Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ LỊCH sử ĐẢNG ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM với QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH và PHÁT TRIỂN PHƯƠNG PHÁP CÁCH MẠNG ở MIỀN NAM (1954 1964)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (385.09 KB, 90 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta là một
trong những chiến công vĩ đại, hiển hách nhất trong lịch sử chống giặc ngoại xâm
của dân tộc. Thời gian dần trôi qua, càng thấy rõ hơn tầm vóc lớn lao và ý nghĩa
lịch sử trọng đại của thắng lợi này đối với tiến trình phát triển của dân tộc Việt
Nam.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, một cuộc đụng đầu lịch sử giữa
nhân dân ta với một tên đế quốc có tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh nhất trong phe
đế quốc và lớn hơn ta gấp bội. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân ta đã lần
lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh do đế quốc Mỹ tiến hành nhằm áp đặt chủ
nghĩa thực dân kiểu mới của chúng ở Việt Nam. Thắng lợi vĩ đại đó không chỉ bắt
nguồn từ tính đúng đắn của đường lối chiến lược, mà còn là kết quả của quá trình
sử dụng hiệu quả phương pháp cách mạng bạo lực của Đảng trong suốt hơn 20
năm lãnh đạo nhân dân ta kiên trì kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng
miền Nam, thống nhất Tổ quốc vào mùa Xuân năm 1975.
Trước một kẻ thù xâm lược mới là đế quốc Mỹ, với những âm mưu, thủ đoạn
hết sức thâm độc, tàn bạo; trên cơ sở mục tiêu, nhiệm vụ chiến lược, Đảng ta đã
từng bước hình thành, phát triển phương pháp cách mạng bạo lực phù hợp với yêu
cầu thực tiễn, đưa cách mạng miền Nam giành thắng lợi. Thực tiễn giai đoạn đầu
tiến hành chiến tranh cách mạng ở miền Nam từ 1954 đến 1964 đã chứng minh
điều đó.
Nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển phương pháp cách mạng bạo lực và
sự chỉ đạo thực hiện cách mạng bạo lực của Đảng ta ở miền Nam thời kỳ 1954 1964, không chỉ nhằm làm nổi bật sự lãnh đạo, chỉ đạo tài tình của Đảng mà còn
có giá trị to lớn để vận dụng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Đất nước ta sau 30 năm tiến hành đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa
dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã thu được nhiều thành tựu to lớn và toàn diện.
Những thành tựu đó cùng với xu thế phát triển của thời đại, đã tạo ra thời cơ thuận
lợi cho cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên, chúng ta cũng đang đứng trước những



thách thức, nguy cơ lớn do sự biến động phức tạp của tình hình thế giới và trong
nước tạo ra. Điều đó đòi hỏi Đảng ta phải có phương thức lãnh đạo sát đúng; lựa
chọn hình thức, biện pháp, bước đi của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội một
cách phù hợp để đưa đất nước phát triển đi lên không ngừng. Vì vậy, nghiên cứu
về phương pháp cách mạng của Đảng được sử dụng trong những năm chống Mỹ,
càng có giá trị vận dụng vào sự nghiệp đổi mới hiện nay.
Với lý do đó, tác giả chọn đề tài: "Đảng Cộng sản Việt Nam với quá trình hình
thành và phát triển phương pháp cách mạng ở miền Nam (1954 - 1964)" là luận
văn tốt nghiệp cao học chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Phương pháp cách mạng bạo lực là vấn đề đặc sắc trong cách mạng Việt Nam
đã được đề cập trong nhiều văn kiện, nghị quyết của Đảng. Một số đồng chí lãnh
đạo cao cấp của Đảng, Nhà nước đã viết về vấn đề này trong các tác phẩm của
mình như: Tác phẩm "Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa
xã hội tiến lên giành những thắng lợi mới" của đồng chí Lê Duẩn; "Những chặng
đường lịch sử", "Chiến tranh giải phóng và chiến tranh giữ nước" của Đại tướng
Võ Nguyên Giáp; “Quan điểm cơ bản bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa” của Đại
tướng Đoàn Khuê. Đó là những tác phẩm của các nhân chứng lịch sử đã từng lãnh
đạo, chỉ huy trong kháng chiến chống Mỹ, do đó có nhiều sự kiện lịch sử có giá trị
để tác giả luận văn vận dụng vào quá trình nghiên cứu của mình.
Mặt khác, một số nhà khoa học trong nước đã đề cập đến phương pháp cách
mạng miền Nam như: Tác phẩm "Lịch sử cách mạng miền Nam Việt Nam giai
đoạn 1954 - 1960" của tác giả Cao Văn Lượng; "Miền Nam giữ vững thành đồng"
của Giáo sư Trần Văn Giàu... Cùng với các đề tài nghiên cứu thuộc ngành lịch sử
được thực hiện tại Học viện Chính trị và Khoa Lịch sử Đảng của Học viện đã đề
cập đến phương pháp cách mạng bạo lực ở miền Nam trong thời kỳ kháng chiến
chống Mỹ cứu nước như: Đề tài khoa học cấp Học viện “Đảng lãnh đạo đưa đấu
tranh vũ trang song song với đấu tranh chính trị ở miền Nam (1960 – 1965)” do
PGS. TS Vũ Như Khôi, Khoa Lịch sử Đảng – Học viện Chính trị quân sự là chủ

nhiệm đề tài (nghiệm thu năm 1998); đề tài luận án tiến sĩ “Đảng Cộng sản Việt
Nam với quá trình phát huy sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân bảo


vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa (1975 – 1991)” của tác giả Lê Mạnh Hùng, đã bảo vệ
thành công tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (1994); công trình nghiên
cứu của PGS. TS Đoàn Ngọc Hải “Giải phóng miền Nam thống nhất Tổ qốc –
thắng lợi có ý nghĩa lịch sử của cách mạng Việt Nam”. Đó là những công trình
nghiên cứu chuyên sâu có nhiều nội dung giá trị liên quan đến đường lối, phương
pháp cách mạng của Đảng trong kháng chiến chống Mỹ để tác giả tiếp cận và tiếp
thu phục vụ công tác nghiên cứu.
Ngoài ra còn có một số tác giả nước ngoài viết về chiến tranh Việt Nam, có
liên quan đến giai đoạn lịch sử 1954 - 1964, chúng tôi coi đó là những tài liệu tham
khảo để nghiên cứu, lựa chọn, đối chiếu, so sánh trong quá trình thực hiện luận
văn.
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu và các chuyên khảo trên, chưa có tác giả
nào nghiên cứu về quá trình hình thành, phát triển phương pháp cách mạng miền
Nam của Đảng thời kỳ 1954 – 1964, với tư cách là một công trình khoa học độc
lập. Vì vậy, tác giả cho rằng việc nghiên cứu đề tài này là trách nhiệm của người
nghiên cứu và giảng dạy Lịch sử Đảng; góp phần tái hiện một thời kỳ lịch sử oanh
liệt của dân tộc nhằm bảo vệ những giá trị lý luận của Đảng trong kháng chiến
chống Mỹ, đồng thời chống lại những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận lịch sử.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích: Phân tích làm rõ quá trình hình thành, phát triển và sự chỉ đạo thực
hiện phương pháp cách mạng bạo lực của Đảng ở miền Nam, thời kỳ 1954 - 1964.
Qua đó rút ra những kinh nghiệm từ quá trình Đảng lãnh đạo thực hiện phương
pháp cách mạng bạo lực ở miền Nam làm cơ sở vận dụng vào sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, góp phần chống lại những quan điểm phản động, sai
trái bóp méo sự thật lịch sử và công lao của Đảng, Bác Hồ trong những năm đầu
của cuộc kháng chiến chống Mỹ.

Nhiệm vụ:
- Trình bày có hệ thống những chủ trương, quan điểm của Đảng phản ánh quá
trình hình thành, phát triển phương pháp cách mạng ở miền Nam, giai đoạn 1954 1964.
- Phân tích sự chỉ đạo linh hoạt, sáng tạo của Đảng trong thực hiện phương pháp
cách mạng miền Nam giai đoạn 1954 – 1964, thành tựu và hạn chế.


- Rút ra những kinh nghiệm có giá trị vận dụng trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Luận văn được tiến hành trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện, nghị quyết và những đánh giá tổng kết
của Đảng về cách mạng Việt Nam giai đoạn 1954 - 1964.
Phương pháp nghiên cứu: Tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử, kết
hợp với phương pháp lôgíc, phương pháp phân tích, thống kê, so sánh, phân kỳ
lịch sử, tuân thủ nguyên tắc tính đảng và tính khoa học trong nghiên cứu lịch sử.
5. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ những giá trị về mặt lý
luận của Đảng trong quá trình sử dụng phương pháp cách mạng bạo lực ở miền
Nam, thời kỳ 1954 – 1964. Qua đó làm cơ sở để nghiên cứu và tổ chức thực hiện
quan điểm phát huy sức mạnh tổng hợp của Đảng trong sự nghiệp củng cố quốc
phòng, an ninh bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác nghiên cứu,
giảng dạy môn học Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam ở các học viện, nhà trường
trong và ngoài quân đội.
6. Kết cấu của luận văn
Gồm phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận và danh mục tài liệu tham khảo.
Chương 1
CÁCH MẠNG MIỀN NAM TRONG ĐIỀU KIỆN MỚI VÀ QUÁ TRÌNH
HÌNH THÀNH PHƯƠNG PHÁP CÁCH MẠNG BẠO LỰC CỦA ĐẢNG TỪ
1954 ĐẾN 1960

1.1. Điều kiện mới của cách mạng miền Nam sau Hiệp định Giơnevơ
1.1.1. Cách mạng thế giới tiếp tục trong thế phát triển
Hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới đang lớn mạnh về mọi mặt. Đó là kết
quả chung của sự phát triển toàn diện về kinh tế, chính trị, quân sự và khoa học kỹ
thuật của các nước xã hội chủ nghĩa. Sản lượng công nghiệp của phe xã hội chủ
nghĩa vào thời gian này chiếm hơn 1/3 sản lượng công nghiệp thế giới. Riêng về
các ngành, thì sản lượng than đá chiếm 39%, gang chiếm 26%, thép 25% tổng sản
lượng thế giới. Về nông sản, sản lượng của phe xã hội chủ nghĩa chiếm gần 40%
về ngũ cốc và hơn 30% về bông của sản lượng thế giới. Liên Xô vào năm 1957,


sản lượng công nghiệp tăng gấp 33 lần năm 1913. Năm 1917 tổng sản lượng công
nghiệp của Liên Xô chỉ chiếm 2 đến 3%, đến năm 1957 đã chiếm 20% tổng sản
lượng công nghiệp thế giới. Liên Xô là nước đầu tiên trên thế giới xây dựng nhà
máy điện nguyên tử và nhà máy gia tốc mạnh nhất thế giới. Sự lớn mạnh nhanh
chóng về kinh tế nói trên là cơ sở vật chất để không ngừng nâng cao phúc lợi của
nhân dân lao động, phát triển khoa học kỹ thuật, kể cả khoa học kỹ thuật quân sự,
tăng cường lực lượng quốc phòng của phe xã hội chủ nghĩa. Liên Xô cũng là nước
đầu tiên có tên lửa vượt đại châu và phóng vệ tinh nhân tạo của trái đất. Sự phát
triển của phe xã hội chủ nghĩa về mọi mặt càng làm thay đổi lực lượng so sánh
giữa cách mạng và phản cách mạng trên thế giới. Ưu thế về quân sự của Liên Xô
đã ảnh hưởng mạnh đến sự phát triển của tình hình thế giới có lợi cho hoà bình,
làm cho lực lượng bảo vệ hoà bình có thêm sức mạnh. Xu hướng hoà bình, trung
lập, xu hướng không tin vào Mỹ ngày càng tăng lên, mâu thuẫn nội bộ các nước đế
quốc ngày càng sâu sắc.
Hội nghị của các Đảng Cộng sản và Đảng Công nhân họp ở Matxcơva (tháng
11 năm 1957) đã thể hiện rõ sự hợp tác anh em giữa các nước xã hội chủ nghĩa,
giữa các Đảng Cộng sản và Đảng Công nhân các nước, thể hiện sự lớn mạnh của
phong trào cộng sản quốc tế. Điều đó đã góp phần tăng cường hơn nữa các lực
lượng đấu tranh cho hoà bình, dân chủ, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Chính

sách hoà bình dân chủ và tiến bộ xã hội của các nước xã hội chủ nghĩa phù hợp
với lợi ích của nhân dân thế giới, ngày càng được nhân dân yêu chuộng hoà bình
tất cả các nước ủng hộ.
Sự tồn tại và phát triển của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới đã thức tỉnh, cổ
vũ các nước thuộc địa và phụ thuộc đứng lên chống đế quốc giành độc lập.
Phong trào giải phóng dân tộc tiếp tục phát triển mạnh mẽ. Cho đến thời gian
này đã có trên 1.300 triệu người thoát khỏi ách thực dân, 25 nước thuộc địa và nửa
thuộc địa đã giành được độc lập dân tộc. Phong trào phát triển rộng khắp cả châu
Á, châu Phi và châu Mỹ La tinh. Cuối năm 1956, nhân dân Ai Cập, được sự đồng
tình ủng hộ của nhân dân các nước Ả Rập và nhân dân thế giới, đã đánh bại cuộc
chiến tranh xâm lược của Anh, Pháp. Cuộc đấu tranh giải phóng của nhân dân


Angiêri, Ôman, Inđônêxia thu nhiều thắng lợi. Nhiều chính quyền độc tài thân Mỹ
ở châu Mỹ La tinh lần lượt bị lật đổ. Khuynh hướng chống chủ nghĩa thực dân và
hoà bình trung lập đã phát triển trong chính sách của nhiều chính phủ các nước
châu Mỹ La tinh. Các chính phủ này đã thực hiện một số biện pháp nhằm bảo vệ
tài nguyên, bảo vệ ngoại thương, xây dựng kinh tế dân tộc độc lập, gạt bỏ dân sự
khống chế nô dịch của chủ nghĩa đế quốc. Xu hướng đòi giải quyết các vấn đề
tranh chấp giữa các nước bằng phương pháp hoà bình đã có tác dụng nhất định
ngăn chặn những âm mưu gây chiến của chủ nghĩa đế quốc. Tình hình trên làm
cho mặt trận thống nhất chống chủ nghĩa thực dân, bảo vệ độc lập, chống chiến
tranh, bảo vệ hoà bình trên thế giới được hình thành và củng cố vững chắc.
Cùng với sự phát triển của phe xã hội chủ nghĩa, của phong trào giải phóng
dân tộc, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, nhân dân lao động trong nội
bộ các nước tư bản cũng phát triển mạnh.
Tuy nhiên, vào thời gian này phong trào cộng sản quốc tế và ở một số nước xã
hội chủ nghĩa đã xuất hiện xu hướng hoà bình vô nguyên tắc, muốn thương lượng
hoà bình, gây ảnh hưởng nhất định đến phong trào cách mạng thế giới.
Trước sự lớn mạnh của phong trào cách mạng thế giới, chủ nghĩa đế quốc

đứng đầu là đế quốc Mỹ, ra sức chạy đua vũ trang, chống phá cách mạng, đặc biệt
là phong trào giải phóng dân tộc, mà Việt Nam là một tiêu điểm. Những nhân tố
tích cực và khó khăn trên đây đã có tác động ảnh hưởng đến cách mạng Việt Nam
nói chung và cách mạng miền Nam nói riêng.
1.1.2. Đất nước bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị – xã hội
khác nhau
* Miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Sau ngày giải phóng, nhân dân miền Bắc dưới sự lãnh đạo của Đảng, hăng hái
ra sức phấn đấu thực hiện những nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Đó là điều kiện thuận lợi cho cách mạng cả nước nói chung và cách mạng miền
Nam nói riêng.
Đặc điểm của tình hình miền Bắc khi bước vào giai đoạn mới là từ chiến tranh
chuyển sang hoà bình, từ nông thôn chuyển vào thành thị, từ phân tán chuyển đến
tập trung. Trước đây, trong chiến tranh, mọi cố gắng phấn đấu của nhân dân ta đều


nhằm giành thắng lợi cho cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Đến nay, chúng ta
có điều kiện công tác trong hoà bình.
Tuy nhiên, miền Bắc bắt tay vào khôi phục kinh tế trong điều kiện khó khăn về
nhiều mặt của một xã hội vốn là thuộc địa nửa phong kiến, vừa trải qua cuộc chiến
tranh tàn phá nghiêm trọng và đang chuyển sang giai đoạn cách mạng mới. Nền
kinh tế chủ yếu là nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ. Do chiến tranh,
một số ruộng đất bị bỏ hoang, một số công trình thuỷ lợi bị phá huỷ. Nhiều thành
phố, thị xã bị tàn phá. Tàn dư của nền văn hoá nô dịch còn hiện hữu. Do hậu quả
của chiến tranh và thiên tai liên tiếp, nạn đói đã diễn ra liên tiếp… Đó là những
khó khăn đòi hỏi Đảng phải có chủ trương, chính sách phù hợp với tình hình mới.
* Đế quốc Mỹ thay chân thực dân Pháp tiến hành xâm lược miền Nam và xây
dựng chế độ thuộc địa kiểu mới
Từ lâu, đế quốc Mỹ đã nuôi dưỡng âm mưu xâm chiếm khu vực Đông Dương
và Đông Nam Á. Nhưng khi Việt Nam là thuộc địa của Pháp, thì đế quốc Mỹ chưa

có dịp bộc lộ tham vọng này. Tuy nhiên, Mỹ không bỏ lỡ cơ hội nào để tìm cách
xâm lược Việt Nam.
Sau khi nhân dân ta kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược,
đánh dấu bằng chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (tháng 5 năm 1954), chớp lấy cơ
hội thuận lợi này, Mỹ đã kịp thời hành động, để nhanh chóng thay chân thực dân
Pháp ở Việt Nam và Đông Dương. Điều đó thể hiện rõ ở thái độ phái đoàn Mỹ
không ký tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Giơnevơ. Mỹ dựa vào đó để ngang
nhiên không chấp nhận các điều khoản của hiệp định, xúc tiến kế hoạch xâm nhập
vào miền Nam nước ta để thay thế thực dân Pháp, xâm chiếm miền Nam bằng
chính sách thực dân mới.
Ngay sau Hội nghị Giơnevơ, ngoại trưởng Mỹ Đalét tuyên bố: "Sự thất bại ở
Việt Nam sẽ dẫn đến sự phát triển chủ nghĩa cộng sản ở Đông Nam Á và Tây Thái
Bình Dương. Điều quan trọng nhất không phải là khóc than cho quá khứ mà phải
kiếm lấy cơ hội tương lai nhằm ngăn cản không để mất miền Bắc Việt Nam, để
cuối cùng dẫn đến chỗ chủ nghĩa cộng sản có ưu thế trên toàn cõi Đông Nam Á và
Tây nam Thái Bình Dương" [36, tr.53].


Tháng 7 năm 1954, sau thời gian nuôi dưỡng và đào tạo, Mỹ đưa Ngô Đình
Diệm từ Mỹ về, lập chính phủ bù nhìn thân Mỹ đầu tiên ở miền Nam Việt Nam.
Từ đây thực sự bắt đầu cho quá trình áp đặt chủ nghĩa thực dân kiểu mới của Mỹ ở
Việt Nam.
Phái đoàn quân sự Mỹ (S.M.M) được thành lập ở Sài Gòn. Hội đồng an ninh
quốc gia Mỹ xúc tiến "Chương trình khẩn cấp" về viện trợ kinh tế và quân sự; thay
cố vấn Pháp bằng cố vấn Mỹ cho Diệm. Thực chất là gạt Pháp ra khỏi bộ máy
nguỵ quyền, thay chân thực dân Pháp ở miền Nam Việt Nam. Điều đó đã làm mất
đi một bên cam kết thực hiện Hiệp định Giơnevơ về điều khoản tổng tuyển cử sau
2 năm để thống nhất nước Việt Nam.
Cùng với những hành động trên, Mỹ còn lôi kéo một số nước đế quốc và chư
hầu thành lập khối liên minh quân sự Đông Nam Á (SEATO). Theo đó, miền Nam

Việt Nam, Lào, Căm-pu-chia được đặt trong "khu vực bảo hộ" của khối quân sự
Đông Nam Á (tháng 9 năm 1954).
Tháng 11 năm 1954, đế quốc Mỹ cử tướng Côlin đến Sài Gòn nhằm thực hiện
kế hoạch 6 điểm của chính quyền Aixenhao. Đây là kế hoạch thống trị của chủ
nghĩa thực dân kiểu mới của Mỹ, nhằm biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa
kiểu mới. Bản kế hoạch này chỉ rõ: Chỉ ủng hộ Ngô Đình Diệm và viện trợ thẳng
cho Diệm không qua tay Pháp; thành lập quân đội quốc gia Sài Gòn; lập quốc hội
Việt Nam cộng hoà; thi hành cải cách điền địa; thay đổi các thứ thuế (dọn đường
cho tư bản Mỹ vào miền Nam Việt Nam); gấp rút đào tạo cán bộ [44, tr.27]. Đây là
kế hoạch xâm lược đầu tiên của đế quốc Mỹ ở miền Nam Việt Nam được thực hiện
thống qua chính quyền và quân đội tay sai, một hình thức cai trị theo kiểu thực dân
giấu mặt, trá hình vô cùng nguy hiểm của đế quốc Mỹ.
Tháng 6 năm 1955, theo sự thoả thuận giữa Pháp và Mỹ, quân viễn chinh Pháp
rút hết khỏi miền Nam Việt Nam. Đội quân nguỵ do Pháp xây dựng được Mỹ cải
tổ thành quân đội tay sai, công cụ thực hiện chính sách xâm lược, thống trị thực
dân mới của Mỹ.
Cùng với quá trình hất cẳng Pháp ra khỏi miền Nam Việt Nam, Mỹ ráo riết tạo
dựng củng cố chế độ tay sai đủ sức chống cộng ở miền Nam.


Từ năm 1954, Mỹ đã đưa đại tá CIA, E.Lênxđên đến Việt Nam, tổ chức cưỡng
ép người di cư từ Bắc vào Nam tới 85.000 người [6, tr.110]. Phần lớn trong số
những người này là giáo dân, một số là địa chủ, tư sản. Họ được đưa đến những vị
trí chiến lược, trên những trục đường dẫn đến Sài Gòn. Đây là lực lượng được coi
là nòng cốt làm chỗ dựa cho chế độ Ngô Đình Diệm.
Ngô Đình Diệm được quan thày Mỹ ủng hộ, đã thực hành hàng loạt các cuộc
thanh trừng nội bộ, đưa người trong gia đình và thân tín nắm giữ các vị trí chủ chốt
trong chính quyền.
Tháng 10 năm 1955, Mỹ - Diệm tổ chức "trưng cầu dân ý" phế truất Bảo Đại, đưa
Ngô Đình Diệm lên làm tổng thống nguỵ quyền - chế độ tay sai của Mỹ ở miền Nam

Việt Nam. Ngô Đình Diệm thành lập "Đảng cần lao nhân vị" và "Phong trào cách mạng
quốc gia" làm cơ sở tư tưởng, chính trị cho chế độ tay sai Mỹ.
Sau khi thâu tóm được quyền lực, Ngô Đình Diệm ra dụ số 2 tước quyền sở
hữu ruộng đất của nông dân, buộc nông dân phải làm khế ước ruộng đất với địa
chủ. Với dụ số 2 này, chính quyền Ngô Đình Diệm đã tự phơi bày bản chất giai
cấp địa chủ phong kiến, tay sai, phản bội của một tập đoàn bán nước.
Tiếp theo dụ số 2, Ngô Đình Diệm ra dụ số 7, nhằm hoàn chỉnh việc cướp đất
của nông dân. Thực chất của "quốc sách cải cách điền địa" của chính quyền Ngô
Đình Diệm là xác nhận chế độ sở hữu ruộng đất của địa chủ, chiếm đoạt lại số
ruộng đất mà chính quyền cách mạng đã chia cho nông dân.
Để bảo vệ chế độ, Ngô Đình Diệm gấp rút cải tổ, xây dựng "quân đội quốc gia"
trên cơ sở đội quân bù nhìn bại trận do Pháp để lại. Đây cũng là điều mà Mỹ đang ép
Ngô Đình Diệm thực hiện để làm then chốt cho sự ổn định tình hình. Chính vì vậy,
năm 1955 Mỹ đã viện trợ quân sự cho chính quyền Sài Gòn 234,8 triệu đô la, năm
1956 là 180,0 triệu đô la [4, tr.500], nhằm xây dựng lực lượng thường trực đầu tiên
của quân nguỵ trong những năm 1955 - 1956. Ngoài ra Ngô Đình Diệm còn tổ chức
lực lượng bảo an, dân vệ đông đảo được lập lên ở các xã, ấp. Cuối năm 1955, Ngô
Đình Diệm đã hoàn thành việc tiêu diệt các lực lượng tay sai của Pháp. Quân đội từ
đây nằm trọn trong tay Ngô Đình Diệm.
Cho tới cuối năm 1955, "Mỹ đã xây dựng được một đội quân nguỵ dưới quyền
điều khiển trực tiếp của Mỹ, gồm 10 sư đoàn bộ binh và hàng chục trung đoàn độc


lập, với một bộ tổng tham mưu hoàn toàn là tay sai Mỹ. Hệ thống cố vấn Mỹ
không những được cắm ở Phủ tổng thống, ở Bộ tổng tham mưu, Nha cảnh sát, ở
các Bộ của nguỵ quyền Sài Gòn mà còn cắm sâu vào các đơn vị quân đội nguỵ,
xuống các địa phương" [45, tr.35].
Sau khi đã gạt được Pháp ra khỏi guồng máy cai trị, độc chiếm miền Nam Việt
Nam; nắm được quân đội, công an - công cụ thống trị chủ yếu, Mỹ - nguỵ hướng
mũi nhọn đàn áp về phía cách mạng. Bộ máy kìm kẹp của chúng được tổ chức đến

tận ấp, xã, phường, khóm. Mỹ - Diệm thực hiện biện pháp chiến lược "tố cộng, diệt
cộng" để đàn áp, khủng bố phong trào yêu nước, trả thù những người kháng chiến
cũ, tiêu diệt cơ sở cách mạng ở miền Nam. Với khẩu hiệu "giết nhầm còn hơn bỏ
sót", chúng coi "tố cộng, diệt cộng" là quốc sách hàng đầu. Chúng huy động mọi lực
lượng quân sự, an ninh, tình báo, thông tin tuyên truyền, chính trị, tâm lý, kinh tế...
thực hành khủng bố, đàn áp một cách toàn diện, nhằm tiêu diệt hết những người
cộng sản, tiêu diệt tổ chức và tư tưởng cộng sản. Chúng tiến hành nhiều cuộc "hành
quân càn quét" qui mô lớn và dài ngày như "chiến dịch Thoai Ngọc Hầu" từ tháng 5
năm 1956 đến tháng 2 năm 1957, tại 18 tỉnh miền Tây Nam bộ; "chiến dịch Trương
Tấn Bửu" trong 7 tháng ( từ tháng 7 năm 1956 đến tháng 2 năm 1957), ở 8 tỉnh miền
Đông Nam bộ" để triệt phá cách mạng.
Tháng 7 năm 1955, đến thời điểm theo qui định của Hiệp định Giơnevơ, hai
bên Nam - Bắc Việt Nam gặp nhau để bàn bạc các vấn đề hiệp thương tổng tuyển
cử. Ngô Đình Diệm tuyên bố chính quyền Sài Gòn không ký Hiệp nghị nên không
bị ràng buộc. Điều đó có nghĩa là không có hiệp thương tổng tuyển cử. Tháng 4
năm 1956, chính quyền Diệm chính thức tuyên bố không có tổng tuyển cử ở Việt
Nam. Từ phía tây bán cầu, Tổng thống Mỹ Aixenhao tuyên bố "cam kết" ủng hộ
chính quyền Diệm.
Mặt khác, đế quốc Mỹ hiểu rõ muốn biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa
kiểu mới của Mỹ, phải xoá bỏ phong trào cách mạng miền Nam. Trên thực tế cuộc
"chiến tranh đơn phương" bắt đầu từ năm 1954 đã trở nên vô cùng tàn bạo trong
những năm tiếp theo.
Sau một khoảng thời gian ngắn, đế quốc Mỹ đã thực hiện việc thay thế chủ
nghĩa thực dân cũ của Pháp và áp đặt chủ nghĩa thực dân mới vào miền Nam Việt


Nam. Miền Nam từ xã hội thuộc địa kiểu cũ của Pháp trở thành xã hội thuộc địa
kiểu mới của Mỹ.
Đế quốc Mỹ quyết tâm áp đặt chủ nghĩa thực dân kiểu mới ở miền Nam Việt
Nam, vì theo học thuyết Đôminô, Mỹ cho rằng nếu mất Việt Nam thì có thể mất

nhiều nơi trên thế giới, trước hết là Đông Nam Á, nơi Mỹ có nhiều lợi ích chiến
lược về chính trị, quân sự, kinh tế do đó sẽ làm đảo lộn chiến lược toàn cầu của
Mỹ. Chúng cho rằng chủ nghĩa xã hội thắng lợi ở Việt Nam sẽ tràn xuống Đông
Nam Á, vì thế cần phải tập trung lực lượng chiếm giữ miền Nam Việt Nam, đánh
bại phong trào giải phóng dân tộc và ngăn chặn sự phát triển của chủ nghĩa xã hội
ở vùng này.
Trong bài diễn văn đọc ngày 01 tháng 8 năm 1956, thượng nghị sĩ Mỹ
G.Kennơdi tuyên bố: "Việt Nam là đứa con của chúng ta, chúng ta không thể bỏ
rơi nó và không làm ngơ trước những nhu cầu của nó" [36, tr.12].
Đến đây, diễn biến của lịch sử cho thấy Việt Nam thực sự đã trở thành nơi
đụng đầu lịch sử quyết liệt giữa phong trào độc lập dân tộc và chủ nghĩa đế
quốc, giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản. Ngay từ Hội nghị lần thứ 8 của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng, tháng 8 năm 1955, Đảng đã chỉ rõ: "Quyền
thống trị ở miền Nam Việt Nam hiện nay căn bản là quyền thống trị của đế quốc
Mỹ và của phái thân Mỹ" [18, tr.571]. Hội nghị lần thứ 15 (tháng 1 năm 1959),
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng chỉ rõ hơn: "Với một hệ thống "cố vấn"
chặt chẽ, dựa vào quyền lực của vũ khí, đô la và hàng "viện trợ", đế quốc Mỹ
can thiệp ngày càng sâu vào miền Nam; chúng quyết định từ đường lối, chính
sách cho đến các công việc cụ thể của chính quyền miền Nam trên các mặt
chính trị, quân sự, kinh tế, ngoại giao" [22, tr.71].
Khi áp đặt được chủ nghĩa thực dân kiểu mới, nắm quyền kiểm soát miền Nam
Việt Nam, đế quốc Mỹ tin rằng: Với bộ máy chính quyền và đội quân nguỵ độc lập
giả hiệu hơn hẳn chế độ thực dân cũ của Pháp, sẽ tạo điều kiện cho Mỹ đè bẹp cách
mạng Việt Nam, như Mỹ đã từng thắng ở một số nơi trên thế giới. Nhưng trên thực
tế, cuộc "chiến tranh một phía" do Mỹ - Diệm tiến hành ở miền Nam Việt Nam đã
không thu được kết quả như mong muốn của chúng. Ngược lại, đã gây nên sự công
phẫn cao độ trong mọi tầng lớp đồng bào Việt Nam nói chung, và ở miền Nam


Việt Nam nói riêng, làm dấy lên các phong trào đấu tranh mạnh mẽ, báo hiệu sự

thất bại không thể tránh khỏi của chủ nghĩa thực dân kiểu mới do Mỹ áp đặt thực
hiện ở miền Nam.
Do đó, để chống lại bộ máy bạo lực phản cách mạng khổng lồ do Mỹ cầm đầu, tất
yếu chúng ta phải sử dụng đến phương pháp cách mạng bạo lực Mác xít.
* Phong trào cách mạng miền Nam đặt ra yêu cầu lựa chọn phương pháp
cách mạng bạo lực.
Ngay sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, hưởng ứng lời kêu gọi của
Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, cùng với sự lãnh đạo của các đảng bộ địa phương,
khắp nơi ở miền Nam Việt Nam, nhân dân đã đấu tranh sôi nổi đòi thi hành Hiệp
nghị Giơnevơ.
Đi đầu và làm nòng cốt cho phong trào là giai cấp công nhân. Ngày 01 tháng 8
năm 1954, trên 50.000 công nhân và nhân dân Sài Gòn; 25.000 công nhân và nhân
dân Đà Nẵng; 15.000 công nhân và nhân dân Huế biểu tình hoan nghênh Hiệp nghị
Giơnevơ [39, tr.72].
Thực hiện chủ trương của Thành uỷ, ngày 01 tháng 8 năm 1954, một số đồng
chí thuộc Đảng bộ Sài Gòn - Chợ Lớn, trong đó có luật sư Nguyễn Hữu Thọ đã tổ
chức phong trào hoà bình Sài Gòn - Chợ Lớn. Đây là một hình thức mặt trận đấu
tranh đòi thi hành Hiệp nghị Giơnevơ. Thanh thế của phong trào phát triển rất
nhanh, lan ra Huế và các thành phố khác ở miền Nam. Hoảng sợ trước sự phát
triển của phong trào, chính quyền Ngô Đình Diệm bắt đầu đàn áp phong trào từ
ngày 07 tháng 11 năm 1954. Hành động khủng bố của chính quyền Diệm càng thổi
bùng phong trào đấu tranh của quần chúng. Đây là đòn tiến công đầu tiên vào
chính sách hiếu chiến phát xít của Mỹ - Diệm ngay sau khi chúng bắt tay xây dựng
chế độ thống trị theo kiểu thực dân mới.
Trong khi "phong trào hoà bình Sài Gòn - Chợ Lớn" bị đàn áp, thì phong trào
đòi hiệp thương tổng tuyển cử để thống nhất Tổ quốc lại nổi lên mạnh mẽ. Phong
trào diễn ra liên tục thống nhất toàn Nam bộ, từng miền, từng tỉnh và sâu rộng từ
Quảng Trị đến Cà Mau. Phong trào bao gồm mọi tầng lớp nhân dân, các tín đồ tôn
giáo, đồng bào dân tộc ít người, đồng bào miền Bắc bị cưỡng ép di cư vào Nam...
với nhiều hình thức đấu tranh phong phú. Phong trào này được coi như một cao



trào đấu tranh chính trị rộng lớn diễn ra suốt hai năm 1955 - 1956. Tính chung toàn
miền Nam số người tham gia các cuộc đấu tranh ở các địa phương chiếm từ 50 đến
90% dân số. Riêng đợt ngày 20 tháng 7 năm 1955, ở Nam bộ đã có trên 500.000
lượt người tham gia. Cả đợt tháng 7 năm 1955, khắp các thành thị miền Nam đã có
hàng triệu đồng bào tham gia. Các cuộc tổng bãi công ở Sài Gòn và Mỹ Tho ngày
10 tháng 7 năm 1955; ở Đà Nẵng ngày 23 tháng 8 năm 1955; ở Nha Trang ngày 28
tháng 8 năm 1955, đã làm tê liệt hoạt động của các thành phố này trong nhiều giờ.
Tại Đà Nẵng, trước sự khủng bố của địch, quần chúng đã nổi dậy đốt đồn Võ
Tánh, phá kho bạc [35, tr.74].
Cùng với các phong trào khác, thời kỳ này còn xuất hiện: "Phong trào hoà bình
Sài Gòn - Chợ Lớn", "Phong trào đòi hiệp thương tổng tuyển cử để thống nhất Tổ
quốc" diễn ra sôi nổi. Những phong trào này đã hình thành một mặt trận rộng lớn
chống Mỹ - Diệm. Nó đã giáng những đòn mạnh mẽ vào chế độ Mỹ - Diệm, nâng
cao uy thế của nhân dân, phân hoá hàng ngũ kẻ thù. Tuy vậy, ở nhiều địa phương
miền Nam, do các cuộc đấu tranh kéo dài quá lâu, lại thiếu kế hoạch đề phòng địch
khủng bố, đã để bộc lộ lực lượng, nên bị kẻ thù đàn áp làm cho phong trào gặp
nhiều khó khăn và tổn thất lớn.
Trong thời gian này, cuộc đấu tranh chống chính sách "tố cộng, diệt cộng",
chính sách được Mỹ - Diệm coi là "quốc sách" trong âm mưu tập trung toàn lực
đàn áp phong trào cách mạng miền Nam, diễn ra quyết liệt nhất, dai dẳng nhất.
Nguyên nhân bùng nổ phong trào, do Mỹ - Diệm lập bộ máy chỉ đạo từ trung
ương đến cơ sở xã, ấp. Ở trung ương có "Hội đồng chỉ đạo tố cộng", phối hợp với
Bộ Quốc phòng, Bộ Nội vụ, Tổng nha cảnh sát. Mỗi bộ, mỗi tỉnh có một "Uỷ ban
chỉ đạo tố cộng". Đội quân tình báo Mỹ do Lansdale cầm đầu, gồm hàng trăm tên,
với nhiều phương tiện hoạt động. Để phục vụ cho việc "tố cộng", Mỹ - Diệm tổ
chức tới 100 đoàn gồm 3.986 "cán bộ" chuyên nghiệp, hơn 1 vạn "cán bộ" không
chuyên nghiệp ở các cấp huyện, xã, khu phố [32, tr.262]. Như vậy, Mỹ - Diệm đã
huy động cả một bộ máy nguỵ quân, nguỵ quyền được Mỹ nuôi dưỡng và trang bị

để thực hiện "quốc sách tố cộng". Kẻ thù đã sử dụng những hình thức tra tấn các
chiến sĩ cách mạng và đồng bào ta cực kỳ tàn bạo với những nhục hình man rợ


chưa từng có, hòng đè bẹp tinh thần cách mạng của nhân dân miền Nam. Căm thù
quân cướp nước, cuộc đấu tranh "chống tố cộng", giữ gìn và củng cố cơ sở cách
mạng ngay từ đầu đã thu hút hầu khắp đồng bào tham gia. Cuộc khủng bố "tố
cộng, diệt cộng" của Mỹ - Diệm đã đặt toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân
miền Nam trước những thử thách rất lớn về lập trường và khí tiết cách mạng. Hàng
ngàn tấm gương hy sinh oanh liệt của người cộng sản đã xuất hiện. Trong thử
thách ác liệt nhất, đồng bào miền Nam vẫn đấu tranh kiên cường, bất khuất và
tuyệt đối tin tưởng vào cách mạng, vào Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Cùng các phong trào đấu tranh chính trị, trong những năm 1954 - 1957 ở miền
Nam còn xuất hiện nhiều phong trào đấu tranh không kém phần sôi nổi. Đó là
phong trào cứu đói ở Thừa Thiên, Quảng Trị sau trận lụt năm 1955, đã được đông
đảo các tầng lớp nhân dân tham gia. Trong đó có cả một số tư sản, địa chủ, nhân
viên chính quyền và binh lính tham gia.
Phong trào cứu tế nạn nhân Sài Gòn - Chợ Lớn, tháng 6 năm 1955. Các "Uỷ
ban cứu tế" hoạt động công khai, thu hút nhiều tổ chức hợp pháp trong chế độ nguỵ
tham gia. Phong trào đã lôi cuốn được hàng vạn người tham gia. Thông qua phong
trào, truyền thống đoàn kết chống kẻ thù chung của nhân dân ta càng được phát
triển.
Phong trào chống cướp đất, đuổi nhà diễn ra cũng rất quyết liệt. Trước sức đấu
tranh mạnh mẽ của nông dân, đến năm 1956 ở Vĩnh Long, Sa Đéc, Chợ Lớn, bọn
Diệm mới cướp được 1/3 ruộng đất công; ở Quảng Trị, Thừa Thiên: 40%; ở Quảng
Ngãi: 20% [40, tr.38]. Nhiều địa phương trong toàn miền, nông dân còn đấu tranh
quyết liệt chống chính quyền Ngô Đình Diệm đốt, đổi nhà để xây căn cứ quân sự.
Ngày 04 tháng 12 năm 1956, có tới gần 10 vạn nhân dân ở khu lao động Vân Đồn,
Chương Dương đấu tranh chống đuổi nhà [40, tr.81].
Như vậy, sau khi có Hiệp nghị Giơnevơ, phong trào đấu tranh chính trị ở miền

Nam đã diễn ra sôi nổi, mạnh mẽ, thu hút mọi tầng lớp nhân dân tham gia, với
nhiều hình thức đấu tranh phong phú. Từ phong trào đấu tranh hoà bình đòi thi
hành Hiệp nghị Giơnevơ, đòi quyền dân sinh dân chủ; phong trào đấu tranh đòi
hiệp thương thống nhất nước nhà; phong trào đấu tranh chống khủng bố, đán áp,
chống chính sách "tố cộng, diệt cộng" đến các phong trào khác, đều diễn ra rộng


khắp, tính chất ngày càng quyết liệt, thu hút mọi tầng lớp nhân dân tham gia. Từ
năm 1955 đến 1958, có tới 12 triệu lượt quần chúng đã tham gia đấu tranh chính trị
dưới những hình thức và mức độ khác nhau [4, tr.145].
Tuy nhiên, trong cuộc đấu tranh quyết liệt chống lại cuộc chiến tranh một phía
của kẻ thù, Đảng bộ và nhân dân miền Nam đã chịu nhiều hy sinh tổn thất.
Vào thời gian này, Nam bộ chỉ còn khoảng 5.000 đảng viên [45, tr.95]. Cuối
năm 1956 đầu năm 1957, hầu hết các tổ chức đảng ở liên khu V bị tan vỡ: 70% số
đảng uỷ viên xã, 60% huyện uỷ viên, 40% tỉnh uỷ viên và đại bộ phận đảng viên bị
bắt, bị giết hại. Các cơ sở đảng ở đồng bằng hầu như không còn. Ở Sài Gòn - Gia
Định, cơ sở đảng, cơ sở cách mạng cũng bị tan vỡ nặng trước sự khủng bố của địch.
Cuối năm 1956 toàn thành phố có 85 chi bộ đảng với 750 đảng viên. Nhưng đến cuối
năm 1959, chỉ còn 1 chi bộ, nhiều nơi còn đảng viên nhưng không còn chi bộ [39,
tr.87]. Trước khi bùng nổ Đồng Khởi, Đảng bộ tỉnh Bến Tre chỉ còn 162 đảng viên,
Đảng bộ tỉnh Tiền Giang còn 92 đảng viên.
Tháng 3 năm 1959, Ngô Đình Diệm tuyên bố "đặt miền Nam trong tình trạng
chiến tranh".
Ngày 06 tháng 5 năm 1959, Mỹ - Diệm ra đạo luật 10/59. Điều 12 của đạo luật
này cho phép toà án quân sự đặc biệt có quyền đưa thẳng bị can ra xét xử, không
cần mở cuộc thẩm cứu.
Theo con số ước tính, tính đến năm 1959 ở miền Nam có 466.000 người bị bắt,
400.000 người bị tù đày, 68.000 người bị giết hại. Theo số liệu của địch, trong
vòng 10 tháng (tháng 7 năm 1955 đến tháng 5 năm 1956) chúng đã bắt, giết
108.835 người [45, tr.98].

Trước những hành động khủng bố ngày càng tàn bạo, dã mãn của kẻ thù, khắp
nơi quần chúng nhân dân phẫn uất, căm hờn Mỹ - Diệm đòi tiếp tục nổi dậy như
năm 1953 - 1954, và yêu cầu cán bộ báo cáo khẩn cấp tình hình lên Trung ương
Đảng và Hồ Chí Minh, khẩn thiết xin Đảng xuống lệnh thay đổi hình thức, phương
pháp đấu tranh ở mức độ cao hơn. Yêu cầu của cán bộ, đảng viên và quần chúng
được vũ trang chống khủng bố ngày càng trở nên bức bách. Nhiều nơi quần chúng
tìm móc vũ khí chôn giấu từ năm 1954, cướp súng địch, rèn mã tấu bí mật thủ tiêu
những tên địa chủ, cảnh sát, chỉ điểm ác ôn nguy hiểm nhất.


Cuối năm 1955, hầu hết các cơ quan lãnh đạo khu và tỉnh ở miền Nam đều tổ
chức các đơn vị bảo vệ. Ở những vùng căn cứ kháng chiến cũ, một số cán bộ, bộ
đội tự tổ chức nhau lại, vừa sản xuất tự túc vừa chống địch.
Việc xây dựng các khu căn cứ cũng được đặt ra. Các địa bàn đứng chân của
các cơ quan lãnh đạo, vấn đề xây dựng cơ sở, giáo dục chính trị cho quần chúng
được xúc tiến mạnh mẽ. Các căn cứ địa của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
được hình thành, phần lớn ở các vùng căn cứ thời kỳ kháng chiến chống Pháp như:
Chiến khu Đ, chiến khu Đồng Tháp, căn cứ U minh, phía tây các tỉnh miền Trung
và Tây Nguyên được xây dựng khẩn trương.
Từ thực tế trên cho thấy: khả năng duy trì đấu tranh thực hiện những điều
khoản chính trị của Hiệp định Giơnevơ không còn phù hợp nữa; chúng ta không
thể chỉ sử dụng đấu tranh chính trị đơn thuần, trong khi kẻ thù Mỹ - Diệm ngay từ
đầu đã dùng cả một bộ máy bạo lực phản cách mạng khổng lồ, dùng "chiến tranh
đơn phương" để đánh phá phong trào cách mạng một cách dã man và tàn bạo. Tình
hình đó đòi hỏi Đảng ta phải sáng tạo ra phương pháp và hình thức đấu tranh thích
hợp nhằm đáp ứng nguyện vọng quần chúng, đẩy mạnh phong trào cách mạng phát
triển đi lên, đánh bại âm mưu thâm độc và dã man của Mỹ - Diệm.
1.2. Sự hình thành phương pháp cách mạng bạo lực của Đảng ở miền
Nam trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược
1.2.1. Chủ trương của Đảng duy trì đấu tranh chính trị kết hợp "vũ trang tự

vệ" nhằm giữ gìn lực lượng, từng bước hình thành phương pháp cách mạng
bạo lực ở miền Nam
Sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, việc duy trì hình thức đấu tranh chính
trị ở miền Nam đã đưa lại những thắng lợi quan trọng cho cách mạng. Nhưng loại
hình đấu tranh chính trị đã tỏ ra không đủ mạnh để đối phó có hiệu quả với địch và
tạo chuyển biến cơ bản tình hình miền Nam trước sự phản kích điên cuồng và tàn
bạo của kẻ thù.
Trước tình hình đó, tháng 6 năm 1956, Bộ Chính trị đã họp nhận định tình
hình, đề ra nhiệm vụ, phương châm của cách mạng và phương hướng củng cố
Đảng ở miền Nam. Về nhận định tình hình, Bộ Chính trị chỉ ra: "Chế độ miền
Nam là chế độ độc tài, phát xít của tư sản mại bản và phong kiến thân Mỹ phản


động nhất đội lốt dân chủ" [19, tr.220]. "Tính chất của cuộc vận động cách
mạng ở miền Nam là dân tộc dân chủ, nhiệm vụ của cách mạng là phản đế và
phản phong" [19, tr.224]. Trên cơ sở đó, Bộ Chính trị xác định: "Hình thức đấu
tranh của ta trong toàn quốc hiện nay là đấu tranh chính trị, không phải là đấu
tranh vũ trang, nói như thế không có nghĩa là tuyệt đối không dùng vũ trang tự
vệ trong những hoàn cảnh nhất định hoặc không tận dụng những lực lượng vũ
trang của các giáo phái chống Diệm mà chúng ta duy trì và phát triển được. Cần
củng cố lực lượng vũ trang và bán vũ trang hiện có và xây dựng căn cứ địa làm
chỗ dựa, đồng thời xây dựng cơ sở quần chúng vững mạnh làm điều kiện căn
bản để duy trì và phát triển lực lượng vũ trang. Tổ chức tự vệ trong quần chúng
nhằm bảo vệ các cuộc đấu tranh của quần chúng và giải thoát cán bộ khi cần
thiết" [19, tr.225].
Như vậy, Nghị quyết Bộ Chính trị sớm hình thành tư tưởng sử dụng phương
pháp cách mạng bạo lực bằng việc kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ
trang.
Cụ thể thêm một bước, ngày 18 tháng 8 năm 1956, Bộ Chính trị có thư gửi Xứ
uỷ Nam bộ nêu rõ một số công tác cụ thể ở miền Nam: "Trong tình hình hiện nay,

cần tổ chức ra những đội tự vệ ở các thôn xã, nhà máy, đường phố, trường học.
Nhiệm vụ của những đội tự vệ này là giữ gìn trật tự và bảo vệ các cuộc đấu tranh
của quần chúng, thông tin báo hiệu, canh gác các cuộc hội nghị của cán bộ và giải
thoát cán bộ khi cần thiết... Các đội viên phải là thanh niên lao động hoặc đảng
viên, tổ chức thành từng tổ và đội, có đội trưởng đội phó" [19, tr.372].
Cũng trong tháng 8 năm 1956, đồng chí Lê Duẩn đã viết bản "Đề cương cách
mạng miền Nam". Sau khi chỉ ra tính chất xã hội miền Nam, nhiệm vụ cách mạng
miền Nam... đồng chí Lê Duẩn đã vạch ra con đường cách mạng miền Nam là dựa
vào sức mạnh của quần chúng để đánh đổ chế độ thống trị của kẻ thù, xây dựng
chế độ mới do nhân dân làm chủ để thực hiện mục tiêu cách mạng. Bản đề cương
khẳng định: Nhân dân miền Nam chỉ có một con đường cứu nước và tự cứu lấy
mình là con đường cách mạng không còn một con đường nào khác.
Bản "Đề cương cách mạng miền Nam" do đồng chí Lê Duẩn viết có giá trị lớn,
chỉ đạo cách mạng miền Nam phát triển. Song vẫn chưa đề ra được những biện


pháp cụ thể, thích đáng, để đối phó có hiệu quả với địch, giảm bớt tổn thất của
quần chúng.
Quán triệt Nghị quyết Bộ Chính trị, xứ uỷ Nam bộ họp mở rộng (tháng 12 năm
1956), đồng chí Lê Duẩn và đồng chí Nguyễn Văn Linh chủ trì hội nghị. Hội nghị
thông qua Nghị quyết về tổ chức và phương thức hoạt động của lực lượng vũ trang
tự vệ do đồng chí Nguyễn Minh Đường, Bí thư Liên tỉnh uỷ miền Trung Nam bộ
soạn thảo. Nghị quyết xác định nhiệm vụ của Đảng bộ là lãnh đạo hoạt động vũ
trang tuyên truyền, chứ chưa phải là phát động chiến tranh du kích: "Đội vũ trang
tuyên truyền là đội vũ trang công tác. Cán bộ, đội viên tuyên truyền vạch mặt địch,
phát động căm thù, xây dựng cơ sở cách mạng trong quần chúng, khống chế ác ôn
và tình báo địch, tranh thủ sự đồng tình của nguỵ quân, nguỵ quyền. Về tổ chức
mới ở qui mô tiểu đội, trung đội, nhưng mọi hoạt động nên phân tán theo từng tổ,
từng tiểu đội. Trang bị gọn nhẹ. Chú trọng giáo dục nâng cao hiểu biết về Đảng và
một số kỹ thuật quân sự" [44, tr.64].

Cuối năm 1957, Hội nghị Khu uỷ Liên khu V cụ thể hoá thêm một bước về
phương pháp đấu tranh và đề ra phương hướng: Vừa đẩy mạnh đấu tranh chính trị,
vừa phải chuẩn bị cho khả năng chiến tranh, trước mắt cần nắm chắc ba biện pháp
cần thiết: vũ trang tự vê, diệt ác, trừ gian và xây dựng căn cứ.
Sau khi có chủ trương của Đảng về duy trì đấu tranh chính trị có vũ trang tự vệ
hỗ trợ, các địa phương ở miền Nam đã đẩy mạnh xây dựng và phát triển các tổ
chức vũ trang. Các đội tự vệ có nhiệm vụ bảo vệ cơ quan tỉnh uỷ, huyện uỷ và các
tiểu đội, trung đội vũ trang bí mật được tổ chức ở nhiều tỉnh. Trước yêu cầu đòi
hỏi của phong trào cách mạng và yêu cầu bảo vệ cơ sở cách mạng, một số tỉnh
uỷ, huyện uỷ đã chỉ đạo tổ chức đội hành động diệt trừ những tên tề, điệp nguy
hiểm. Tiêu biểu ở một số địa phương như: Rạch Giá, Cà Mau, Kiến Tường, Bến
Tre... Những vụ diệt tề, điệp, cảnh sát ác ôn đã cổ vũ tinh thần quần chúng, phân
hoá hàng ngũ kẻ thù và hạn chế sự khủng bố của địch.
Miền Đông Nam bộ, Xứ uỷ tập trung các đội, các nhóm vũ trang và điều động
thêm hai đại đội, hai trung đội từ miền Tây và Trung Nam bộ lên thành lập sáu đại
đội vũ trang (59, 60, 70, 80, 200, 300) [44, tr.66].


Tháng 10 năm 1957, tại chiến khu Đ, một căn cứ chủ yếu của cách mạng, đại
đội 250 được thành lập, đến năm 1958 đơn vị đã phát triển thành tiểu đoàn. Ngay
sau khi thành lập, đơn vị đã lập nhiều thành tích chiến đấu, bảo vệ căn cứ và mở
rộng phong trào ở miền Đông Nam bộ. "Đến năm 1957, ở Nam bộ đã có 37 đại đội
vũ trang cách mạng" [44, tr.97].
Nhiệm vụ của các đơn vị là vũ trang tuyên truyền diệt ác ôn, vận động tổ chức
quần chúng củng cố phát triển lực lượng, bảo vệ căn cứ và cơ quan lãnh đạo của
Đảng. Các đơn vị này còn giành thời gian học chính trị, quân sự. Các tài liệu
học tập chính trị là "Đề cương cách mạng miền Nam", Nghị quyết Xứ uỷ Nam
bộ. Về quân sự, học tập kinh nghiệm chiến đấu của bộ đội ta trong kháng chiến
chống Pháp, tập kỹ thuật bắn súng và chiến thuật tập kích, phục kích.
Về bảo đảm sinh hoạt, các đơn vị dựa vào nhân dân địa phương và tự tăng gia

sản xuất để duy trì hoạt động. Ở miền Đông Nam bộ, từng đơn vị lập ra các khu
sản xuất, xây dựng thành căn cứ và mở đường lên Bình Long, Phước Long nối với
Nam Tây Nguyên. Để giải quyết khó khăn về lương thực, vũ khí và gây ảnh hưởng
trong quần chúng, một số đơn vị đã tổ chức những trận phục kích nhỏ vào xe chở
lương thực, vũ khí, đạn dược, tiền bạc của địch thu chiến lợi phẩm như: Trận Minh
Thạnh (Thủ Dầu Một), ngày 10 tháng 8 năm 1957, trận Trại Be (Biên Hoà) ngày 10
tháng 9 năm 1957; trận Dầu Tiếng (Thủ Dầu Một) ngày 10 tháng 10 năm 1958, gây
cho địch nhiều tổn thất nặng nề.
Nhằm đối phó với các cuộc hành quân càn quét của địch, liên tỉnh uỷ miền
Trung Nam bộ đã kịp thời rút các cơ quan lãnh đạo vào sâu trong căn cứ Đồng
Tháp Mười, chỉ thị cho các đơn vị vũ trang tránh các mũi tiến công của địch bảo
tồn lực lượng; đồng thời phân tán một bộ phận vào các ấp, xã hỗ trợ quần chúng
chống địch khủng bố.
Đầu năm 1958, đồng chí Lê Duẩn, Uỷ viên Bộ Chính trị gặp một số đồng chí
lãnh đạo của Liên khu V. Đồng chí Lê Duẩn chỉ ra: "Liên k hu V có ba vùng: đô
thị, đồng bằng và Tây Nguyên. Tây Nguyên là vùng có ý nghĩa và giá trị lớn về
chính trị, quân sự. Tây Nguyên vững là đồng bằng Liên khu V vững. Trên cơ sở
thực lực chính trị, phải nhanh chóng tổ chức lực lượng vũ trang với qui mô tiểu
đội, cao nhất là trung đội hoạt động độc lập nhằm giữ buôn rẫy. Khi tình hình cho


phép, phát triển thành phong trào du kích kết hợp với lối đánh đặc công một cách
linh hoạt. Phải khẩn trương xây dựng những khu vực tương đối an toàn làm căn cứ
địa cho phong trào. Đồng thời phải đưa phong trào đấu tranh chính trị ở đồng bằng
và thành thị lên" [44, tr.69].
Mùa hè năm 1958, Liên khu uỷ Liên khu V họp dưới sự chủ trì của đồng chí
Trần Lương, Bí thư Liên khu uỷ. Liên khu uỷ đã quyết định: "Đẩy mạnh xây dựng
căn cứ Tây Nguyên và miền Tây các tỉnh Trung Bộ; bước đầu xây dựng lực lượng
nửa vũ trang, thành lập một số trung đội tập trung và tổ chức tự vệ ở các buôn, xã
bảo vệ các cuộc đấu tranh của quần chúng, giải thoát cán bộ bị địch bắt, diệt những

tên ác ôn, phục hồi và mở rộng cơ sở chính trị" [46]. Rõ ràng đây là chủ trương
đúng đắn, kịp thời, có ý nghĩa quyết định đối với việc khôi phục và phát triển lực
lượng vũ trang ở Liên khu V.
Vào các năm 1957 - 1958, từ lực lượng chính trị và đấu tranh chính trị ở miền
Nam đã xuất hiện ngày càng nhiều các đội tự vệ chiến đấu. "Tính đến năm 1959,
lực lượng tự vệ ở miền Nam đã có 139 trung đội ở Nam bộ, 34 trung đội ở miền
núi Liên khu V, hàng trăm tổ, đội tự vệ mật" [44, tr.70]. Đồng thời, các lực lượng
vũ trang đó đã phát huy hiệu quả to lớn làm chỗ dựa vững chắc cho phong trào đấu
tranh chính trị của quần chúng.
Như vậy, từ năm 1954 - 1958, tình hình cách mạng miền Nam gặp muôn vàn
khó khăn do phải đương đầu với kẻ thù mới là đế quốc Mỹ vô cùng tàn bạo, dã
man. Nhưng từ trong khó khăn gian khổ, Đảng bộ và nhân dân miền Nam đã anh
dũng đứng lên chống trọi ngoan cường với kẻ thù, qua chiến đấu quần chúng cách
mạng đã sáng tạo ra nhiều hình thức, biện pháp đấu tranh phong phú, hiệu quả.
Qua đó đã giúp cho Đảng từng bước hình thành phương pháp cách mạng thích
hợp. Chủ trương nhất quán của Đảng thời kỳ này là phát động quần chúng đấu
tranh đòi Mỹ - Diệm thi hành Hiệp định Giơnevơ, tiến tới hiệp thương tổng tuyển
cử thống nhất đất nước. Khi kẻ thù lật lọng, tráo trở ngang nhiên trà đạp lên các
điều khoản Hiệp định Giơnevơ, tăng cường chống phá cách mạng điên cuồng thì
các tổ chức đảng ở từng địa phương đã chủ động chuyển đổi hình thức đấu tranh
mới, bằng việc xây dựng các đội du kích và phát triển đấu tranh vũ trang từ thấp


lên cao, hỗ trợ cho đấu tranh chính trị của quần chúng. Trên cơ sở đó đã làm hạn
chế tổn thất và giữ gìn được lực lượng cách mạng ở miền Nam.
Tuy nhiên, bên cạnh đó chúng ta còn mắc phải một số khuyết điểm như: Đảng
chậm chỉ đạo chiến lược, chưa xác định rõ ràng hình thức, bước đi của bạo lực
cách mạng. Kéo dài hình thức đấu tranh đòi Mỹ - Diệm thi hành Hiệp định
Giơnevơ khi không còn phù hợp. Chưa có phương án và phương thức tổ chức đấu
tranh hiệu quả khi kẻ thù thay đổi thủ đoạn đàn áp phong trào cách mạng.

Nguyên nhân của những khuyết điểm, hạn chế trên: Do Đảng chưa theo kịp
tình hình cách mạng miền Nam, chưa thấy hết âm mưu thủ đoạn xâm lược của Mỹ
- Diệm, chậm tổng kết rút kinh nghiệm để kịp thời bổ sung vào đường lối và
phương pháp tiến hành cách mạng. Mặt khác, do kẻ thù đột ngột thay đổi hình
thức, biện pháp thống trị với âm mưu và hành động khủng bố trắng tàn bạo dã
man, làm cho chúng ta chưa có biện pháp đối phó kịp thời. Bên cạnh đó, còn xuất
hiện một số quan điểm lệch lạc trong phong trào cộng sản quốc tế về vấn đề miền
Nam Việt Nam, làm ảnh hưởng nhất định đến nhận thức và quyết tâm của chúng
ta.
Nhưng điều quan trọng hơn cả là, từ những thành công và hạn chế, khuyết
điểm đã giúp cho Đảng ngày càng nhận rõ bản chất phản động, âm mưu nham
hiểm của kẻ thù, thấu hiểu tâm tư nguyện vọng của nhân dân miền Nam mong
muốn được vũ trang chống khủng bố. Qua đó Đảng ta đã kịp thời rút kinh nghiệm,
từng bước bổ sung, phát triển đường lối và phương pháp cách mạng nhằm đưa
cách mạng miền Nam phát triển mạnh mẽ trong giai đoạn tiếp theo.
1.2.2. Sự hình thành phương pháp cách mạng bạo lực của Đảng góp phần
quyết định đưa cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến
công, tiến hành khởi nghĩa từng phần
Ở miền Nam, từ cuối năm 1958 thời kỳ "ổn định" tạm thời của chế độ Mỹ Diệm đã chấm dứt, thời kỳ bão táp cách mạng bắt đầu. Làn sóng quật khởi của
quần chúng nhân dân đang dâng lên. Trước sự phát triển của cách mạng miền
Nam, khiến cho Mỹ - Diệm ngày càng điên cuồng khủng bố, đàn áp phong trào
cách mạng. Mỹ - Diệm thực sự vứt bỏ chiếc mặt nạ "thực thi dân chủ" mà chúng


rêu rao từ mấy năm trước, thẳng tay dùng chính sách phát - xít, khủng bố trắng
hòng ngăn chặn phong trào cách mạng.
Trại giam Phú Lợi cách Sài Gòn hơn 30 km về phía Bắc, ngày 01 tháng 12
năm 1958, kẻ thù đã đầu độc 6.000 chiến sĩ và đồng bào yêu nước. Có hơn 1.000
người bị trúng độc ngay, hơn 4.000 người bị trúng độc nặng. Vụ thảm sát tàn bạo
vô lương tâm đó của bè lũ Mỹ - Diệm đã làm dấy lên phong trào đấu tranh mạnh

mẽ dâng lên khắp miền Nam, trong cả nước và một số nước trên thế giới.
Dã man hơn, tháng 4 năm 1959, Mỹ - Diệm thúc ép "quốc hội" Sài Gòn thông
qua đạo luật số 91. Tháng 5 năm 1959 đạo luật này được ban hành lấy tên là luật
10/59 về sự thành lập các toà án quân sự đặc biệt. Theo đó luật này qui định chỉ có
hai mức hình phạt: tử hình và khổ sai chung thân.
Thực hiện luật 10/59, Mỹ - Diệm lê máy chém khắp các vùng nông thôn và
thành thị miền Nam, tàn sát đồng bào, giết hại những người yêu nước với những
hình thức man rợ thời trung cổ. Ngày 14 tháng 5 năm 1959, Đại tướng Võ Nguyên
Giáp gửi điện phản đối tới Chủ tịch Uỷ ban Quốc tế giám sát về kiểm soát ở
Việt Nam. Bức điện vạch rõ: "Chế độ pháp lý của đạo luật 10/59 là một chế độ vô
cùng tàn bạo chưa từng có và chưa áp dụng trong bất cứ một nước nào ngay cả dưới
chế độ dã man của Hítle trong thời kỳ chiến tranh" [39, tr.115].
Cùng với luật 10/59, kẻ thù tăng cường những cuộc hành quân càn quét khủng
bố, đàn áp phá hoại cách mạng một cách khốc liệt với phạm vi rộng lớn hơn những
năm 1957, 1958.
Đầu năm 1959, Ngô Đình Diệm tuyên bố miền Nam Việt Nam đang nằm trong
tình trạng chiến tranh. Tháng 4 năm 1959, Diệm lại tuyên bố: đặt miền Nam trong
tình trạng khẩn cấp; "Đừng nhẹ tay với cộng sản, không nên xem cộng sản là
người, phải bắn cộng sản không run tay súng" [39, tr.115].
Trong năm 1959, có hơn 20 tiểu đoàn địch luân phiên nhau càn quét nhiều lần
chiến khu Đ, chiến khu Dương Minh Châu, vùng Cà Mau, Trà Vinh, Rạch Giá. Ở
Cà Mau, trong hai tháng 3 và 4 (năm 1959), 2000 quân chủ lực nguỵ cùng quân địa
phương hành quân càn quét vùng Sông Đốc, Cái Nước, Đầm Rơi, Năm Căn.
Mỹ - Diệm còn tăng cường kiện toàn bộ máy đàn áp của chúng từ trung ương
xuống cơ sở; gấp rút xây dựng lực lượng vũ trang; thành lập những trại tập trung
trá hình: "Khu trù mật", "Làng kiểu mẫu", "Trại người Thượng"... Như vậy, khi


phải thống trị nhân dân ta bằng khủng bố trắng vô cùng tàn bạo dã man, qua đó
chứng tỏ chính quyền Mỹ - Diệm không thể cai trị như cũ được nữa. Đồng thời đã

đến lúc nhân dân miền Nam không thể chịu đựng mãi ách thống trị phát xít. Sự
chín muồi của tình thế cách mạng cho khởi nghĩa từng phần bắt đầu.
Cách mạng miền Nam sau hơn bốn năm trải qua thực tiễn đấu tranh, đồng
bào ta đã có nhiều kinh nghiệm trong việc vận dụng phương châm và các hình
thức đấu tranh của bạo lực cách mạng. Qua thực tế đấu tranh chính trị, chống
khủng bố, "tố cộng, diệt cộng", lực lượng cách mạng được giữ gìn và có chiều
hướng phát triển. Đã xuất hiện hình thức đấu tranh vũ trang tự vệ diệt ác, trừ
gian, hỗ trợ cho đấu tranh chính trị đạt hiệu quả cao. Những kinh nghiệm và kết
quả bước đầu từ thực tiễn cách mạng ở miền Nam sau hơn bốn năm đấu tranh
kiên cường (1954 - 1958), đã giúp cho Đảng tiếp tục bổ sung, phát triển đường
lối và phương pháp cách mạng giải phóng miền Nam.
Sát cánh cùng đồng bào miền Nam chống Mỹ, nhân dân miền Bắc đã giành
được những thắng lợi to lớn trong công cuộc khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ
nghĩa, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội. Những thành tựu bước đầu của cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc ngày càng phát huy tác dụng đối với cuộc đấu
tranh của nhân dân miền Nam.
Cách mạng miền Nam thời gian này đang thu hút sự chú ý của nhân dân thế
giới, của lương tri nhân loại. Bởi cuộc đấu tranh chống Mỹ và bè lũ tay sai ở Việt
Nam là một bộ phận của phong trào độc lập và bảo vệ hoà bình của nhân dân Á Phi và thế giới. Vì thế, sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước của chúng ta
sớm nhận được sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân thế giới. Ngày 20 tháng 7 năm
1959 là "ngày Việt Nam" đầu tiên được nhân dân trên 20 nước tổ chức trọng thể,
đòi Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam, đòi huỷ bỏ căn cứ quân sự của chúng ở
miền Nam, đòi chính quyền miền Nam phải chấm dứt ngay mọi hành vi hãm hại
nhân dân, phải huỷ bỏ ngay tất cả các luật phát - xít...
Để đáp ứng yêu cầu cách mạng Việt Nam, đặc biệt trước khí thế vùng dậy của
đồng bào miền Nam, tháng 01 năm 1959, Hội nghị lần thứ 15 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (khoá II) đã họp tại Thủ đô Hà Nội, do Chủ tịch Hồ Chí Minh


chủ trì. Hội nghị Trung ương 15 đã ra một nghị quyết quan trọng có ý nghĩa to lớn

đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam.
Nghị quyết đã đề cập đến đặc điểm tình hình Việt Nam, chỉ ra mâu thuẫn cơ
bản mà cách mạng Việt Nam phải giải quyết; xác định nhiệm vụ cách mạng ở hai
miền Nam, Bắc và mối quan hệ giữa cách mạng hai miền...
Về đường lối cách mạng ở miền Nam, Nghị quyết chỉ ra: miền Nam đã trở
thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của đế quốc Mỹ. Chính quyền Ngô
Đình Diệm là đại biểu cho lợi ích của Mỹ, của bọn phong kiến, bọn tư sản mại bản
thân Mỹ phản động nhất ở miền Nam. Trong xã hội thuộc địa nửa phong kiến ở
miền Nam có hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa nhân dân miền Nam và bọn
đế quốc xâm lược; mâu thuẫn giữa nhân dân miền Nam, trước hết là nông dân với
gai cấp địa chủ phong kiến. Nghị quyết cũng chỉ rõ lực lượng và động lực của cách
mạng Việt Nam là giai cấp công nhân, nông dân và các tầng lớp tiến bộ.
Trên cơ sở xác định tính chất xã hội miền Nam, mâu thuẫn xã hội, lực lượng
và động lực của cách mạng, Nghị quyết xác định nhiệm vụ cơ bản của cách mạng
miền Nam là: "Giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong
kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, hoàn thành cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống
nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh" [22, tr.81]. Nhiệm vụ trước mắt của cách
mạng miền Nam là: "Đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ
xâm lược và gây chiến, đánh đổ tập đoàn thống trị độc tài Ngô Đình Diệm, tay sai
của đế quốc Mỹ, thành lập một chính phủ liên hiệp dân tộc dân chủ ở miền Nam,
thực hiện độc lập dân tộc và các quyền tự do dân chủ, cải thiện đời sống nhân dân,
giữ vững hoà bình, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ,
tích cực góp phần bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và thế giới" [22, tr.82].
Về phương pháp cách mạng, Nghị quyết 15 của Ban Chấp hành Trung ương
chỉ rõ: "Con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi
nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Theo tình hình cụ thể và yêu cầu hiện
nay của cách mạng thì con đường đó là lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực
lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh



đổ quyền thống trị của đế quốc và phong kiến, dựng nên chính quyền cách mạng
của nhân dân" [22, tr.82].
Nghị quyết 15 của Ban Chấp hành Trung ương còn dự kiến: đế quốc Mỹ là tên
đế quốc hiếu chiến nhất, cho nên trong bất kỳ tình huống nào, cuộc khởi nghĩa của
nhân dân miền Nam cũng có khả năng chuyển thành cuộc đấu tranh vũ trang
trường kỳ và thắng lợi cuối cùng nhất định về ta.
Như vậy, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 của Trung ương Đảng đã khẳng định:
Phương pháp cách mạng và phương thức đấu tranh là dùng bạo lực cách mạng, từ
đấu tranh chính trị tiến lên kết hợp đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang. Sự ra
đời Nghị quyết 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đánh dấu sự hình thành
căn bản phương pháp cách mạng bạo lực của Đảng đối với cách mạng miền Nam.
Nó đã đáp ứng yêu cầu thực tiễn cách mạng; nguyện vọng của quần chúng, làm
dấy lên phong trào "đồng khởi" trên toàn miền Nam (1960), góp phần quyết định
đưa cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công. Nghị quyết
đã được nhân dân miền Nam tự giác đón nhận và thực hiện, thoả lòng mong đợi từ
bấy lâu nay, bởi lẽ ý Đảng và lòng dân gặp nhau một điểm. Sự ra đời của nó đáp
ứng nguyện vọng của đồng bào miền Nam được ví như "nắng hạn gặp mưa rào",
hứa hẹn những thắng lợi liên tiếp thuộc về ta.
Thực hiện Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng và đáp ứng nhu cầu mới của
cách mạng miền Nam, Bộ Chính trị Trung ương Đảng chủ trương lập đơn vị vận
tải quân sự dọc Trường Sơn, gọi tắt là Đoàn 559, đơn vị vận tải vượt biển đông gọi
tắt là Đoàn 759. Trong hai năm 1959 - 1960, hai con đường này đã đưa vào Nam
hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ và hàng chục tấn hàng quân sự đầu tiên tiếp sức cho
phong trào cách mạng miền Nam [45, tr.105].
Tiếp tục triển khai thực hiện Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng, ngày 07
tháng 5 năm 1959, Ban Bí thư Trung ương Đảng chỉ thị cho Xứ uỷ Nam bộ: "Cần
sử dụng một cách linh hoạt hoạt động vũ trang tuyên truyền để hỗ trợ cho đấu
tranh chính trị; trong những trường hợp cần thiết, để phục vụ cho phong trào đấu
tranh chính trị, lực lượng vũ trang tuyên truyền có thể tiêu diệt bộ phận gian ác

nhất" [43, tr.158].


×