Tải bản đầy đủ (.doc) (174 trang)

LUẬN án TIẾN sĩ xây DỰNG lối SỐNG có văn hóa của THANH NIÊN THÀNH PHỐ hồ CHÍ MINH TRONG CÔNG CUỘC đổi mới THEO ĐỊNH HƯỚNG xã hội CHỦ NGHĨA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (677.69 KB, 174 trang )

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, "nhân tố con người" đang được quan tâm đặc biệt. Chiến
lược phát triển nguồn lực con người - với tư cách là nguồn lực để phát triển xã
hội - ngày càng trở nên quan trọng trong toàn bộ đường lối cách mạng của
Đảng và Nhà nước ta. Để xây dựng và phát triển con người Việt Nam toàn
diện, đáp ứng đòi hỏi cấp bách của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Văn
kiện Đại hội lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: "Mọi hoạt
động văn hóa nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về
chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng
đồng, lòng nhân ái khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hóa,
quan hệ hài hòa trong gia đình, cộng đồng và xã hội" [44, tr. 114].
Định hướng trên của Đảng có một ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với
mọi hoạt động văn hóa ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Trong đó, vấn đề
xây dựng lối sống có văn hóa đang trở thành một nhiệm vụ cấp bách. Lối
sống có văn hóa, con người văn hóa, không còn là khẩu hiệu chung chung
nữa, mà đang trở thành hành động thực tiễn trên khắp đất nước chúng ta.
Lối sống là một hình thức biểu hiện của văn hóa. Lối sống có văn hóa
(hay lối sống văn hóa) là một đặc trưng quan trọng của con người Việt Nam
trong giai đoạn cách mạng mới hiện nay. Xây dựng con người Việt Nam
không thể coi nhẹ việc xây dựng lối sống có văn hóa.
Thanh niên là một lực lượng đông đảo trong dân cư nước ta và có vai trò
to lớn trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Do vậy, xây dựng lối sống có văn
hóa của thanh niên là nhiệm vụ đặc biệt trong xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa,
nhất là giai đoạn hiện nay. Đại hội lần thứ IX của Đảng đã xác định: "Đối với


2



thế hệ trẻ, chăm lo giáo dục bồi dưỡng, đào tạo phát triển toàn diện về chính
trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, văn hóa, sức khỏe, nghề nghiệp; giải quyết
việc làm, phát triển tài năng và sức sáng tạo, phát huy vai trò xung kích trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc" [44, tr. 126].
Thành phố Hồ Chí Minh là một trung tâm kinh tế, văn hóa và khoa
học - công nghệ của cả nước, nơi mà sự nghiệp đổi mới diễn ra rất sôi động.
Những năm đổi mới vừa qua, thành phố đã đạt được nhiều thành tựu quan
trọng, trong đó có sự nghiệp phát triển văn hóa tinh thần của nhân dân. Tuy
vậy, công tác xây dựng đời sống văn hóa, nhất là xây dựng lối sống, còn
nhiều bất cập. Báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu lần thứ VII Đảng bộ
Thành phố Hồ Chí Minh nhận định:
Các tệ nạn xã hội, nhất là ma túy, mại dâm phát triển trong
thanh thiếu niên là nỗi lo lớn của nhân dân ta. Số người sống lang
thang xin ăn, nạn mất trật tự trên đường phố, nơi công cộng, nạn
cờ bạc, số đề... còn khá phổ biến. Tệ mê tín dị đoan phát triển,
thậm chí trong cán bộ đảng viên. Các loại sản phẩm độc hại văn
hóa còn xâm nhập nhiều nơi [47, tr. 10].
Ngày nay, sự bùng nổ của cách mạng thông tin đã khiến cho quá trình
giao lưu văn hóa ngày càng phức tạp. Là một trung tâm kinh tế, chính trị, văn
hóa, Thành phố Hồ Chí Minh tiếp nhận rất nhiều kênh thông tin, nhiều loại
thông tin, hợp pháp lẫn không hợp pháp. Điều này làm cho đời sống tinh thần
của thanh niên vừa phong phú vừa phức tạp, nhiều xu hướng mới nảy sinh
trong lối sống của thanh niên đòi hỏi bức xúc cần giải quyết.
Cùng với cả nước, Thành phố Hồ Chí Minh đang bước vào thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Việc xây dựng con người với lối
sống có văn hóa đã trở thành một nhiệm vụ cấp bách, đặc biệt đối với thanh
niên - những chủ nhân trẻ tuổi, một nguồn nhân lực chủ yếu của đất nước.



3

Từ những khía cạnh nêu trên, đề tài "Xây dựng lối sống có văn hóa
của thanh niên Thành phố Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới theo định
hướng xã hội chủ nghĩa" được trình bày dưới góc độ chính trị - xã hội có ý
nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực tiễn, đối với sự nghiệp đổi mới của đất
nước nói chung và Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xây dựng lối sống là một nhiệm vụ quan trọng. Vì thế, nó đã thu hút
sự quan tâm của rất nhiều tác giả ở nước ta, trong đó có cả lãnh tụ cách mạng.
Người đầu tiên đề xuất vấn đề xây dựng lối sống mới là Chủ tịch Hồ
Chí Minh. Cuốn sách Đời sống mới của Người dưới bút hiệu Tân Sinh được
Ủy ban Trung ương vận động Đời sống mới xuất bản vào tháng 3-1947. Tiếp
đó, dưới bút hiệu XYZ, Bác viết quyển Sửa đổi lề lối làm việc, nhà xuất bản
Sự thật in vào năm 1950. Cả hai quyển sách này mặc dù chưa nêu lên khái
niệm lối sống nhưng đều đề cập đến những tinh thần cơ bản của lối sống mới
có văn hóa. Ở lời tựa của quyển Đời sống mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết:
"Trong lúc kháng chiến, chúng ta đồng thời phải kiến quốc. Thực hành đời
sống mới là một điều cần kịp cho công cuộc cứu quốc và kiến quốc" [93, tr. 99].
Xây dựng lối sống mới là yêu cầu mà thực tiễn cuộc sống đặt ra, dù
trong bất kì hoàn cảnh nào của quá trình cách mạng nước ta, ngay cả trong
chiến tranh. Tuy nhiên, trong tình hình của các cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ, vấn đề này chưa có điều kiện để được đề cập nhiều
trên bình diện lý luận.
Từ sau ngày thống nhất đất nước năm 1975, tiếp thu lý luận về xây
dựng "lối sống Xô viết" của Liên Xô, vấn đề xây dựng lối sống được đặt ra tại
Đại hội Đảng lần thứ IV (1976) và thứ V (1981).
Một số tác phẩm tiêu biểu viết về lối sống của Liên xô đã được dịch
sang tiếng Việt như: N.I. Be-lô-va: Bàn về vấn đề khái niệm lối sống, Viện Xã



4

hội học thuộc Ủy ban Khoa học xã hội xuất bản, Hà Nội, 1977; Nhiều tác giả:
Lối sống xã hội chủ nghĩa, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1982; V.I. Đô-brư-nina: Lối sống Xô viết, hôm nay và ngày mai, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva,
1984...
Xuất phát từ quan điểm duy vật biện chứng, những công trình trên
đây đã phân tích bản chất, các giá trị và biện pháp để xây dựng lối sống xã
hội chủ nghĩa.
Ở Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IV dùng khái niệm "nếp
sống mới có văn hóa" và đề ra nhiệm vụ: "... vận động một cách kiên trì và
sâu rộng để tạo ra nếp sống mới có văn hóa trong xã hội: đưa cái đẹp vào đời
sống hàng ngày, vào lao động sản xuất" [36, tr. 125]. Đến Đại hội Đảng lần
thứ V, khái niệm "lối sống mới" được sử dụng, Văn kiện Đại hội viết: "...
cuộc đấu tranh giữa hai con đường, giữa cái mới và cái cũ, tiên tiến với lạc
hậu, tiến bộ với phản động, trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng và lối sống đang
diễn ra hàng ngày rất phức tạp" [37, tr. 91-92].
Đại hội Đảng lần thứ VI mở ra thời kỳ đổi mới. Trong điều kiện này,
xây dựng lối sống trở thành nhiệm vụ cấp bách, từ đó việc nghiên cứu lối
sống được đặt ra khá phong phú, đa dạng cả bề rộng, chiều sâu. Dưới đây xin
nêu một số tác giả và công trình tiêu biểu:
Trước hết là những công trình đã được in thành sách của các nhà xuất
bản: PGS.TS Lê Như Hoa (chủ biên): Lối sống trong đời sống đô thị hiện nay,
Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 1993; PGS.TS Lê Như Hoa (chủ
biên): Lối sống đô thị miền Trung, mấy vấn đề lý luận và thực tiễn, Nhà xuất
bản Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 1996; GS. Trần Văn Bính (chủ biên): Giáo
trình lý luận văn hóa và đường lối văn hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001; TS. Nguyễn Viết Chức (chủ
biên): Đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa Thủ đô trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Viện Văn hóa và Nhà xuất bản Văn



5

hóa - Thông tin, Hà Nội, 2001; GS. Đỗ Huy: Vấn đề xây dựng lối sống dân tộc
hiện đại ở nước ta hiện nay, Tạp chí Triết học, số 6, 1999; Phan Huy Kỳ: Xây
dựng lối sống mới trong điều kiện hiện nay, Nghiên cứu Lý luận, số 7, 1999;
Nguyễn Hữu Thức: Mấy suy nghĩ về xây dựng lối sống văn hóa cơ sở hiện nay,
Tạp chí Thông tin lý luận, số 8, 1999; ThS. Hồ Tuyết Dung: Văn hóa thẩm mỹ
với việc xây dựng lối sống cho thanh niên đô thị hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu
lý luận, số 11, 1999; Nguyễn Chí Dũng: Xã hội hóa lối sống và xây dựng lối
sống trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Tạp chí Sinh
hoạt lý luận, số 5, 2000; Cao Văn Định: Giáo dục lối sống cho thanh niên đô
thị hiện nay, Tạp chí Sinh hoạt lý luận, số 2, 2000; Vũ Hào Quang: Quan hệ
giữa lối sống và cấu trúc và xã hội của đám trẻ em lang thang, Tạp chí Tâm lý
học, số 1, 2000; Bảo Trung: Vấn đề đạo đức, lối sống cán bộ Đảng viên và một
số giải pháp từ cơ sở, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 1, 2000; Lê Lâm Ứng: Lối
sống mới của người Việt Nam, Tạp chí Quân đội nhân dân, số 26/1, 2001...
Ngoài ra, còn có một số đề tài khoa học, luận văn thạc sĩ đề cập đến vấn đề
xây dựng lối sống. Ví dụ: Lê Văn Dương: Cái phổ biến và cái đặc thù trong
việc hình thành lối sống xã hội chủ nghĩa, 1986; Lê Huy Ứng: Mấy vấn đề về
lối sống trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
1995...
Nhìn chung, những công trình này đã phần nào đi sâu lý giải bản chất
của khái niệm "lối sống", chỉ ra những lĩnh vực biểu hiện của nó, những đặc
điểm của lối sống mới...; có công trình còn phân tích lối sống của những nhóm
xã hội cụ thể, lối sống trong điều kiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa...
Tuy chưa bàn đến nội dung xây dựng lối sống có văn hóa của thanh niên
Thành phố Hồ Chí Minh nhưng những công trình trên đã có nhiều gợi ý cho đề
tài, nhiều số liệu mà luận án có thể vận dụng, so sánh... làm sâu sắc thêm những

vấn đề liên quan.


6

Năm 2001, Thành đoàn thanh niên Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện
đề tài: Một số vấn đề rút ra từ cuộc khảo sát thực trạng tình hình thanh niên
Thành phố Hồ Chí Minh, đã phân tích khá toàn diện cơ cấu, các mặt hoạt động
của thanh niên thành phố. Năm 2002, Tiểu ban công tác đoàn thể thuộc Đảng ủy
khối các trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp tổ chức hội thảo
"Đời sống văn hóa, tinh thần của học sinh, sinh viên - Thực trạng và giải pháp".
Tháng 4 năm 2004 Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn Thành phố Hồ
Chí Minh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề về lối sống đô thị ở Thành
phố Hồ Chí Minh...
Đây là những đề tài liên quan đến đối tượng nghiên cứu của luận án.
Trong thực tế, chưa có công trình nào trực tiếp nghiên cứu hoạt động xây
dựng lối sống có văn hóa của thanh niên Thành phố Hồ Chí Minh và đặt hoạt
động này trong sự đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay, tuy
nhiên đã có một số đề tài liên quan, có thể coi đó là tài liệu tham khảo bổ ích.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Chủ thể của lối sống có văn hóa mà luận án nghiên cứu là thanh niên
Thành phố Hồ Chí Minh, đặc biệt chú trọng thanh niên là học sinh, sinh viên
và công nhân lao động mà nòng cốt là đoàn viên thanh niên, hội viên Hội
Thanh niên.
- Phạm vi của lối sống rất rộng nên luận án chỉ giới hạn vào những lĩnh
vực cơ bản nhất phản ánh đặc trưng của lối sống thanh niên gắn với đặc điểm lứa
tuổi như hoạt động xây dựng tư tưởng, hoạt động học tập, hoạt động xã hội...
- Về thời gian khảo sát, luận án giới hạn từ năm 1998, khi có Nghị
quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam khóa VIII trở lại đây.

4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu


7

4.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ những khía cạnh về lối sống và lối sống có văn hóa,
qua khảo sát và phân tích thực trạng xây dựng lối sống có văn hóa của thanh
niên Thành phố Hồ Chí Minh, đề xuất những giải pháp để đẩy mạnh xây dựng
lối sống có văn hóa của thanh niên Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
4.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ khái niệm và đặc trưng của lối sống có văn hóa, tầm quan
trọng của hoạt động xây dựng lối sống văn hóa của thanh niên Thành phố Hồ
Chí Minh đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay.
- Chỉ ra những yếu tố tác động và thực trạng xây dựng lối sống có văn
hóa của thanh niên Thành phố Hồ Chí Minh những năm đổi mới vừa qua.
- Nêu lên phương hướng chung, quan điểm cơ bản, và từ đó đề xuất
những giải pháp chủ yếu để nâng cao hơn nữa hiệu quả xây dựng lối sống có
văn hóa của thanh niên Thành phố Hồ Chí Minh đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
đổi mới ở thành phố hiện nay.
5. Cái mới về khoa học của luận án
- Khảo sát và phân tích một cách có hệ thống thực trạng xây dựng lối
sống có văn hóa của thanh niên Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đề ra những giải pháp chủ yếu để nâng cao chất lượng xây dựng lối
sống văn hóa của thanh niên Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.
6. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Dựa trên quan điểm lý luận văn hóa học của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng ta về con
người xã hội chủ nghĩa và xây dựng lối sống xã hội chủ nghĩa.



8

- Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng các phương pháp lôgic - lịch sử,
phân tích, tổng hợp và điều tra xã hội học về văn hóa và lối sống của thanh
niên.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Luận án nếu được bảo vệ thành công:
- Sẽ là một đóng góp lý luận và thực tiễn về xây dựng lối sống văn hóa
của thanh niên Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và thanh niên cả nước nói
chung, là một tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy các chuyên
đề liên quan đến thanh niên, lối sống, văn hóa xã hội chủ nghĩa.
- Sẽ góp phần cung cấp các luận cứ để Ban Tuyên huấn Thành ủy,
Thành đoàn, Hội Liên hiệp Thanh niên ... Thành phố Hồ Chí Minh hoạch
định chiến lược phát triển thanh niên thành phố trong quá trình đổi mới hiện
nay.
8. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung luận án gồm 3 chương, 6 tiết.


9

Chương 1
QUAN NIỆM VỀ LỐI SỐNG CÓ VĂN HÓA VÀ TẦM QUAN TRỌNG
CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆC HÌNH THÀNH NGƯỜI THANH NIÊN MỚI

1.1. QUAN NIỆM VỀ "LỐI SỐNG CÓ VĂN HÓA"

1.1.1. Khái niệm "lối sống"

Từ lâu, "lối sống" đã trở thành đối tượng nghiên cứu của tâm lí học,
giáo dục học, văn hóa học... và được xem là một phạm trù cơ bản của chủ
nghĩa duy vật lịch sử. Trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, để làm rõ mối quan
hệ giữa con người với hoàn cảnh, điều kiện sống của nó, C.Mác đã bổ sung
vào khái niệm "phương thức sản xuất" khái niệm "phương thức sinh sống":
Không nên nghiên cứu phương thức sản xuất ấy đơn thuần
theo khía cạnh nó là sự tái sản xuất ra đời sống thể xác của các cá
nhân. Mà hơn thế, nó là một phương thức hoạt động nhất định của
những cá nhân ấy, một hình thức nhất định của hoạt động sống của
họ, một phương thức sinh sống nhất định của họ [88, tr. 30].
Luận điểm trên đây thường được các nhà nghiên cứu mác-xít dùng
làm điểm xuất phát để nghiên cứu khái niệm "lối sống". Vào các thập niên 60
- 80 của thế kỷ XX, giới nghiên cứu Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở
Đông Âu đưa ra hơn 50 định nghĩa tiêu biểu về "lối sống". Các định nghĩa
này có thể qui về ba nhóm:
Nhóm thứ nhất: xem xét lối sống như một khái niệm bao quát nhiều
yếu tố liên quan đến cuộc sống của con người và của toàn xã hội: điều kiện
sống, các hình thức hoạt động, các quan hệ xã hội, các hình thức thỏa mãn
nhu cầu, thế giới quan...
Nhóm thứ hai: mô tả lối sống dựa vào các yếu tố bên trong, vốn có của
chủ thể, hoặc xem lối sống là sự phản ánh của nhu cầu con người, cách thức


10

thỏa mãn những nhu cầu đó, nghĩa là chất lượng của sự phồn vinh của con
người; hoặc coi lối sống là nếp nghĩ, hành vi, nếp sống nội tâm của con
người.
Nhóm thứ ba: quan niệm lối sống như một phạm trù xã hội học chỉ sự
thống nhất hữu cơ giữa các hình thức hoạt động sống và những điều kiện sống

quan trọng nhất của cá nhân hay nhóm xã hội.
Ba nhóm định nghĩa này ít nhiều đều có sự phiến diện. Nhóm đầu tiên
bị phê phán là mở rộng quá mức khái niệm "lối sống" và do đó đã làm mất đi
những đặc trưng của nó. Nhóm thứ hai thu hẹp lối sống vào những yếu tố bên
trong của cá nhân, loại trừ khỏi khái niệm "lối sống" những mặt khách quan,
những hoạt động quan trọng của con người như hoạt động lao động, hoạt
động chính trị... Nhóm thứ ba thì lại không chú ý đến vai trò của yếu tố chủ
quan trong lối sống.
Định nghĩa tiêu biểu và phổ biến nhất ở Liên Xô (cũ) có lẽ là định nghĩa
gắn lối sống với hoạt động của con người. "Từ điển Chủ nghĩa cộng sản
khoa học" định nghĩa "lối sống xã hội chủ nghĩa" là "những hình thức hoạt động
sống của con người vốn có của chủ nghĩa xã hội, được qui định bởi điều kiện
sống của họ trong phạm vi giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản" [98, tr. 202].
Công trình "Lối sống xã hội chủ nghĩa" do G.E. Gle-dơ-man chủ biên định
nghĩa: "Lối sống là một tổng thể, một hệ thống những đặc điểm chủ yếu nói lên
hoạt động của các dân tộc, các giai cấp, các nhóm xã hội, các cá nhân trong
những điều kiện của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định” [85, tr. 45].
Nhìn chung, các nhà nghiên cứu ở các nước xã hội chủ nghĩa trước
đây, khi bàn về khái niệm "lối sống", thường nhấn mạnh vào tính chất xã hội
chủ nghĩa và xác định các tiêu chí của nó từ sự đối lập với lối sống tư sản.
Ở Việt Nam, khái niệm "lối sống" được xem xét với một góc nhìn
tổng hợp, trong đó có nói đến mối quan hệ giữa mặt chủ quan và khách quan,


11

giữa hoạt động sống và điều kiện sống của con người, giữa hoạt động sản xuất
và những hoạt động phi sản xuất.
Nhấn mạnh vào hoạt động sống của con người, nhóm tác giả giáo
trình "Lý luận văn hóa và đường lối văn hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam" định

nghĩa:
Lối sống là một phạm trù xã hội khái quát toàn bộ hoạt động
sống của các dân tộc, các giai cấp, các nhóm xã hội, các cá nhân
trong những điều kiện của một hình thái kinh tế xã hội nhất định, và
biểu hiện trên các lĩnh vực của đời sống: trong lao động và hưởng
thụ; trong quan hệ giữa người với người; trong sinh hoạt tinh thần
và văn hóa [15, tr. 190].
Xem lối sống như những quan hệ xã hội, PGS.TS. Lê Như Hoa cho
rằng: "Lối sống là tổng thể các quan hệ xã hội của con người với những hình
thức và đặc trưng tiêu biểu cho mỗi dân tộc, quốc gia, vùng địa lý, nhóm xã
hội trong những điều kiện lịch sử, kinh tế, xã hội và văn hóa cụ thể" [69, tr.
10].
Trong đời sống khoa học ở nước ta, nhận thấy, có ba giai đoạn tiếp
cận, nghiên cứu vấn đề lối sống, như sau: từ năm 1970 trở về trước, lối sống
được nghiên cứu dưới góc độ triết học duy vật lịch sử; trong thập niên 80 của
thế kỷ XX, nó là đối tượng nghiên cứu của chuyên ngành chủ nghĩa cộng sản
khoa học; và hiện nay, xã hội học và văn hóa học là hai hướng tiếp cận khá
phổ biến trong nghiên cứu về lối sống.
Nhìn chung, các khái niệm về lối sống đều gặp nhau những điểm sau:
một là, xem lối sống là một dạng hoạt động sống của con người; hai là, hoạt
động sống này phụ thuộc chặt chẽ vào phương thức sản xuất và điều kiện
sống của con người; ba, nó thể hiện đặc trưng riêng của từng cộng đồng
người.


12

Nổi lên trong lối sống là hoạt động của con người. Về thực chất, đó là
cách thức con người ứng xử với tự nhiên và với xã hội để bảo tồn và phát
triển đời sống của mình. Vì vậy, khái niệm "lối sống" bao hàm cả hai mặt

khách quan lẫn chủ quan. Mặt khách quan là điều kiện sống của con người,
trong đó bao hàm những đặc điểm của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định
mà cốt lõi là phương thức sản xuất. Mặt chủ quan chính là ý thức của con
người trong sự lựa chọn cho mình một lối sống, dựa trên cơ sở của một lẽ
sống, một thái độ sống cụ thể, những mục tiêu mà con người đặt ra. Vì vậy
mà PGS. Lê Như Hoa cho rằng: "Thuật ngữ lối sống có sự kết hợp biện chứng
giữa yếu tố vật chất và yếu tố tinh thần, gắn với phương thức sản xuất của xã
hội, với chế độ chính trị xã hội, với hình thái kinh tế - xã hội" [71, tr. 17].
Nếu hiểu lối sống, tức phương thức sinh sống (mode de vie), là những
hình thức hoạt động sống của con người, thì phương thức sản xuất là một mặt,
và là mặt cơ bản của lối sống. Theo cách nói của C.Mác và Ph.Ăngghen,
phương thức mà con người sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt không chỉ đơn
thuần là sự "tái sản xuất ra sự tồn tại thể xác" của họ, mà đó còn là một "hình
thức nhất định của sự biểu hiện đời sống" của họ, một "phương thức sinh sống
nhất định" của họ. Cái cơ bản trong sự biểu hiện đời sống của con người, tức
trong lối sống, là hoạt động sản xuất với hai mối quan hệ: 1- Quan hệ vật
chất, thực tiễn với tự nhiên được xác định bởi trình độ của lực lượng sản xuất;
2- Quan hệ xã hội mà cơ sở là tính chất của quan hệ sản xuất. Vì vậy, xét đến
cùng, lối sống do phương thức sản xuất quyết định.
Lối sống do phương thức sản xuất qui định. Tuy nhiên, trong cùng
một phương thức sản xuất, các giai cấp khác nhau có lối sống khác nhau.
Theo "Từ điển Chủ nghĩa cộng sản khoa học", nguyên nhân của sự khác biệt ấy
(thậm chí đối lập), là ở cơ sở kinh tế. "Lối sống xã hội chủ nghĩa đối lập trực
tiếp với lối sống tư sản, điều đó là do có sự khác nhau căn bản về cơ sở kinh tế"
[98, tr. 202]. Chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất sản sinh sự bóc lột, sự phân


13

chia xã hội thành những giai cấp đối kháng với những lối sống khác nhau;

trong xã hội tư sản, đó là tình trạng cạnh tranh ác liệt giữa người với người.
Chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa từng bước được thiết lập sẽ là cơ sở của lối
sống hài hòa trong các mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, con người
với xã hội.
Ngoài phương thức sản xuất ra, điều kiện sinh hoạt cũng có ảnh
hưởng không nhỏ đến lối sống. Theo các tác giả của công trình "Lối sống xã
hội chủ nghĩa", trên cơ sở tồn tại của các điều kiện vật chất nhất định mà con
người nảy sinh các nhu cầu và những hứng thú khách quan. Trong những mức
độ khác nhau, chúng được phản ánh vào ý thức của họ như là những động cơ
tinh thần của hành động. Khi hành động theo những động cơ này, con người
thỏa mãn nhu cầu của mình, đồng thời thay đổi cả điều kiện sống và chính bản
thân.
Tuy nhiên, điều kiện sinh hoạt, theo nghĩa rộng là toàn bộ môi trường
xã hội. Vì vậy, nếu coi lối sống bao hàm trong nó toàn bộ điều kiện sinh hoạt
của con người tức là đã đồng nhất lối sống với xã hội nói chung và loại bỏ đi
tính đặc thù của khái niệm này.
Mặt khách quan của lối sống còn thể hiện ở những chuẩn giá trị xã
hội. Chuẩn giá trị xã hội là các giá trị cốt lõi được lựa chọn, đánh giá, xác
định và cấu trúc theo những thang bậc nhất định như những chuẩn mực chung
cho đại đa số thành viên xã hội. Giá trị xã hội thường được xếp theo từng
nhóm và luôn mang tính lịch sử - cụ thể. Có nhiều cách phân nhóm giá trị xã
hội. UNESCO phân làm 4 nhóm: nhóm các giá trị cốt lõi (hòa bình, tự do, gia
đình...), nhóm các giá trị cơ bản (sáng tạo, tình yêu, chân lý...), nhóm các giá
trị có ý nghĩa (cuộc sống giàu sang và cái đẹp), nhóm các giá trị không đặc
trưng (địa vị xã hội). Những người tiếp cận theo quan điểm hệ thống - cấu
trúc phân chia thành giá trị nhân văn, giá trị đạo đức, giá trị văn hóa, giá trị


14


chính trị, giá trị kinh tế. Chuẩn giá trị xã hội là nguyên tắc của khuôn mẫu
ứng xử. Theo các tác giả của "Một số vấn đề về lối sống, đạo đức, chuẩn giá
trị xã hội", các chuẩn giá trị xã hội được hình thành, xác định trong quá trình
cá nhân hoặc cộng đồng gia nhập vào các quan hệ xã hội với tư cách chủ thể
của các quan hệ xã hội đó. Do đó, "các chuẩn giá trị xã hội luôn luôn đóng vai
trò chuẩn mực, thái độ bên trong của đạo đức và lối sống ở mỗi cá nhân và
cộng đồng cũng như đóng vai trò bản lề, nhất là trong quá trình chuyển hóa
bảng giá trị xã hội ở những giai đoạn biến đổi (hoặc biến động), trên những
lĩnh vực cơ bản của xã hội hay của toàn xã hội" [108, tr. 63].
Mặt chủ quan của lối sống, như đã nói, là ý thức của con người trong
việc lựa chọn cho mình một lối sống, dựa trên cơ sở của một lẽ sống, một thái
độ sống cụ thể, những mục tiêu mà con người đặt ra. Mặt chủ quan này phụ
thuộc rất nhiều vào nền văn hóa, vào thế giới quan, lý tưởng sống mà cá nhân
hấp thu được... Nó làm cho lối sống trở thành tự giác, vươn đến các giá trị,
làm nên ý nghĩa của lối sống.
Chính mặt chủ quan này góp phần làm cho lối sống của các cá nhân,
các tầng lớp, các giai cấp... có sự khác nhau dẫu trong cùng một phương thức
sản xuất và cùng những điều kiện sống. Từ đây mà có ý kiến cho rằng, lối sống
là cái xã hội trong cá nhân.
Lối sống được biểu hiện trong những lĩnh vực nào?
Các tác giả của công trình "Lối sống xã hội chủ nghĩa" coi những hoạt
động sau như những lĩnh vực chủ yếu của lối sống: 1- Lao động; 2- Phúc lợi,
tiêu dùng, sinh hoạt hàng ngày; 3- Sức khỏe của nhân dân; 4- Giáo dục và văn
hóa; 5- Hoạt động chính trị xã hội.
Nếu quan niệm lối sống như một hệ thống các đặc điểm cơ bản về
hoạt động sống của con người thì rõ ràng, lao động phải là lĩnh vực đầu tiên
của lối sống. Trong bất kì xã hội nào, những hình thức hoạt động sống chủ


15


yếu của con người đều là hoạt động lao động. Lao động như là phương thức
sinh sống. Tính chất và trình độ của lao động qui định mối quan hệ giữa con
người với tự nhiên và với xã hội. Vì vậy, lối sống biểu hiện trước hết trong
lĩnh vực lao động, việc con người sử dụng thời gian lao động của mình.
Bên cạnh lao động, lối sống còn được biểu hiện ra trong những lĩnh
vực hoạt động khác của con người: sinh hoạt hàng ngày, hoạt động chính trị xã hội, hoạt động giáo dục, hoạt động trong lĩnh vực văn hóa tinh thần, trong
sử dụng thời gian rỗi, những quan hệ qua lại giữa người với người tiêu biểu
cho một xã hội nhất định, những tập quán và những qui tắc xử thế đã ăn sâu
vào đời sống hàng ngày...
Tính chất của những lĩnh vực này, từ hoạt động lao động đến hoạt
động chính trị - xã hội, quan hệ qua lại giữa người và người, trong các chế độ
xã hội là khác nhau. Điều này góp phần làm nên sự khác nhau căn bản giữa
các lối sống, trong khi không loại trừ một vài nét chung, chẳng hạn trong các
hình thức tổ chức hoạt động lao động, trong các kiểu nhà ở, trong các phương
tiện thông tin liên lạc... Thật ra, những nét chung này cũng bắt nguồn từ trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất, của khoa học kỹ thuật - những nội dung
liên quan đến cuộc cách mạng khoa học công nghệ - vốn cũng biểu hiện khác
nhau trong những xã hội khác nhau.
Như vậy, để có thể đi đến một định nghĩa về lối sống, cần phải chú ý
mấy vấn đề sau: 1- Lối sống là một phương thức sinh sống nhất định của con
người mà mặt cơ bản của nó là phương thức sản xuất; 2- Phương thức sinh
sống ấy là kết quả của sự tác động tích cực của con người vào điều kiện sống
của mình trong mối quan hệ biện chứng giữa con người và hoàn cảnh; 3- Lối
sống là một thực thể xã hội với hệ thống những chuẩn mực xã hội của một
cộng đồng nhất định mà cá nhân phải tuân theo.


16


Nếu hiểu lối sống là cách thức con người bảo tồn và phát triển đời
sống trong những điều kiện tự nhiên và xã hội nhất định thì có thể thấy thực
chất của lối sống là kiểu quan hệ với nhiều cấp độ: quan hệ với tự nhiên và xã
hội; quan hệ gia đình, làng xã và Tổ quốc... Tính chất của mỗi loại quan hệ
trong những điều kiện sống nhất định sẽ làm nên đặc trưng của từng lối sống:
chinh phục hay lệ thuộc, bóc lột hay bình đẳng, đóng góp hay phụ thuộc, ăn
bám... Chính những nét đặc trưng này sẽ hình thành hệ thống chuẩn mực xã
hội để lối sống vận hành theo, tạo nên sự khác biệt của lối sống của từng cộng
đồng và cá nhân.
Từ những phân tích trên, có thể đi đến một định nghĩa như sau: Lối
sống là tổng hòa những dạng hoạt động sống ổn định của cộng đồng (dân
tộc, giai cấp, nhóm xã hội...) và các cá nhân, được vận hành theo những
chuẩn giá trị xã hội nào đó trong sự thống nhất với các điều kiện của một
hình thái kinh tế - xã hội nhất định.
Để hiểu rõ hơn khái niệm lối sống, có thể tìm hiểu thêm mối quan hệ
giữa lối sống với các khái niệm có liên quan như: lẽ sống, nếp sống, mức
sống, phong cách sống...
"Lẽ sống" hay còn gọi là đạo lý sống, là biểu hiện quan trọng nhất của
lối sống. Đây chính là tư tưởng giải thích cho mục đích của lối sống. Lẽ sống
được xem là mặt ý thức của lối sống, phản ánh nhận thức của con người về
chính bản thân trong các mối quan hệ xã hội. Lẽ sống là mặt tự giác của lối
sống, đóng vai trò dẫn dắt, định hướng, nhằm làm cho lối sống ổn định theo
từng cá nhân, nhóm hay giai cấp, dân tộc.
"Mức sống" là một thuật ngữ kinh tế - xã hội để đánh giá mặt vật
chất của lối sống dựa trên chỉ số về sự đáp ứng các nhu cầu vật chất và tinh
thần của cộng đồng. Thông thường, mức sống phản ánh trình độ của nền sản
xuất vật chất trong những điều kiện lịch sử nhất định. Những chỉ báo của
mức sống là hệ quả của sự phát triển của công cụ lao động, của năng suất



17

sản xuất. Xây dựng lối sống có văn hóa không thể không chú ý đến việc
nâng cao mức sống cho cộng đồng. Không thể có một lối sống văn minh,
lịch sự nếu nhà ở quá chật chội, điện thiếu, nước thiếu, con người chen chúc
nhau đi lại trên những đường phố chật hẹp và dơ bẩn... Tuy nhiên, cũng
không nên coi mức sống là mặt quyết định đối với lối sống. Sống đẹp, cơ
bản không phải là sống đầy đủ mà là sống có ý nghĩa dưới sự dẫn dắt của
những lẽ sống cao đẹp.
"Nếp sống" là mặt ổn định của lối sống. Đó là những hoạt động sống
đã trở thành thói quen, thành phong tục, tập quán, thành qui ước của cộng
đồng. Nếp sống cho thấy khả năng thích nghi và sức sáng tạo của con người
trong những điều kiện sống cụ thể. Nếp sống làm nên sự đa dạng của lối sống,
giúp duy trì những kinh nghiệm sống mà loài người đã nhận thức được. Theo
GS. Vũ Khiêu, nếp sống là "toàn bộ những thói quen được hình thành trong
cuộc sống hàng ngày, những thói quen đã trở thành nếp trong sản xuất, chiến
đấu, trong quan hệ xã hội và trong sinh hoạt riêng tư của mỗi con người.
Những thói quen ấy còn được gọi là tập quán" [79, tr. 135].
"Phong cách sống" là hình thức biểu hiện của lối sống thông qua hoạt
động và những quan hệ xã hội làm nên nét riêng biệt trong lối sống của các cá
nhân và các nhóm xã hội.
Như vậy, có thể thấy lối sống như một phạm trù trung tâm mà sự
biểu hiện của nó trên các mặt cụ thể đã làm thành các phạm trù khác. Mặt ý
thức của lối sống là lẽ sống, mặt ổn định của lối sống làm thành nếp sống,
mặt trình độ của lối sống làm nên mức sống, chất lượng sống, mặt riêng
biệt của lối sống làm thành phong cách sống. Từ góc nhìn này, xây dựng
lối sống có văn hóa là tác động để các mặt khác nhau của lối sống đạt đến
những giá trị tốt đẹp, tạo nên hạnh phúc và khả năng phát triển của cá nhân
và cộng đồng. Cũng từ đây cho thấy, xây dựng lối sống có văn hóa là phải



18

xây dựng nhiều yếu tố, nhiều mặt tạo nên tác động tổng hợp hình thành lối
sống theo những chuẩn mực đã định.
1.1.2. Khái niệm "lối sống có văn hóa"
Giới nghiên cứu Xô viết trước đây sử dụng tính từ "xã hội chủ nghĩa"
để định tính cho lối sống mới, và để phân biệt chủ yếu với lối sống tư sản. Nước
ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội chưa có đầy đủ những cơ sở
của lối sống xã hội chủ nghĩa nên một thời, các nhà khoa học thường sử dụng
khái niệm "lối sống mới" hay "lối sống lành mạnh". Khái niệm"lối sống có
văn hóa" được sử dụng chính thức trong Văn kiện Đại hội IX [44, tr. 38; tr. 114];
xây dựng lối sống có văn hóa được đề cập đến như một nhiệm vụ của mọi
hoạt động văn hóa hiện nay.
Để xác định khái niệm lối sống có văn hóa cần làm rõ mối quan hệ
giữa văn hóa và lối sống.
Về một phương diện nào đó, hai khái niệm này có điểm tương đồng.
Nhà nghiên cứu Hoa Kỳ C.W. Wissler quan niệm: "Lối sống mà một công xã
hay bộ lạc tuân thủ, gọi là văn hóa" [27, tr. 9]. Chủ tịch Hồ Chí Minh xem văn
hóa là "sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó
mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng với những nhu cầu của đời sống
và đòi hỏi của sự sinh tồn" [91, tr. 431]. Như vậy, cơ sở của sáng tạo văn hóa
và cũng như của việc hình thành lối sống con người chính là lao động. Hoạt
động vốn là đặc tính của con người. Để tách khỏi giới tự nhiên, con người
phải lao động nhằm cải biến thế giới và chính bản thân. Hoạt động lao động
đã sáng tạo ra văn hóa và làm nên mặt căn bản của lối sống.
Lối sống là biểu hiện sinh động của một nền văn hóa. Lối sống của
một dân tộc hình thành trong những điều kiện sống nhất định, bao gồm các
điều kiện địa lý tự nhiên, địa - văn hóa, truyền thống văn hóa, chuẩn giá trị xã
hội... Sự khác biệt của điều kiện sống đã làm nên những đặc trưng của từng



19

lối sống, tạo nên những sắc thái văn hóa khác nhau. Nói cách khác, những nét
đặc thù của lối sống chính là sự phản ánh môi trường vật chất, địa - văn hóa,
truyền thống dân tộc, chuẩn giá trị xã hội, đạo đức... Theo các tác giả cuốn
Một số vấn đề về lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội, lối sống có hai mặt:
vật chất và tinh thần. Mặt vật chất biểu hiện ở quan hệ lao động, trình độ và
thời gian lao động, các phương thức thỏa mãn nhu cầu vật chất, các cách thức
quản lý phúc lợi vật chất. Mặt tinh thần của lối sống dựa trên các hoạt động
sản xuất vật chất của các cá nhân và nhóm xã hội, bao gồm các kiểu nhất định
của hoạt động sáng tạo, lưu thông, trao đổi và gìn giữ các giá trị tinh thần
như: các định hướng và thước đo giá trị, các quan hệ đạo đức và thẩm mỹ.
Mặt tinh thần của lối sống là những tiềm năng tinh thần của xã hội qui định
các hoạt động sống của con người trong các điều kiện và môi trường xã hội cụ
thể.
Do quy định của điều kiện và môi trường địa - văn hóa mà có lối sống du
mục và lối sống trồng lúa nước, lối sống định cư và lối sống du canh, du cư. Do
qui định của điều kiện và môi trường kinh tế - xã hội mà có lối sống thị dân và lối
sống nông thôn, lối sống thời kinh tế thị trường và lối sống công xã truyền
thống.
Lối sống bao hàm cả đặc trưng nội dung lẫn hình thức. Những đặc
trưng này chính là các giá trị văn hóa của lối sống. Lối sống cố kết gia đình làng xã - Tổ quốc, lối sống tôn trọng tình làng nghĩa xóm, lối sống nhân ái
thủy chung... đã làm nên những nét bản sắc của văn hóa Việt Nam.
Văn hóa cá nhân biểu hiện ra trong lối sống. Khả năng văn hóa hóa
của cá nhân biểu hiện ra ngay trong giao tiếp, trong hành vi ứng xử, trong các
quan hệ xã hội. Một lối sống lành mạnh, hài hòa trong các quan hệ là dấu hiệu
của một trình độ văn hóa cao. Sự lành mạnh của lối sống cộng đồng cũng là
dấu hiệu của một đời sống văn hóa tốt đẹp, nó thể hiện khả năng bảo tồn và



20

phát triển các giá trị văn hóa dân tộc ngay trong đời sống trước sự tấn công
hàng ngày, hàng giờ của những tác nhân ngoại lai.
Khái niệm lối sống sẽ không được tiếp cận triệt để và hệ thống nếu không
chú ý đến ý nghĩa biểu tượng từ các hành động xã hội, quá trình xã hội, quan hệ
xã hội, khuôn mẫu ứng xử. Trong khi đó, "việc biểu tượng hóa thế giới tự nhiên
và xã hội thành thế giới của những biểu trưng văn hóa trong nhận thức, tình cảm,
hành động của con người là đặc trưng của xã hội loài người" [108, tr. 34]. Vì
vậy, có quan điểm cho rằng, lối sống xã hội nói chung đều mang tính chất văn
hóa, khái niệm lối sống theo đúng nghĩa và đầy đủ của nó là lối sống có văn
hóa hay văn hóa lối sống. Thật ra, quan điểm này là quá rộng, bởi vì trong
thực tế không phải lối sống nào cũng vươn lên được tầm văn hóa.
Tóm lại, lối sống là một trong những lĩnh vực then chốt của văn hóa,
nó góp phần làm nên bản sắc văn hóa dân tộc. Lối sống mang những giá trị
bền vững được hình thành từ những điều kiện sống cụ thể. Mỗi một chế độ xã
hội thường có một lối sống với những đặc điểm riêng. Xây dựng các giá trị
riêng biệt của lối sống xã hội là nhằm hình thành những hình mẫu nhân cách
đáp ứng yêu cầu của thể chế chính trị. Do đó, khi chế độ xã hội chủ nghĩa
được thiết lập, yêu cầu xây dựng lối sống xã hội chủ nghĩa cũng hình thành.
Theo chúng tôi, khái niệm "lối sống có văn hóa" ra đời là để nhấn mạnh
đến yêu cầu về phẩm chất văn hóa của việc xây dựng lối sống của cộng đồng,
đặc biệt là của thế hệ trẻ. Đó còn là kết quả nhận thức về thực trạng suy thoái
trong lối sống, thực trạng của lối sống thiếu văn hóa của một bộ phận dân cư
hiện nay. Phần nào, nó cũng nhấn mạnh đến vai trò chủ động của chủ thể trong
việc tự giác xây dựng cho mình một lối sống tốt đẹp phù hợp với yêu cầu của xã
hội.
Như vậy, lối sống như một phần của văn hóa nhưng trên thực tế lối

sống có văn hóa đối lập với lối sống thiếu văn hóa, kém văn hóa hay vô văn


21

hóa. "Văn hóa" ở đây được hiểu là giá trị, là sự hài hòa trong ứng xử để đạt
đến các chuẩn mực xã hội, đạo đức của cộng đồng. Hệ giá trị là phạm trù
mang tính dân tộc, mang nét đặc thù của những thời đại nhất định. Ở Liên Xô
và các nước Đông Âu trước đây, tính chất xã hội chủ nghĩa chính là nội dung
văn hóa của lối sống mà các quốc gia này ra sức xây dựng. Trong điều kiện
hiện nay, khi văn hóa được nhận thức như là nền tảng tinh thần của xã hội,
vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, khi
Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc thì văn hóa là giá trị mà lối sống phải đạt được.
Trong thực tế, văn hóa đã trở thành nội dung, tính chất của nhiều hoạt
động, nhiều lĩnh vực xã hội như đời sống văn hóa, khu phố văn hóa, làng văn
hóa, ứng xử có văn hóa, giao tiếp có văn hóa... Văn hóa ở đây là thước đo của
sự hài hòa, của chuẩn mực.
Có thể hiểu, lối sống có văn hóa mà chúng ta xây dựng là lối sống
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc được hình thành trong điều kiện
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước như một yêu cầu về nhân cách của
con người phát triển toàn diện trong chiến lược phát huy nguồn lực con người
để xây dựng đất nước hiện nay.
1.1.3. Những đặc điểm cơ bản của lối sống có văn hóa
Với quan niệm lối sống là một phạm trù xã hội chứ không phải về kỹ
thuật, những đặc điểm cơ bản của nó là do hệ thống các quan hệ sản xuất qui
định, "Từ điển Chủ nghĩa cộng sản khoa học" xác định lối sống xã hội chủ
nghĩa có những đặc điểm sau:
- Lao động thoát khỏi bóc lột và trở thành nghĩa vụ chung của mỗi
thành viên xã hội và thành phương tiện để phát triển cá nhân.

- Tuân thủ các tiêu chuẩn pháp luật.
- Chủ nghĩa tập thể (đối lập với chủ nghĩa cá nhân tư sản).


22

- Chủ nghĩa nhân đạo, sự quan tâm của xã hội và của tập thể đối với
con người.
- Tinh thần chủ nghĩa quốc tế.
- Tính độc đáo nhất định của lối sống của từng dân tộc.
Các tác giả của công trình "Lối sống xã hội chủ nghĩa" quan niệm lối
sống xã hội chủ nghĩa có các đặc điểm như: chủ nghĩa tập thể, chủ nghĩa nhân
đạo, chủ nghĩa dân chủ, chủ nghĩa quốc tế, chủ nghĩa lạc quan xã hội. Những
đặc điểm này xuyên suốt trong lao động, cuộc sống hàng ngày, văn hóa, đời
sống chính trị - xã hội và trong tất cả các hoạt động của con người trong xã
hội xã hội chủ nghĩa.
Xây dựng lối sống có văn hóa là một bộ phận quan trọng của sự nghiệp
xây dựng nền văn hóa ở nước ta hiện nay. Kết quả của sự nghiệp xây dựng
nền văn hóa được biểu hiện ra ngay trong lối sống của cộng đồng. Có thể nói,
xây dựng lối sống có văn hóa chính là xây dựng một lối sống Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Lối sống tiên tiến trước hết phải là lối sống tiến bộ, thể hiện tinh thần
yêu nước và hướng tới cộng đồng. Khái niệm lối sống tiên tiến ở đây bao gồm
hai nội dung. Một là, lối sống lành mạnh, văn minh, lịch sự, chứa đựng các
giá trị tốt đẹp mà con người đã đạt được. Hai là, lối sống được dẫn dắt bởi
một lẽ sống cao quý mà trên tất cả là lòng yêu nước, được biểu hiện thành thái
độ sống hướng tới cộng đồng, có ý thức công dân, nghiêm chỉnh chấp hành
kỷ cương phép nước, có ý thức phấn đấu đưa đất nước vươn lên thoát khỏi
nghèo nàn lạc hậu.
Ở nước ta hiện nay, lẽ sống dẫn dắt một lối sống tiên tiến phải được

xây dựng trên cơ sở thế giới quan Mác - Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí
Minh. Tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh trang bị cho lẽ sống tình yêu đối với
các giá trị dân tộc, sự giản dị của lối sống, thái độ tận tụy đối với công việc,


23

tinh thần hi sinh, tinh thần học tập nâng cao hiểu biết và năng lực phục vụ
nhân dân, đạo đức cách mạng trong sáng, cần kiệm liêm chính, chí công vô
tư,... Thế giới quan Mác - Lênin trang bị cho lẽ sống mục đích cao cả hướng
tới sự nghiệp giải phóng con người.
Như vậy, tính chất tiên tiến của lối sống chứa đựng cả những giá trị tốt
đẹp thuộc về dân tộc cũng như những giá trị nhân loại, nó thể hiện sự tiến bộ
của lối sống dân tộc trong quá trình hội nhập và vươn lên. Tiên tiến là chiếc
cầu nối giữa dân tộc và quốc tế.
Lối sống đậm đà bản sắc dân tộc là một yêu cầu của quá trình hội
nhập và phát triển. Nhìn từ góc độ lịch sử, lối sống là những gì chủ yếu thuộc
về dân tộc chứ không phải thuộc về quốc tế, dù cho đến khi toàn nhân loại có
cùng một kiểu làm việc tự động hóa trong các nhà máy hiện đại, có cùng một
kiểu sinh hoạt với các loại robot và máy móc tự động ngay trong ngôi nhà của
mình, thì lối sống dân tộc, tức bản sắc dân tộc của văn hóa vẫn tồn tại... Chủ
tịch Hồ Chí Minh từng nói: "Phát triển hết cái hay cái đẹp của dân tộc tức là
ta đi đến cùng cho nhân loại" [2, tr. 50]. Lĩnh vực lối sống là một trong những
lĩnh vực quan trọng biểu hiện bản sắc dân tộc. Bản sắc dân tộc trong lối sống
Việt Nam là những giá trị vốn có trong quá trình cộng đồng các dân tộc Việt
Nam gìn giữ và xây dựng đất nước của mình, được thể hiện thông qua các
lĩnh vực sản xuất và chiến đấu, lao động và học tập, giao tiếp và ứng xử...
nghĩa là ngay trong đời sống vật chất và tinh thần của người Việt Nam.
Trong sản xuất, tức trong quan hệ ứng xử với tự nhiên, người Việt vốn
cần cù, nhẫn nại nhưng cũng rất thông minh, sáng tạo và mạnh mẽ. Trong đời

sống tình cảm, tức trong quan hệ xã hội, người Việt có lối sống trọng nghĩa
tình, đoàn kết, nhân ái, thương yêu đùm bọc lẫn nhau, thương người như thể
thương thân, coi trọng tình làng nghĩa xóm, "chín bỏ làm mười"... Trong
chiến đấu, luôn luôn phải đương đầu với những thế lực quân sự hùng mạnh,


24

người Việt vô cùng kiên cường, bất khuất nhưng cũng khoan dung, đại độ,
yêu chuộng sự hòa hiếu. "Không có gì quí hơn độc lập tự do" là chân lý lớn
nhất trong mối quan hệ ứng xử này của người Việt, bên cạnh đó, luôn luôn
"lấy nhân nghĩa để thắng hung tàn", "lấy chí nhân mà thay cường bạo".
Bản sắc dân tộc là yếu tố cốt lõi giúp cho lối sống giữ vững những giá
trị truyền thống, không lai căng, không mất gốc. Tiên tiến và đậm đà bản sắc
dân tộc thống nhất hữu cơ trong giá trị của lối sống, tính chất này làm điều
kiện cho tính chất kia. Không thể có lối sống tiên tiến mà lại xa rời các giá trị
của tổ tiên, sùng ngoại, vọng ngoại. Tương tự, không thể đậm đà bản sắc dân
tộc mà lại không tiến bộ và yêu nước.
Xây dựng lối sống có văn hóa thực chất là đề cao một bộ phận quan
trọng của việc xây dựng con người - chủ thể thực hiện lối sống ấy. Xây dựng
lối sống có văn hóa, lối sống Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong
thời kì đổi mới của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là
xây dựng con người có văn hóa, con người công dân với những đức tính tốt
đẹp của dân tộc để đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Vì vậy, tính chất
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc của lối sống có văn hóa phải hướng đến việc
hình thành những phẩm chất của con người Việt Nam trong giai đoạn cách
mạng mới.
Con người mới Việt Nam cần có những phẩm chất gì? Ở đây cũng cần
nhắc lại những luận điểm của Bác Hồ về tính chất "mới" khi Người bàn về
"Đời sống mới":

Đời sống mới không phải cái gì cũ cũng bỏ hết, không phải
cái gì cũng làm mới.
Cái gì cũ mà xấu thì phải bỏ (...).


25

Cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi
lại cho hợp lý (...).
Cái gì cũ mà tốt, thì phải phát triển thêm (...).
Cái gì mới mà hay thì ta phải làm (...).
Làm thế nào cho đời sống của dân ta, vật chất được đầy đủ
hơn, tinh thần được vui mạnh hơn. Đó là mục đích của đời sống
mới [93, tr. 94-95].
Theo quan điểm của Bác Hồ, hạnh phúc của nhân dân là tiêu chí để đánh
giá "mới", "tốt", "hay". Vì vậy, những phẩm chất của con người mới cũng
phải dựa vào yêu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội, của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
"Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội"
(1991) chỉ rõ con người mới Việt Nam: "Đó là con người có ý thức làm chủ, ý
thức trách nhiệm công dân; có tri thức, sức khỏe và lao động giỏi; sống có văn
hóa và tình nghĩa; giàu lòng yêu nước và tinh thần quốc tế chân chính" [39, tr. 15].
Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII (1997)
cũng xác định mục tiêu và nhiệm vụ cơ bản của giáo dục là:
... Xây dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với
lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong
sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; công nghiệp
hóa hiện đại hóa đất nước; giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa
của dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; phát
huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng

đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa
học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ năng thực
hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức và kỷ luật; có


×