Tải bản đầy đủ (.docx) (259 trang)

Giáo trình luật người khuyết tật VN Đại học Luật Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (823.16 KB, 259 trang )

CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT VỀ LUẬT NGƯỜI KHUYẾT TẬT VIỆT NAM
1. KHÁI NIỆM NGƯỜI KHUYẾT TẬT VÀ LUẬT NGƯỜI KHUYẾT TẬT
1.1. Khái niệm người khuyết tật
1.1.1. Định nghĩa người khuyết tật
Trong thế kỉ trước, người ta đã chứng kiến cuộc cách mạng lớn về vấn đề
người khuyết tật, qua đó thay đổi cách đề cập, nhìn nhận, tương tác và hỗ trợ đối
với họ. Từ mô hình "chăm sóc y tế" của những năm 50, trong suốt thời gian dài
vấn đề người khuyết tật được xem là vấn đề phúc lợi xã hội, theo đó quan niệm
phổ biến là người khuyết tật cần được hỗ trợ, chăm sóc và họ không thể và
không đủ khả năng chăm lo cho cuộc sống của mình. Nói cách khác, người
khuyết tật bị coi là các đối tượng của phúc lợi xã hội mà không phải là chủ thể
có quyền như công dân bình thường. Những văn bản pháp luật quốc tế liên quan
đến quyền con người được các nước phê chuẩn từ những năm 1940 đến năm
1960 (ví dụ: Tuyên ngôn toàn thế giới của Liên hợp quốc về quyền con người
năm 1948,
Công ước của Liên hợp quốc về quyền kinh tế, văn hoá, xã hội năm 1966 và
Công ước của Liên hợp quốc về quyền dân sự và chính trị năm 1966...) đều
không đề cập trực tiếp đến người khuyết tật1. Đến năm 1970, xuất phát từ Hoa
Kỳ - bằng nhiều hình thức khác nhau, người khuyết tật và các hiệp hội của họ đã
minh chứng rằng họ hoàn toàn có khả năng, có quyền được sống và lao động
như những người bình thường. Sự nỗ lực bền bỉ của họ cùng với sự thay đổi về
nhận thức trong xã hội đã dẫn đến những biến đổi mạnh mẽ về chính sách và
pháp luật của Hoa Kỳ về người khuyết tật. Đến những năm 1980, những quan
niệm nhân quyền tiến bộ của Hoa Kỳ về người khuyết tật được phổ biến ở nhiều
nước như Thụy Điển, Nhật Bản, Brazil... và gần đây là Hàn Quốc, Thái Lan...
1 Tài liệu hướng dẫn: Hướng tới cơ hội việc làm bình đẳng cho người khuyết tật thông qua hệ thống pháp luật,
Tổ chức lao động quốc tế (ILO), năm 2006, tr. 7


Tư tưởng cốt lõi của nhận thức mới này là các vấn đề về người khuyết tật được


xem xét dưới góc độ quyền con người, dựa trên quan điểm tất cả mọi người đều
có quyền được sống cuộc sống đầy đủ và có phẩm giá đã được ghi nhận trong
Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948 2. Tuy nhiên, quá trình
chuyển nhận thức về người khuyết tật như vấn đề phúc lợi xã hội sang nhận
thức coi vấn đề khuyết tật là vấn đề bình thường trong xã hội và coi trọng khả
năng, năng lực của người khuyết tật đã diễn ra trong khoảng thời gian tương đối
dài và không phải đã hết sự khác biệt.
Lịch sử phát triển của vấn đề này cho thấy đã có các quan điểm khác nhau về
khái niệm người khuyết tật. Hiện có hai quan điểm chính: Quan điểm khuyết tật
cá nhân và quan điểm khuyết tật xã hội3.
- Quan điểm khuyết tật cá nhân (cá thể) hay quan điểm khuyết tật dưới góc
độ y tế (y học): Cho rằng khuyết tật là do hạn chế cá nhân, là ở chính con người
đó, chú trọng rất ít hoặc không để ý đến các yếu tố về môi trường xã hội và môi
trường vật thể xung quanh người khuyết tật. Quan niệm này cho rằng người
khuyết tật có thể hưởng lợi từ phương pháp khoa học như thuốc điều trị và các
công nghệ cải thiện chức năng. Mô hình y tế chú trọng vào việc trị liệu cá nhân
chứ không xem trọng việc trị liệu xã hội. Như vậy, mô hình y tế nhìn nhận người
khuyết tật là vấn đề và đưa ra giải pháp để làm người đó “bình thường”. Mô
hình y tế đưa đến việc cung cấp giáo dục đặc biệt, giao thông đặc biệt, nghề trị
liệu, vật lí trị liệu… Nó cũng có thể dẫn đến việc chọn lọc khả năng sinh tồn,
ngăn trẻ sơ sinh khuyết tật bằng cách ngăn chặn cả người mẹ khuyết tật và người
2 Điều 1 Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người tuyên bố: “Tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng về
nhân phẩm và quyền. Mọi con người đều được tạo hoá ban cho lí trí và lương tâm và cần đối xử với nhau trong
tình bằng hữu”.
3 Cũng có quan điểm tôn giáo về khuyết tật (nghiên cứu ở Hoa Kỳ). Theo quan điểm này, khuyết tật là vấn đề
đôi khi xuất phát từ sự trừng phạt nhưng đôi khi lại được coi như sự ban phước. Quan điểm tôn giáo này gần
giống với tư tưởng Phật giáo về khuyết tật của phương Đông, ví dụ: lí giải khuyết tật là sai lầm của tổ tiên, do đó
người khuyết tật bị giấu giếm vì họ xấu hổ với các gia đình khác. Tuy nhiên, trong một số trường hợp lại được
nhìn nhận là siêu phàm và được các thành viên trong gia đình đùm bọc, coi trọng quá mức (Xem: Bộ giáo dục và
đào tạo, Quản lí giáo dục hoà nhập, Nxb. Phụ nữ, H., 2010, tr. 43). Hoặc quan điểm theo mô hình từ thiện. Quan

niệm này nhìn nhận người khuyết tật như những nạn nhân của việc suy giảm chức năng, không có khả năng thực
hiện bất cứ điều gì. Họ là những nạn nhân, thụ động, bất lực. Khuyết tật là vấn đề sức khoẻ của cá nhân, họ khác
người thường, vì vậy họ cần những dịch vụ đặc biệt và những tổ chức đặc biệt giúp đỡ (Xem: Mô hình khuyết tật
và chính sách, Tài liệu dành cho tập huấn viên người khuyết tật do sự tài trợ của Tổ chức hợp tác kĩ thuật Đức
(GTZ) và Cơ quan hỗ trợ phát triển Đức, 2010, tr. 14).


mẹ bình thường sinh ra nó4. Lí giải rõ thêm cho quan điểm này, theo phân loại
của Tổ chức y tế thế giới, có ba mức độ suy giảm là: khiếm khuyết
(impairment), khuyết tật (disability) và tàn tật (handicap). Khiếm khuyết chỉ đến
sự mất mát hoặc không bình thường của cấu trúc cơ thể liên quan đến tâm lí
hoặc (và) sinh lí. Khuyết tật chỉ đến sự giảm thiểu chức năng hoạt động, là hậu
quả của sự khiếm khuyết. Còn tàn tật đề cập tình thế bất lợi hoặc thiệt thòi của
người mang khiếm khuyết do tác động của môi trường xung quanh lên tình trạng
khuyết tật của họ (WHO, 1999).
Như vậy, mô hình cá nhân (cá thể) hay y tế nhìn nhận người khuyết tật như
những người có vấn đề về thể chất và cần phải chữa trị. Điều này đã đẩy những
người khuyết tật vào thế bị động của người bệnh. Mục tiêu của hướng tiếp cận y
tế là làm cho những người khuyết tật cảm thấy trở lại trạng thái bình thường
nhưng vô hình trung lại khiến cho những người khuyết tật cảm thấy họ không
bình thường. Theo đó, vấn đề khuyết tật được cho là hạn chế ở từng cá nhân.
Khi bị khuyết tật, những người này cần phải thay đổi chứ không phải xã hội hay
môi trường xung quanh phải thay đổi5.
- Quan điểm khuyết tật theo mô hình xã hội: Vào cuối những năm 1990, mô
hình xã hội trở nên khá nổi trội trong những nghiên cứu về khuyết tật trên thế
giới, đó là khái niệm được sử dụng phổ biến nhất. Mô hình xã hội là mô hình có
cơ sở lí thuyết và có quy tắc riêng, được coi là nền tảng của những biến chuyển
của vấn đề người khuyết tật.
Trong mô hình xã hội, khuyết tật được nhìn nhận là hệ quả bị xã hội loại trừ
và phân biệt. Bởi vì xã hội được tổ chức không tốt nên những người khuyết tật

phải đối mặt với một số phân biệt đối xử như: 1)Thái độ: thể hiện sự sợ hãi, sự
thiếu hiểu biết và ít kì vọng (ảnh hưởng bởi văn hoá và tín ngưỡng); 2) Môi
trường: Dẫn đến việc không tiếp cận về vật chất, ảnh hưởng đến tất cả các mặt
của đời sống (trường học, cửa hàng, toà nhà công cộng, giao thông...); 3) Thể
4 Xem: Bộ giáo dục và đào tạo, Quản lí giáo dục hoà nhập, Nxb. Phụ nữ, H., 2010, tr. 44 - 45
5 Xem: Việt Nam – Người khuyết tật trong chiến lược giảm nghèo, được xuất bản với sự hỗ trợ của Tổ chức hợp
tác kĩ thuật Đức (GTZ) và Cơ quan hỗ trợ phát triển Đức, 2007, tr. 40.


chế: Là những phân biệt mang tính pháp lí (ví dụ như không được lập gia đình
hay có con, không được nhận vào trường học...) 6. Mô hình xã hội đưa ra cơ sở
để hiểu được những vấn đề phức tạp về khuyết tật. Nó thể hiện khuyết tật là lát
cắt ngang các vấn đề xã hội và chính sách cơ bản làm thay đổi tình trạng và
hoàn cảnh mà người khuyết tật bị hạn chế hay ngăn cản tham gia đầy đủ như
công dân bình đẳng. Mô hình xã hội về khuyết tật cho rằng nhiều người bị
khiếm khuyết ở các cách khác nhau nhưng chỉ xã hội biến họ thành khuyết tật;
con người bị khiếm khuyết nhưng xã hội bị khuyết tật. Nói cách khác, mô hình
xã hội khuyết tật coi xã hội là vấn đề, giải pháp là phải thay đổi xã hội. Chính xã
hội và chính sách cần phải cải tổ chứ không phải người khuyết tật 7. Hiểu khiếm
khuyết hay khuyết tật là riêng biệt và khác nhau trong mô hình xã hội, trong đó
khuyết tật là hạn chế và rào cản. Tuy nhiên, mô hình xã hội không phủ nhận tầm
quan trọng cũng như sự khác nhau của khiếm khuyết. Đặc biệt trước đây sự
khác biệt về khuyết tật chỉ được nhìn nhận theo cách tiêu cực, điều này dẫn đến
việc người khuyết tật bị phân biệt và loại trừ khỏi đời sống xã hội. Mô hình xã
hội giúp thừa nhận sự khác biệt theo cách tích cực hoặc trung lập và khiến người
khuyết tật được hưởng quyền công dân và quyền con người. Vì mô hình xã hội
phân biệt những rào cản khuyết tật và khiếm khuyết nên nó tạo điều kiện cho
người khuyết tật chỉ tập trung vào khả năng và những điều cần làm là loại bỏ các
yếu tố rào cản trợ giúp cho các khiếm khuyết và được đối xử như những người
khác. Mô hình xã hội giúp người khuyết tật hiểu điều gì cần thực hiện để tiếp

cận với quyền công dân và quyền con người. Điều có ý nghĩa ở đây là chính
người khuyết tật cũng phải nhận thức được đầy đủ các nghĩa vụ của mình với tư
cách là công dân trong mọi lĩnh vực đời sống, kinh tế, chính trị, xã hội mà mình
tham gia.
Nhiều nghiên cứu đã cố gắng chỉ ra những điểm khác biệt và tương đồng,
mối quan hệ giữa quan điểm y tế và quan điểm xã hội từ đó xác định vị trí và vai
6 Xem: Việt Nam – Người khuyết tật trong chiến lược giảm nghèo, Sđd, tr. 41.
7 Bộ giáo dục và đào tạo, Quản lí giáo dục hoà nhập, Nxb. Phụ nữ, H., 2010, tr. 45 – 46.


trò của từng mô hình nói trên. Trước hết, sự khác biệt chủ yếu dựa vào khởi
nguồn của vấn đề gây nên khuyết tật đã được xác định: Trong mô hình y tế là ở
cá nhân, trong mô hình xã hội là ở xã hội. Khuyết tật được nhìn nhận như là khó
khăn và khiếm khuyết của cá nhân trong mô hình y tế là sản phẩm của tổ chức
xã hội trong mô hình xã hội. Sự khác biệt thứ hai của hai mô hình là bản chất
của khuyết tật: Mô hình y tế tập trung vào khiếm khuyết và cá nhân, do vậy bản
chất của khuyết tật là sự suy giảm về mặt thể chất, cảm giác và trí tuệ. Người
khuyết tật mất khả năng bởi những điều họ không thể làm được. Mô hình xã hội
tập trung vào những rào cản mà người khuyết tật phải đối mặt, do đó, bản chất
của khuyết tật là các rào cản (như là thái độ, nạn đói nghèo, rào cản về thể chất
và môi trường, rào cản về chính trị...) ngăn cản người khuyết tật tham gia vào
các hoạt động kinh tế, văn hoá, xã hội. Sự khác biệt thứ ba giữa quan điểm y tế
và xã hội là việc sử dụng các thuật ngữ. Thuật ngữ được sử dụng trong mô hình
y tế là tiên lượng bệnh, chẩn đoán, kê đơn, tai nạn, thiếu hụt... (ví dụ: khiếm
thính, khiếm thị, khiếm khuyết, rối loạn, phục hồi chức năng, phòng ngừa và
chữa trị...). Trong khi đó, thuật ngữ được sử dụng trong mô hình xã hội là áp
bức, phân biệt, tương đồng, khác biệt, kinh nghiệm, rào cản, quyền công dân,
cấu thành xã hội... Việc sử dụng các khái niệm được hiểu như cách phản ánh
hiểu biết của mỗi mô hình. Cuối cùng, nghiên cứu về mô hình y tế đang cố gắng
tìm ra cách thức chữa trị cho người khuyết tật để họ khắc phục tốt hơn về tình

trạng sức khoẻ và giúp họ điều chỉnh bản thân để chung sống cùng những bất lợi
một cách tự lập. Ngược lại, nghiên cứu về mô hình xã hội tập trung xác định lí
do môi trường khó tiếp cận và cách thay đổi để những người khiếm khuyết thích
nghi. Thực ra, mô hình y tế về khuyết tật thật sự bao hàm khiếm khuyết và đặc
điểm của người bị khiếm khuyết chứ không nói về khuyết tật. Trong khi đó, mô
hình xã hội nói về khuyết tật. Nói cách khác, mô hình xã hội đề cập việc tìm ra
cách mà xã hội người bị khiếm khuyết không thể điều chỉnh sự khác biệt của
mình. Lúc đó ưu tiên cơ bản để nghiên cứu là kiểm nghiệm những đặc điểm của
xã hội bị hạn chế khả năng hơn là người bị khiếm khuyết. Nhiều nhà nghiên cứu


cho rằng, các quan điểm khác nhau về người khuyết tật vẫn có những ưu thế
nhất định trong tương lai nghiên cứu về khuyết tật. Trong bối cảnh toàn cầu và
đa văn hoá, tất cả các mô hình đều xuất hiện mặc dù có thể được chấp nhận khác
nhau phụ thuộc vào những bối cảnh nhất định8.
Như vậy, mỗi quan niệm nói trên có những điểm mạnh và hạn chế nhất định:
Quan điểm khuyết tật cá nhân hoặc y tế có tác dụng tốt trong một số lĩnh vực cụ
thể như y tế phục hồi chức năng và bảo đảm xã hội. Quan điểm khuyết tật theo
mô hình xã hội là công cụ quan trọng để giải quyết các nguyên nhân gốc rễ của
người khuyết tật bị tách biệt khỏi cuộc sống chung. Vấn đề về những bất lợi và
vấn đề phân biệt đối xử. Mô hình xã hội ghi nhận rằng câu trả lời cho câu hỏi
liệu ai đó có bị xếp vào danh sách người khuyết tật hay không có liên quan chặt
chẽ đến các yếu tố như văn hoá, thời gian và môi trường9.
Khái niệm người khuyết tật, cơ sở pháp lí để công nhận ai là người khuyết tật
và từ đó được bảo vệ bởi hệ thống pháp luật liên quan, phụ thuộc rất nhiều vào
mục tiêu mà luật hoặc chính sách cụ thể theo đuổi. Do vậy, không có khái niệm
chung về người khuyết tật áp dụng chung cho các nước.
Tương ứng với các quan điểm đã nói đến ở trên, có những định nghĩa khác
nhau về người khuyết tật theo quy định pháp luật của các nước10.
Như đã trình bày, định nghĩa theo quan điểm y tế thườngtập trung vào sự

khiếm khuyết về thể trạng, tinh thần, thính giác, thị giác và sức khoẻ tâm thần...
Có một số định nghĩa theo quan niệm này như sau11:
- Trung Quốc: Điều 2 Luật của nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa về bảo
vệ người khuyết tật ban hành năm 1990 quy định: “Người khuyết tật là một
trong những người bị bất thường, mất mát của một cơ quan nhất định hoặc chức
8 Bộ giáo dục và đào tạo, Quản lí giáo dục hoà nhập, Nxb. Phụ nữ, H., 2010, tr. 46 – 47.
9 Hướng tới cơ hội việc làm bình đẳng cho người khuyết tật thông qua hệ thống pháp luật, tlđd, tr. 16.
10 Việc xác định và chỉ ra định nghĩa người khuyết tật trong một văn bản cụ thể là theo quan điểm y tế hay quan
điểm xã hội theo như lí thuyết đã trình bày không phải là dễ dàng. Vì nhiều khi là sự đan xen giữa hai quan điểm
trong cùng một quy định pháp luật về vấn đề này. Do đó, sự phân biệt theo từng quan điểm được ghi nhận trong
các văn bản pháp luật được sử dụng ở đây chỉ có tính chất tương đối.
11 Hướng tới cơ hội việc làm bình đẳng cho người khuyết tật thông qua hệ thống pháp luật, tlđd, tr. 17.


năng, tâm lí hay sinh lí, hoặc trong cấu trúc giải phẫu và những người đã mất
toàn bộ hoặc một phần khả năng tham gia vào các hoạt động một cách bình
thường.
"Người khuyết tật" là những người có thính giác, thị giác, lời nói hoặc
khuyết tật về thể chất, chậm phát triển tâm thần, rối loạn tâm thần, khuyết tật
nhiều và/hoặc khuyết tật khác”.
-

Ấn Độ: Luật về người khuyết tật ban hành năm 1995 (về cơ hội bình đẳng, bảo
vệ quyền và đảm bảo cho người khuyết tật tham gia mọi hoạt động xã hội) định
nghĩa khuyết tật bao gồm những tình trạng bị mù, nghe kém, lành bệnh phong;
thị lực kém; suy giảm khả năng vận động; chậm phát triển trí óc và mắc bệnh về
tâm thần. Trong khi đó định nghĩa về người khuyết tật lại được nêu “một người
bị bất kì một khuyết tật nào không dưới 40% theo xác nhận của cơ quan y tế có
thẩm quyền”.


-

Đạo luật số 7277 với tên gọi là Đạo luật tạo nên sự phục hồi chức năng, tự phát
triển và tự tin cho người khuyết tật và hoà nhập người khuyết tật vào xã hội và
các mục đích khác, được thông qua bởi Thượng nghị viện và Hạ nghị viện của
Quốc hội Phillipines vào ngày 12 tháng 7 năm 1991 quy định:
“Người khuyết tật – là người có sự khác biệt về khả năng và hạn chế do khiếm
khuyết về giác quan, vận động, và tâm thần để thực hiện một hoạt động được
coi là bình thường”.
Cùng với khái niệm về người khuyết tật, Đạo luật số 7277 của Philipines còn
giải thích một số thuật ngữ khác có liên quan đến người khuyết tật, cụ thể như
sau:

+

Sự khiếm khuyết là sự mất, giảm hay rối loạn về chức năng, hay cấu trúc cơ thể,
tâm lí và hành vi.

+

Khuyết tật có nghĩa là 1) sự khiếm khuyết về vận động hay trí não mà có ảnh
hưởng đáng kể một hoặc nhiều chức năng vận động, tâm thần của một cá nhân
hay các hoạt động của cá nhân hoặc 2) được coi là có khiếm khuyết.
Định nghĩa người khuyết tật theo quan điểm xã hội là sự kết hợp giữa sự


khiếm khuyết và các yếu tố môi trường và tiếp cận dưới góc độ quyền của người
khuyết tật. Sau đây là một số định nghĩa người khuyết tật theo quan điểm này:
- Khoản 1 Điều 1 Công ước số 159 của ILO về phục hồi chức năng lao động
và việc làm của người khuyết tật năm 1983, quy định: “Người khuyết tật dùng

để chỉ một cá nhân mà khả năng có một việc làm phù hợp, trụ lâu dài với công
việc đó và thăng tiến với nó bị giảm sút đáng kể do hậu quả của một khiếm
khuyết về thể chất và tâm thần được thừa nhận”.
-

Điều 1 Công ước về quyền của người khuyết tật của Liên hợp quốc năm 2006,
quy định: “Người khuyết tật bao gồm những người bị suy giảm về thể chất, thần
kinh, trí tuệ hay giác quan trong một thời gian dài, có ảnh hưởng qua lại với
hàng loạt những rào cản có thể cản trở sự tham gia đầy đủ và hiệu quả của
người khuyết tật vào xã hội trên cơ sở bình đẳng với những người khác”12.

-

Ở Đức, sách số chín của Bộ luật xã hội định nghĩa: “Người khuyết tật là người
có các chức năng về thể lực, trí lực hoặc tâm lí tiến triển không bình thường so
với người có cùng độ tuổi trong thời gian trên 6 tháng và sự không bình thường
này là nguyên nhân dẫn đến việc họ bị hạn chế tham gia vào cuộc sống xã
hội”13.

-

Luật bình đẳng về việc làm của Nam Phi định nghĩa người khuyết tật là “người
bị suy giảm khả năng về thể lực hoặc trí lực trong một thời gian dài hoặc tiếp
diễn nhiều lần, khiến người đó bị hạn chế đáng kể về khả năng tham gia hoặc
phát triển nghề nghiệp”14.
- Đạo luật về người khuyết tật của Hoa Kỳ năm 1990 ( Americans with
Disabilities Act of 1990 - ADA) định nghĩa “người khuyết tật là người có sự suy
yếu về thể chất hay tinh thần gây ảnh hưởng đáng kể đến một hay nhiều hoạt
động quan trọng trong cuộc sống”. Cũng theo ADA những ví dụ cụ thể về
khuyết tật bao gồm: Khiếm khuyết về vận động, thị giác, nói và nghe, chậm

12 Công ước về quyền của người khuyết tật 2006, Văn phòng điều phối các hoạt động hỗ trợ người tàn tật Việt Nam
(NCCD), Nxb. Lao động-xã hội, 2008.

13 Hướng tới cơ hội việc làm bình đẳng cho người khuyết tật thông qua hệ thống pháp luật, tlđd, tr. 17.
14 Hướng tới cơ hội việc làm bình đẳng cho người khuyết tật thông qua hệ thống pháp luật, tlđd, tr. 18


phát triển tinh thần, bệnh cảm xúc và những khiếm khuyết cụ thể về học tập, bại
não, động kinh, teo cơ, ung thư, bệnh tim, tiểu đường, các bệnh lây và không lây
như bệnh lao và bệnh do HIV (có triệu chứng hoặc không có triệu chứng).
- Ngày 17/6/2010, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật người khuyết tật,
có hiệu lực từ 01/01/2011, chính thức sử dụng khái niệm “người khuyết tật” thay
cho khái niệm “người tàn tật”, phù hợp với khái niệm và xu hướng nhìn nhận
của thế giới về vấn đề khuyết tật. Theo quy định tại khoản 1 Điều 2 của Luật này
thì “Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể
hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động,
sinh hoạt, học tập gặp khó khăn”15.
Theo cách hiểu này thì người khuyết tật bao gồm cả những người bị khuyết
tật bẩm sinh, người bị khiếm khuyết do bệnh tật, tai nạn, thương binh, bệnh
binh… Như vậy, Luật người khuyết tật Việt Nam đã đưa ra khái niệm người
khuyết tật dựa vào mô hình xã hội, tuy nhiên còn chung chung so với khái niệm
trong Công ước về quyền của người khuyết tật.
Thông qua quy định của các hệ thống pháp luật khác nhau cho thấy để đưa ra
khái niệm thuyết phục và thống nhất về người khuyết tật là không dễ dàng. Việc
nghiên cứu để đưa ra định nghĩa quốc tế về người khuyết tật là thách thức do
những mô hình của khuyết tật chịu ảnh hưởng bởi yếu tố văn hoá, điều kiện kinh
tế-xã hội và các tiêu chí xác định khuyết tật16.
15 Định nghĩa này kế thừa quy định tại Điều 1 Pháp lệnh về người tàn tật của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam ban hành năm 1998 (hiện đã được thay thế bằng Luật người khuyết tật năm 2010): “Người tàn tật theo
quy định của pháp lệnh này không phân biệt nguồn gốc gây ra tàn tật là người bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ

phận cơ thể hoặc chức năng biểu hiện dưới những dạng tàn tật khác nhau, làm suy giảm khả năng hoạt động,
khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp nhiều khó khăn”.
16 Lấy ví dụ về việc xác định tỉ lệ người khuyết tật để minh chứng cho vấn đề này: Về tỉ lệ người khuyết tật, các
con số đưa ra rất khác nhau và đa dạng, nguyên nhân là vì có khá nhiều tổ chức đánh giá, của chính phủ cũng
như phi chính phủ... quan trọng hơn các tiêu chí khác nhau đã ảnh hưởng quyết định đến kết quả. Thống kê trên
thế giới có khoảng 10% người khuyết tật tương đương với 650 triệu người (khảo sát năm 2007). Ở Việt Nam các
báo cáo thay đổi từ 5% đến 15%. Dựa trên Bảng phân loại quốc tế về chức năng, khuyết tật và sức khoẻ
(International Classification of Functioning, Disability and Health-ICF) của Tổ chức y tế thế giới (WHO), Tổng
cục thống kê Việt Nam đã tiến hành khảo sát, họ sử dụng một số câu hỏi về khuyết tật theo phương pháp đánh
giá chức năng. Mỗi thành viên 5 tuổi trở lên của hộ gia đình được phỏng vấn 6 câu hỏi để đánh giá thực hiện các
chức năng cơ bản của con người là: nghe, nhìn, vận động, nhận thức, khả năng ghi nhớ/tập trung, tự chăm sóc
bản thân, và chức năng giao tiếp. Người trả lời tự đánh giá việc thực hiện các chức năng đó dựa trên 4 mức phân
loại sau: 1) Không khó khăn; 2) Khó khăn; 3) Rất khó khăn; 4) Không thể thực hiện được. Trong tài liệu này,


Tuy nhiên, cũng cần khẳng định rằng định nghĩa về người khuyết tật, dù tiếp
cận dưới bất cứ góc độ nào, nhất thiết phải phản ánh thực tế là người khuyết tật
có thể gặp các rào cản do yếu tố xã hội, môi trường hoặc con người khi tham gia
vào mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội. Họ phải được đảm bảo rằng họ có
quyền và trách nhiệm tham gia vào mọi hoạt động của đời sống như bất cứ công
dân nào với tư cách là các quyền của con người. Với cách tiếp cận đó, có thể
đưa ra định nghĩa khái niệm người khuyết tật như sau:
Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể
hoặc bị suy giảm chức năng dẫn đến những hạn chế đáng kể và lâu dài trong
việc tham gia của người khuyết tật vào hoạt động xã hội trên cơ sở bình đẳng
với những chủ thể khác.
1.1.2. Đặc điểm người khuyết tật
Người khuyết tật trước hết là những con người nên họ mang những đặc điểm
chung về mặt kinh tế-xã hội, đặc điểm tâm sinh lí như mọi người khác trong xã
hội. Tuy nhiên, với những đặc điểm riêng về từng dạng khuyết tật nên nhóm

người khuyết tật nói chung lại có những nét đặc thù so với nhóm người không
khuyết tật và mỗi nhóm người khuyết tật dạng này lại có nét đặc thù tương đối
so với nhóm người khuyết tật dạng khác. Về phương diện pháp lí, làm rõ các đặc
điểm của người khuyết tật là một trong những cơ sở, căn cứ khoa học tác động
đến việc quy định, ban hành, thực thi, áp dụng pháp luật và chính sách với người
khuyết tật. Theo đó, các quy định pháp luật, chính sách của Nhà nước phải đảm
bảo điều chỉnh mối quan hệ của cái chung giữa người khuyết tật với các công
dân bình thường khác trong xã hội; giữa người khuyết tật nói chung với nhau.
Đồng thời, phải đảm bảo cái riêng giữa người khuyết tật với cộng đồng còn lại
của xã hội, cái đặc thù của những người khuyết tật với các dạng tật khác nhau
nếu một người có phương án trả lời là (2), (3) hoặc (4) khi thực hiện bất kì chức năng nào trong sáu chức năng
nói trên sẽ được coi là khuyết tật. Theo cách phân loại trên tỉ lệ người khuyết tật chung cả nước là 15,3%. Vùng
có tỉ lệ khuyết tật cao nhất là Đông Nam Bộ, thấp nhất là Tây Bắc. Tỉ lệ người khuyết tật khu vực thành thị cao
hơn khu vực nông thôn (17,8% so với 14,4%). Tuy nhiên, nếu dựa trên tiêu chí xác định người khuyết tật được
quy định trong Pháp lệnh người khuyết tật năm 1998, nay là Luật người khuyết tật năm 2010 thì tỉ lệ người
khuyết tật được cơ quan có thẩm quyền xác định cũng dao động từ khoảng 5% - 10%. Nguồn: Bách khoa toàn
thư mở Wikipedia - , ngày 08/06/2011.


của chính người khuyết tật. Nói cách khác, về phương diện triết học điều chỉnh
mối quan hệ giữa người khuyết tật với “phần còn lại” của xã hội và giữa người
khuyết tật với nhau thì “cái chung” phải bao hàm “cái riêng” nhưng “cái riêng”
thì bao giờ cũng phong phú hơn “cái chung”.
1.1.2.1. Đặc điểm của người khuyết tật dưới góc độ kinh tế-xã hội
Trước hết người khuyết tật là nhóm cư dân đặc biệt phải chịu thiệt thòi về
mặt kinh tế-xã hội và nhân khẩu học: Những gia đình có người khuyết tật có xu
hướng hoặc là thiếu nhân lực lao động (vì vậy có năng lực sản xuất thấp) hoặc
có quá nhiều người sống phụ thuộc (gánh nặng về kinh tế). Học vấn của các
thành viên trong những gia đình người khuyết tật thường không cao


17

(chất

lượng lao động thấp). Nhiều chủ hộ gia đình lại chính là người khuyết tật có sức
khoẻ yếu. Tài sản của gia đình
người khuyết tật thường nghèo nàn, thu nhập ở mức thấp, vì vậy điều kiện sống
và sinh hoạt là không tốt, ảnh hưởng xấu đến cuộc sống, sức khoẻ, phúc lợi của
các thành viên trong gia đình. Ngoài ra, người khuyết tật từ 15 tuổi trở lên rất
khó có việc làm, hầu hết người khuyết tật hoặc chưa bao giờ đi làm hoặc đã từng
đi làm nhưng lại bị thất nghiệp. Khuyết tật là nguyên nhân chính dẫn đến tình
trạng thất nghiệp của họ18.
Mặt khác, vì tình trạng do khuyết tật gây ra, người khuyết tật phải gánh chịu
rất nhiều thiệt thòi trong mọi mặt cuộc sống: Khuyết tật là nguyên nhân chính
gây ra nhiều khó khăn cho người khuyết tật trong việc thực hiện các công việc
17 Theo Bộ lao động, thương binh và xã hội Việt Nam, trình độ học vấn của người khuyết tật ở Việt Nam rất
thấp: 41% số người khuyết tật chỉ biết đọc biết viết; 19,5% học hết cấp một; 2,75% có trình độ trung học chuyên
nghiệp hay chứng chỉ học nghề và ít hơn 0.1% có bằng đại học hoặc cao đẳng. Nhìn chung, chỉ có khoảng 3%
được đào tạo nghề chuyên môn và chỉ hơn 4% người có việc làm ổn định. Hiện có hơn 40% người khuyết tật
sống dưới chuẩn nghèo (Bộ lao động, thương binh và xã hội, 2005).
18 Theo ước tính của Tổ chức lao động quốc tế (ILO - International Labour Organization) có khoảng 386 triệu
người trên thế giới trong độ tuổi lao động bị khuyết tật. Tỉ lệ thất nghiệp của người khuyết tật ở một số quốc gia
lên đến hơn 80%. Thông thường người sử dụng lao động cho rằng người khuyết tật không thể làm việc. Năm
2004, cuộc điều tra ở Hoa Kỳ cho thấy chỉ có 35% người khuyết tật trong độ tuổi lao động đang có việc làm
(mặc dù con số này cũng đã khá tốt so với các nước khác), trong khi đó 78% người không khuyết tật trong độ
tuổi lao động có việc làm. Hai phần ba trong số người khuyết tật thất nghiệp nói rằng họ muốn làm việc nhưng
không thể tìm được việc. Nghiên cứu của Đại học Rutgers năm 2003 cho biết 1/3 số người sử dụng lao động
được khảo sát cho rằng, người khuyết tật có thể không có hiệu quả thực hiện công việc theo yêu cầu nhiệm vụ.
Lí do phổ biến nhất cho việc không thuê người khuyết tật là sự sợ hãi phải đầu tư các thiết bị tốn kém (Bách
khoa toàn thư mở Wikipedia - , ngày 08/06/2011).



sinh hoạt hàng ngày, trong giáo dục, việc làm, tiếp cận các dịch vụ y tế, kết hôn,
sinh con và tham gia các hoạt động xã hội. Để khắc phục những khó khăn này,
người khuyết tật chủ yếu dựa vào gia đình, nguồn giúp đỡ chính đối với họ.
Những khó khăn càng trở nên trầm trọng hơn do thái độ tiêu cực của cộng đồng
đối với người khuyết tật.
Quan niệm của xã hội về người khuyết tật còn tiêu cực, dẫn đến sự kì thị và
phân biệt đối xử: Điều này diễn ra dưới nhiều hình thức, ở nhiều bối cảnh khác
nhau (gia đình, cộng đồng, trường học, bệnh viện, nơi làm việc và các tổ chức ở
địa phương). Trong cộng đồng, nhiều dân cư coi người khuyết tật là “đáng
thương”, không có cuộc sống “bình thường”, là “gánh nặng” của xã hội... 19 Về
nhận thức pháp luật, nhiều người không hề biết đến quy định của pháp luật về
người khuyết tật. Từ đó dẫn đến sự kì thị, phân biệt đối xử

20

và nó diễn ra ở

nhiều nơi, nhiều lĩnh vực: Gia đình, nơi làm việc, giáo dục, hôn nhân gia đình,
tham gia hoạt động xã hội, thậm chí sự kì thị từ chính người khuyết tật (hầu hết
người khuyết tật cho rằng mình kém cỏi hơn, mặc cảm, thấy khó hoà nhập cộng
đồng).
Hoạt động hỗ trợ cho người khuyết tật còn rất hạn chế, thực tế cho thấy có sự
khác biệt lớn giữa nhu cầu của người khuyết tật và những giúp đỡ mà họ nhận
được. Sự hỗ trợ của nhà nước và cộng đồng mang tính từ thiện nhiều hơn là phát
triển con người. Hầu hết người khuyết tật được hỗ trợ như bảo hiểm y tế, bảo
hiểm xã hội, lương thực... nhưng lại ít được trợ giúp trong việc làm, dạy nghề và
19 Năm 2007 được sự tài trợ của Quỹ Ford, Viện nghiên cứu phát triển xã hội (ISDS) đã tiến hành khảo sát 4
tỉnh thành ở Việt Nam và đưa ra một vài con số thống kê sau đây về quan điểm của cộng đồng về người khuyết

tật: Coi thường người khuyết tật (16%); Coi là gánh nặng suốt cuộc đời (40%); Coi là vô dụng (20,7%); Thường
xuyên lăng mạ (14,2%); Bỏ mặc không chăm sóc (8,5%); Bỏ rơi (7,1%); Không cho ăn (4,3%); Khoá/xích trong
nhà (10,2%); Bắt đi ăn xin (1,5%). (Bách khoa toàn thư mở Wikipedia: , ngày
08/06/2011).
20 Nghiên cứu của Erving Goffman (1963) đã miêu tả ba loại kì thị (Discrimination): “Sự ghê sợ về cơ thể” tức
là những kì thị liên quan đến những biến dạng thể chất; “Nhược điểm về tính cách của một cá nhân” chẳng hạn
như một người bị coi là thiếu ý chí nếu có những đam mê không bình thường hoặc không trung thực; (3) “Kì thị
bộ lạc” tức là kì thị về sắc tộc, quốc tịch hoặc tôn giáo hoặc là việc tham gia một tổ chức xã hội bị khinh miệt.
Công trình sau đó của Parker và Aggleton (2003) đã coi kì thị là một quá trình xã hội, sản sinh và tái sản sinh ra
những mối quan hệ về quyền lực và sự kiểm soát. Họ cũng nghiên cứu kì thị được sử dụng như thế nào để biến
sự khác biệt thành sự bất bình đẳng, giúp một số nhóm người hạ thấp giá trị của những nhóm khác dựa trên
những thuộc tính “khác biệt” (Ogden và Nyblade, 2005). Theo đó tình trạng khuyết tật có thể dẫn đến kì thị loại
thứ nhất (sự ghê sợ về biến dạng cơ thể), tuy nhiên, một số dạng khuyết tật cũng có thể dẫn đến kì thị loại thứ
hai.


tham gia hoạt động xã hội21.
1.1.2.2. Đặc điểm của người khuyết tật dưới góc độ dạng tật và mức độ
khuyết tật
Trên thế giới, ở mỗi quốc gia có thể có các quy định khác nhau về một số
dạng tật song nhìn chung hầu hết và phổ biến là các dạng khuyết tật giống như
đã được quy định tại Luật người khuyết tật Việt Nam, bao gồm: Khuyết tật vận
động; khuyết tật nghe, nói; khuyết tật nhìn; khuyết tật thần kinh, tâm thần;
khuyết tật trí tuệ; khuyết tật khác.
Mỗi dạng khuyết tật này có những đặc điểm riêng, chung về tâm, sinh lí, về
khả năng qua đó tác động đến các nhu cầu của bản thân và có ảnh hưởng qua lại,
tác động đáng kể tới môi trường xung quanh làm xuất hiện những hệ quả pháp lí
trong quá trình hoà nhập cộng đồng.
Về đặc điểm chung: Ở những người khuyết tật vận động, khuyết tật nghe nói,
khuyết tật nhìn đều có bộ não phát triển bình thường. Nếu được quan tâm tạo

môi trường thuận lợi, rèn luyện từ sớm và thường xuyên thì họ vẫn có thể tiếp
thu được chương trình học tập, làm việc, tham gia vào các hoạt động kinh tế xã
hội của cộng đồng, trở thành người có ích cho bản thân, gia đình và xã hội. Tuy
nhiên, do hạn chế về thể chất hoặc giác quan nên họ dễ có tâm lí tự ti, mặc cảm
về khuyết tật của mình, thường gặp khó khăn trong giao tiếp và trên một số lĩnh
vực thì hiệu xuất công việc không cao hoặc không thể tham gia. Do hoàn cảnh
khuyết tật hoặc các yếu tố khác về kinh tế, môi trường… nên nhiều người không
có điều kiện để rèn luyện, khắc phục những hạn chế ngay từ sớm, khiến họ trở
nên lúng túng, vụng về trong một số kĩ năng. Điều này làm họ dễ cảm thấy thiếu
tự chủ, thiếu tự tin trong giao tiếp với người xung quanh – Tình trạng sẽ tồi tệ
hơn nếu như khiếm khuyết của họ thay vì nhận được sự cảm thông lại vấp phải
thái độ giễu cợt hoặc thiếu kiên nhẫn của mọi người. Tuy nhiên, đại bộ phận
trong số họ đều có ý chí và khát vọng vươn lên khắc phục những khiếm khuyết
21 Theo kết quả khảo sát của Bộ lao động, thương binh và xã hội năm 2005: 88,9% số người khuyết tật từ 16
tuổi trở lên chưa được đào tạo chuyên môn (trong đó chỉ có 2% đang học nghề). Về trình độ chuyên môn kĩ thuật
thì 93,4% số người khuyết tật từ 16 tuổi trở lên không có chuyên môn, số có bằng cấp từ chứng chỉ nghề trở lên
chỉ chiếm 6,5%.


về thể chất hay giác quan của bản thân để tự khẳng định mình, tham gia học tập,
làm việc và sinh hoạt như mọi thành viên khác trong xã hội.
-

Khuyết tật vận động: Là những người có cơ quan vận động bị tổn thương, biểu
hiện dễ nhận thấy là khó khăn trong ngồi, nằm, di chuyển, cầm, nắm... Do đó,
người khuyết tật vận động gặp rất nhiều khó khăn trong sinh hoạt cá nhân, vui
chơi, học tập và lao động. Người khuyết tật vận động cần được sự hỗ trợ về
phương tiện đi lại (xe lăn, gậy chống...) và đặc biệt là không gian cần thiết,
thuận tiện, phù hợp để di chuyển.


-

Khuyết tật nghe, nói: Người khuyết tật nghe, nói là người có khó khăn đáng kể
về nói và nghe, dẫn đến hạn chế về đọc, viết, từ đó dẫn đến những hạn chế trong
sinh hoạt, làm việc, học tập, hoà nhập cộng đồng. Để giảm bớt khó khăn họ cần
được dùng phương tiện trợ giúp (máy trợ thính), ngôn ngữ kí hiệu trong giao
tiếp tổng hợp. Người khuyết tật nghe, nói thường rất khó khăn trong việc thể
hiện ngôn ngữ và tiếp nhận thông tin từ cộng đồng, bởi ngôn ngữ của họ là ngôn
ngữ kí hiệu. Tuy nhiên, ngôn ngữ kí hiệu cũng có nhiều hạn chế vì không thể
phản ảnh được đầy đủ tính chất, mức độ các hoạt động của cuộc sống như tiếng
nói hay chữ viết. Mặt khác, việc sử dụng chữ viết thông thường đối với họ cũng
là điều không dễ vì quá trình hướng dẫn dùng chữ viết thông thường cũng chịu
ảnh hưởng không nhỏ của những hạn chế bởi ngôn ngữ kí hiệu.

-

Khuyết tật nhìn (khuyết tật thị giác, khiếm thị): Là những người có tật về mắt
làm cho họ không nhìn thấy hoặc nhìn không rõ ràng. Họ có hai giác quan
thường rất phát triển: thính giác và xúc giác. Đối với người khiếm thị công cụ hỗ
trợ di chuyển là chiếc gậy trắng (hoặc các loại gậy thông thường) chữ nổi
Braille, các dụng cụ hỗ trợ thông minh, lối đi thuận tiện và dễ nhận biết... những
người nhìn kém thì môi trường cần thiết với họ là đảm bảo đủ ánh sáng, dùng
những màu tương phản, hợp lí trong sinh hoạt và các hoạt động khác, cung cấp
thiết bị phóng đại hình ảnh.

-

Khuyết tật trí tuệ: Xét về mức độ, đây là đối tượng khuyết tật không có những
đặc điểm cơ bản, chung như ba dạng khuyết tật ở trên. Khuyết tật về trí tuệ được



xác định khi22: 1) Chức năng trí tuệ dưới mức trung bình (chỉ số thông minh đạt
gần 70 hoặc thấp hơn 70 trên một lần thực hiện trắc nghiệm cá nhân; 2) Bị thiếu
hụt hoặc khiếm khuyết ít nhất là hai trong số những hành vi thích ứng sau: giao
tiếp, tự chăm sóc, sống tại gia đình, kĩ năng xã hội/cá nhân, sử dụng các tiện ích
trong cộng đồng, tự định hướng, kĩ năng học đường, làm việc, giải trí, sức khoẻ
và an toàn; 3) Tật xuất hiện trước 18 tuổi. Người khuyết tật về trí tuệ có nhiều
hạn chế làm ảnh hưởng đến cuộc sống bình thường của họ và người thân cả về
trí tuệ (phần lớn chỉ dùng ở mức độ tư duy trực quan cụ thể, mức độ, nhịp độ tư
duy của các thành phần không giống nhau); về trí nhớ (gặp khó khăn về trí nhớ
cả ngắn hạn và dài hạn, khó khăn trong việc nhớ những gì mang tính trừu tượng
hay có quan hệ logic, dễ quên những gì gần gũi với cuộc sống và không gắn với
nhu cầu bản thân); về chú ý (phần đông người khuyết tật có khó khăn khi phải
tập trung và duy trì sự chú ý vào công việc nào đó, đặc biệt là chú ý đến lời nói.
Do duy trì chú ý kém nên việc tiếp nhận thông tin và xử lí thông tin của người
khuyết tật thường gặp khó khăn); về kĩ năng giao tiếp xã hội (đa phần người
khuyết tật trí tuệ yếu kém về các kĩ năng xã hội, rất ít thậm chí không có nhu cầu
giao tiếp); cuối cùng l à về hành vi (người khuyết tật trí tuệ thường có những
hành vi làm cho họ khó hoà nhập: hành vi tự lạm dụng, quá hiếu động, quá ù
lì...).
Trên đây là những nhóm người khuyết tật chiếm tỉ lệ chủ yếu trong tổng số
người khuyết tật. Xét ở góc độ đặc điểm về tâm, sinh lí cho thấy tính đa dạng
của khuyết tật và rõ ràng việc đảm bảo các quyền của họ dưới phương diện pháp
lí cũng cần tính đến yếu tố đặc thù của các dạng khuyết tật khác nhau.
Ngoài các nhóm trên còn có những nhóm người khuyết tật như: người bị rối
loạn hành vi cảm xúc, người mắc hội chứng tự kỉ, người bị rối loạn ngôn ngữ,
người đa tật...
1.2. Khái niệm luật người khuyết tật
1.2.1. Định nghĩa
22 Theo bảng phân loại DSM IV.



Người khuyết tật mặc dù chỉ là nhóm thiểu số trong xã hội 23 nhưng họ là bộ
phận dân cư cấu thành nên cộng đồng xã hội. Trong suốt thời gian dài, người ta
vẫn cho rằng tình trạng bất lợi, thiệt thòi của người khuyết tật là hậu quả không
tránh khỏi của sự sút kém về tinh thần, thể chất của người khuyết tật. Việt Nam
cũng không phải là ngoại lệ, theo đó các chính sách và quy định của pháp luật
thường nghiêng nhiều về khía cạnh bảo trợ xã hội với đối tượng rủi ro, bất hạnh
cần được nâng đỡ và trợ giúp. Các quy phạm pháp luật về người khuyết tật nằm
rải rác ở nhiều loại văn bản pháp quy thuộc các lĩnh vực khác nhau (dân sự, lao
động, hôn nhân gia đình, giáo dục, đào tạo...). Ngoài ra, hoạt động nghiên cứu,
giảng dạy về luật người khuyết tật cũng chưa được đầu tư, quan tâm thoả đáng
và nếu có thì cũng chưa phải là thái độ chủ động, tích cực từ phía người dạy và
người học. Đến nay, cùng với sự thay đổi của cộng đồng quốc tế trong nhận thức
và hành động về vấn đề này, hệ thống pháp luật Việt Nam cũng đã có những quy
định tương thích có hiệu lực cao để đảm bảo thực hiện các quyền và nghĩa vụ
của người khuyết tật dưới góc độ quyền con người. Điều này thể hiện chân lí
đơn giản nhưng quan trọng rằng người nào cũng là con người và họ phải được
tôn trọng, bình đẳng như nhau. Tương ứng với các quyền của từng cá nhân, nhà
nước có trách nhiệm bảo vệ, tôn trọng và thực thi các quyền con người. Thêm
nữa do tính chất đặc biệt của hệ thống chủ thể (người khuyết tật), do đó việc tiếp
cận nội dung pháp lí liên quan đến người khuyết tật cần được giải quyết hài hoà
trong mối tương quan về quyền và nghĩa vụ của họ (mà trong đó, với người
khuyết tật: “quyền – nhiều như mong muốn; nghĩa vụ - ít như có thể”). Tuy
nhiên, điều khó khăn ở đây là liều lượng giữa quyền và nghĩa vụ trong một quan
hệ cụ thể của người khuyết tật như thế nào là hợp lí (ví dụ: giữa vấn đề bình
đẳng tuyển dụng và điều kiện tuyển dụng). Bởi vì, thường pháp luật người
khuyết tật nhấn mạnh đến hệ thống quyền của họ trong quan hệ mà ít chú ý hơn
đến trách nhiệm. Như vậy, sự nhận thức các vấn đề liên quan đến người khuyết
23 Trên thế giới hiện có hơn 600 triệu người có khiếm khuyết về thể chất, cảm giác, trí tuệ hoặc tâm thần dưới các

hình thức khác nhau. Con số này tương đương với khoảng 10% dân số thế giới. Quốc gia nào cũng có người khuyết tật
và hơn 2/3 trong số đó sống tại các nước đang phát triển (Hướng tới cơ hội việc làm bình đẳng cho người khuyết tật
thông qua hệ thống pháp luật, ILO, 2006, tr.1. Ở Việt Nam, số liệu về tỉ lệ người khuyết tật dao động từ 5% - 10%.


tật dưới góc độ quyền con người là cơ sở khách quan và thực tiễn cho sự thay
đổi, phát triển của luật người khuyết tật với những nội hàm mới về chất và
lượng.
Luật người khuyết tật là nội dung mới được đưa vào nghiên cứu và giảng dạy
pháp luật24 cho nên khoa học pháp lí nước ta chưa có khái niệm thống nhất về
vấn đề này. Tuy nhiên, về phương diện lí luận và từ quan điểm tiếp cận so sánh
có thể xem xét khái niệm luật người khuyết tật dưới góc độ đặc thù của đối
tượng (người khuyết tật).
Người khuyết tật – trước hết là một con người, nhưng so với những người
bình thường họ có những điểm không bình thường. Do đó, luật người khuyết tật
vừa đảm bảo cái chung đồng thời chứa đựng cái riêng. Theo nghĩa chung, luật
người khuyết tật bao gồm tập hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan
hệ xã hội nhằm xác định, tổ chức thực hiện và đảm bảo các quyền và trách
nhiệm của người khuyết tật nhằm bảo đảm cuộc sống bình thường của họ trong
môi trường cộng đồng. Với cách tiếp cận quyền của người khuyết tật dựa trên
các quyền con người thì các quan hệ xã hội liên quan đến người khuyết tật trải
rộng trên nhiều lĩnh vực: y học, tâm lí, kiến trúc, xây dựng, dân sự, lao động, tài
chính, bảo hiểm, hình sự... Các quan hệ này có sự khác nhau nhất định về tính
chất, nội dung và khách thể. Với phạm vi điều chỉnh rộng như vậy, luật người
khuyết tật là hệ thống các quy tắc xử sự, do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận
điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm đảm bảo thực hiện các quyền của người
khuyết tật. Như vậy, luật người khuyết tật theo nghĩa chung là lĩnh vực pháp luật
bao gồm các quy phạm được quy định trong các văn bản pháp luật thuộc nhiều
ngành luật khác nhau (Hiến pháp, hành chính, dân sự, hôn nhân gia đình, lao
động, an sinh xã hội, tài chính, hình sự...) điều chỉnh các quan hệ xã hội liên

quan đến quyền của người khuyết tật với tư cách là các quyền con người. Theo
nghĩa riêng, luật người khuyết tật bao gồm các quy phạm nhằm điều chỉnh các
quan hệ trực tiếp làm phát sinh cũng như cách thức thực thi và đảm bảo các
24 Theo tìm hiểu của chúng tôi, hiện nay chưa có một cơ sở đào tạo luật nào ở Việt Nam giảng dạy môn học
pháp luật người khuyết tật trong chương trình đào tạo cử nhân.


quyền và trách nhiệm cụ thể của người khuyết tật. Cụ thể đó là các quan hệ xã
hội nhằm xác định mức độ khuyết tật; quan hệ chăm sóc sức khoẻ; quan hệ
trong lĩnh vực giáo dục, việc làm, học nghề; quan hệ bảo trợ xã hội; quan hệ về
việc xác định trách nhiệm của các chủ thể... với người khuyết tật.
Như vậy, luật người khuyết tật là tổng thể các quy phạm pháp luật do nhà
nước ban hành hoặc thừa nhận điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong
quá trình đảm bảo các quyền và trách nhiệm của người khuyết tật.
Thuật ngữ “luật người khuyết tật” còn có thể được hiểu trên hai phương diện
là khoa học luật người khuyết tật và môn học luật người khuyết tật.
Dưới góc độ khoa học thì luật người khuyết tật là một trong những nội dung
của hệ thống khoa học pháp lí. Mặc dù có mối liên hệ mật thiết với nhiều khoa
học pháp lí khác như lao động, dân sự, hôn nhân gia đình, tài chính, hình sự...
Song như bất kì khoa học nào, khoa học luật người khuyết tật cũng có quá trình
hình thành và phát triển, có hệ thống khái niệm, phạm trù và có đối tượng
nghiên cứu riêng. Đối tượng nghiên cứu của khoa học luật người khuyết tật bao
gồm:
- Những vấn đề lí luận của khoa học luật người khuyết tật như: Những quan
điểm, học thuyết về người khuyết tật (trong nước và quốc tế); các cơ sở, căn cứ
pháp lí, kinh tế, xã hội xác định người khuyết tật; quyền của người khuyết tật
trong sự liên hệ với quyền con người; mối tương quan giữa người khuyết tật,
luật người khuyết tật với các lĩnh vực pháp lí, kinh tế, xã hội khác...
- Những quy phạm pháp luật như những bộ phận cấu thành của luật người
khuyết tật:

+ Những điểm tích cực và hạn chế;
+ Quá trình phát sinh, phát triển sự kế thừa cũng như dự báo phát triển trong
tương lai.
- Các quan hệ pháp luật người khuyết tật:
+

Bản chất, đặc điểm, cơ cấu nội tại của quan hệ;

+

Quyền, nghĩa vụ chủ thể;


+

Cơ chế đảm bảo.

Dưới góc độ môn học, thì luật người khuyết tật là bộ phận của khoa học luật
người khuyết tật, sử dụng những tri thức của khoa học luật người khuyết tật xây
dựng nên hệ thống môn học và giáo trình luật người khuyết tật. Khoa học luật
người khuyết tật cung cấp nhiều tri thức phong phú còn môn học luật người
khuyết tật cung cấp kiến thức một cách có hệ thống ở những mức độ khác nhau
tuỳ thuộc vào đối tượng và mục tiêu đào tạo với các nội dung sau:
- Các vấn đề chung bao gồm:
+

Quan hệ xã hội do luật người khuyết tật điều chỉnh;

+


Các nguyên tắc cơ bản của luật người khuyết tật;

+

Nguồn của luật người khuyết tật;

+

Quan hệ pháp luật người khuyết tật.

- Các vấn đề riêng bao gồm:
+

Chăm sóc sức khoẻ người khuyết tật;

+

Giáo dục đào tạo, việc làm và học nghề với người khuyết tật;

+

Hoạt động xã hội với người khuyết tật;

+

Chế độ bảo trợ với người khuyết tật;

+

Trách nhiệm với người khuyết tật;


+

Biện pháp đảm bảo quyền của người khuyết tật.

1.2.2. Quan hệ xã hội do luật người khuyết tật điều chỉnh
Xét dưới góc độ lí luận pháp luật và mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng
của quyền người khuyết tật trong mối liên hệ với quyền con người, quan hệ xã
hội do luật người khuyết tật điều chỉnh là các quan hệ xã hội phát sinh trong quá
trình đảm bảo các quyền và trách nhiệm của người khuyết tật được điều chỉnh
bởi luật người khuyết tật. Dựa vào nội dung và mục đích của quan hệ, có thể xác
định quan hệ xã hội do luật người khuyết tật điều chỉnh bao gồm:
-

Quan hệ xác nhận khuyết tật: Quan hệ này nhằm xác định về mặt pháp lí một
người có phải là người khuyết tật hay không? Sự điều chỉnh của luật người
khuyết tật đối với quan hệ này bao gồm: Xác định căn cứ, phương pháp xác


nhận khuyết tật; cơ quan có thẩm quyền, thủ tục xác định khuyết tật, xác định lại
mức độ khuyết tật.
-

Quan hệ chăm sóc sức khoẻ người khuyết tật: Khuyết tật thường gây ảnh hưởng
xấu đến sức khoẻ người khuyết tật, do đó nhu cầu chăm sóc và được chăm sóc
sức khoẻ là nhu cầu thường xuyên của người khuyết tật. Tuy nhiên, do những
khiếm khuyết về thể chất, tinh thần hay trí tuệ, người khuyết tật gặp rất nhiều
khó khăn trong việc chăm sóc sức khoẻ. Trở ngại lớn nhất trong quan hệ này là
từ tâm lí mặc cảm của người khuyết tật và sự kì thị của cộng đồng. Vì vậy, chăm
sóc sức khoẻ người khuyết tật là quan hệ về trách nhiệm của nhiều chủ thể liên

quan được pháp luật điều chỉnh. Do đó, quan hệ chăm sóc sức khoẻ người
khuyết tật là mối quan hệ giữa Nhà nước, cộng đồng xã hội và người khuyết tật
trong việc thực hiện các hoạt động phòng bệnh, khám chữa bệnh, chỉnh hình,
phục hồi chức năng nhằm giúp người khuyết tật vượt qua những khó khăn của
bệnh tật, vươn lên hoà nhập cộng đồng.
- Quan hệ giáo dục đào tạo, dạy nghề và việc làm với người khuyết tật: Cũng
như bất cứ con người nào, để người khuyết tật có thể tồn tại với những giá trị
nhân phẩm được tôn trọng thì họ cần được học tập, rèn luyện và có công việc ổn
định, chất lượng. Đây cũng là quyền hiến định của họ như mọi công dân trong
xã hội. Tuy nhiên, với những đặc thù riêng có của người khuyết tật thì các vấn
đề liên quan đến giáo dục đào tạo, dạy nghề và việc làm cho họ cũng cần phải có
những quy định riêng phù hợp với người khuyết tật nói chung và từng dạng tật
nói riêng. Cần lưu ý, nội dung điều chỉnh pháp luật về vấn đề này không phải
chỉ là sự ưu tiên, ưu đãi mà điều quan trọng là tạo ra và thúc đẩy các cơ hội bình
đẳng cho người khuyết tật về giáo dục đào tạo, dạy nghề và việc làm. Trong
quan hệ giáo dục đào tạo, dạy nghề và việc làm tuỳ từng phạm vi và nội dung cụ
thể (giáo dục đào tạo hay học nghề hoặc việc làm) mà trên cơ sở đó quyền và
trách nhiệm của các chủ thể liên quan được xác định.

-

Quan hệ trong lĩnh vực hoạt động xã hội đối với người khuyết tật: Các hoạt
động trong lĩnh vực xã hội với người khuyết tật ở đây được hiểu theo nghĩa


rộng, bao gồm: Văn hoá, thể dục, thể thao, giải trí, du lịch và các dịch vụ công
(nhà chung cư, công trình công cộng, giao thông, công nghệ thông tin và truyền
thông). Như vậy, tham gia các hoạt động trong lĩnh vực xã hội vừa là nhu cầu
tinh thần vừa là nhu cầu cuộc sống bình thường của người khuyết tật như mọi cư
dân khác trong xã hội. Với tư cách là quyền của người khuyết tật trong lĩnh vực

này, pháp luật cần đảm bảo các điều kiện và khả năng tiếp cận của họ khi tham
gia các hoạt động trong lĩnh vực xã hội. Theo đó, với từng lĩnh vực hoạt động xã
hội cụ thể pháp luật xác định trách nhiệm của các chủ thể liên quan trong việc
đảm bảo các quyền và nghĩa vụ của người khuyết tật khi họ tham gia quan hệ
trong lĩnh vực hoạt động xã hội.
-

Quan hệ bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật: Dưới góc độ an sinh xã hội,
người khuyết tật là đối tượng “yếu thế” cần được bảo vệ. Bảo trợ xã hội là một
bộ phận của an sinh xã hội, được xem xét dưới những cách tiếp cận khác nhau
nhưng đều nhằm bảo vệ, hỗ trợ và giúp đỡ những đối tượng “yếu thế, dễ bị tổn
thương”. Với những khó khăn trong tìm kiếm cơ hội và khả năng đảm bảo cuộc
sống nên đối với người khuyết tật thì nhu cầu bảo trợ xã hội trở nên cấp thiết,
đặc biệt với những người khuyết tật nặng và/hoặc đặc biệt nặng. Chế độ bảo trợ
xã hội với người khuyết tật bao gồm các quy định về: Chế độ trợ cấp xã hội, hỗ
trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng; chế độ nuôi dưỡng người khuyết tật trong cơ
sở bảo trợ xã hội; cơ sở chăm sóc người khuyết tật...
- Quan hệ liên quan đến trách nhiệm đối với người khuyết tật: Bên cạnh khía
cạnh trách nhiệm xã hội mà người ta thường nói khi đề cập đến người khuyết tật
thì không thể thiếu yêu cầu trách nhiệm mang nội dung pháp lí. Bởi vì, quyền
của người khuyết tật chỉ được hiện thực hoá khi trách nhiệm của các chủ thể liên
quan: Nhà nước, cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân...
với người khuyết tật được đảm bảo thực hiện. Hơn nữa, chính người khuyết tật
và các tổ chức của họ phải ý thức được trách nhiệm của mình với vấn đề khuyết
tật trong mối quan hệ với các quyền con người nói chung và quyền công dân nói
riêng. Các quan hệ chủ yếu liên quan đến trách nhiệm đối với người khuyết tật


bao gồm:
+


Trách nhiệm của Nhà nước, cơ quan nhà nước đối với người khuyết tật;

+

Trách nhiệm của gia đình đối với người khuyết tật;

+

Trách nhiệm của tổ chức và cá nhân đối với người khuyết tật.
- Quan hệ về các biện pháp đảm bảo quyền của người khuyết tật: Các cam
kết, mong muốn, quy định nhằm tạo ra sự bình đẳng và cơ hội tiếp cận cho
người khuyết tật trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội chỉ có ý
nghĩa khi được bảo đảm bằng các biện pháp khác nhau. Điều đó dẫn đến nhu
cầu làm phát sinh quan hệ về các biện pháp đảm bảo quyền của người khuyết
tật. Do các vấn đề liên quan đến người khuyết tật có phạm vi rộng liên quan đến
nhiều lĩnh vực khác nhau, vì vậy các biện pháp đảm bảo quyền của người khuyết
tật cũng rất đa dạng. Cụ thể bao gồm:
+

Biện pháp xã hội;

+

Biện pháp kinh tế;

+

Biện pháp pháp lí.


2. CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA LUẬT NGƯỜI KHUYẾT TẬT
VIỆT NAM
Dưới góc độ lí luận nhà nước và pháp luật, các nguyên tắc của pháp luật
được hiểu là quan điểm, tư tưởng chỉ đạo trong quá trình ban hành, thực thi, áp
dụng, sửa đổi, bổ sung pháp luật.
Với tư cách là thành viên của ILO và đã tham gia kí Công ước Liên hợp quốc
về quyền của người khuyết tật, pháp luật Việt Nam cần phải và đã bước đầu nội
luật hoá các nguyên tắc đã được ghi nhận trong Công ước. Song khác với một số
nước25, Luật người khuyết tật năm 2010 của Việt Nam không có điều luật cụ thể
quy định về các nguyên tắc. Tuy nhiên, trên cơ sở nội dung pháp luật đã được
ban hành và thực tiễn thực hiện ở Việt Nam có thể xác định một số nguyên tắc
25 Ví dụ: Đạo luật cơ bản về người khuyết tật của Nhật Bản, Luật số 84 ngày 21 tháng 5 năm 1970 (Lần sửa đổi
gần nhất vào tháng sáu năm 2004). Mục 3: Những nguyên tắc cơ bản quy định 1. Người bị khuyết tật có quyền
được tôn trọng về phẩm giá cá nhân của mình và sống một cuộc sống đàng hoàng. 2. Người bị khuyết tật, do là
thành viên của xã hội, nên được có cơ hội tham gia vào các hoạt động kinh tế, văn hoá, xã hội và tất cả các hoạt
động khác trong xã hội. 3. Không ai được phép phân biệt đối xử đối với người khuyết tật hoặc vi phạm quyền và
lợi ích của họ với lí do khuyết tật.


cơ bản của pháp luật người khuyết tật như sau26.
2.1. Nguyên tắc tôn trọng và đảm bảo quyền của người khuyết tật
Điểm bắt đầu của khái niệm quyền của người khuyết tật là khái niệm về
“phẩm giá vốn có của tất cả các thành viên trong gia đình nhân loại” như được
ghi nhận trong Tuyên ngôn nhân quyền thế giới năm 1948. Ngày nay, với sự nỗ
lực của người khuyết tật, tổ chức xã hội của họ và cộng đồng quốc tế - trên cơ
sở các quyền con người, Đại hội đồng Liên hợp quốc tại kì họp 61 ngày
06/12/2006 đã thông qua Công ước về quyền của người khuyết tật, tại khoản 1
Điều 4 quy định: “Các quốc gia thành viên cam kết sẽ bảo đảm và thúc đẩy sự
công nhận đầy đủ tất cả các quyền con người và tự do của tất cả người khuyết
tật mà không có bất cứ hình thức phân biệt đối xử nào do bị khuyết tật”.

Hiện nay, khái niệm quyền của người khuyết tật được chia sẻ ở cấp độ toàn
cầu và nhờ đó nó dần trở thành phương tiện mà người khuyết tật có thể sử dụng
như công cụ để biến đổi nhận thức xã hội. Bởi vì, cũng như quyền con người,
quyền của người khuyết tật xét ở phương diện giá trị trừu tượng lẫn ở phương
diện giá trị hiện thực, ở phương diện tự nhiên lẫn ở phương diện pháp lí là một
trong những hiện tượng xã hội gắn liền với sự phát triển của xã hội loài người
nói chung, của một quốc gia nói riêng. Nói cách khác, quyền của người khuyết
tật dần mang tính phổ quát có nghĩa là chúng được thừa nhận và áp dụng ở khắp
nơi.
26 Theo quy định tại Điều 3 Công ước về quyền người khuyết tật năm 2006, các nguyên tắc chung bao gồm:
- Tôn trọng phẩm giá vốn có, sự tự chủ của cá nhân bao gồm sự tự do lựa chọn và sự độc lập của cá nhân;
- Không phân biệt đối xử;
- Sự tham gia và hoà nhập xã hội đầy đủ và hiệu quả;
- Tôn trọng sự khác biệt và chấp nhận người khuyết tật như một phần của sự đa dạng nhân loại và nhân văn;
- Bình đẳng về cơ hội;
- Tiếp cận;
- Bình đẳng giữa nam và nữ;
Tôn trọng những khả năng đang phát triển của trẻ khuyết tật và tôn trọng quyền bảo vệ nhân dạng của trẻ khuyết
tật.


Ở phạm vi quốc gia, quyền của người khuyết tật trong phạm vi, mức độ khác
nhau được văn bản pháp lí cao nhất – Hiến pháp quy định 27. Ở Việt Nam, tại
Điều 67 Hiến pháp 1992 quy định sự cam kết của nhà nước và xã hội về những
đảm bảo cho người khuyết tật. Ngoài ra, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật
người khuyết tật (ngày 17 tháng 06 năm 2010 và có hiệu lực từ ngày 01 tháng
01 năm 2011) trong đó tư tưởng pháp lí chủ đạo là tiếp cận quyền của người
khuyết tật trong mối quan hệ với quyền con người theo tinh thần của Công ước
về quyền của người khuyết tật mà Việt Nam đã kí kết. Tuy nhiên, với tư cách là
nguyên tắc cơ bản của luật người khuyết tật - cũng cần tiếp cận một cách cân

bằng mối quan hệ giữa quyền của người khuyết tật với trách nhiệm của họ trong
rất nhiều mối tương quan với vấn đề quyền con người28.
2.2. Nguyên tắc bình đẳng và không phân biệt đối xử
Nguyên tắc bình đẳng và không phân biệt đối xử với người khuyết tật liên
quan mật thiết đến khái niệm nhân phẩm. Nguyên tắc này xuất phát từ quan
điểm cho rằng tất cả mọi người dù họ có sự khác nhau về thể lực, trí lực và các
đặc điểm khác, đều có giá trị và tầm quan trọng ngang nhau (xem Điều 1 Tuyên
ngôn nhân quyền năm 1948, Tuyên bố của Tổ chức lao động quốc tế tại
Philadelphia năm 1944). Vì vậy, họ có quyền được đối xử công bằng và không
bị phân biệt trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Công ước về quyền của
người khuyết tật năm 2006 cũng đã ghi nhận nguyên tắc này 29. Pháp luật các
27 Nhiều quốc gia đề cập đến người khuyết tật trong các điều khoản của Hiến pháp: Brazil, Camphuchia,
Canada, Trung Quốc, Êtiopia, Mông Cổ, Slovenia, Nam Phi, Xu Đăng, Tanxania, Uganda. (“Hướng tới cơ hội
việc làm bình đẳng cho người khuyết tật thông qua hệ thống pháp luật”, ILO, 2006, tr. 10).
28 Về mặt luật pháp, một số quốc gia cũng quy định trách nhiệm của người khuyết tật như: “Nhà nước khích lệ
người khuyết tật thể hiện tinh thần tự trọng, sự tự tin, tinh thần tự lực và có đóng góp xây dựng xã hội. Người
khuyết tật cần phải tuân thủ luật pháp, thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm của mình, tôn trọng đạo đức xã hội.”
(Luật bảo vệ người khuyết tật Trung Quốc năm 1990). Khoản 2 Điều 4 Luật người khuyết tật Việt Nam: “Người
khuyết tật thực hiện các nghĩa vụ công dân theo quy định của pháp luật”.

29 Điều 5 - Bình đẳng và không phân biệt đối xử
1. Các quốc gia thành viên công nhận tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, tuân theo pháp luật và có
quyền được pháp luật bảo vệ, được hưởng lợi từ pháp luật một cách bình đẳng mà không bị phân biệt đối xử.

2. Các quốc gia thành viên phải ngăn cấm mọi sự phân biệt đối xử do bị khuyết tật và đảm bảo tất cả người
khuyết tật được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng và hiệu quả chống lại mọi hình thức phân biệt đối xử.

3. Để thúc đẩy sự bình đẳng và xoá bỏ phân biệt đối xử, các quốc gia thành viên sẽ thực hiện tất cả các bước
phù hợp nhằm đảm bảo cung cấp sự điều chỉnh hợp lí.



nước trên thế giới ở những mức độ khác nhau cũng đã quy định vấn đề này
trong các văn bản luật30. Về phương diện pháp lí, nguyên tắc bình đẳng và không
phân biệt đối xử có thể được tiếp cận với các khía cạnh khác nhau trong luật
pháp và dẫn đến các hậu quả không giống nhau 31. Mặt khác để có cơ sở xác định
một hành vi có phải là bình đẳng hoặc phân biệt đối xử với người khuyết tật hay
không cần có các tiêu chí xác định mang tính pháp lí được cơ quan có thẩm
quyền quy định32.
4. Những biện pháp cụ thể cần thiết để nâng cao hay đạt được sự bình đẳng của người khuyết tật sẽ không bị coi
là sự phân biệt đối xử theo các điều khoản của Công ước này.
Điều 12 - Công nhận bình đẳng trước pháp luật

1. Các quốc gia tham gia tái khẳng định rằng người khuyết tật có quyền được công nhận ở tất cả mọi nơi là
những con người trước pháp luật;

2. Các quốc gia tham gia sẽ công nhận người khuyết tật có năng lực pháp lí, trên cơ sở bình đẳng như công dân
khác, trong tất cả các mặt của đời sống;

3. Các quốc gia tham gia sẽ tiến hành các biện pháp thích hợp để người khuyết tật có thể tiếp cận tới những hỗ
trợ mà họ cần khi thực thi năng lực pháp lí của họ;

4. Các quốc gia tham gia đảm bảo rằng tất cả các biện pháp có liên quan đến việc thực thi năng lực pháp lí, sẽ
cung cấp sự bảo vệ thích hợp và hiệu quả, phù hợp với luật quốc tế về nhân quyền, để ngăn ngừa sự lạm dụng.
Sự bảo vệ này sẽ bảo đảm rằng những biện pháp có liên quan tới việc thực hiện năng lực pháp lí sẽ tôn trọng
quyền, ý nguyện và sở thích của người khuyết tật, không bị tranh chấp về quyền lợi và không chịu ảnh hưởng, là
các biện pháp tương thích và thiết kế riêng cho hoàn cảnh của một người, áp dụng trong một thời gian ngắn nhất
có thể và là đối tượng đánh giá thường xuyên của một người hay một cơ quan pháp luật có thẩm quyền, độc lập
và công minh. Sự bảo vệ này phù hợp với mức độ mà các biện pháp này ảnh hưởng tới quyền và lợi ích của một
con người;
Theo các khoản trong Điều này, các quốc gia tham gia sẽ thực thi các biện pháp phù hợp và hiệu quả để đảm bảo

quyền bình đẳng của người khuyết tật về sở hữu hoặc thừa kế tài sản, kiểm soát các vấn đề tài chính của họ, tiếp

cận bình đẳng tới việc vay vốn ngân hàng, thế chấp và các hình thức tín dụng tài chính khác, và sẽ đảm bảo rằng
người khuyết tật không bị tuỳ tiện tước mất tài sản của họ.
30 Các quốc gia trên thế giới có luật pháp chung về chống phân biệt đối xử áp dụng cho mọi công dân, trong đó
có đề cập người khuyết tật (ví dụ - Canada: Luật nhân quyền năm 1985; Airơlen: Luật bình đẳng việc làm năm
1998; Namibia: Luật về việc làm ưu đãi năm 1998...). Các quốc gia có luật pháp về chống phân biệt đối xử chỉ
áp dụng với người khuyết tật (ví dụ - Hoa Kỳ: Luật người khuyết tật năm 1990; Costa Rica: Luật 7600 về cơ hội
bình đẳng cho người khuyết tật năm 1996; Ghana: Luật về người khuyết tật năm 1993; Việt Nam: Luật người
khuyết tật năm 2006...). Hướng tới cơ hội việc làm bình đẳng cho người khuyết tật thông qua hệ thống pháp
luật, ILO, 2006, tr. 25 – 26.
31 Nguyên tắc bình đẳng bao gồm: Bình đẳng trên danh nghĩa; Bình đẳng về cơ hội; Bình đẳng về kết quả.
Trong thực tế, khái niệm bình đẳng về cơ hội được sử dụng nhiều nhất trong văn bản pháp luật ở các quốc gia.
Các hình thức phân biệt đối xử: Phân biệt đối sử trực tiếp; Phân biệt đối sử gián tiếp; Gây phiền nhiễu; Chỉ đạo
và khuyến khích phân biệt đối sử. Kinh nghiệm cho thấy cần quy định cả bốn hình thức phân biệt đối xử nói trên
với người khuyết tật trong pháp luật (“Hướng tới cơ hội việc làm bình đẳng cho người khuyết tật thông qua hệ
thống pháp luật”, ILO, 2006, tr. 18 - 20 và 27 - 29).

32 Công ước về quyền của người khuyết tật 2006, Điều 2 – Các định nghĩa quy định: “... Phân biệt đối xử do bị
khuyết tật có nghĩa là bất cứ hình thức phân biệt, loại trừ hay hạn chế nào do bị khuyết tật, có mục đích hay ảnh
hưởng làm giảm hay huỷ bỏ sự công nhận, thụ hưởng, thực hiện trên cơ sở bình đẳng với những người khác, tất
cả các quyền con người và tự do cơ bản về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá, dân sự hay bất cứ lĩnh vực nào
khác. Nó bao gồm tất cả các hình thức phân biệt đối xử, bao gồm cả việc từ chối không tạo ra sự điều chỉnh hợp
lí”.


×