Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT học vai trò của thực tiễn đối với nhận thức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.17 KB, 32 trang )

MỞ ĐẦU

“Tiền đề cơ bản của chủ nghĩa duy vật là thừa nhận thế giới bên ngoài,
thừa nhận sự tồn tại của vật ở ngoài ý thức chúng ta và độc lập với ý thức
chúng ta”1. Triết học Mác cũng như vậy, song, đối với triết học Mác, thừa
nhận tính vật chất của thế giới chỉ là khởi điểm chứ không phải kết thúc, cũng
không phải là toàn bộ. Xuất phát từ khởi điểm này, phải lý giải và nắm vững
một cách biện chứng duy vật về mối quan hệ giữa thế giới và con người, giữa
tính vật chất của thế giới và tính năng động của hoạt động tinh thần nhân loại,
mới có thể xây dựng được một thế giới quan hoàn chỉnh, khoa học. Các nhà
triết học trước đây, kể cả các nhà duy vật chỉ xem xét con người ở vị trí lệ
thuộc với hoàn cảnh bên ngoài, chứ chưa đạt tới quan điểm hoạt động của con
người. Trong Luận cương về Phoiơbắc, Mác đã viết: “Khuyết điểm chủ yếu
của toàn bộ chủ nghĩa duy vật từ trước đến nay - kể cả chủ nghĩa duy vật của
Phoiơbắc -là sự vật, hiện thực, cái cảm giác được, chỉ được nhận thức dưới
hình thức khách thể hay hình thức trực quan, chứ không được nhận thức là
hoạt động cảm giác của con người, là thực tiễn, không được nhận thức về mặt
chủ quan”2. Chủ nghĩa duy vật ấy xem cảm giác như trạng thái thụ động, chịu
tác động từ bên ngoài con người, thực ra theo C.Mác, hoạt động cảm giác tự
nó đã là hoạt động thực tiễn cụ thể của con người. Con người không chỉ chịu
sự tác động của hoàn cảnh, mà còn là chủ thể tích cực cải tạo hoàn cảnh. Chủ
nghĩa duy vật cũ chưa làm sáng tỏ ý nghĩa nhận thức khi con người tác động
vào thế giới. Cần thấy rằng con người nhận thức thế giới là để cải tạo thế giới.
Nhận thức cảm giác về thế giới bên ngoài là yếu tố đương nhiên trong hoạt
động thực tiễn. Việc tách rời quan hệ cảm giác về thế giới khỏi hoạt động
thực tiễn đã cho thấy tính phiến diện của cách tiếp cận trực quan, giản đơn.
Khắc phục những hạn chế đó, triết học Mác, đã đưa ra quan niệm về thực tiễn
đồng thời vạch rõ vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, đó là: thực tiễn là cơ
1
2


V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t.18, tr.92
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.3, tr.9.


sở, động lực, mục đích của nhận thức, thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra chân
lý.
Quan niệm của triết học Mác về vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
đã trở thành điểm xuất phát cho mọi hoạt động cách mạng của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động. Song, ngày nay bản thân triết học Mác – Lênin
nói chung và quan niệm về thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
nói riêng cũng đứng trước những thử thách lớn. Những thay đổi hết sức sâu
rộng trong đời sống nhân loại đang cần những giải đáp mới cả về triết học,
kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học. Bên cạnh đó, cũng có
những học thuyết, quan điểm công khai phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lênin.
Ngay ở Việt Nam, bất chấp thực tiễn hùng hồn được chứng minh qua 20 năm
đổi mới, nhiều người do thông tin không đầy đủ, do bất cập trong nhận thức
lý luận và thực tiễn, phai nhạt lý tưởng, cơ hội chính trị hoặc do bản chất
chống cộng bằng nhiều hình thức công khai hay giấu mặt đã ra sức tấn công,
xuyên tạc chủ nghĩa Mác – Lênin, xuyên tạc đường lối đi lên chủ nghĩa xã hội
của Đảng ta. Trước tình hình đó, những quan điểm của triết học Mác - Lênin
cần thiết phải được bảo vệ và chứng tỏ những giá trị, ý nghĩa bền vững của
mình, phải được nhận thức và được phát triển một cách chính xác, sâu sắc,
toàn diện và có hệ thống để có thể tiếp tục đóng vai trò làm cơ sở lý luận và
phương pháp luận cho nhận thức khoa học.
Với những lý do đó, tôi đã chọn đề tài:”Vai trò của thực tiễn đối với
nhận thức” để làm tiểu luận kết thúc môn học.


NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT VỀ PHẠM TRÙ THỰC TIỄN VÀ PHẠM TRÙ

NHẬN THỨC
1.1. Phạm trù thực tiễn
1.1.1. Khái niệm
Là một hiện tượng xã hội, từ rất sớm, thực tiễn đã thu hút sự chú ý của
các nhà triết học. Triết gia Hy Lạp cổ đại Xôcrat từng nói: “chỉ cần một chút
hơi thở, tôi sẽ không dừng thực tiễn triết học”, Arixtốt cho rằng: “thực tiễn là
hoạt động bao gồm cả mục đích hoàn thành”. Trong lịch sử triết học châu Âu,
Cantơ đã chính thức đưa khái niệm thực tiễn vào triết học, đồng thời đưa ra
hai khái niệm: “lý luận lý tính” và “thực tiễn lý tính”. Theo Cantơ, thực tiễn
thông qua ý chí của con người mẫu mực để chi phối hoạt động đạo đức của
con người, giúp con người đạt tới tự do. “Thực tiễn” của Cantơ do vậy không
tách rời phạm vi thực tiễn luân lý. Hêghen thì nhận thức “thực tiễn” bằng con
mắt duy tâm khách quan, ông đưa ra khái niệm “thực tiễn lý luận”, đồng thời
xem đó là một bước không thể bỏ qua để đạt được và thực hiện ý niệm tuyệt
đối. Phoiơbắc cũng đã tìm hiểu thực tiễn, đưa ra một số kiến giải về quan hệ
giữa thực tiễn với lý luận, song, theo Mác, ông không hiểu được ý nghĩa của
hoạt động cách mạng, của hoạt động thực tiễn phê phán. Có thể nói, hầu như
các trào lưu triết học trong lịch sử đều không có quan niệm đúng đắn về phạm
trù này, hoặc coi thực tiễn như là hoạt động tinh thần sáng tạo ra thế giới của
con người, chứ không xem xét là hoạt động vật chất, là hoạt động lịch sử - xã
hội, hoặc coi đó là hoạt động “con buôn, đê tiện, bẩn thỉu” và không có vai trò
gì đối với nhận thức của con người.
Sở dĩ các trào lưu triết học trước đó không giải quyết chính xác vấn đề
thực tiễn vì ngoài những nguyên nhân về thế giới quan và phương pháp luận
còn do sự hạn chế về mặt nhận thức thực chất vấn đề thực tiễn. Bản thân thực
tiễn đã có sẵn đặc trưng mâu thuẫn, một mặt, thực tiễn là hoạt động có mục


đích của con người, hàm chứa nhân tố chủ quan của con người, chịu sự chi
phối lý tính và có ý thức của con người; mặt khác, thực tiễn lại là của con

người thực thể vật chất, thông qua các công cụ vật chất đã tiến hành quá trình
khách quan biến đổi thế giới vật chất. Không nắm vững một cách toàn diện và
sâu sắc những mâu thuẫn nội tại của thực tiễn là nguyên nhân dẫn đến sự
tranh cãi nhận thức luận không dứt, là sự cố chấp giữa chủ nghĩa duy tâm và
chủ nghĩa duy vật.
Kế thừa và phát triển sáng tạo những yếu tố hợp lý trong những quan
niệm về thực tiễn của các nhà triết học trước đó, C.Mác và Ph.Ăngghen đã có
quan niệm đúng đắn, khoa học về thực tiễn và vai trò của nó đối với nhận
thức cũng như đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Với việc
đưa phạm trù thực tiễn vào lý luận nhận thức, các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác-Lênin đã tạo nên một bước chuyển biến cách mạng trong triết học nói
chung và trong lý luận nhận thức nói riêng. Thực tiễn là toàn bộ những hoạt
động vật chất, mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm mục đích cải
biến tự nhiên, xã hội và tư duy.
1.1.2. Đặc trưng và hình thức cơ bản của thực tiễn
*Đặc trưng của hoạt động thực tiễn
Nhìn từ tổng thể, thực tiễn có ba đặc trưng cơ bản: tính hiện thực khách
quan, tính năng động tự giác và tính lịch sử xã hội.
Thứ nhất, thực tiễn là hoạt động khách quan có tính vật chất. Các yếu tố
và tiền đề cấu thành của thực tiễn gồm: Chủ thể của thực tiễn (con người), đối
tượng của thực tiễn (thế giới bên ngoài) và phương tiện của thực tiễn (công
cụ…). Chúng đều là thực tại khách quan mà con người có thể cảm biết được.
Kết quả của thực tiễn chính là “sự thật” mà ta cảm biết được, nó cũng là sự
tồn tại khách quan ở bên ngoài ý thức của con người; độ rộng, độ sâu và quá
trình phát triển của thực tiễn đều chịu sự chế ước của điều kiện khách quan và
sự chi phối của quy luật khách quan. Thực tiễn với tư cách là hoạt động khách


quan, đặc điểm của nó chính là lấy thực thể cảm tính (con người) cùng với
thực thể cảm tính (vật) phát sinh quan hệ, đồng thời lấy phương thức của cảm

tính tác động vào đối tượng cảm tính. Trong tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và
chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán, khi nói đến “Luận cương về Phoiơbắc” của
Mác, Lênin đã dẫn lời của Lêvy: “Mác cho rằng cùng phù hợp với hoạt động
của hiện tượng của nhân loại là hoạt động của vật, tức là thực tiễn của nhân
loại không chỉ có ý nghĩa của hiện tượng, mà còn có thời gian, ý nghĩa của
thực tại khách quan, loài nói của ông ấy về bản chất là chính xác”.
Thứ hai, thực tiễn là hoạt động năng động của tự giác, thực tiễn là hoạt
động có tính sáng tạo của con người tự giác cải tạo thế giới vật chất. Trong
hoạt động thực tiễn, con người lấy nội dung của “vật” chiếu rọi đến chính bản
thân mình, đồng thời lấy nhu cầu của bản thân mình làm hình thức tập trung
đến nội dung của “vật”, làm cho sự vật của quan niệm chuyển hoá thành sự
vật vật chất. Cho nên làm cho “vật” biến thành sự vật tồn tại phụ thuộc ở nhu
cầu của con người. Giữa con người và sự vật thiết lập nên một kiểu thống
nhất mới. Ở điểm này, sự tác dụng lẫn nhau giữa hoạt động thực tiễn và thực
thể cảm tính trong giới tự nhiên là căn bản không giống nhau. Tính mục đích,
tính tự chủ, tính sáng tạo của hoạt động thực tiễn biểu thị rõ thực tiễn có tính
năng động, tự giác. Tính năng động tự giác không chỉ là đặc điểm của thực
tiễn, mà còn là một trong những thước đo trình độ phát triển thực tiễn.
Thứ ba, thực tiễn là hoạt động lịch sử xã hội. Hoạt động thực tiễn được
thực hiện thông qua việc con người sử dụng những công cụ vật chất tác động
trực tiếp vào những đối tượng làm cho chúng biến đổi theo những mục đích
nhất định. Hoạt động này được thực hiện một cách tất yếu, khách quan và
không ngừng phát triển bởi con người qua các thời kỳ lịch sử. Vì vậy, thực
tiễn bao giờ cũng là hoạt động mang tính lịch sử - xã hội.
Thực tiễn vừa bắt đầu đã là thực tiễn của xã hội, là thực tiễn của lịch sử
đang phát triển. Con người luôn ở trong mối quan hệ nhất định để tiến hành


các hoạt động thực tiễn. Cho dù thực tiễn có thể biểu hiện là hoạt động cá thể
của một con người, nhưng con người luôn dựa vào lực lượng xã hội làm nảy

sinh quan hệ với tự nhiên, làm hoạt động thực tiễn. Mác đã chỉ ra để tiến hành
sản xuất, giữa những con người với nhau thường nảy sinh những liên hệ và
quan hệ nhất định; chỉ có trong phạm vi của những liên hệ xã hội và quan hệ
xã hội này mới có thể có ảnh hưởng của họ đối với giới tự nhiên và mới có
sản xuất “Ngay cả khi tôi chuyển về hoạt động khoa học…, hoạt động mà chỉ
trong những trường hợp hiếm có tôi mới có thể thực hiện trng sự giao tiếp với
những ngưoiừ khác, ngay cả lúc đó tôi cũng tiến hành một hoạt động xã hội…
không những tài liệu cần cho hoạt động của tôi, cả đến bản thân ngôn ngữ mà
nhà tư tưởng dùng để hoạt động, được cung cấp cho tôi với tính cách là một
sản phẩm xã hội”1. Còn hoạt động thực tiễn của con người bao gồm đối
tượng, phạm vi, quy mô và phương thức của thực tiễn đều chịu sự chế ước
của điều kiện lịch sử.
*Những hình thức cơ bản của hoạt động thực tiễn:
Hoạt động thực tiễn rất đa dạng với nhiều hình thức ngày càng phong
phú, song có ba hình thức cơ bản là hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động
chính trị - xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học.
Hoạt động sản xuất vật chất là hình thức hoạt động cơ bản, đầu tiên của
thực tiễn. Đây là hoạt động mà trong đó con người sử dụng những công cụ lao
động tác động vào giới tự nhiên để tạo ra những của cải và các điều kiện thiết
yếu nhằm duy trì sự tồn tại, phát triển của mình và xã hội. Trước hết nhân loại
chỉ có thể giải quyết vấn đề tư liệu tiêu dùng vật chất như ăn, uống, ở, mặc
thông qua sản xuất mới có thể nói đến các hoạt động khác như chính trị, khoa
học, nghệ thuật… Do vậy, cải tạo hoạt động sản xuất đối với tự nhiên là hoạt
động thực tiễn sớm nhất của nhân loại, cũng là hoạt động căn bản của nhân
loại quyết định tất cả các hoạt động khác. Hoạt động chính trị xã hội là hoạt
1

C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.42, tr.170.



động của các tổ chức cộng đồng người khác nhau trong xã hội nhằm cải biến
những mối quan hệ xã hội để thúc đẩy xã hội phát triển. Thực nghiệm khoa
học là hình thức đặc biệt của thực tiễn, là hoạt động mà con người tạo ra
những trạng thái gần giống, giống hoặc lặp lại của tự nhiên và xã hội nhằm
xác định các quy luật biến đổi và phát triển của đối tượng nghiên cứu. Hoạt
động thực tiễn này ngày càng có vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã
hội, đặc biệt là trong thời kỳ cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại.
Mỗi hình thức hoạt động cơ bản của thực tiễn có chức năng quan trọng
riêng, song giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn
nhau. Trong mối quan hệ đó, hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động cơ bản
nhất, đóng vai trò quyết định đối với các hoạt động khác. Bởi vì, nó là hoạt
động “nguyên thuỷ” nhất và tồn tại một cách khách quan, thường xuyên trong
đời sống của con người và nó tạo ra những điều kiện, của cải thiết yếu có tính
quyết định đối với sự sinh tồn và phát triển của con người. Không có hoạt
động sản xuất vật chất thì không thể có các hình thức hoạt động khác. Các
hình thức hoạt động khác suy cho cùng cũng xuất phát từ hoạt động sản xuất
vật chất và phục vụ cho hoạt động sản xuất của con người. Chính sự tác động
qua lại lẫn nhau của các hình thức hoạt động cơ bản đó làm cho thực tiễn vận
động, phát triển không ngừng và ngày càng có vai trò quan trọng đối với nhận
thức.
1.2. Phạm trù nhận thức
1.2.1. Bản chất của nhận thức
Trong lịch sử triết học, cuộc đấu tranh xung quanh vấn đề con người có
thể nhận thức được thế giới khách quan hay không cũng như cơ sở nền tảng
của nhận thức là gì, luôn diễn ra gay go, phức tạp với nhiều quan điểm khác
nhau.
Chủ nghĩa duy vật trước Mác với các đại biểu như Hêraclit, Đêmôcrit,
Ph. Bêcơn, T. Hôpxơ, đặc biệt là L. Phoiơbắc đã đấu tranh quyết liệt chống lại



chủ nghĩa duy tâm, cố gắng lý giải bản chất nhận thức trên lập trường duy vật.
Họ thừa nhận khả năng nhận thức của con người đối với thế giới và coi nhận
thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc người. Song, do hạn chế
bởi điều kiện xã hội và trình độ nhận thức nên những quan điểm triết học của
họ còn thiếu cơ sở khoa học, còn mang tính siêu hình, trực quan, máy móc
trong giải quyết các vấn đề về nhận thức, chưa phản ánh đúng bản chất và
mối quan hệ giữa các giai đoạn nhận thức. Đặc biệt, hạn chế lớn nhất của chủ
nghĩa duy vật trước Mác là không luận giải đúng vai trò của thực tiễn đối với
nhận thức, nên giải thích một cách siêu hình mối quan hệ giữa chủ thể và
khách thể nhận thức.
L.Phoiơbắc đánh giá cao vai trò của cảm giác trong nhận thức và chỉ ra
nguồn gốc, cơ sở khách quan của nó. Song, lý luận nhận thức của ông còn
mang tính duy giác luận, trực quan, cảm tính, chỉ thừa nhận yếu tố sinh vật
trong cảm giác của con người mà không thấy mặt xã hội của nó. Ông không
phân biệt được sự khác nhau về bản chất giữa nhận thức cảm tính với nhận
thức lý tính, hiểu chưa đầy đủ về vai trò thực tiễn là cơ sở của nhận thức, nên
đồng nhất cảm giác với tư duy, phủ nhận vai trò tích cực của ý thức.
Trái với chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm xuất phát từ việc không
thừa nhận thế giới vật chất tồn tại độc lập với ý thức nên đã phủ định khả
năng nhận thức thế giới của con người, hoặc nếu thừa nhận thì cho đó chỉ là
sự áp đặt, chi phối từ những lực lượng “siêu nhiên” và kết quả nhận thức
không phải sự phản ánh hiện thực khách quan.
Các nhà duy tâm khách quan, mặc dù không phủ nhận khả năng nhận
thức thế giới, song luôn coi nhận thức không phải là sự phản ánh hiện thực
khách quan, mà chỉ là “tự nhận thức” của ý niệm, còn tư tưởng là sự tồn tại ở
đâu đó ngoài con người. G. Hêghen đã coi “ý niệm tuyệt đối” là linh hồn của
nhận thức khoa học chân chính; nhận thức của con người là “ý niệm tuyệt đối
tự nhận thức bản thân mình”. Ông còn quy “thực tiễn” vào hoạt động tinh



thần; hơn nữa, do chưa thoát khỏi lập trường giai cấp nên ông không đánh giá
đúng vai trò của thực tiễn, đặc biệt là vai trò sản xuất vật chất đối với sự phát
triển xã hội.
Các nhà duy tâm chủ quan hoàn toàn thủ tiêu khách thể khi đề cập đến
nhận thức luận. Họ cho rằng, tất cả mọi cái đang tồn tại đều là “phức hợp cảm
giác” của con người. G. Béccơli (1685-1753) cho rằng, “tồn tại có nghĩa là
cảm giác được”, đối tượng nhận thức và cảm giác chỉ là một. Tất cả mọi cái
từ cảm giác mà ra, và sự vật là sự kết hợp của những cảm giác chủ quan;
không có chủ thể thì không có khách thể. Cũng như G. Béccơli, nhà duy tâm
chủ quan và nhà bất khả tri luận Đ. Hium (1711-1766) đã tuyệt đối hoá vai trò
của cảm giác, theo ông, năng lực chủ quan là kim chỉ nam cho cuộc sống,
nhận thức chỉ là quá trình tâm lý xảy ra trong con người; thậm chí mối liên hệ
nhân quả cũng không phải là quy luật của tự nhiên mà chỉ là thói quen tâm lý.
Những nhà bất khả tri luận khẳng định thế giới là không thể biết được; lý trí
con người có tính chất hạn chế và ngoài giới hạn của cảm giác, con người
không thể biết được gì. I.Cantơ cho rằng, con người chỉ nhận thức được “hiện
tượng”, còn “vật tự nó” thuộc về “siêu nghiệm”, tuyệt đối không biết được,
không phải là đối tượng nhận thức; cảm giác chủ quan là nguồn gốc duy nhất
của nhận thức, là cái đứng giữa chủ thể và “vật tự nó”.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã đưa ra những quan điểm, nguyên tắc nền tảng
khi trình bày về lý luận nhận thức. C.Mác đã vạch ra khuyết điểm chủ yếu của
toàn bộ chủ nghĩa duy vật kể cả chủ nghĩa duy vật của L.Phoiơbắc: “... sự vật,
hiện thực, cái có thể cảm giác được, chỉ được nhận thức dưới hình thức khách
thể hay hình thức trực quan, chứ không được nhận thức là hoạt động cảm
giác của con người, là thực tiễn, không được nhận thức về mặt chủ quan”1;
đồng thời, ông phê phán chủ nghĩa duy tâm đã tuyệt đối hoá vấn đề tư duy,
tuyệt đối hoá “lực lượng tinh thần” ngoài con người. C.Mác và Ph.Ăngghen
1

C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 1985, tập 3, tr.9.



đã đưa ra quan điểm đúng đắn về thực tiễn, vai trò của nó đối với nhận thức,
nhận thức khoa học; hai ông đã thực hiện bước ngoặt cách mạng trong lý luận
nhận thức. C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định: nhận thức là sự thu nhận tri
thức vào ý thức con người; đời sống xã hội về bản chất là có tính thực tiễn; ý
thức, nhận thức chỉ là sự phản ánh hiện thực khách quan vào đầu óc con
người, v.v..
V.I.Lênin đã kế tục tư tưởng vĩ đại của C.Mác và Ph.Ăngghen, đồng thời
phát triển lý luận về nhận thức và khẳng định nhận thức là bộ phận cấu thành
hệ thống triết học mácxít hoàn chỉnh. Trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và
chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”, V.I.Lênin đã nêu 3 nguyên tắc làm cơ sở
nghiên cứu lý luận nhận thức duy vật biện chứng.
“1) Có những sự vật tồn tại độc lập với ý thức của chúng ta, độc lập với
cảm giác của chúng ta, ở ngoài chúng ta...
2) Dứt khoát là không có và không thể có bất kỳ sự khác nhau nào về
nguyên tắc giữa hiện tượng và vật tự nó. Chỉ có sự khác nhau giữa cái đã
nhận thức và cái chưa được nhận thức...
3) Trong lý luận nhận thức, cũng như trong tất cả những lĩnh vực khác
của khoa học, cần suy luận một cách biện chứng, nghĩa là đừng giả định rằng
nhận thức của chúng ta là bất di bất dịch và có sẵn...”1.
Cùng với kết luận trên, V.I.Lênin đã chỉ rõ: “Quan điểm về đời sống, về
thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức” 2.
Với tinh thần đó, V.I.Lênin đã chỉ ra những vấn đề bản chất nhất của nhận
thức như: đối tượng nhận thức, khả năng nhận thức thế giới khách quan của
con người, sự thống nhất giữa nhận thức với thực tiễn và biện chứng phức tạp
của quá trình nhận thức. Điều đó khẳng định rõ tính thứ nhất của vật chất và
làm rõ vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường duy vật biện chứng. Hơn
1
2


V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M.1980, tập 18, tr.117.
V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M.1980, tập 18, tr. 167.


thế, trong khi khái quát về khả năng nhận thức của con người đối với thế giới
khách quan, V.I.Lênin đã phê phán sâu sắc các quan điểm duy vật siêu hình,
duy tâm, thuyết không thể biết.
Như vậy, nhận thức hiểu theo nghĩa chung nhất là sự hiểu biết của con
người đối với hiện thực khách quan, là quá trình tạo thành tri thức trong bộ óc
con người về hiện thực khách quan. Bản chất nhận thức là quá trình phản
ánh biện chứng, tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan vào óc
người trên cơ sở thực tiễn.
Nhận thức không phải là hiện thực khách quan mà là quá trình phản ánh
hiện thực khách quan một cách tích cực, sáng tạo. Điều này vừa khẳng định
trình độ nhận thức của con người đối với hiện thực, vừa thừa nhận thế giới vật
chất tồn tại khách quan độc lập với ý thức của con người.
Nhận thức là quá trình tác động biện chứng giữa chủ thể và khách thể
nhận thức trên cơ sở thực tiễn. Chủ thể nhận thức không phải những người
riêng lẻ, trừu tượng ngoài xã hội, mà chính là những con người, những thành
viên của những cộng đồng xã hội nhấn định. Với chủ quan của mình, chủ thể
nhận thức đã tác động tích cực tới khách thể, làm cho nó bộc lộ bản chất, quy
luật và như vậy chủ thể nhận thức sẽ có sự hiểu biết về khách thể. Quá trình
nhận thức diễn ra mang tích tích cực, chủ động, sáng tạo. Điều này được thể
hiện ở sự nhận thức có mục đích; sự phản ánh vượt trước thông qua hoạt động
thực tiễn; nội dung phản ánh là do hiện thực khách quan quy định, nhưng sự
phản ánh đó đã thông qua lăng kính chủ quan của chủ thể, là “hình ảnh chủ
quan của thế giới khách quan”, là “cái vật chất được di chuyển vào óc người”
nhưng đã được cải biến ở trong đó. Để khắc phục những giới hạn của các giác
quan, con người luôn luôn chế tạo ra công cụ, “nối dài các giác quan của

mình” để khám phá thế giới - đây cũng là vấn đề căn bản thể hiện tính tích
cực, chủ động, sáng tạo của quá trình nhận thức.


Nhận thức là một quá trình phản ánh biện chứng phức tạp của con người
đối với hiện thực khách quan, thông qua các giai đoạn và mối quan hệ chặt
chẽ giữa các giai đoạn. Theo V.I.Lênin: “Nhận thức là quá trình xâm nhập
(của trí tuệ) vào giới tự nhiên vô cơ, để làm cho giới tự nhiên ấy chịu sự chi
phối của chủ thể và để khái quát (nhận thức cái chung trong các hiện tượng
của tự nhiên ấy)...”1. “Nhận thức là sự tiến gần mãi mãi và vô tận của tư duy
đến khách thể. Phản ánh của giới tự nhiên trong tư tưởng con người phải
được hiểu không phải một cách “chết cứng”, “trừu tượng”, không phải không
vận động, không mâu thuẫn, mà là quá trình trong vĩnh viễn của vận động,
của sự nảy sinh mâu thuẫn và sự giải quyết các mâu thuẫn đó”2.
Là sự phản ánh thế giới vật chất phong phú, phức tạp luôn vận động biến
đổi cho nên nhận thức của con người cũng có một quá trình “vĩnh viễn của
vận động” từ chưa hoàn thiện đến ngày càng hoàn thiện. Những thành quả
nhận thức của các thế hệ kế tiếp nhau đã làm cho tri thức của nhân loại ngày
càng phong phú, sâu sắc và đầy đủ hơn. Quá trình nhận thức thế giới là kết
quả tổng hợp tri thức của mỗi cá nhân, của các thế hệ kế tiếp nhau và chịu sự
chế ước của điều kiện, hoàn cảnh lịch sử nhất định. Con người ngày càng
nhận thức sâu sắc những thuộc tính và mối liên hệ mới của thế giới. Song, con
người không thể nhận thức hết được thế giới khách quan, bởi vì nhận thức là
“quá trình vô hạn của việc tìm ra những mặt mới, những quan hệ mới”, là
“quá trình vô hạn của sự đi sâu nhận thức của con người về các sự vật, hiện
tượng”3, đó là sự tiến gần mãi mãi và vô hạn của tư duy đến khách thể, là quá
trình xâm nhập của lý trí vào hiện thực, là quá trình không ngừng làm phong
phú trí tuệ của nhân loại bằng tri thức mới. Quá trình phản ánh theo trình tự từ
thấp đến cao, từ đơn giản tới phức tạp, từ hiện tượng tới bản chất, từ bản chất
kém sâu sắc tới bản chất sâu sắc hơn.

1

V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1981, tập 29, tr. 206 - 207.
V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1981, tập 29, tr. 207 - 208.
3
V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1981, tập 29, tr. 240.
2


1.2.2. Các cấp độ nhận thức
Trên cơ sở trình độ xâm nhập vào bản chất của đối tượng, ta có thể phân
chia thành nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận. Đây là hai trình độ
nhận thức khác nhau về đối tượng, tính chất, chức năng cũng như hình thức
và trình tự phản ánh.
Nhận thức kinh nghiệm là loại nhận thức hình thành từ sự quan sát trực
tiếp các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội hay trong các thí nghiệm
khoa học. Kết quả của nhận thức kinh nghiệm là những tri thức kinh nghiệm.
Tri thức này có hai loại là tri thức kinh nghiệm thông thường và tri thức kinh
nghiệm khoa học. Tri thức kinh nghiệm thông thường là loại tri thức được
hình thành từ sự quan sát trực tiếp hàng ngày về cuộc sống và lao động sản
xuất. Còn tri thức kinh nghiệm khoa học là loại tri thức thu được từ sự khảo
sát các thí nghiệm khoa học. Hai loại tri thức này có quan hệ chặt chẽ với
nhau, xâm nhập vào nhau để tạo nên tính phong phú, sinh động của nhận thức
kinh nghiệm.
Nhận thức lý luận là loại nhận thức gián tiếp, trừu tượng và khái quát về
bản chất, quy luật của các sự vật, hiện tượng. Nhận thức lý luận có tính trừu
tượng và khái quát vì nó chỉ tập trung phản ánh cái bản chất mang tính quy
luật của sự vật và hiện tượng. Do đó, tri thức lý luận - kết quả của nhận thức
lý luận - thể hiện chân lý sâu sắc, chính xác và hệ thống hơn nhận thức kinh
nghiệm.

Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận là hai giai đoạn nhận thức
khác nhau, nhưng có quan hệ biện chứng với nhau, Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định: “Có kinh nghiệm mà không có lý luận, cũng như một mắt sáng,
một mắt mờ”1. Trong mối quan hệ đó, nhận thức kinh nghiệm là cơ sở của
nhận thức lý luận, nó cung cấp cho nhận thức lý luận những tư liệu phong
phú, cụ thể. Nhận thức kinh nghiệm gắn bó chặt chẽ với thực tiễn tạo thành cơ
1

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1996, tập 5, tr..234.


sở hiện thực để kiểm tra, sửa chữa, bổ sung cho lý luận đã có và tổng kết, khái
quát thành lý luận mới. Tuy nhiên, nhận thức kinh nghiệm mới chỉ dừng lại ở
sự miêu tả, phân loại các sự kiện, các dữ kiện thu được từ sự quan sát và thí
nghiệm trực tiếp, mới đem lại sự hiểu biết về các mặt riêng rẽ, bề ngoài, rời
rạc, chưa phản ánh được cái bản chất, những mối quan hệ có tính quy luật của
các sự vật, hiện tượng. Cho nên, nhận thức kinh nghiệm “tự nó không bao giờ
có thể chứng minh được đầy đủ tính tất yếu” 1. Ngược lại, được tổng kết từ
kinh nghiệm, nhận thức lý luận mang tính hệ thống, khái quát cao. Đồng thời,
do tính độc lập tương đối của nó, lý luận có thể đi trước những dữ kiện kinh
nghiệm, hướng dẫn sự hình thành những tri thức kinh nghiệm có giá trị, lựa
chọn những kinh nghiệm hợp lý để phục vụ cho hoạt động thực tiễn, góp phần
làm biến đổi đời sống của con người. Thông qua đó mà nâng những tri thức
kinh nghiệm từ chỗ là cái cụ thể, riêng lẻ, đơn nhất trở thành cái khái quát,
phổ biến.
Việc nắm vững bản chất, chức năng của từng loại nhận thức cũng như
mối quan hệ biện chứng giữa chúng có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng
trong việc đấu tranh khắc phục “bệnh” kinh nghiệm chủ nghĩa và “bệnh” giáo
điều. Do nhận thức được mối quan hệ biện chứng giữa nhận thức kinh nghiệm
và nhận thức lý luận nên trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn

Đảng ta đã luôn chủ động, sáng tạo đi sâu tổng kết thực tiễn và phát triển lý
luận, đó là một trong những yếu tố làm nên thắng lợi trong công cuộc đổi mới
ở nước ta.
Căn cứ vào tính chất tự phát hay tự giác của sự xâm nhập vào bản chất
của sự vật thì nhận thức lại có thể được phân chia ra thành nhận thức thông
thường và nhận thức khoa học.
Nhận thức thông thường (nhận thức tiền khoa học) là loại nhận thức
được hình thành một cách tự phát, trực tiếp từ trong hoạt động hàng ngày của
1

C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1994, t. 20, tr. 718.


con người. Nó phản ánh sự vật, hiện tượng xảy ra với tất cả những đặc điểm
chi tiết, cụ thể và những sắc thái khác nhau. Nhận thức thông thường mang
tính phong phú, nhiều vẻ và gắn liền với những quan niệm sống thực tế hàng
ngày, vì thế nó có vai trò thường xuyên và phổ biến chi phối hoạt động của
mọi người trong xã hội.
Khác với nhận thức thông thường, nhận thức khoa học là loại nhận thức
được hình thành một cách tự giác và gián tiếp từ sự phản ánh đặc điểm bản
chất, những quan hệ tất yếu của đối tượng nghiên cứu. Sự phản ánh này diễn
ra dưới dạng trừu tượng lôgíc, là các khái niệm, các quy luật khoa học. Nhận
thức khoa học có tính khách quan, trừu tượng, khái quát, có tính hệ thống, có
căn cứ và chân thực. Nhận thức khoa học sử dụng một hệ thống các phương
pháp nghiên cứu, sử dụng cả ngôn ngữ thông thường, thuật ngữ khoa học để
diễn tả sâu sắc bản chất và quy luật của đối tượng nghiên cứu. Vì thế, nhận
thức khoa học có vai trò ngày càng to lớn trong hoạt động thực tiễn, đặc biệt
trong thời đại khoa học và công nghệ hiện đại.
Nhận thức thông thường và nhận thức khoa học là hai bậc thang khác
nhau về chất của quá trình nhận thức, giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với

nhau. Trong đó, nhận thức thông thường có trước nhận thức khoa học và là
nguồn chất liệu để xây dựng nội dung của các khoa học. Mặc dù đã chứa
đựng những mầm mống của những tri thức khoa học, song nhận thức thông
thường chủ yếu vẫn chỉ dừng lại ở những bề ngoài, ngẫu nhiên, không bản
chất của đối tượng và tự nó không thể chuyển thành nhận thức khoa học.
Muốn phát triển từ nhận thức thông thường thành nhận thức khoa học cần
phải thông qua khả năng tổng kết, khái quát đúng đắn của các nhà khoa học.
Ngược lại, nhận thức khoa học, xâm nhập vào nhận thức thông thường, làm
cho nó không ngừng phát triển.


II. VAI TRÒ CỦA THỰC TIỄN ĐỐI VỚI NHẬN THỨC
2.1. Thực tiễn là cơ sở của sự phát sinh nhận thức
Con người là anh linh của vạn vật, đặc điểm của con người là có tư
tưởng và biết tư duy, hành động chịu sự chi phối của tư tưởng. Nghĩ trước
làm sau, lấy sự hiểu biết thống nhất để làm mô thức thông thường của hành vi
con người. Nhưng từ đó cũng dễ xuất hiện ảo giác cho rằng, nhận thức xuất
hiện trước thực tiễn, nhận thức quyết định thực tiễn. Quả thực, trong hiện thực
cuộc sống của con người, nhận thức và thực tiễn, hiểu biết và hành động là sự
vướng mắc khó phân giải. Hai vấn đề này thường biểu hiện chế ước lẫn nhau,
quyết định lẫn nhau. Về căn bản thực tiễn là cơ sở của nhận thức, thực tiễn
quyết định nhận thức. Muốn lý giải quan điểm này, trước tiên cần xem xét sự
phát sinh của nhận thức.
Sự phát sinh nhận thức ở đây không phải là chỉ ở đây không phải là chỉ
sự xuất hiện và hình thành của một kiểu nhận thức cụ thể nào đó, mà là quá
trình phát sinh năng lực nhận thức của con người từ không đến có. Đối với sự
phát sinh của nhận thức, những trường phái triết học không giống nhau có sự
giải thích không giống nhau. Triết học chủ nghĩa Mác lấy nhân tố lịch sử tự
nhiên và nhân tố xã hội của sự phát sinh nhận thức kết hợp lại. Xuất phát từ
thực tiễn, triết học Mác cho rằng, lấy mục đích của lao động làm đặc trưng

chủ yếu trong sự phát sinh của nhận thức, lao động có tác dụng quyết định đối
với nhận thức.
Sự hình thành năng lực nhận thức của con người, xét cho cùng được
quyết định bởi hoạt động thực tiễn mà chỉ riêng con người mới có. Thực tiễn
của con người lấy tính mục đích tự giác làm đặc trưng cải tạo thế giới khách
quan. Nó yêu cầu con người phải nắm được tri thức về bản chất và quy luật
của đối tượng; đồng thời cũng lấy đó làm cơ sở xác định mục tiêu thực tiễn
cải tạo đối tượng. Điều đó đã đưa ra nhu cầu con người cần nắm bắt tính
khách quan của thế giới, tức là đã nêu ra tính tất yếu của thế giới nhận thức.


Đồng thời, thực tiễn làm cho khả năng nhận thức của con người trở thành
điều tất nhiên, có thể. Thực tiễn là căn nguyên và tiêu chí quan hệ giữa chủ
thể và khách thể. Sở dĩ chủ thể được coi là chủ thể vì nó thể lấy chính bản
thân làm đối tượng nhận thức, đồng thời có thể ý thức rõ ràng được chính
mình là người khởi xướng của hoạt động. Điểm này động vật không làm
được, trẻ sơ sinh mới sinh cũng không làm được. Con người lấy công cụ làm
vật trung gian tác động tương hỗ với đối tượng mới dần dần hình thành nên
khái niệm khách thể; và cũng từ đó ý thức được chính mình là chủ thể, do đó
đã mở ra hoạt động nhận thức là hoạt động riêng của con người.
Hoạt động thực tiễn không những đã thúc đẩy sự phát triển của não bộ
con người, mà còn thông qua kiểu hoạt động trong não bộ này con người đã
hình thành nên kết cấu và biểu đồ nhận thức riêng của con người, hình thành
nên năng lực nhận thức riêng có của con người. Trở thành ký hiệu (cái mốc)
năng lực nhận thức của con người, thực tiễn là kết cấu nhận thức có tính xã
hội mà chỉ con người mới có. Kiểu kết cấu này nằm trong tác động tương hỗ
thực tế giữa con người và đối tượng, từng bước thông qua chủ thể hoá của
hoạt động mà hình thành. Con người trong quá trình vận dụng công cụ thực
tế, thao tác đối tượng, thông qua từng bước nhịp nhàng của hoạt động, huấn
luyện bộ máy vận động và bộ máy tư duy cảm giác, làm cho những phương

thức, động tác thực tế ở bên ngoài chuyển hoá phương thức động tác, quan
niệm đó hướng vào bên trong tức là chủ thể hoá, đồng thời làm cho kết cấu
của cái sau giữ được sự ăn khớp với cái trước. Điều này đã hình thành nên
khuôn mẫu của cảm biết và tư duy mà chỉ riêng chủ thể mới có, tức là hình
thành trong não bộ con người. Biểu đồ nhận thức này là hình thức logic làm
cố định và lưu giữ lại những nhận thức về đối tượng. Kiều đồ thức này là một
bước tiến bộ “đồng hoá” chủ thể, tức là cơ sở nội tại của khách thể chưa biết
mới nhận thức, đồng thời cùng với sự phát triển của thực tiễn mà không


ngừng đạt đến phong phú, chuyển biến và nâng cao, năng lực nhận thức của
con người do đó mà cũng có sự phát triển đi lên tương ứng.
Hoạt động thực tiễn của con người từ lúc vừa mới bắt đầu là hoạt động
mang tính xã hội. Từ lúc bắt đầu thực hiện những hoạt động cơ bản nhất đã
đòi hỏi con người phải có những động tác nhịp nhàng, trao đổi kinh nghiệm
với nhau, do đó đã xuất hiện ngôn ngữ. Việc mở rộng sự trao đổi qua lại và
phát triển ngôn ngữ trở thành hai động lực thúc đẩy lớn làm cho trình độ hoạt
động nhận thức của con người không ngừng nâng cao, hình thành hoạt động
năng lực trí tuệ có tính xã hội mà chỉ riêng con người mới có. Con người
trong trao đổi hoạt động qua lại trong xã hội thông qua ngôn ngữ làm tư
tưởng thu được phương thức biểu đạt chung, làm cho nhận thức vượt khỏi
phạm vi hẹp của sự thể nghiệm cá nhân, khiến cho con người không những
nắm bắt được kinh nghiệm của người xưa từ trước đó rất lâu, mà còn có thể
nắm bắt được kinh nghiệm của người khác trong không gian rất xa, đã nâng
cao hơn rất nhiều năng lực nhận thức của con người. Có thể thấy, thực tiễn xã
hội là nhân tố cơ bản và quyết định sự phát sinh nhận thức của nhân loại, tức
là làm cho mỗi con người sau khi sinh ra từ trình độ nhận thức của một con
người, cũng cần phải thông qua con đường cơ bản tiếp thu sự giáo dục của xã
hội, tham gia thực tiễn xã hội. Quá trình phát sinh nhu cầu nhận thức trên một
trình độ nào đó của cá nhân là hình thức chắt lọc để tái hiện quá trình hình

thành khoa học của nhận thức.
2.2. Thực tiễn là nguồn gốc và động lực của nhận thức
Đối với việc khảo sát sự hình thành của nhận thức, thực chất là xem xét
là giải quyết xem vấn đề năng lực nhận thức của con người đã hình thành như
thế nào. Đối với vấn đề năng lực nhận thức của con người, vẫn tồn tại một nội
dung nhận thức từ đâu đến, nó xuất hiện và phát triển như thế nào. Triết học
Mác cho rằng, thực tiễn quyết định sự hình thành và phát triển của nhận thức.
Thực tiễn không những là nguồn gốc của nhận thức, mà còn là động lực của


nhận thức, là tiêu chuẩn căn bản để kiểm nghiệm nhận thức có tính chân lý
hay không, là mục đích cuối cùng của nhận thức.
Sở dĩ thực tiễn có thể trở thành nguồn gốc và động lực của nhận thức,
với ý nghĩa đơn giản nhất là vì con người không thể thoát ly hành động, thoát
ly thực tiễn, và còn vì thế giới bên ngoài qua thực tiễn sẽ luôn trực tiếp tác
động để cho ta tri thức. Ở điểm này một số nhà triết học cổ đại Trung Quốc đã
có cách nhìn thấu triệt. Tôn Tử đã dùng ngôn ngữ mộc mạc để nói: “Bất đăng
sơn, bất tri thiên chi cao dã; bất lâm thâm khê, bất tri địa chỉ hậu dã” (Không
lên núi cao, không biết cái cao của trời; không xuống hố sâu, không biết cái
dày của đất). Lịch sử Trung Quốc có những nhà triết học theo khuynh hướng
của chủ nghĩa duy vật đều đã biểu đạt tư tưởng “hành tiên ư tri” (hành động
trước hết ở sự hiểu biết) mà đại biểu là nhà triết học Vương Phu Chi cuối đời
Minh, đầu đời Thanh, đã tiến hành phân tích và phê phán một cách sâu sắc
quan điểm sai lầm của “tôn tri nhi tiện hành” (đề cao hiểu biết mà hạ thấp
hành động), “ly hành dĩ vi tri” (thoát ly hành động để hiểu biết).
Triết học của chủ nghĩa Mác đứng trên quan điểm thực tiễn của khoa
học, thực tế mối quan hệ biện chứng giữa thực tiễn xã hội và nhận thức nhân
loại chỉ ra, thực tiễn là nguồn gốc cơ bản và động lực cơ bản của nhận thức.
Sở dĩ nhận thức nhân loại không dừng lại ở một trình độ nào đó, trái lại
tốc độ phát triển của nhận thức càng ngày càng nhanh là bởi vì, nói một cách

thông thường, nhiệm vụ của nghiên cứu khoa học luôn luôn xoay quanh
nhiệm vụ trung tâm nhu cầu của thực tiễn nhân loại để xác định. Chính
Ăngghen cũng đã cho là như vậy; xã hội một khi có nhu cầu kỹ thuật, vì nó
thúc đẩy khoa học tiến lên phía trước bằng 10 trường đại học.
Khoa học thời cổ đại, đầu tiên được quyết định bởi nhu cầu sản xuất
nông nghiệp và sản xuất thủ công nghiệp lúc đó, sự khởi sắc của khoa học tự
nhiên thế kỷ XVII, XVIII quyết định bởi nhu cầu kỹ thuật sản xuất phát triển
mạnh mẽ của châu Âu lúc bấy giờ. Nhu cầu thực tế đã kích thích sự phát triển


của khoa học, khoa học xuất hiện từ trong nhu cầu thực tế. Tính độc lập tương
đối của nghiên cứu khoa học hiện đại ngày càng thể hiện rõ ràng, đề tài của
nó tìm kiếm có lúc không trực tiếp xuất phát từ nhu cầu của thực tiễn, nhưng
con người vẫn xem trọng thành quả đạt được dù có ý nghĩa thực tế như thế
nào. Trên thực tế, đại đa số đề tài nghiên cứu khoa học đều do nhu cầu thực
tiễn và sự phát triển kinh tế xã hội quyết định. Thực tiễn nhân loại không
ngừng phát triển, tất nhiên không ngừng đưa ra vấn đề mới, bắt buộc con
người không ngừng tiến hành nghiên cứu, nhận thức và giải quyết, từ đó mà
đáp ứng đầy đủ nhu cầu của thực tiễn. Do đó, sự phát triển của thực tiễn trở
thành động lực trực tiếp của sự phát triển nhận thức và tiến bộ xã hội.
Thực tiễn không chỉ đã sản sinh ra nhu cầu nhận thức mà còn vì sự phát
triển của nhận thức đã cung cấp những điều kiện, phương tiện để sự phát triển
của nhận thức có thể thực hiện. Thực tiễn vì sự phát triển của nhận thức mà
cung cấp điều kiện bao gồm tư liệu, kinh nghiệm, thiết bị thực nghiệm và
công cụ… Ph.Ăngghen chỉ rõ, sự phát triển to lớn của công nghiệp, không
những đã cung cấp một khối lượng lớn tài liệu có thể tham khảo mà còn tự
bản thân nó cũng đã cung cấp phương tiện thực nghiệm hoàn toàn không
giống với trước kia; đồng thời còn sử dụng, chế tạo những công cụ mới mà
con người có thể sử dụng. Cung cấp tài liệu, kinh nghiệm để cho ta ứng dụng
nhận thức của nhân loại, làm cho con người có thể nhận thức thế giới trên

diện rộng và độ sâu mà trước đây không có. Phương tiện quan sát và công cụ
thực nghiệm được hiện đại hoá, ví dụ như kính viễn vọng bức xạ, kính hiển vi
điện tử, máy phân tích quang phổ, máy hiện sóng (máy hiện dao động), rađa,
xôna (bộ định vị bằng sóng âm); máy đo độ chính xác và tính năng của máy
móc bằng tia lade, cho đến những loại máy móc mới có thể đo được giao cảm
và vệ tinh nhân tạo thám hiểm, thăm dò vũ trụ, đều là những vật phẩm quý
báu của thực nghiệm khoa học “ban cho” thực tiễn hiện nay.


Dùng những phương tiện này để trang bị cho khoa học hiện đại, không
chỉ có thể từ mặt đất nhìn thấy bầu trời, nhìn thấy những thiên thể xa tít tắp
trên hàng trăm triệu năm ánh sáng, mà còn có thể từ trên trời quan sát trái đất,
cảm biết được những nơi, những ngõ ngách hẻo lánh trên trái đất mà con
người chưa từng đặt chân đến. Từ đó đã mở rộng năng lực nhận thức và
không gian nhận thức của con người. Nhận thức sau khi xuất hiện từ trong
thực tiễn, không thoát ly thực tiễn, mà hoàn toàn ngược lại, từ đầu đến cuối
nó luôn duy trì và liên hệ mật thiết với thực tiễn, từ đó nó làm cho bản thân
thực tiễn cũng không ngừng phát triển.
2.3. Thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý
Các nhà triết học thực chứng cho rằng, chân lý là những quan điểm, tư
tưởng được nhiều người tán thành - quan điểm này mang tính phiến diện, siêu
hình bởi vì trên thực tế có nhiều nguyên nhân dẫn tới những luận điểm được
nhiều người tán thành song không đúng đắn. Chủ nghĩa thực dụng lấy lợi ích
làm tiêu chuẩn của chân lý, song vấn đề lợi ích này còn chung chung, trừu
tượng, cho nên lợi ích của nhóm người hay bộ phận người này có thể lại là cái
không có lợi, thậm chí là có hại cho bộ phận, nhóm người hay cá nhân người
khác. Có quan điểm cực đoan lại cho rằng, chân lý thuộc về kẻ mạnh - điều
này đã sai lầm, rơi vào quan điểm duy tâm bởi vì nó coi yếu tố quyền lực, sức
mạnh của chủ thể nhận thức là tiêu chuẩn của chân lý.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã bác bỏ những quan điểm sai lầm và

phiến diện trên đây và cho rằng, chân lý là những tri thức phù hợp với hiện
thực khách quan và được thực tiễn kiểm nghiệm. Như vậy, chân lý là sản
phẩm của quá trình nhận thức về thế giới của con người. Nó được hình thành,
phát triển dần dần từng bước, phụ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể của hoạt
động thực tiễn, hoạt động nhận thức của con người. V.I.Lênin đã nhận xét:
“sự phù hợp giữa tư tưởng và khách thể là một quá trình: Tư tưởng ( = con
người) không nên hình dung chân lý dưới dạng một sự đứng im chết cứng,


một bức tranh (hình ảnh), đơn giản, nhợt nhạt (lờ mờ), không khuynh hướng,
không vận động”1.
Mọi chân lý đều có tính khách quan, tính cụ thể, tính tuyệt đối và tính
tương đối.
Tính khách quan của chân lý nói lên nội dung của nó do hiện thực khách
quan quy định không phụ thuộc vào ý thức con người hay loài người. Điều đó
có nghĩa là nội dung của những tri thức đúng đắn không phải là sản phẩm
thuần tuý chủ quan, không phải là sự xác lập tuỳ tiện của con người hoặc có
sẵn ở trong nhận thức mà nội dung đó thuộc về thế giới khách quan, do thế
giới khách quan quy định.
Chủ nghĩa duy vật liên hệ chặt chẽ với việc thừa nhận chân lý khách
quan, “là người duy vật, có nghĩa là thừa nhận chân lý khách quan” 2. Điều
này hoàn toàn đối lập với chủ nghĩa duy tâm, chủ nghĩa duy vật siêu hình và
thuyết không thể biết. Chủ nghĩa duy tâm muốn phủ định tính khách quan của
chân lý. Họ gắn chân lý với “tinh thần vũ trụ”, hoặc với “cảm nghĩ chủ quan”,
hoặc quy đồng nhất giữa những tín điều tôn giáo với chân lý. Chủ nghĩa duy
vật siêu hình lại coi chân lý như một cái gì đó có sẵn, bất biến, O. Đuyrinh coi
chân lý là cái vĩnh viễn, tuyệt đỉnh cuối cùng.
V.I.Lênin cho rằng, là người duy vật “vì chúng ta thừa nhận một nguồn
gốc khách quan, độc lập với con người, của cảm giác của chúng ta” 3. Vì vậy,
trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ hiện thực

khách quan, hoạt động theo quy luật khách quan, chống chủ quan duy ý chí.
Mọi chân lý đều có tính khách quan, nhưng bản thân thế giới khách quan
lại vô cùng, vô tận, vì vậy sự phù hợp của chân lý với thực tiễn là một quá
trình. Điều đó cũng có nghĩa chân lý vừa mang tính tương đối vừa mang tính
tuyệt đối.
1

V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1981, tập 29, tr. 207.
V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1980, tập 18, tr. 207.
3
V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1980, tập 18, tr. 149.
2


Tính tương đối của chân lý thể hiện ở chỗ, nó bao quát một cách có điều
kiện, gần đúng tính quy luật của khách thể. Tính chất này của chân lý là do
tính “không tối cao và có hạn” của nhận thức quy định. Nhận thức của con
người cũng như một thế hệ loài người và thậm chí của cả nhân loại, ở bất kỳ
thời điểm nào, bao giờ cũng bị giới hạn bởi những điều kiện và hoàn cảnh lịch
sử, bởi trình độ phát triển của thực tiễn xã hội. Trong khi đó, các sự vật , hiện
tượng của thế giới xung quanh lại hết sức phong phú, muôn vẻ, không ngừng
vận động, phát triển và luôn bộc lộ ra những thuộc tính và quan hệ mới cần
phải được nhận biết. Chính vì thế, những tri thức mà con người đạt được
trong quá trình lịch sử thường là những chân lý tương đối, tức là những tri
thức đúng nhưng chưa hoàn toàn đầy đủ. Sự phù hợp của nó đối với khách thể
là tương đối, là sự phù hợp có tính chất bộ phận, từng phần và ở một số cấp
độ nào đó.
Nhưng tính tương đối của chân lý không loại trừ tính tuyệt đối của nó.
Tính tuyệt đối của chân lý thể hiện ở chỗ, nó là những tri thức tuyệt đối đúng
và hoàn toàn phù hợp với một phạm vi, một giai đoạn, một khía cạnh,một bộ

phận nào đó của khách thể. Tính chất này của chân lý là do tính “tối cao và vô
hạn” của nhận thức quy định. Chính vì mọi chân lý đều có tính tuyệt đối nên
nếu xét theo “bản tính, xứ mệnh, khả năng và mục đích lịch sử cuối cùng” thì
con người có thể đạt đến chân lý tuyệt đối, tức là đạt tới những tri thức hoàn
toàn phù hợp và thực sự đầy đủ về thế giới.
Chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối khác nhau về phạm vi và khả
năng phản ánh, về mức độ đầy đủ, hoàn thiện hay mức độ chưa đầy đủ, chưa
hoàn thiện, song chúng đều là chân lý khách quan có mối quan hệ thống nhất
biện chứng với nhau. Điều đó biểu hiện mối quan hệ giữa quá trình nhận thức
vô tận thế giới khách quan với quá trình nhận thức cái riêng lẻ, cụ thể có hạn
của từng cá nhân, từng thế hệ trong điều kiện lịch sử, xã hội nhất định. Chân
lý tuyệt đối là tổng số những chân lý tương đối, mỗi chân lý tương đối là


những nấc thang trên con đường nhận thức chân lý tuyệt đối. V.I.Lênin viết:
“theo bản chất của nó, tư duy của con người có thể cung cấp và đang cung
cấp cho chúng ta chân lý tuyệt đối mà chân lý này chỉ là tổng số những chân
lý tương đối. Mỗi giai đoạn phát triển của khoa học lại đem thêm những hạt
mới vào cái tổng số ấy của chân lý tuyệt đối” 1 ... “chân lý tuyệt đối được cấu
thành từ tổng số những chân lý tương đối” 2. Ngược lại, mỗi chân lý tương đối
đều chứa đựng những yếu tố, thành phần bộ phận của chân lý tuyệt đối,
những thành phần này phù hợp với điều kiện lịch sử nhất định mà sau này
không ai bác bỏ. V.I.Lênin viết: “... mỗi chân lý khoa học dù là có tính tương
đối, vẫn chứa đựng một yếu tố của chân lý tuyệt đối”3.
Nhận thức đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa tính tương đối và tính
tuyệt đối của chân lý có ý nghĩa quan trọng trong việc phê phán và khắc phục
những sai lầm cực đoan trong nhận thức và hành động. Nếu cường điệu hoá
tính tuyệt đối của chân lý, hạ thấp tính tương đối của nó sẽ rơi vào quan điểm
siêu hình, chủ quan, giáo điều, bệnh bảo thủ trì trệ. Ngược lại, nếu tuyệt đối
hoá tính tương đối của chân lý, hạ thấp vai trò của tính tuyệt đối của nó sẽ rơi

vào chủ nghĩa tương đối, sẽ “... phủ định mọi tiêu chuẩn, mọi mẫu mực khách
quan, tồn tại không phụ thuộc vào loài người, những tiêu chuẩn và mẫu mực
mà nhận thức tương đối của chúng ta ngày một tiến gần”4
Từ đó dẫn tới chủ nghĩa chủ quan, chủ nghĩa xét lại, thuật ngụy biện,
thuyết hoài nghi và không thể biết.
Tính cụ thể của chân lý. Chân lý đạt được trong quá trình nhận thức bao
giờ cũng gắn với nội dung cụ thể của hiện thực và được phát triển trong
những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể đó, V.I.Lênin đã khẳng định, không có
chân lý trừu tượng mà chân lý luôn luôn là cụ thể.
1

V.I.Lênin, Toàn tập,
V.I.Lênin, Toàn tập,
3
V.I.Lênin, Toàn tập,
4
V.I.Lênin, Toàn tập,
2

Nxb Tiến bộ, M.1980, tập 18, tr.158.
Nxb Tiến bộ, M.1980, tập 18, tr. 383.
Nxb Tiến bộ, M.1980, tập 18, tr. 160.
Nxb Tiến bộ, M.1977, tập 42, tr. 364.


Chân lý cụ thể vì đối tượng mà chân lý phản ánh bao giờ cũng tồn tại
một cách cụ thể, trong những điều kiện hoàn cảnh và quan hệ cụ thể. Nội
dung phản ánh của chân lý bao giờ cũng gắn với đối tượng nhất định, diễn ra
trong không gian, thời gian hay một hoàn cảnh xác định.
Nếu thoát ly những điều kiện, lịch sử cụ thể thì những tri thức được hình

thành sẽ rơi vào trừu tượng thuần tuý, không phải là những tri thức đúng đắn
và không được coi là chân lý. Quán triệt quan điểm về tính chất cụ thể của
chân lý có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng trong nhận thức và thực tiễn.
Nó đòi hỏi chúng ta phải có quan điểm lịch sử, cụ thể khi xem xét, đánh giá
mọi sự vật, hiện tượng; phải xuất phát từ những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể
mà vận dụng những nguyên lý chung cho phù hợp. V.I.Lênin đã khẳng định
rằng, bản chất, linh hồn sống của chủ nghĩa Mác là phân tích cụ thể một tình
hình cụ thể, xem xét nội dung khách quan của quá trình lịch sử trong một thời
điểm cụ thể nhất định.
Chân lý là sự nhận thức phù hợp lẫn nhau giữa chủ quan với khách quan.
Như vậy, căn cứ vào cái gì để đoán định một nhận thức phải hay không phải
là chân lý, hoặc là nói tiêu chuẩn của kiểm nghiệm chân lý là cái gì? Đây là
một vấn đề tranh luận không ngớt trong lịch sử triết học. Triết học Mác đã
giải quyết một cách khoa học vấn đề tiêu chuẩn của chân lý và xác định: “tư
duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan không, hoàn toàn không
phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn
mà con người phải chứng minh chân lý, nghĩa là chứng minh tính hiện thực
và sức mạnh, tính trần tục của tư duy mình. Sự tranh cãi về tính hiện thực hay
tính không hiện thực của tư duy tách rời thực tiễn, là một vấn đề kinh viện
thuần tuý”1. Dựa vào quan điểm của triết học Mác về thực tiễn, chỉ có thực
tiễn mới là tiêu chuẩn cơ bản của kiểm nghiệm chân lý. Thực tiễn kiểm
nghiệm tính chân lý của nhận thức.
1

C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.3, tr. 9 – 10.


×