõ hơn cả là kiểu tư duy, lối triết lý kết hợp một cách chặt chẽ
những hình ảnh, hình tượng giàu chất nghệ thuật với những khái niệm khoa

học giàu tính xác định, trực giác thẩm mỹ với nhận thức triết học về thế giới.
Chính sự kết hợp độc đáo đó đã tạo nên ở Ông một kiểu tư duy, suy luận đặc


6

thù hay trực giác trí tuệ, đây là nét đặc trưng trong thế giới quan triết học của
Hêraclít; đó là thế giới quan không hoàn toàn dựa trên cơ sở những dự liệu
khoa học phong phú, những kinh nghiệm và thử nghiệm khoa học. Chính nét
đặc trưng này đã làm nên tính độc đáo trong lý luận nhận thức của Hêraclít.
Trong số các nhà triết học Hy lạp cổ đại, Hêraclít được coi là nhà triết
học biện chứng với tư duy trừu tượng cao nhất. Ông luôn quan tâm đến các
hiện tượng tự nhiên, nhưng đó chỉ là sự quan tâm về phương diện triết học,
coi các hiện tượng của giới tự nhiên đó chỉ là những yếu tố cấu thành những
bức tranh thế giới chung và hài hoà, trong đó mọi yếu tố cấu thành đều phải
tuân theo các chỉnh thể duy nhất là logos trừu tượng. Hay hiểu cách khác, mọi
hiện tượng vật lý diễn ra trong vũ trụ chỉ được Hêraclít xem xét trên bình diện
các vấn đề triết học và coi chúng như những yếu tố cấu thành “siêu hình học”học thuyết về cái đang tồn tại. Khi cố gắng lý giải và nắm bắt bản chất của
mọi cái đang tồn tại bằng phương pháp xem xét tổng thể ông đạt đến đỉnh cao
so với các nhà triết học đương thời, đã nhận thấy cái chỉnh thể trước cái bộ
phận. Năng lực nhận thức cái chỉnh thể trước cái bộ phận ở Hêraclít được giải
thích không chỉ bởi tư duy lý luận trừu tượng, mà còn bởi sức mạnh tưởng
tượng của nghệ thuật. Với tư cách một nhà triết học vừa có tư duy lý luận trừu
tượng, vừa có năng khiếu thẩm mỹ và trí tưởng tượng sáng tạo, khi nhìn sự
“trôi đi”, “chảy đi” diễn ra hàng ngày và hết sức thông thường của dòng sông,
một sản phẩm sáng tạo của tạo hoá, Hêraclít đã đi đến nhận thức triết học về
tính phổ biến, tính vĩnh hằng của vận động. Ông khái quát “mọi vật đều trôi
đi, chảy đi, không có cái gì đứng nguyên tại chỗ. Về mối quan hệ giữa vận
động và biến đổi, giữa sinh thành và diệt vong, về sự thay thế lẫn nhau, sự
chuyển hoá lẫn nhau của mọi sự vật và hiện tượng Hêacrit cũng chỉ ra: “mọi

sự vật vừa tồn tại, vừa không tồn tại, vừa là nó vừa là cái khác”. Hay nhìn sức
căng của những sợi dây đàn, sức căng của cây cung-một sản phẩm nghệ thuật


7

sáng tạo của con người thời cổ đại lúc căng ra tạo ra lực đẩy và âm thanh,
trùng xuống thì về nguyên vị trí ban đầu. Hêraclít đã đi đến nhận thức triết
học về sự hài hoà và đấu tranh của 2 mặt đối lập đó, về tính thống nhất của vũ
trụ. Triết học của ông về sau được các nhà duy vật biện chứng thời cận đại và
hiện đại chứng minh sự đấu tranh của các mặt đối lập chính là nguồn gốc
động lực của sự phát triển của các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và
tư duy, đây là quan điểm nhận thức hết sức duy vật và khoa học.
Với quan niệm “cây cung tên gọi của nó là sống, nhưng tác dụng của nó
là chết”, “đối lập tạo ra sự hài hoà, giống như cây cung và chiếc đàn sáu dây”;
thân cây cung thì cứng, sợi dây cung thì mền, nhưng những vật xung khắc lẫn
nhau ấy lại hợp thành một; một sợi dây đàn của chiếc đàn phát ra âm thanh
riêng, song những âm thanh khác nhau lại hợp thành một âm điệu êm đẹp
nhất đưa con người bay bổng theo làn điệu âm thanh đó. Năng lực tư duy trừu
tượng và khả năng sáng tạo nghệ thuật đã đêm lại cho Hêraclít sự nhận thức
đúng đắn về cái phổ biến và cái đặc thù, cũng như sự chuyển hoá lẫn nhau của
chúng “Bước xuống cùng một dòng sông” (cái phổ biến), “ mỗi lần xuống đó
đều tiếp nhận dòng nước mới” (cái đặc thù). Hay khi Ông quan sát hiện tượng
bùng cháy và lụi tàn của ngọn lửa, Hêraclít đã sử dụng ngọn lửa sống động để
giải thích sự vận động, biến đổi phổ biến của các sự vật, hiện tượng nhờ bản
chất thường xuyên vận động của cái khởi nguyên vật chất ấy. Hình ảnh ngọn
lửa sống động đó đã đem lại cho ông sự nhận thức đúng đắn về khả năng vận
động, tính tích cực và sự sống của tất cả những cái hiện hữu. Hay ông đã nâng
cái cá biệt, cái đặc thù-cuộc đấu tranh về sự sống của những người Hy Lạp
cổ, của dân tộc Hy Lạp mà ông từng chứng kiến khái quát lên thành cái

chung, cái phổ biến-mọi người sinh ra, mọi dân tộc đang tồn tại trên thế giới
đều luôn đấu tranh về sự sống. Hơn nữa ông đã khái quát sự chuyển hoá lẫn
nhau giữa cái cá biệt, cái đặc thù, cái chung thành một phạm trù triết học, đó


8

là nguyên lý về tính phổ biến và tính tất yếu của sự đấu tranh của các mặt đối
lập: “Tất cả mọi sự vật đều ra đời trong đấu tranh”. Có thể nói, hầu hết các kết
quả nhận thức mà Hêraclít đã rút ra từ quan sát giới tự nhiên xung quanh và
chiêm nghiệm đời sống xã hội của con người đều được hình thành trên cơ sở
kết hợp tư duy lý luận trừu tượng và khả năng sáng tạo nghệ thuật vốn có ở
nơi Ông. Đó cũng là nét độc đáo của Hêraclít so với các nhà triết học đương
thời và cả sau này. Bởi vì, nhận thức nghệ thuật khác với nhận thức khoa học nói
chung, nhận thức triết học nói riêng ở việc xây dựng hệ thống các khái niệm.
Tuy nhiên đó chỉ là những phương thức khác nhau, chứ không phải là phương
thức loại trừ nhau trong quá trình nhận thức hiện thực khách quan. Song các nhà
triết học Hy Lạp cổ đại lại quá nhấn mạnh sự khác biệt giữa nhận thức triết học
và nhận thức nghệ thuật. Vì họ đã không thấy được bản chất của vấn đề đó chính
là mối quan hệ giữa triết học và nghệ thuật, triết học và thi ca. Chính vì không
hiểu mối quan hệ này, vì quá đề cao vai trò nhận thức của nghệ thuật và thi ca
mà sau này, cuộc tranh luận về sự khác biệt giữa nhận thức triết học và nhận
thức nghệ thuật đã trở thành cuộc tranh luận về thái độ của triết học đối với nghệ
thuật và thi ca, khoa học với nghệ thuật, còn trong bản thân triết học là sự đối lập
giữa nhận thức lý tính và nhận thức cảm tính. Nhưng ở Hêraclít, tư duy triết
học trừu tượng và năng lực sáng tạo nghệ thuật, nhận thức cảm tính và
nhận thức lý tính gắn kết với nhau thành một sự hài hoà bí ẩn, thành năng
lực tư duy “thống nhất trong sự bất đồng”. Nhờ kết hợp tư duy lý luận với
trực giác thẩm mỹ, lồng tư duy lý luận vào trực giác thẩm mỹ và trực giác
thẩm mỹ vào tư duy lý luận theo kiểu cái này bao hàm cái kia và ngược lại,

kết hợp nhận thức triết học với sáng tạo nghệ thuật. Hêraclít đã tạo ra sự
gắn kết hài hoà giữa khái niệm khoa học (triết học) và hình tượng nghệ
thuật trong học thuyết về nhận thức của Ông. Do vậy, khi nhận thức bản
chất của mỗi yếu tố cấu thành sự vật, cũng như sự vật đó với tư cách một


9

chỉnh thể, Hêraclít luôn nhận thấy ở nó có tính đa dạng, phong phú lẫn tính
chính thể và nhìn nhận sự vật đó cả trong tính đa dạng lẫn trong tính chính
thể của nó, coi nó là cái duy nhất đồng thời cũng là cái bội đa, là cái thống
nhất của một và đa số, sự hài hoà được tạo ra bởi cái chỉnh thể và cái chưa
chỉnh thể (cái bộ phận), cái phù hợp với nhau và cái không phù hợp với
nhau, cái tích tụ và cái phân tán. Từ cái chỉnh thể (đối lập) sinh ra cái một
và từ cái một sinh ra cái chỉnh thể. Có thể nói trong lĩnh vực nhận thức, tư
duy lý luận và trực giác thẩm mỹ là những cái đem lại cho Hêraclít khả
năng nhận biết cái chung trong mỗi sự vật đơn nhất gắn kết cái đặc thù với
cái phổ biến, cái cá biện với cái chung, nhận thấy cái cá biệt trong cái phổ
biến, cái chung và ngược lại từ mỗi cái chung, cái phổ biến tìm ra những
cái cá biệt thể hiện rõ nét nhất bản chất của cái chung. Cái phổ biến đó khi
tìm ra những biểu hiện đa dạng, cụ thể của nó ở các sự vật, hiện tượng đơn
nhất, cá biệt bằng cách so sánh, đối chiếu các sự vật, hiện tượng đơn nhất,
cái cá biệt này với cái chung, cái phổ biến. Sự vật đặt trong sự tương quan
khác nhau “biểu lộ” ra một cách khác nhau trước chủ thể. Hêraclít đưa ra
hàng loạt các dẫn chứng để làm sáng tỏ luận điểm này, chẳng hạn “mật
ngọt đối với người bình thường, nhưng đắng đối với người bệnh”; “nước
biển đối với một số sinh thể là môi trường sống, nhưng đối với một số khác
lại tỏ ra độc hại”; “vàng là của quý đối với người, nhưng vô giá đối với loài
vật”; cũng như “ một con khỉ dù đẹp đến đâu nhưng vẫn là xấu đen so sánh
với con người, những người toàn năng nhất cũng không thể so sánh với

thần”.
Nhiều nhà triết học trong lịch sử, trong đó có cả các nhà sáng lập ra
chủ nghĩa Mác, khi nghiên cứu học thuyết về nhận thức trong triết học của
Hêraclít đã coi phương pháp nhận thức này của ông là phương pháp “vừa


10

nhìn thấy cây, vừa nhận thấy rừng”, đằng sau sự vật, hiện tượng đơn lẻ còn
thấy hiện tượng phổ biến.
Hêraclít đã diễn đạt phương pháp nhận thức của ông thành một luận
điểm dưới dạng một câu châm ngôn nổi tiếng: biết nhiều thứ chưa làm cho
người ta thông minh, người thông minh phải là người nắm được bản chất
và tính tất yếu của sự vật, hiểu được cái logos của vũ trụ. Giải thích vì sao
một người biết nhiều thứ (đa tri thức), song do không hiểu được cái logos
của vũ trụ thì nhiều lắm cũng chỉ được coi là con người có thể hiểu, chứ
chưa phải là nhà thông thái, người thông minh; Hêraclít cho rằng, người có
đa tri thức thuần tuý chẳng qua chỉ là những sản phẩm của mách bảo nhận
thức, mà mách bảo nhận thức thì ai sinh ra cũng có, người ta ai cũng có
năng lực bẩm sinh về nhận thức, tư tưởng là cái mà mọi người đều có.
Người có năng lực bẩm sinh về nhận thức, năng lực bẩm sinh về tư tưởng;
nhưng nếu không hiểu cái logos (quy luật) của vũ trụ thì cùng lắm anh ta
cũng chỉ có thể sử dụng lời nói hoặc sự thực để phân biệt từng sự vật hoặc
chỉ ra thực chất của nó, còn khi phải thể hiện, diễn đạt cái thực chất này
của sự vật, thì anh ta lại tỏ ra không có một chút hiểu biết nào cả; anh ta
không hiểu được nên nghe như thế nào, cũng không hiểu được nên nói như
thế nào. giải thích điều này, Hêraclít còn cho rằng, sự kém phát triển của trí
tưởng tượng nghệ thuật và lý luận ở nhiều người đã làm mất đi ở họ khả
năng nắm bắt được trong các sự vật mà họ đang quan sát, chiêm nghiệm
mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng, cái chung và cái

riêng, tính phổ biến của cái cá biệt và tính cá biệt của cái phổ biến với tư
cách sự thể hiện đặc thù của nó ở cái cá thể, cái đơn nhất, “cái duy nhất”
(theo cách gọi của Hêraclít). Do vậy, họ không thể nắm bắt được cái logos
của vũ trụ, họ không trở thành nhà thông thái. Chính sự kém phát triển của
cảm giác thẩm mỹ, của năng lực sáng tạo nghệ thuật, cũng như của tư duy


11

lý luận trừu tượng đã khiến cho nhiều người trở thành nô lệ cho những cái
vốn đã lạc hậu và quen thuộc đối với tư duy. Với những người như thế, dù
có biết nhiều thứ (đa tri thức) thì cũng không thể trở thành người thông
minh, nhà thông thái được. Bởi vì, họ không có khả năng sử dụng một cách
sáng tạo những tri thức mà họ đã có được để rút ra những tri thức mới, họ
chỉ biết sao chép, bắt chước một cách máy móc, chỉ biết liệt kê các sự kiện,
hay mô tả chúng mà không biết phân tích tổng hợp, không hiểu được bản
chất của sự vật, hiện tượng, cũng như mối quan hệ của các sự vật, hiện
tượng đối với các sự vật hiện tượng khác. Rõ ràng với những người mà cả
linh hồn và trí tuệ mới đạt đến trình độ này thì học chỉ biết tin vào những
người hát rong trên đường, chỉ biết lấy số đông tạp nham làm thầy mà
không biết rằng số đông là kém cỏi, chỉ có một số ít người mới là những
người thầy thật sự thông thái. Đánh giá về điều này, đã có người cho rằng ở
Hêraclít chân lý là cái không thuộc về số đông.
Để nắm bắt được mối quan hệ biện chứng giữa các sự vật, hiện tượng,
nắm bắt được quy luật phổ biến (logos vũ trụ); thì theo Hêraclít chủ thể nhận
thức trước hết phải có năng lực quan sát và sự sáng suốt của trí tuệ. Năng lực
quan sát và sự sáng suốt đó của trí tuệ không phải là một cái gì thần bí, chúng
cũng chẳng qua cũng là sản phẩm suy luận có lôgíc của trực giác trí tuệ, của
cái logos vốn trong mỗi con người mà trí tưởng tượng nghệ thuật và lý luận là
một yếu tố cấu thành. Hêraclít khẳng định, trí tuệ là cái khác rất xa với hết

thảy mọi cái, song về thực chất, trí tuệ chẳng qua cũng chỉ là sự nhận thức tư
tưởng, sự nhận thức mà với nó người ta có thể chế ngự được hết thảy mọi thứ.
Do vậy, theo ông người có trí tuệ là người hiểu được cái logos của vũ trụ và
thừa nhận hết thảy là một sự sáng suốt của trí tuệ. Theo Hêraclít, không phải
là đa tri thức, là biết nhiều thứ, mặc dù để có được nó, những người yêu thích
trí tuệ, các nhà thông thái cần phải biết rất nhiều thứ. Sự sáng suốt của trí tuệ


12

là năng lực nhận thức độc lập của con người về bản chất của các sự vật, hiện
tượng mà họ đang quan sát, chiêm nghiệm; là năng lực nhận thức mà người ta
có được, nhờ biết khai thác một cách có phán xét sự sáng suốt của người
khác. Coi năng lực nhận thức của con người như “dòng chảy” vĩnh hằng của
những con sông lớn, nơi mà ở đó “luôn có những dòng nước mới” thường
xuyên được bổ sung liên tục. Hêraclít cho rằng, để có được “những dòng
nước mới”, sự sáng suốt mới cho năng lực nhận thức đó của mình, con người
cần phải trang bị cho mình cái mà mọi người đều có, giống như một toà thành
vĩ đại lấy pháp luật để vũ trang, vũ trang làm sao cho vững mạnh hơn nữa.
Đồng thời cần phải biết tôn trọng những cái mà mọi người đều có, đó chính là
logos, cái mà tồn tại vĩnh viễn và trong cuộc sống của mình,con người thường
xuyên tiếp cận với nó, nhưng ít người hiểu được. Hêraclít nhận xét, thật đáng
tiếc nhiều người sống lại không đếm xỉa đến nó, không biết nó là cái gì mà vẫn
cho mình là người có trí tuệ đặc biệt. Với nhận xét đó, ông đòi hỏi chủ thể nhận
thức, phải có tư duy sáng tạo để nhận thức độc lập, tìm kiếm, lựa chọn phương
pháp nhận thức, để nhằm tránh được đưa ra kết luận quá sớm về một cái gì đó
khi vẫn còn chưa nhận thức đầy đủ được logos của nó. Bởi vì, theo ông những
cái chưa diễn ra là những cái rất khó nắm bắt, khó có thể nhận thức được bản
chất của chúng.
Hêraclít còn cho rằng, điều kiện cơ bản nhất để chủ thể nhận thức-nhà

thông thái có được sự nhận thức đúng đắn là sự sáng suốt của trí tuệ. Đó là
sự sáng suốt có khả năng nhận thức tính thống nhất của các mặt đối lập mà
ông gọi là logos vũ trụ. Giải thích cái logos vũ trụ này, Hêraclít đã sử dụng
rất nhiều tên gọi khác nhau “thần ngôn”, “quy luật”, “sự hài hoà bí ẩn”,
“ngọn lửa sống vĩnh hằng”, “trí tuệ”, “tính tất yếu”, “cái phổ biến”, “thượng
đế”, “đấng sáng chế”…”số phận”, “linh hồn”. Song không một tên gọi nào
trong số đó làm ông thoã mãn.


13

Trong tất cả những tên gọi đó, Hêraclít giành một sự ưu tiên nhất định
cho cái gọi là “thần ngôn”. Bởi theo ông, mọi tên gọi cụ thể khác đều dễ
khiến người ta đi tới chỗ đồng nhất bản chất đích thực của vũ trụ (cái logos)
với một biểu hiện cụ thể nào đó của nó cái mà ông coi chỉ là đối tượng của
nhận thức cảm tính. Với quan niệm đó, Hêraclít coi sự sáng suốt của trí tuệ
(cái logos chủ quan trong con người), sự thông thái và cả bản thân trí tuệ của
con người cũng là đối tượng của nhận thức và đó là đối tượng của nhận thức
lý tính. Theo Hêraclít sự sáng suốt ấy của trí tuệ. Cái logos chủ quan ấy
trong con người dẫu có rất khác xa với mọi cái trong vũ trụ này, thì ở nó vẫn
có những đặc trưng mà con người hoàn toàn có thể nhận thức được. Những
đặc trưng đó là tính khách quan, tính vĩnh hằng, là quy luật bất biến, là cái
mà “linh hồn vốn có” tự nó phát triển. Do tính khách quan đặc thù đó (tính
khách quan trong cái chủ quan), do là cái phổ biến tức là cái mà mọi người
đều có, nên nó không phải là cái không thể nhận thức được và một khi nhận
thức được nó, con người sẽ trở nên thông thái.
Khi nghiên cứu học thuyết về nhận thức trong triết học hêraclít, đã có
những nhà triết học cho rằng: cái duy nhất làm nên tính độc đáo trong học
thuyết của ông về nhận thức là quan niệm coi sự sáng suốt của trí tuệ (cái logos
chủ quan trong con người) cũng là đối tượng của nhận thức con người. Đấy là

đánh giá vội vàng và chưa thật sự khách quan khoa học. Mà cái làm nên tính
độc đáo trong học thuyết về nhận thức của Hêraclít so với các nhà triết học Hy
Lạp cổ đại đương thời là ở chỗ, ông luôn coi tự nhiên mới là đối tượng chủ yếu
của nhận thức con người, coi việc nhận thức được cái logos khách quan của vũ
trụ mới đem lại cho con người sự thông thái. Với ông logos vũ trụ mới là chân
lý, là tri thức khách quan về vạn vật trong quá trình biến hoá thường xuyên,
liên lục “trôi đi, chảy đi” theo dòng chảy của chúng, đó chính là thước đo nhận
thức của con người. Do vậy, con người phải nắm bắt, hiểu biết các logos của vũ


14

trụ để tìm ra chân lý, để hành động theo tiếng gọi của vũ trụ, của tự nhiên.
Song, không phải ai cũng có thể nhận thức cái logos khách quan ấy của tự
nhiên. Bởi “tự nhiên ưu thích sự ẩn náu” và che dấu mình. Vì thế, chỉ có những
người mà có trí tuệ sáng sủa khô ráo nhất, linh hồn trí tuệ nhất, ưu tú nhất, thì
mới có thể nhận thức được cái logos khách quan của tự nhiên. Để có sự nhận
thức đúng đắn này, thì nhận thức của con người, kể cả nhận thức của những
người có trí tuệ anh minh nhất, phải bắt đầu từ nhận thức cảm tính. Bởi “mắt và
tai là những người thầy tốt nhất” và “so với tai thì mắt là nhân chứng chính xác
hơn”. Song do “ mắt và tai là những kẻ làm chứng tồi đối với con người, nếu
người đó có linh hồn ẩm ướt”, nên nhận thức của con người phải cần đến sự
sáng suốt của khô ráo của trí tuệ. Như vậy, để có thể nhận thức được cái logos
khách quan của tự nhiên, của vũ trụ, thì cái logos của chủ quan trong con người
phải đi từ trực quan cảm tính đến trực quan trí tuệ (lý tính) tuân theo quy luật từ
nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính.
Với quan niệm trên, Hêraclít đã đưa vào học thuyết về nhận thức của
ông những nguyên lý về sự thống nhất giữa logos khách quan của vũ trụ và
logos chủ quan trong con người, đó là sự thống nhất của tư tưởng biện
chứng với tư duy nhận thức trong triết học của mình. logos chủ quan theo

Hêraclít đó là ngôn từ, là lời nói, tư tưởng, học thuyết; logos chủ quan được
Ông hiểu như là chuẩn mực trong hoạt động nhận thức của con người. Con
người càng tiếp cận được cái logos này, càng có khả năng nắm bắt logos
khách quan của vạn vật. Bởi ai cũng có năng lực bẩm sinh nhận thức về
mình, coi năng lực nhận thức, tư duy là cái vốn có trong con người. Hêraclít
đã cho rằng, cái logos chủ quan đó trong con người hoàn toàn có khả năng
đồng nhất với cái logos khách quan vốn có của vũ trụ, mặc dù khả năng này
không phải lúc nào cũng diễn ra ở tất cả mọi người. logos vũ trụ tuy là cái
tồn tại khác quan vĩnh hằng, thế những nhiều người trước khi nghe người


15

khác nói về nó đã không hiểu nó là gì. logos chủ quan cái mà mọi người đều
có, song nhiều người do không nhận thức được cái khả năng vốn có đó của
mình, hoặc”không đếm xỉa đến nó”, nhưng vẫn tự cho mình là người có trí
tuệ đặc biệt nên họ đã không thể nhận thức được cái logos khách quan của
vũ trụ và “ngay cả khi đã có được một bài học cũng vẫn không hiểu”, không
nhận thức được nó là cái gì. Tuy vậy, không phải vì thế mà giữa logos khách
quan của vũ trụ với logos chủ quan của con người không có sự đồng nhất,
thống nhất. Cái logos chủ quan ở những nhà thông thái, những người mà
trong linh hồn họ có yếu tố lửa (sáng sủa, khô ráo) chiếm ưu thế so với yếu
tố (ẩm ướt), thì chỉ là logos chủ quan của những người đó mới không có sự
khác biệt về chất so với cái logos khách quan của vũ trụ. Do vậy, chỉ có
những nhà thông thái, chỉ có những người có linh hồn trí tuệ nhất, có cái
logos tự nó phát triển mới có thể nhận thức được cái logos khách quan của
vũ trụ. logos khách quan của vũ trụ là vô hạn thì logos chủ quan trong con
người cũng là vô hạn, vì logos chủ quan phản ánh logos khách quan cho nên
con người không thể tìm thấy giới hạn của linh hồn, thậm chí cả khi “chúng
ta tìm ra con người đưa tới giới hạn đó, chúng ta vẫn không thể tìm thấy cái

logos của nó, bởi cái logos của nó là vô cùng sâu xa”. Do đó theo hêraclít cái
logos chủ quan này trong con người có thể tìm thấy sự đồng nhất, thống nhất
của nó với cái logos khách quan của vũ trụ bằng cách tự nhận thức. Khi con
người tự nhận thức được chính mình thì cái logos chủ quan vô cùng, sâu xa
trong linh hồn con người sẽ đồng nhất, thống nhất với logos vô tận của vũ trụ.
Chính sự tự nhận thức này, theo hêraclít đã đưa con người đi từ lĩnh vực nhận
thức thế giới nội tâm, đến lĩnh vực nhận thức thế giới bên ngoài và trên con
đường đó, thế giới nội tâm của con người ngày càng trở nên phong phú, đa
dạng, sâu sắc được mở rộng và phát triển hơn.


16

Bằng con đường tự nhận thức, mà trước hết là tự nhận thức về chính
mình, hướng cái logos chủ quan, vốn có của mình theo cái logos khách quan
vốn có của vũ trụ, nói lên được chân lý và hành động theo tự nhiên, nghe theo
tiếng gọi của tự nhiên, làm cho trí tuệ của mình tiếp cận sự bí ẩn, sâu xa của
tự nhiên. Theo Hêraclít con người hoàn toàn có thể nhận thức được cái logos
khách quan là quy luật vốn có của tự nhiên.
Tính thống nhất giữa tư tưởng biện chứng với học thuyết về nhận thức
của Hêraclít còn được thể hiện ở chỗ, ông là người đầu tiên trong số các nhà
triết học Hy Lạp cổ đại đã nhận thấy vai trò quan trọng của nhận thức cảm
tính và khẳng định tính tương đối của nhận thức. Mặc dù rất đề cao vai trò
của lý tính trong nhận thức, coi lý tính mới là cái có thể lý giải các dữ liệu
của cảm tính một cách đúng đắn nhất, coi trí thức đối với những người có
học là mặt trời thứ hai, Hêraclít đánh giá rất cao vai trò của các dự liệu cảm
tính do các giác quan của con người đem lại. Điều đó được thể hiển sự hài
hoà không nhìn thấy được, tốt hơn là sự hài hoà nhìn thấy được, song những
cái mà có thể nhìn thấy, nghe thấy được và những cái có thể học được đều là
những cái mà ông coi trọng. Nói về tính tương đối của nhận thức, Hêraclít

cho rằng: cái kết quả của nhận thức có thể là khác nhau tuỳ theo điều kiện và
hoàn cảnh. Theo Hêraclít ngày và đêm, tốt và xấu, thiện và ác, lợi và hại,
cũng như mọi sự đối lập khác đều có thể chuyển hoá cho nhau, đều có thể
tạo thành một chỉnh thể thống nhất .
Với quan niệm như trên về tính tương đối của nhận thức, Hêraclít không
thừa nhận sự tồn tại của chân lý tuyệt đối trong nhận thức con người. Ông cho
rằng: mọi suy nghĩ của con người đều chỉ là trò tiêu khiển của trẻ em, so với trí
tuệ của thượng đế thì con người không có trí tuệ, so với thượng đế thì con người
là ấu trĩ, đây cũng là một vấn đề trong tư duy của Hêraclít làm nên tính độc đáo
riêng của ông về vấn đề nhận thức. Đối với triết học biện chứng ngày nay soi


17

vào thì việc không thừa nhận sự tồn tại của chân lý tuyệt đối trong lý luận nhận
thức thì quan niệm của ông là không đúng. Bởi vì, với tư cách là sản phẩn của
quá trình tư duy của con người nhận thức của thế giới, mọi chân lý đều có tính
khách quan, tính cụ thể, tính tuyệt đối và tính tương đối. Chân lý tuyệt đối được
cấu thành từ tổng số những chân lý tương đối và “mỗi chân lý khoa học, dù là
có tính tương đối, vẫn chứa đựng một yếu tố của chân lý tuyệt đối” 1. Nhưng có
thể nói, quan niệm của Hêraclít về tính tương đối của nhận thức con người là
một cống hiến to lớn khi nó khẳng định nhận thức của con người là một quá
trình và con người chỉ có thể nhận thức được thế giới khi có trí tuệ phát triển.
Học thuyết của Hêraclít về nhận thức được thừa nhận là một bước tiến
lớn về nhận thức thế giới của con người trong triết học Hy Lạp cổ đại. So với
những nhà triết học đương thời thì học thuyết về nhận thức của ông có nhiều
điểm rất tiến bộ đó là: Có sự thống nhất giữa tư tưởng biện chứng với lý luận
nhận thức. Ông đã chỉ ra đối tượng của nhận thức, cơ sở của nhận thức và
nghiên cứu là từ cảm giác, nhận thức chịu sự chi phối của logos (quy luật);
con đường nhận thức là từ nhận thức cảm tính rồi mới đến nhận thức lý tính,

triết học của ông đã vượt thời đại của mình, rất gần với triết học Mác, xác
định con đường nhận thức trải qua các giai đoạn từ trực quan sinh động rồi
đến tư duy trừu tượng, thực chất cũng là nhận thức cảm tính rồi mới nhận
thức lý tính và ông đã nêu lên tính tương đối của nhận thức, coi tư duy là cái
phổ biến của mọi con người; nhiệm vụ của nhận thức là đạt tới sự nhận thức
của logos- nhận thức cái bản chất của sự vật, hiện tượng. Song khi nghiên
cứu học thuyết về nhận thức của Hêraclít có những hạn chế do quy định của
thời đại mà ông không thể vượt qua. Cái làm nên sự độc đáo trong học
thuyết về nhận thức của Hêraclít là sự thống nhất giữa tư tưởng biện chứng
với phương pháp nhận thức, lối tư duy suy luận theo kiểu trực giác trí tuệ,
1

V.I. Lênin. Toàn tập, Nxb tiến bộ, Mãccơva, 1980, T18. Tr 383.


18

nhưng đó cũng chính làm hạn chế trong triết học của ông. Bởi vì, chính cái
lối triết lý thông qua những câu văn, câu cách ngôn, lối triết lý bằng hình
ảnh, hình tượng giàu biểu cảm. Chính lối viết trên khiến cho tính rõ ràng,
mạch lạc và nhất quán của tư duy lôgíc trở nên lu mờ và nhiều khi còn bị
phá vỡ bởi tính đa nghĩa trong lối hành văn có tính ẩn dụ, những biểu cảm
rất khó nhận ra trong các xét đoán, suy luận của ông. Mặt khác trực giác là
một phẩm chất đặc biệt, trực giác rút ra kết luận trực tiếp từ các tài liệu cảm
tính đến thẳng kết quả bỏ qua các khâu thao tác như phân tích, so sánh, phán
đoán cho nên nhiều người nghiên cứu rất khó hiểu là tất yếu đối với học
thuyết nhận thức của ông. Mặc dù quan quan niệm của Hêraclít về trực giác
trí tuệ có điểm chưa rõ ràng, song ông coi nó là sản phẩm của lửa (vật chất)
nhờ nó mà con người nhận thức được thế giới, ông cũng chưa bao giờ gắn
nhận thức với vô vọng (một trạng thái tâm lý phủ nhận ý thức cá nhân) trong

quá trình nhận thức thế giới chỉ có vấn đề mà Ăngghen đã nhận xét, với lối tư
duy, suy luận theo kiểu trực giác trí tuệ khi xem xét thế giới với tư cách một
chỉnh thể, khi nhận thức thế giới ấy trong tính chỉnh thể của nó, Hêraclít cũng
như các nhà triết học Hy Lạp cổ đại khác, dù có nắm đúng tính chất chung thì
người Hy Lạp “chưa đạt tới trình độ mổ xẻ, phân tích giới tự nhiên” 1, vẫn
không đủ để giải thích những chi tiết hợp thành bức tranh toàn bộ và một khi
cách nhìn ấy vẫn còn chưa biết được các chi tiết cấu thành thế giới với tư cách
là một chỉnh thể, thì chưa thể có được một sự nhận thức đúng đắn về thế giới
là điểu dễ hiểu. Rõ ràng để đánh giá những cống hiếu và hạn chế trong lý luận
nhận thức của Hêraclít thì phải tuân theo những nguyên tắc, yêu cầu, phương
pháp khi nghiên cứu lịch sử triết học theo quan điểm Mác xít.
KẾT LUẬN
Nghiên cứu lý luận nhận thức của Hêraclít chúng ta có thể kết luận rằng
ông là nhà triết học duy vật có nhiều yếu tố biện chứng ngây thơ chất phát có


19

giá trị lớn cho lịch sử triết học của nhân loại. Hệ thống triết học của ông thể
hiện trên nhiều góc độ trong đó có quan điểm đúng đắn về lý luận nhận thức
được thể hiện trên các nội dung đó là khẳng định con người có thể nhận thức
được thế giới. Nhận thức được thế giới là nhận thức cái “logos” chính là nhận
thức tự nhiên, nhận thức xã hội trong trạng thái đấu tranh, hài hoà các mâu
thuẫn; nhận thức của con người được bắt đầu từ nhận thức cảm tính, thể hiện
giai đoạn đầu của quá trình nhận thức chân lý, ông đề cao vai trò nhận thức
cảm tính, nhưng không tuuyệt đối nó và ông đưa ra quan niệm để nhận thức
của sự vật phải có tư duy sáng suốt; Hêraclít chỉ ra tính tương đối của nhận
thức, nhận thức phụ thuộc vào điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể, từ đó ông
đưa ra kết luận chân lý luôn có tính cụ thể. Triết học về lý luận nhận thức của
Hêraclít có những nội dung bí ẩn, tạo nên tính độc đáo sâu sắc. Với những

vấn đề cơ bản và những giá trị to lớn, lý luận nhận thức của ông nó đã ảnh
hưởng tác động nhận thức luận trong triết học Hy Lạp cổ đại, là cơ sở phương
pháp luận duy vật cho các nhà triết học đấu tranh phê phán với các quan điểm
duy tâm, tôn giáo và thuyết không thể biết, các nhà khoa học tự nhiên có tiền
đề vật chất đi nhận thức thế giới. Ngay trong sự tác động đó đã thể hiện: đấu
tranh giữa duy vật và duy tâm, kế thừa và phát triển ở mỗi nhà triết học từ lập
trường triết học của mình đã tiếp cận và đánh giá khác nhau về lý luận nhận
thức Hêraclít. Phép biện chứng cùng với lý luận nhận thức trong triết học
Hêraclít nó đã để lại dấu ấn sâu đậm trong dòng chảy tư tưởng của nhân loại.
C. Mác đã khẳng định “Triết học hiện đại chỉ tiếp tục các công việc do
Hêraclít và Arixtốt đã mở đầu mà thôi”.1 cùng với những kiến giải về bản thể
luận và nhận thức luận là những quan điểm sơ khai về phép biện chứng. Phép
biện chứng của ông là hình thức đầu tiên của lịch sử phép biện nó đã đưa ra
cách nhiều có tính trực quan và biện chứng chất phát về sự vận động và phát
1

C Mac-Ăngghen, Toàn tập, Nxb, CTQG, Hà Nội, 1995,t1, tr166


20

triển của vạn vật. Mặc dù chưa đạt tới mức là một hệ thống các nguyên lý,
quy luật, phạm trù của lý luận biện chứng nhưng về cơ bản những phỏng đoán
về tính biện chứng của Hêraclít đã giữa vai trò là người đặt những nền tảng
đầu tiên cho lý luận biện chứng. Khi nói về giá trị tư tưởng biện chứng và lý
luận nhận thức của Hêraclít, Ăngghen đã đánh giá một cách đúng đắn giá trị
triết học Hêraclít, coi Hêraclít là đại biểu xuất sắc của phép biện chứng Hy
Lạp cổ đại. Ăngghen viết: “Quan niệm về thế giới một cách nguyên thủy,
ngây thơ nhưng căn bản là đúng ấy, là quan niệm của nhà triết học Hy Lạp
thời cổ, và người đầu tiên diễn đạt được rõ ràng quan niệm ấy là Hê-raclít: mọi vật tồn tại, nhưng đồng thời lại không tồn tại, vì mọi vật đều trôi

đi, mọi vật đều không ngừng thay đổi, mọi vật đều luôn luôn ở trong quá
trình xuất hiện và biến đi” 2.
Khi nghiên cứu lý luận nhận thức của Hêraclít rất thiết thực đối với
người học cũng như những người nghiên cứu khoa học về lịch sử triết học
trong dòng chảy tri thức của nhân loại. Người học phải nắm chắc những tư
tưởng cốt lõi ấy để chúng ta hiểu được cội nguồn lịch sử, cũng như sự phát
triển của lịch sử triết học nhân loại, đặc biệt là sự ra đời của triết học MácLênin là tất yếu lịch sử, phù hợp với quy luật phát triển khách quan của tư
tưởng triết học nhân loại và từ đó chúng ta hiểu được bản chất của nhiều
vấn đề hiện đại.
Chúng ta nghiên cứu vấn đề này, nhằm hiểu được những vấn đề tư tưởng
cốt lõi nhất, bản chất của học thuyết nhận thức trong hệ thống triết học của
Hêraclít, và từ những tư tưởng có giá trị đó chúng ta hiểu được điều kiện kinh
tế xã hội, lịch sử, khoa học của triết học trong lịch sử ,ở hy lạp thời kỳ đó.
Giúp cho chúng ta tăng thêm hiểu biết vốn kiến thức của nhân loại đã khái
quát thành hệ thống sơ khai buổi bình minh của nhận thức loài Người. Để từ
2

Ph Ăng ghen “Chống Duy-rinh”. Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1984. tr32.


21

đó càng nghiên cứu sâu hơn về tư duy triết học, nâng cao trình độ hiểu biết
cũng như phương pháp tiếp cận đánh giá một vấn đề trong lịch sử tư tưởng
triết học.
Đối với một giảng viên triết học đang học tập, nghiên cứu ở trình độ
thạc sỹ, khi nghiên cứu lịch sử triết học, chúng ta cần có quan điểm nhận thức
đúng đắn các vấn đề. Thấy được những cống hiến, đóng góp của các nhà triết
học trong lịch sử, cả những giá trị và những hạn chế của họ. Có quan điểm
đánh giá thẩm định phù hợp. Đặc biệt phải biết vận dụng những điểm tích

cực, tiến bộ của các quan điểm triết học trong lịch sử để cắt nghĩa các vấn đề
của triết học Mác, và chứng minh triết học Mác là sự kế thừa những giá trị
tinh hoa trong dòng chảy phát triển của triết học nhân loại. Với triết học của
Hêraclit phải thấy được đó là trường phái triết học khá tiến bộ trong lịch sử
triết học phương tây cổ đại, với những đóng góp hết sức giá trị cả trong lý
luận nhận thức và tư duy biện chứng.
Trong nghiên cứu triết học Mác , phải thấy được tư duy biện chứng duy
vật Mác xít có quá trình hình thành và phát triển tuân theo những quy luật của
sự phát triển tư duy triết học nhân loại, nghĩa là phép biện chứng duy vật Mác
là đỉnh cao của tư duy triết học nhân loại. Trong sự phát triển, có sự kế thừa,
sự chọn lọc những tinh hoa của tư duyửtiết học nhân loại. Là người giảng
viên phải có nhận thức đúng đắn, đánh giá đúng từng trường phái, từng nhà
triết học sát với điều kiện, hoàn cảnh kinh tế-chính trị-xã hội đương thời mà
họ đã sống đã có những cống hiến cho nhân loại, thật sự bảo đảm nguyên tắc
khách quan, toàn diện, lịch sử cụ thể và phát triển. Tránh đánh giá một cách
chung chung, hời hợt, phiến diện một chiều dẫn đến phê phán thiết cơ sơ khoa
học. Tư duy của những người làm công tác sư phạm đòi hỏi có sự mô phạm
một cách khái quát, chính xác đánh giá một cách công bằng đối với từng giai
đoạn lịch sử, tạo sức hút cho người học sau này.


22

Nghiên cứu triết học Hê raclit, phải thấy được sự thống nhất giữa lý luận
nhận thức với tư tưởng biện chứng của nó ,vì nó có ý nghĩa trong phát triển tư
duy sư phạm. Trong giảng dạy và học tập muốn có một phán đoán đúng, một
kết luận chính xác thì phải đi tìm đủ các căn cứ, thông tin tài liệu, các dự liệu
khoa học và có khả năng khái quát tình hình thực tiễn tốt, phải đặt những vấn
đề nhận thức trong mối quan hệ thống nhất với hiện thực. Người giảng viên sau
này muốn tư duy đúng phải có phương pháp tư duy khoa học, tư duy biện

chứng, tư duy lôgíc. Làm được điều đó người học phải tăng cường tích luỹ tri
thức, kinh nghiệm, có khả năng phán đoán cao, khả năng tưu duy trừu tượng
lớn, có cách nhìn, cách tổng hợp, khái quát hoá gắn lý luận vào thực tiễn sinh
động. Chính từ ý nghĩa đó người học, người làm công tác giảng dạy sau này
để có khả năng tư duy khoa học, tư duy biện chứng cao phải có quá trình tích
luỹ kiến thức, thông qua các giai đoạn nhận thức, chống tư tưởng nóng vội đốt
cháy giai đoạn, tăng cường học hỏi, tích luỹ kiến thức khoa học của nhận loại,
tính luỹ kinh nghiệm trong thực tiễn giảng dạy là con đường đúng đắn nhất để
cũng cố, hoàn thiện phương pháp tư duy khoa học nâng cao chất lượng giảng
dạy sau này.



×