Tải bản đầy đủ (.doc) (103 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ THẾ GIỚI QUAN DUY vật BIỆN CHỨNG của SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG NÔNG NGHIỆP và NÔNG THÔN bắc bộ HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 103 trang )

MỤC LỤC
Trang
3

MỞ ĐẦU

Chương 1.

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN THẾ
GIỚI QUAN DUY VẬT BIỆN CHỨNG CỦA SINH
VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG NÔNG NGHIỆP VÀ

11

PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN BẮC BỘ

1.1.

Những vấn đề lý luận về thế giới quan duy vật biện
chứng của sinh viên Trường Cao đẳng Nông nghiệp và

1.2.

Phát triển nông thôn Bắc Bộ
Thực trạng thế giới quan duy vật biện chứng của sinh

11

viên Trường Cao đẳng Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn Bắc Bộ hiện nay
Chương 2.



30

YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THẾ GIỚI
QUAN DUY VẬT BIỆN CHỨNG CỦA SINH VIÊN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT
TRIỂN NÔNG THÔN BẮC BỘ HIỆN NAY

2.1.

50

Nhân tố tác động và yêu cầu với việc phát triển thế
giới quan duy vật biện chứng của sinh viên Trường
Cao đẳng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bắc

2.2.

Bộ hiện nay
Một số giải pháp phát triển thế giới quan duy vật biện

50

chứng của sinh viên Trường Cao đẳng Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn Bắc Bộ hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

59



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thế giới quan duy vật biện chứng có vai trò quan trọng trong nhận thức
và cải tạo thực tiễn - “chìa khóa” giúp con người nhận thức và chinh phục thế
giới. Chỉ khi nào nắm vững lý luận TGQDVBC, biết vận dụng các nguyên tắc
phương pháp luận một cách sáng tạo, phù hợp với hoàn cảnh cụ thể; khi đó
vai trò và hiệu lực cải tạo tự nhiên, biến đổi xã hội sẽ được củng cố, tăng
cường. Sinh viên Trường Cao đẳng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bắc
Bộ là những cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý kinh tế tương lai trong lĩnh vực
nông nghiệp, nông thôn của đất nước. Vì vậy, phát triển TGQDVBC của họ
không chỉ là việc làm thường xuyên lâu dài, mà còn là vấn đề cấp thiết trong
phát triển ngành nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới; góp phần ngăn ngừa,
phòng, chống thực phẩm bẩn, giữ gìn, bảo vệ môi trường trong sạch, lành
mạnh, bảo vệ sức khỏe cộng đồng nhân dân.
Nhìn vào thực trạng TGQDVBC của sinh viên Trường Cao đẳng
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bắc Bộ hiện nay cho thấy, bên cạnh
mặt tích cực, tiến bộ là cơ bản, vẫn còn những hạn chế, yếu kém nhất
định. Một bộ phận sinh viên có phương pháp xem xét, đánh giá và giải
quyết các vấn đề học tập, sinh hoạt không dựa trên cơ sở khoa học, chưa
tuân thủ triệt để nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Một số sinh viên đứng trước
khó khăn, bế tắc trong học tập, công việc và các vấn đề phức tạp của đời
sống xã hội lại xem xét, đánh giá và giải quyết vấn đề theo xu hướng duy
tâm, siêu hình, máy móc. Do đó, trong nhận thức, đánh giá và giải quyết
các vấn đề thực tiễn dễ mắc sai lầm, hiệu quả thấp; gặp nhiều khó khăn,
bế tắc trong cuộc sống, hoạt động nghề nghiệp.
Hiện nay, nước ta đang trong thời kỳ đổi mới đẩy mạnh CNH, HĐH đất
nước, yêu cầu xây dựng, phát triển nông nghiệp, nông thôn và nông dân

theo hướng hiện đại, đã và đang đặt ra nhiều vấn đề mới khó khăn, phức

2


tạp. Nếu không có đủ tri thức, TGQ và phương pháp luận khoa học để nhận
thức đúng bản chất, quy luật tác động của chúng thì một mặt, không thể
định ra được những phương cách giải quyết chính xác, hiệu quả những đòi
hỏi bức thiết của cuộc sống. Mặt khác, với TGQ và phương pháp luận duy
tâm, tôn giáo, phi khoa học sinh viên dễ mắc sai lầm, chệch hướng trong
nhận thức và giải quyết các vấn đề thực tiễn phức tạp. Đại hội Đại biểu toàn
Quốc lần thứ X của Đảng khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động” [22;
tr.109]. Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định “Kiên định chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới” [24, tr.186]. Như vậy, sự “thống
trị” của hệ tư tưởng - TGQ Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong toàn bộ
hoạt động của Đảng, là nhân tố nền tảng giữ vững con đường, mục tiêu định
hướng XHCN mà Đảng, Bác Hồ và Nhân dân ta đã lựa chọn. Vì vậy, trên
cương vị là những cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý kinh tế trong lĩnh vực
nông nghiệp tương lai, đòi hỏi sinh viên Nhà trường phải có TGQDVBC để
xây dựng nhân sinh quan, lẽ sống và phương pháp luận khoa học, cách
mạng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ thời kỳ mới.
Hơn nữa, từ trước đến nay chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu
một cách cơ bản, hệ thống và chuyên sâu về TGQDVBC của sinh viên
Trường Cao đẳng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bắc Bộ. Với những lý
do trên, tác giả chọn vấn đề ‘‘Thế giới quan duy vật biện chứng của sinh
viên Trường Cao đẳng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bắc Bộ hiện
nay’’ làm đề tài luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Triết học.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
* Nhóm công trình nghiên cứu về thế giới quan và thế giới quan duy

vật biện chứng
Tác giả Trần Thước (1993), trong tác phẩm “Sự hình thành thế giới
quan xã hội chủ nghĩa ở tầng lớp trí thức Việt Nam” [54] đã trình bày khái

3


quát về vấn đề TGQ, TGQ XHCN và tính quy luật hình thành TGQ XHCN
ở tầng lớp trí thức Việt Nam. Đồng thời, tác giả khẳng định TGQ XHCN
do C.Mác và Ph.Ăngghen sáng lập là TGQ của giai cấp vô sản - kim chỉ
nam của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, của phong trào giải
phóng dân tộc, đấu tranh giải phóng xã hội khỏi áp bức, bóc lột.
Các tác giả: Nguyễn Huy Hoàng (2003), “Mấy suy nghĩ về việc xác
định bản chất của thế giới quan” [35]; Hoàng Đình Cúc (2007), “Xây dựng,
củng cố thế giới quan khoa học cho thanh niên, sinh viên nước ta hiện nay”
[10]; A.P.Môi Xô ep và I.A.Môi ep, “Thế giới quan và hệ tư tưởng” [1]; Lê
Xuân Vũ (1986), “Thế giới quan Mác - Lênin trong đời sống tinh thần của
nhân dân ta” [74], v.v., đã có những luận giải khá sâu sắc về vấn đề TGQ
nói chung, TGQDVBC nói riêng; chỉ ra các hình thức TGQ từ khi hình
thành xã hội đến nay; làm rõ vai trò, tác động của TGQ, TGQDVBC đối
với quá trình nhận thức và cải tạo thực tiễn của con người. Tác giả Nguyễn
Huy Hoàng đi sâu làm rõ bản chất của TGQ, trên cơ sở đó, khẳng định
TGQ triết học Mác - Lênin khác về chất so với các TGQ duy tâm, tôn giáo.
Tác giả Hoàng Đình Cúc tập trung nghiên cứu về TGQ khoa học ở đối
tượng thanh niên, sinh viên nước ta hiện nay. Tác giả khẳng định, thanh
niên, sinh viên là trụ cột của nước nhà, do đó, xây dựng, củng cố TGQ
khoa học là rất quan trọng và cấp thiết hiện nay; TGQ của thanh niên đang
trong quá trình định hình, chưa rõ nét và còn thiếu vững chắc. Tác giả
cũng đi sâu khái quát một số quy luật về xây dựng, củng cố TGQ cho đối
tượng này. Tác giả A.P.MôiXôep và I.A.Môiep tập trung luận giải khá rõ

mối quan hệ biện chứng giữa TGQ và hệ tư tưởng, chỉ ra các nhân tố cấu
thành nên TGQ và các yếu tố tác động đến hệ tư tưởng. Tác giả đưa ra
một số biện pháp xây dựng TGQ, xác lập hệ tư tưởng đúng đắn, tiến bộ.

4


* Nhóm công trình nghiên cứu về xây dựng, bồi dưỡng và phát triển thế
giới quan duy vật biện chứng
Tác giả Bùi Ỉnh (1988), trong tác phẩm “Vấn đề xây dựng thế giới
quan duy vật biện chứng đối với cán bộ, đảng viên dân tộc thiểu số trong
thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta” [39] đã luận giải khá rõ quan niệm,
khái niệm, bản chất TGQDVBC, chỉ ra biểu hiện TGQDVBC ở cán bộ, đảng
viên dân tộc thiểu số trong thời kỳ quá độ lên CNXH, nhất là một số hạn chế
cần khắc phục. Đồng thời, chỉ rõ một số đặc thù về TGQDVBC của đối
tượng này, đưa ra giải pháp hữu hiệu nhằm xây dựng TGQDVBC cho họ.
Tác giả Nguyễn Văn Vinh (2001), trong tác phẩm “Phát triển thế giới
quan duy vật biện chứng cho sĩ quan cấp phân đội quân đội nhân dân Việt
Nam” [75] đã đi sâu phân tích, làm rõ cấu trúc TGQDVBC, tầm quan trọng
phát triển TGQDVBC cho đội ngũ sĩ quan cấp phân đội Quân đội nhân dân
Việt Nam. Tác giả chỉ ra một số quy luật phát triển TGQDVBC cho đối
tượng này; phân tích những nhân tố quy định sự phát triển TGQDVBC ở họ.
Tác giả đưa ra yêu cầu, đề xuất một số giải pháp phát triển TGQDVBC cho
sĩ quan cấp phân đội Quân đội nhân dân Việt Nam đáp ứng yêu cầu, nhiệm
vụ trong tình hình mới.
Các tác giả: Nguyễn Thị Toan (2004), “Bồi dưỡng thế giới quan khoa
học cho sinh viên sư phạm thông qua môn Triết học Mác - Lênin” [62]; Trần
Viết Quân (2010), “Vấn đề bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Tây Nguyên hiện nay” [47]; Đào Thị
Minh Thảo (2010), “Vấn đề bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho

đội ngũ giáo viên tiểu học ở nước ta hiện nay (từ thực tế Hải Phòng) ” [57],
v.v., đã đề cập tới một số nội dung cơ bản về vấn đề TGQ như: Khái niệm,
vị trí, vai trò, cấu trúc, bản chất của TGQ nói chung, TGQDVBC nói riêng;
tầm quan trọng và tính tất yếu xây dựng, phát triển TGQDVBC trong giai
đoạn hiện nay. Các công trình đã chỉ ra những điều kiện khách quan và nhân
tố chủ quan hình thành TGQDVBC. Qua đó, xác định những nguyên tắc và

5


phương pháp luận xây dựng TGQDVBC cho các đối tượng cụ thể trong thời
kỳ quá độ đi lên CNXH ở nước ta. Các công trình nghiên cứu còn trình bày
một số quan điểm, phương hướng và giải pháp xây dựng, bồi dưỡng và phát
triển TGQDVBC cho từng đối tượng cụ thể, gắn với các vùng miền khác
nhau trong giai đoạn hiện nay.
* Nhóm công trình khoa học bàn về phát triển tri thức khoa học, xây
dựng niềm tin, lý tưởng cách mạng
Tác giả Trần Xuân Sầm (1992), trong tác phẩm “Thống nhất giữa tri
thức khoa học và tình cảm cách mạng với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam” [48] đã tập trung phân tích, làm rõ vị trí của nhân tố tri thức
và tình cảm, mối quan hệ biện chứng giữa các nhân tố đó trong hoạt động của
con người, vai trò thống nhất giữa tri thức khoa học và tình cảm cách mạng
của giai cấp lãnh đạo cách mạng đối với sự phát triển của xã hội. Trên cơ sở
đó, đưa ra một số phương hướng và giải pháp khắc phục sự không thống nhất
giữa tri thức khoa học và tình cảm cách mạng của chủ thể lãnh đạo cách mạng
trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.
Tác giả Lương Thanh Hân (2012), trong tác phẩm “Phát triển bản lĩnh
chính trị và tri thức khoa học của giảng viên trẻ khoa học xã hội nhân văn ở các
trường sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” [36] đã tập trung luận
giải tương đối cơ bản và hệ thống về phát triển bản lĩnh chính trị và tri thức

khoa học của giảng viên trẻ khoa học xã hội và nhân văn ở các trường sĩ quan.
Tác giả khẳng định, đó là quá trình làm cho bản lĩnh chính trị và tri thức khoa
học phát triển đồng bộ, bổ sung hỗ trợ cho nhau trong nhân cách sư phạm thỏa
mãn yêu cầu giảng dạy và nghiên cứu khoa học của giảng viên trẻ khoa học xã
hội nhân văn ở các trường sĩ quan. Tác giả cũng đưa ra giải pháp phát triển hài
hòa bản lĩnh chính trị và tri thức khoa học của giảng viên trẻ khoa học xã hội
nhân văn ở các trường sĩ quan hiện nay.
Các tác giả: Phan Đình Nhân (1996), “Nâng cao niềm tin về Chủ nghĩa xã
hội khoa học của học viên các trường sĩ quan Quân đội hiện nay” [46]; Đỗ Đào

6


Khái (2002), “Vai trò của tư duy biện chứng đối với phát triển niềm tin cộng sản
của học viên Trường sĩ quan Tăng - Thiết giáp hiện nay” [40], v.v., đã tập trung
luận giải với nhiều góc độ, khía cạnh vấn đề xây dựng, bồi dưỡng, phát triển niềm
tin cách mạng, lý tưởng cộng sản cho đối tượng thanh niên, trong đó có học viên
các trường sĩ quan Quân đội. Về cơ bản, các công trình khoa học đều khẳng định
vai trò của niềm tin cách mạng, lý tưởng cộng sản đối với sự hoàn thiện nhân cách
nói chung của con người; chỉ ra được những vấn đề mang tính quy luật và đề xuất
những giải pháp nhằm phát triển niềm tin cộng sản, lý tưởng cách mạng cho từng
đối tượng cụ thể.
Tuy nhiên, cho đến nay trong số những công trình khoa học đã được
công bố, chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách cơ bản, hệ thống và
chuyên sâu về TGQDVBC của sinh viên Trường Cao đẳng Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn Bắc Bộ, đưa ra giải pháp phát triển TGQDVBC của họ.
Vì vậy, trên cơ sở trân trọng và kế thừa có chọn lọc những thành tựu của các
công trình trên, tác giả lựa chọn vấn đề “Thế giới quan duy vật biện chứng
của sinh viên Trường Cao đẳng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bắc Bộ
hiện nay” làm luận văn thạc sĩ.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Làm rõ một số vấn đề lý luận, thực tiễn và đề xuất giải pháp phát triển
thế giới quan duy vật biện chứng của sinh viên Trường Cao đẳng Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn Bắc Bộ hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ quan niệm, cấu trúc thế giới quan duy vật biện chứng, đặc thù
phát triển thế giới quan duy vật biện chứng của sinh viên Trường Cao đẳng
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bắc Bộ hiện nay.

7


- Phân tích, đánh giá thực trạng, chỉ ra nguyên nhân, những vấn đề đặt
ra đối với phát triển thế giới quan duy vật biện chứng của sinh viên Trường
Cao đẳng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bắc Bộ hiện nay.
- Đề xuất yêu cầu và một số giải pháp cơ bản phát triển thế giới quan
duy vật biện chứng của sinh viên Trường Cao đẳng Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn Bắc Bộ hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Thế giới quan duy vật biện chứng của sinh viên Trường Cao đẳng
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bắc Bộ.
*Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu thế giới quan duy vật biện chứng của sinh viên Trường Cao
đẳng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bắc Bộ. Các số liệu điều tra, khảo
sát được nghiên cứu chủ yếu từ năm 2010 trở lại đây.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu

* Cơ sở lý luận

Luận văn được xây dựng dựa trên những quan điểm cơ bản của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam về xây dựng, củng cố và phát triển thế giới quan
duy vật biện chứng trong giai đoạn hiện nay.
* Cơ sở thực tiễn
Luận văn kế thừa có chọn lọc các công trình nghiên cứu đã được
công bố, các số liệu báo cáo tổng kết của các cơ quan, đơn vị thuộc Trường
Cao đẳng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bắc Bộ. Đồng thời, dựa
trên kết quả khảo sát, điều tra của tác giả về thực trạng thế giới quan duy
vật biện chứng của sinh viên Trường Cao đẳng Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn Bắc Bộ hiện nay.

8


* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện chủ yếu dựa trên cơ sở vận dụng phương pháp
luận của Triết học Mác - Lênin và sử dụng một số phương pháp cụ thể như:
Phân tích, tổng hợp, điều tra xã hội học, phương pháp chuyên gia, phương
pháp tiếp cận hệ thống, phương pháp lôgíc, khảo sát thực tiễn, v.v..
6. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp luận cứ khoa học
để ban giám hiệu và các lực lượng chức năng Trường Cao đẳng Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn Bắc Bộ vận dụng, đề ra những chủ trương, biện pháp
nhằm phát triển thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên Nhà trường
trong giai đoạn hiện nay.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong giáo dục chuyên đề
cho sinh viên Nhà trường và công tác nghiên cứu, giảng dạy các chủ đề có
liên quan trong các trường cao đẳng, đại học hiện nay.
7. Kết cấu của đề tài

Luận văn gồm: Mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo, phụ lục và một số ảnh.

9


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN THẾ GIỚI QUAN DUY VẬT
BIỆN CHỨNG CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG NÔNG NGHIỆP
VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN BẮC BỘ

1.1. Những vấn đề lý luận về thế giới quan duy vật biện chứng của
sinh viên Trường Cao đẳng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bắc Bộ
1.1.1. Thế giới quan và thế giới quan duy vật biện chứng
* Thế giới quan
Khái niệm TGQ trong Từ điển triết học (Liên Xô) - Bản dịch ra tiếng
Việt, có sửa chữa và bổ sung của Nxb Tiến bộ và Nxb Sự thật, 1986 viết:
“Thế giới quan là toàn bộ những nguyên tắc quan điểm và niềm tin quy định
hướng hoạt động và quan hệ của từng người, của một tập đoàn xã hội, của
một giai cấp hay của xã hội nói chung đối với thực tại”[50, tr.539].
Từ điển tiếng Việt, Nxb Hà Nội - Đà Nẵng, 1996, nêu rõ: “Thế giới
quan là quan niệm thành hệ thống về thế giới, về các hiện tượng tự nhiên và
xã hội” [79, tr.901].
Một số nhà nghiên cứu ở Việt Nam cũng đưa ra định nghĩa về TGQ.
Theo tác giả Trần Thước: “Thế giới quan là hệ thống những quan điểm chung
nhất về thế giới (toàn bộ sự vật và hiện tượng thuộc tự nhiên và xã hội), về vị
trí và chức năng của con người trong thế giới, mối quan hệ của con người đối
với thế giới và với chính bản thân mình” [54, tr.28]. Tác giả Hoàng Đình Cúc
định nghĩa: “Thế giới quan là sự nhìn nhận toàn bộ thế giới vật chất và tinh thần.
Trong sự nhìn nhận ấy có các quan niệm về thế giới, về con người và cuộc sống

của con người. Vì vậy, có thể hiểu rằng thế giới quan là tổng hợp những quan
niệm về thế giới, về vị trí của con người trong thế giới, về chính bản thân, về cuộc
sống của con người và loài người” [10, tr.24].

Thế giới quan hiểu theo nghĩa chung nhất: Là hệ thống những quan
điểm, quan niệm của con người về quá trình tự nhiên, xã hội được thực

10


hiện trong thế giới cùng các mối quan hệ của con người đối với thế giới
ấy.
Như vậy, TGQ có thể được luận giải ở nhiều góc độ, cấp độ và khía cạnh
khác nhau tùy theo cách tiếp cận và phân tích. Tuy nhiên, dù ở cấp độ nào, TGQ
vẫn luôn được hiểu là sự phản ánh những điều kiện sinh hoạt vật chất, là sản phẩm
tinh thần của con người, phản ánh thế giới hiện thực thông qua nhu cầu, lợi ích, lý
tưởng của cá nhân và xã hội, phát triển cùng sự phát triển nhận thức và hoạt động
thực tiễn. TGQ là cách thức nhìn nhận và giải thích các hiện tượng tự nhiên, xã hội
thành hệ thống quan điểm thống nhất. TGQ là công cụ đắc lực giúp con người
khám phá, chinh phục và cải tạo thế giới khách quan. TGQ có vai trò to lớn
trong cuộc sống của mỗi con người, mỗi cộng đồng người, mỗi giai cấp và
mỗi xã hội nói chung.
* Thế giới quan duy vật biện chứng
Quan niệm thế giới quan duy vật biện chứng
Thế giới quan duy vật biện chứng là hình thức phát triển cao của TGQ triết
học mà hạt nhân lý luận của nó là chủ nghĩa duy vật biện chứng. Về thực chất,
TGQDVBC là hệ thống các quan điểm lý luận chung nhất, coi tự nhiên, xã hội và
lịch sử như một “chỉnh thể động” có khả năng tự phát triển theo những quy luật
khách quan vốn có của nó. Do đó, TGQDVBC hoàn toàn đối lập với TGQ duy
tâm, tôn giáo và siêu hình.

Thế giới quan duy vật biện chứng là trình độ phát triển cao của thế giới quan
triết học mà hạt nhân lý luận của nó là chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện
chứng duy vật, là hệ thống những quan niệm chung nhất về tự nhiên, xã hội và về
con người.
Như vậy, thế giới quan duy vật biện chứng là một hệ thống quan điểm
duy vật biện chứng về hoàn chỉnh về tự nhiên, xã hội và tư duy, cùng những
định hướng giá trị của con người trong quan hệ với hiện thực dựa trên việc
giải quyết một cách duy vật biện chứng vấn đề cơ bản của triết học.

11


Thế giới quan duy vật biện chứng mang tính khoa học và tính cách
mạng triệt để nhất, nêu cao tính phê phán đối với xã hội cũ, xây dựng xã hội
mới; đánh giá đúng vị trí, vai trò của con người trong thế giới hiện thực và
trong thực tiễn cải tạo thế giới. Do vậy, TGQDVBC khác hẳn về chất so với
các TGQ đối lập như: TGQ duy tâm, tôn giáo, TGQ tư sản, v.v.. TGQDVBC
phát triển trên cơ sở chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch
sử. TGQDVBC phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan và những lợi ích căn
bản của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, khẳng định con người là
chủ thể sáng tạo ra lịch sử. TGQDVBC là sự thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn, bắt nguồn từ bản chất triết học Mác - Lênin. Khi phê phán các nhà triết
học trước đây và khẳng định mục đích của triết học mới, C.Mác viết: “Các
nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, vấn đề là
cải tạo thế giới” [7, tr.12].
Cấu trúc của thế giới quan duy vật biện chứng gồm những yếu tố cơ
bản: Tri thức khoa học, niềm tin khoa học và lý tưởng cách mạng…
Tri thức khoa học là nhân tố quan trọng của TGQDVBC. TGQDVBC
gồm những tri thức đúng đắn về tự nhiên, xã hội và con người. Tuy nhiên,
không phải bất kỳ tri thức nào về tự nhiên, xã hội và con người đều là

TGQDVBC, chỉ những tri thức khoa học, biểu thị những quan điểm chung về
tồn tại, nhận thức mới được coi TGQDVBC. Tri thức của TGQDVBC là
những hiểu biết sâu sắc của con người về thế giới, là kết quả của quá trình
hoạt động nhận thức và thực tiễn đúng đắn của con người trong hiện thực
khách quan. Nó bao quát những lĩnh vực rộng lớn như: Tri thức về tự nhiên,
về xã hội, về con người. Tri thức khoa học có thể đi sâu vào một số lĩnh vực
cụ thể như: Tri thức về chính trị, kinh tế, văn hóa, ngoại giao, tri thức về kỹ
thuật và công nghệ, v.v.. Trong nội dung tri thức khoa học của TGQDVBC,
tri thức triết học Mác - Lênin đóng vai trò nền tảng, là hạt nhân của
TGQDVBC. Tri thức chỉ gia nhập vào TGQDVBC khi trở thành niềm tin
khoa học của con người; đồng thời, chỉ khi nào biến thành niềm tin khoa học,

12


tri thức mới trở nên sâu sắc, bền vững, trở thành cơ sở vững chắc cho mọi suy
nghĩ và hành động của con người.
Niềm tin khoa học có vai trò tạo động lực thúc đẩy quá trình nhận thức, cải
tạo hiện thực của con người, được phát triển trên cơ sở của tri thức khoa học. Về
cấu trúc, niềm tin chính là sự hòa quyện giữa tri thức, tình cảm và ý chí cá nhân.
Niềm tin khoa học là một trạng thái tâm lí - tinh thần đặc biệt, có vai trò to
lớn trong hoạt động của con người. Có niềm tin đúng đắn con người luôn giữ
vững ý chí, tăng thêm nghị lực, lòng nhiệt tình và sự cổ vũ cần thiết đối với
mọi công việc. Niềm tin khoa học là một thành tố cơ bản trong cấu trúc của
TGQDVBC, được xây dựng và phát triển dựa trên cơ sở của tri thức khoa
học. Con người khi có niềm tin đúng đắn, sâu sắc và mãnh liệt vào một điều
gì đó, luôn coi đó là chân lý; từ đó, kiên quyết hành động theo những tư
tưởng, nguyên tắc đã tin, đã lựa chọn. Ngược lại, trong cuộc sống không có
niềm tin khoa học, hoặc thiếu niềm tin vững vàng, con người dễ bị mất
phương hướng hoặc quá trình nhận thức và hoạt động thực tiễn dễ bị khủng

hoảng, bế tắc.
Lý tưởng cách mạng được hiểu là hình mẫu, sự hoàn thiện, mục tiêu
cao nhất của ý nguyện và hoạt động thực tiễn đối với cá nhân, một nhóm
người hay của một xã hội. Đây là một nhân tố cơ bản trong cấu trúc của
TGQDVBC, có vai trò quan trọng và sức mạnh định hướng to lớn đối với chủ
thể trong hoạt động thực tiễn. Lý tưởng cách mạng là sự phản ánh hiện thực
khách quan trong ý thức con người dưới dạng hình tượng, chuẩn mực mà con
người cần phấn đấu đạt tới. Lý tưởng cách mạng hướng hoạt động của con
người vào việc thực hiện chân lý và cải tạo thực tiễn. Sống và hoạt động có lý
tưởng đúng đắn, cao đẹp giúp con người tạo niềm tin, hy vọng lớn lao, góp
phần hình thành thái độ, lập trường sống, lao động, học tập và công tác lành
mạnh, tích cực. Đó là những cơ sở quan trọng để đạt tới những giá trị cao đẹp:
Chân, thiện, mỹ.

13


Như vậy, TGQDVBC được cấu thành thống nhất biện chứng bởi các
yếu tố tri thức khoa học, niềm tin khoa học và lý tưởng cách mạng. Trong đó,
yếu tố tri thức khoa học đóng vai trò là cơ sở, nền tảng để phát triển niềm tin
khoa học, lý tưởng cách mạng. Đồng thời, niềm tin khoa học và lý tưởng cách
mạng cũng tác động trở lại mạnh mẽ tới quá trình lĩnh hội tri thức khoa học
được sâu sắc, toàn diện và vững chắc. TGQDVBC không chỉ có vai trò và ý
nghĩa quan trọng về mặt lý luận nhận thức, mà còn có một ý nghĩa lớn lao về
mặt thực tiễn. Sự thống nhất biện chứng của những yếu tố tri thức khoa học,
niềm tin khoa học và lý tưởng cách mạng giúp con người luôn có nhận thức
đúng đắn, tạo cơ sở, điều kiện cho hoạt động cải tạo thế giới hiện thực ngày càng
hiệu quả hơn.
Đặc trưng cơ bản của thế giới quan duy vật biện chứng
Thứ nhất, thế giới quan duy vật biện chứng là thế giới quan khoa học, loại

hình phát triển cao nhất của lịch sử loài người so với các loại hình thế giới quan
khác đã có trong lịch sử triết học. Khác với TGQ duy tâm, tôn giáo phản ánh
xuyên tạc, hư ảo và hoang đường hiện thực khách quan, không đánh giá hết vị
trí, vai trò của con người trong nhận thức, cải tạo và phát triển xã hội.
TGQDVBC phản ánh một cách đầy đủ, sâu sắc và chân thực hiện thực khách
quan; giúp con người tin tưởng vào khả năng nhận thức và cải tạo thế giới.
Nội dung của TGQDVBC được biểu hiện ở nguyện vọng vươn tới sự công
bằng, bình đẳng trong xã hội; xây dựng, thiết lập những quan hệ sản xuất mới,
tiến bộ, xây dựng con người mới. Nó đối lập với sự bảo thủ, trì trệ và lạc hậu.
Tính chất khoa học của TGQDVBC giúp con người có khả năng nhìn nhận và
đánh giá được chuẩn xác mọi sự vật, hiện tượng trong cuộc sống, nhất là đối
với những cái mới, cái tiến bộ thực sự; kiên quyết phê phán, đấu tranh chống
lại những cái cũ, cái xấu đã lỗi thời, lạc hậu. TGQDVBC luôn có cách nhìn
nhận, đánh giá đúng đắn, đầy đủ và tương đối sâu sắc vị trí, vai trò, tầm quan
trọng của con người trong thế giới hiện thực, đối với sự phát triển của xã hội.

14


Thứ hai, thế giới quan duy vật biện chứng là sự thể hiện thống nhất chặt
chẽ giữa lý luận và thực tiễn. Đây là một trong những đặc trưng của
TGQDVBC, cơ sở quan trọng để phân biệt với TQG duy tâm, tôn giáo. Sự thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn của TGQDVBC được bắt nguồn từ bản chất của
triết học Mác - Lênin - hạt nhân của TGQDVBC. Điều này được C.Mác khẳng
định trong luận cương của Ông về PhoiơBắc: “Các nhà triết học đã chỉ giải thích
thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới” [7, tr.12].
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Thống nhất giữa lý luận với thực tiễn là một
nguyên tắc cơ bản của lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin. Người dạy rằng: “Trong
lúc học lý luận, phải nghiên cứu công việc thực tế, kinh nghiệm thực tế” [34,tr.
272]. Sự thể hiện rõ nhất của đặc trưng này ở chỗ: Những tri thức, quan niệm,

nguyên tắc và niềm tin trong TGQDVBC đều được bắt nguồn từ thực tiễn, được
khẳng định và phát triển trong quá trình hoạt động thực tiễn cách mạng và sáng
tạo của con người. Đồng thời, có vai trò định hướng đúng đắn cho mỗi chủ thể
TGQ trong hoạt động nhận thức và thực tiễn nhằm đạt hiệu quả cao trong hoạt
động cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội và cải tạo con người.
Thứ ba, thế giới quan duy vật biện chứng là sự thống nhất chặt chẽ
giữa thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng. C.Mác và
Ph.Ăngghen đã cải tạo một cách biện chứng chủ nghĩa duy vật cũ, khắc phục
triệt để tính chất siêu hình tạo ra hình thức cao của chủ nghĩa duy vật biện

chứng. Hai ông cũng đã cải tạo một cách duy vật phép biện chứng duy tâm
của Hêghen, giải thoát nó khỏi chủ nghĩa duy tâm, đặt nó trên cơ sở hiện
thực tạo ra hình thức cao của phép biện chứng là phép biện chứng duy vật.
TGQDVBC của triết học mácxít ra đời đã khắc phục được hạn chế của
TGQ duy vật thời cổ đại, của TGQ duy vật siêu hình thế kỷ XVII - XVIII,
cải tạo phép biện chứng duy tâm của Hêghen tạo nên sự thống nhất chặt
chẽ giữa TGQ duy vật và phương pháp luận biện chứng.

15


Thứ tư, thế giới quan duy vật biện chứng cho thấy tinh thần lạc quan
khoa học. Đây là một đặc trưng tiêu biểu của TGQDVBC khi đã đạt tới một
trình độ nhất định. Nếu như TQG duy tâm, tôn giáo thường có xu hướng đặt
niềm tin vào “thế giới bên kia”, hoặc vào “thần thánh”, vào “chúa”, thì
TGQDVBC đặt niềm tin vào chính mình, thông qua sự nỗ lực nhận thức và
quyết tâm cải tạo thế giới hiện thực bằng hoạt động thực tiễn. Tinh thần lạc
quan của TGQDVBC được xây dựng trên cơ sở thực tiễn, khoa học; biểu thị
niềm tin sâu sắc, mạnh mẽ của con người vào sự tiến bộ không ngừng của xã
hội, thông qua hoạt động xây dựng, cải tạo của con người. TGQDVBC trang

bị, cổ vũ cho con người lòng tin sâu sắc, vững chắc vào sự phát triển, thắng lợi
tất yếu của cái mới, cái thiện, cái tiến bộ trước những cái lạc hậu, cái ác, cái phi
nghĩa trong đời sống thực tiễn; động viên, cổ vũ và khích lệ con người tích cực,
chủ động, sáng tạo trong nhận thức và cải tạo hiện thực khách quan, giúp xã
hội phát triển không ngừng.
Thứ năm, thế giới quan duy vật biện chứng thể hiện sâu sắc tính đảng.
Đây là đặc trưng nổi bật của TGQDVBC. Điều này được thể hiện, các chủ thể
TGQDVBC, các đảng cộng sản, giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở
các nước trên thế giới phải luôn có thái độ kiên quyết, dứt khoát đoạn tuyệt
với hệ tư tưởng tư sản, tích cực đấu tranh chống các thế lực phản động, thù
địch. Đồng thời, cũng đòi hỏi một tinh thần quyết tâm cao, không khoan
nhượng trong đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, xét lại, chống lại hệ tư tưởng
tư sản, tàn dư tư tưởng phong kiến; mọi biểu hiện phi đạo đức, phi văn hóa
trong xã hội. V.I.Lênin nhấn mạnh: “Nó là một học thuyết hoàn bị và chặt
chẽ; nó cung cấp cho người ta một thế giới quan hoàn chỉnh, không thỏa hiệp
với bất cứ một sự mê tín nào, một thế lực phản động nào, một hành vi nào bảo
vệ sự áp bức của tư sản” [68, tr.50].

1.1.2. Một số nét khái quát về Trường Cao đẳng Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn Bắc Bộ
* Đặc điểm hoạt động, chức năng, nhiệm vụ của Nhà trường

16


Tiền thân của Trường Cao đẳng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Bắc Bộ là Trường Trung học Nghiệp vụ Quản lý Trung ương, thuộc Bộ
Nông trường; được thành lập ngày 16 tháng 01 năm 1961. Năm 1998, trên
cơ sở hợp nhất giữa Trường Trung học Nghiệp vụ Quản lý và Trường
Công nhân Kỹ thuật Chăn nuôi gia cầm Trung ương, trường đổi tên thành

Trường Trung học Dạy nghề Nông nghiệp và Phát triển nông thôn I. Năm
2007, Trường được nâng cấp thành Trường Cao đẳng Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn Bắc Bộ như hiện nay.
Nhà trường có đội ngũ cán bộ giảng viên có kỹ năng về chuyên môn tốt
với 90% giảng viên có trình độ trên đại học, trong đó 06 tiến sĩ, 120 thạc sĩ.
Với kinh nghiệm 54 năm xây dựng và phát triển, Nhà trường đã xây dựng
được một mạng lưới với các cơ sở đào tạo có uy tín trong cả nước và các đối
tác nước ngoài trong thực hiện các nhiệm vụ đào tạo, nghiên cứu và chuyển
giao khoa học kỹ thuật. Từ khi thành lập đến nay, Nhà trường đã đào tạo được
trên 40 ngàn cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý kinh tế nông nghiệp cho ngành
nông nghiệp và nông thôn. Trong những năm đổi mới vừa qua, Nhà trường đã
góp phần tích cực vào việc đào tạo nguồn nhân lực cho ngành nông nghiệp và
phát triển nông thôn.
Chức năng, nhiệm vụ của Nhà trường: Phát triển nguồn nhân lực
nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học công nghệ; hội nhập khu
vực và quốc tế, góp phần phát triển nguồn nhân lực phục vụ CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn khu vực đồng bằng Bắc Bộ và miền núi trung du miền Bắc;
trong đó, lấy đào tạo nguồn nhân lực lĩnh vực nông, lâm nghiệp và phát triển
nông thôn làm trọng điểm. Nhà trường có nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực đội ngũ cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý kinh tế trong lĩnh vực nông nghiệp,
nông thôn của đất nước. Xây dựng tầm nhìn, chiến lược, kế hoạch phát triển
Nhà trường. Triển khai các hoạt động đào tạo trình độ cao đẳng, đại học, các
nhiệm vụ được Bộ trưởng giao theo quy định của pháp luật. Phát triển các

17


chương trình đào tạo theo mục tiêu xác định; bảo đảm sự liên thông giữa các
chương trình và trình độ đào tạo. Thực hiện nghiên cứu khoa học, tư vấn và
chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn
theo quy định của pháp luật. Thực hiện đào tạo nghề cho lao động nông thôn

theo phân công của Bộ trưởng và quy định pháp luật. Thực hiện hợp tác quốc
tế; liên kết, hợp tác với các tổ chức về đào tạo, nghiên cứu khoa học, chuyển
giao công nghệ theo quy định của pháp luật, v.v..
* Đặc điểm sinh viên Trường Cao đẳng Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn Bắc Bộ
Sinh viên Nhà trường là những học sinh tốt nghiệp phổ thông trung
học, được tuyển chọn chặt chẽ theo chế độ tuyển sinh (hoặc cử tuyển) của Bộ
Giáo dục và Đào tạo. Sau khi trúng tuyển, họ có nhiệm vụ thực hiện các kế
hoạch học tập, rèn luyện theo mục tiêu, yêu cầu GD - ĐT để trở thành những
cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý kinh tế trong lĩnh vực nông nghiệp, nông
thôn. Qua quá trình học tập, rèn luyện cho thấy, sinh viên Nhà trường có một
số đặc điểm cơ bản sau:
Về năng lực trình độ, sinh viên Nhà trường là những thanh niên được
học tập cơ bản, có tuổi đời trẻ, có thể lực và nền tảng tri thức cơ bản khá vững
chắc; tư duy nhanh nhạy, linh hoạt, có khả năng nhận thức và giải quyết khá
tốt mọi vấn đề mới nảy sinh trong cuộc sống và công việc. Họ là những người
ham hiểu biết, cầu tiến bộ, thích tìm tòi, sáng tạo, bước đầu xác định nông
nghiệp, nông thôn và nông dân là nghề nghiệp gắn bó lâu dài. Trong quá trình
học tập, rèn luyện, họ luôn thể hiện tinh thần tích cực, tự giác và say mê trong
nghiên cứu, tìm tòi, tích lũy, kế thừa và khám phá các tri thức mới, kiến thức
hay trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Họ là những thanh niên có trình
độ, có bản lĩnh, có khả năng vận dụng các kiến thức khoa học vào thực tiễn.
Về phẩm chất chính trị, đạo đức, sinh viên Nhà trường đều là những
thanh niên có sức khỏe tốt, lý lịch trong sạch, có phẩm chất đạo đức trong sáng,
lối sống lành mạnh, có ý thức trách nhiệm công dân, chấp hành nghiêm hiến

18


pháp và pháp luật Nhà nước. Họ cơ bản đều là đoàn viên Đoàn thanh niên Cộng

sản Hồ Chí Minh, có nhận thức đúng đắn về mục tiêu, lý tưởng cách mạng, vai
trò, trách nhiệm của thế hệ trẻ với tương lai đất nước; có niềm tin vững chắc vào
sự thắng lợi của sự nghiệp đổi mới đất nước, công cuộc xây dựng, phát triển
nông nghiệp, nông thôn, nông dân của Đảng, Nhà nước.
Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một số sinh viên xác định chưa rõ xu
hướng nghề nghiệp, còn bị chi phối, phân tán nhiều từ gia đình, bạn bè và lối
sống thiếu lành mạnh. Một số sinh viên thi vào Nhà trường không phải do
nguyện vọng và lựa chọn của bản thân, mà theo ý muốn của gia đình, lời
khuyên của bàn bè, v.v.. Vì vậy, họ thường có biểu hiện ngại học, ngại rèn,
thiếu tích cực, thiếu cố gắng trong học tập, rèn luyện, chưa chủ động, sáng tạo
trong lĩnh hội kiến thức, kinh nghiệm thực tiễn nghề nghiệp. Đa số sinh viên
Nhà trường mới tốt nghiệp phổ thông thi vào, kinh nghiệm sống còn hạn chế, trình
độ hiểu biết xã hội chưa nhiều. Đặc biệt, thói quen tư duy tiểu nông, nếp nghĩ của
họ thiếu thực tế, thiếu cơ sở khoa học, thiên về cảm tính; đồng thời, những dấu ấn
(bao gồm cả tích cực và tiêu cực) của văn hóa địa phương nơi cư trú có tác động
nhất định đến xây dựng TGQ của họ.
1.1.3. Thế giới quan duy vật biện chứng của sinh viên Trường Cao
đẳng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bắc Bộ
* Quan niệm về thế giới quan duy vật biện chứng của sinh viên
Trường Cao đẳng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bắc Bộ
Từ khái niệm TGQDVBC và những đặc điểm của sinh viên Trường
Cao đẳng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bắc Bộ, tác giả quan niệm:
Thế giới quan duy vật biện chứng của sinh viên Trường Cao đẳng Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn Bắc Bộ là hệ thống tri thức khoa học, niềm tin
cộng sản và lý tưởng cách mạng được hình thành, phát triển ở người học chủ
yếu trong môi trường hoạt động nông nghiệp, nông thôn, gắn bó với nông dân.
Về mặt nguyên tắc, TGQDVBC của sinh viên Trường Cao đẳng Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn Bắc Bộ cơ bản tương đồng với nội dung của

19



TGQDVBC. Điểm khác biệt chỉ có thể về giới hạn phạm vi và cấp độ vấn đề
TGQDVBC. Về bản chất, TGQDVBC của sinh viên Trường Cao đẳng Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn Bắc Bộ là sự phản ánh của TGQDVBC nói
chung, thông qua lăng kính chủ quan của họ trong môi trường nông nghiệp,
nông thôn; đồng thời, chịu sự tác động, chi phối bởi các đặc điểm của bản thân
sinh viên. Tư duy và nhận thức về TGQDVBC của sinh viên Nhà trường cũng
tuân theo con đường biện chứng của quá trình nhận thức chân lý dưới tác động
của môi trường nông nghiệp, nông thôn và nông dân Việt Nam.
Đặc thù thế giới quan duy vật biện chứng của sinh viên Trường Cao
đẳng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bắc Bộ
Một là, TGQDVBC của sinh viên Nhà trường luôn gắn liền với nông
nghiệp, nông thôn và nông dân, khác với sinh viên các trường cao đẳng, đại
học khác. Đây là nét đặc thù tương đối rõ, thể hiện ở hệ thống các tri thức khoa
học, niềm tin, lý tưởng, tình yêu nghề nghiệp,… của sinh viên Nhà trường đều
bị chi phối, ảnh hưởng lớn bởi vấn đề nông nghiệp, nông thôn và người nông
dân. Sự hình thành, phát triển TGQDVBC của sinh viên Nhà trường gắn chặt
với tri thức về nông nghiệp, nông thôn, nông dân; tình yêu, niềm tin của họ gắn
liền với ngành nông nghiệp, với nông thôn và người nông dân. Nếu như đối với
Trường Cao đẳng Công nghiệp Hà Nội, TGQDVBC của sinh viên gắn với nhà
máy, công trường, với khoa học - công nghệ, thì TGQDVBC của sinh viên
Trường Cao đẳng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bắc Bộ gắn liền với
ruộng đồng, cây, con, với chăn nuôi, trồng trọt, với người nông dân.
Hai là, sinh viên Nhà trường phần lớn xuất thân từ con em nông dân,
sống ở nông thôn, các quan hệ đời sống chủ yếu với người nông dân (bố, mẹ,
bạn bè). Đây là điểm tạo nên nét đặc thù khá rõ trong TGQDVBC của sinh
viên Nhà trường. Vì vậy, hệ thống tri thức, hiểu biết về nông nghiệp, nông thôn
và người nông dân của họ rất rõ; khác với TGQDVBC của sinh viên một số
trường cao đẳng, đại học. Ví dụ, sinh viên Trường Cao đẳng Du lịch Hà Nội,

phần lớn sinh viên xuất thân từ các thành phố, thị xã, không có điều kiện tiếp

20


xúc, nên không biết nhiều về nông nghiệp, nông thôn, nông dân; tri thức, hiểu
biết của họ chủ yếu về các địa danh, về kiến thức văn hóa, kỹ năng sống, ngôn
ngữ… Nói cách khác, sinh viên Nhà trường có những cơ sở, điều kiện thuận lợi
trong xây dựng, hình thành và phát triển TGQDVBC của những cán bộ kỹ
thuật, cán bộ quản lý kinh tế trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn tương lai.
Ba là, đặc thù TGQDVBC của sinh viên Nhà trường được thể hiện rõ
qua các yếu tố cấu thành TGQDVBC của họ. Về tình cảm, luôn yêu ruộng
đồng, tâm huyết, gắn bó với trồng trọt, chăn nuôi, gắn bó với nông nghiệp,
nông thôn, thương người nông dân. Do xuất thân từ nông nghiệp, lớn lên ở
nông thôn và gắn bó mật thiết với cuộc sống người nông dân; vì vậy, sinh viên
rất hiểu và luôn dành tình cảm lớn đối với nghề nghiệp, muốn tạo bước “đột
phá” cho nền nông nghiệp, thay đổi bộ mặt vùng nông thôn và nâng cao đời
sống người nông dân. Về niềm tin, sinh viên Nhà trường phần lớn xuất thân từ
con em nông dân, đi theo Đảng làm cách mạng, mang bản chất giai cấp công
nhân nên trung thành tuyệt đối với Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN. Kiên
định với mục tiêu của Đảng, tin tưởng vào công cuộc đổi mới đất nước và công
cuộc CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Về ý chí, sinh viên Nhà trường được
thừa hưởng những đức tính của người nông dân nên có ý chí kiên cường, kiên
định, nghị lực lớn, quyết tâm khắc phục mọi khó khăn vươn lên thoát nghèo,
nâng cao chất lượng cuộc sống. Đây là những yếu tố quan trọng trong xây
dựng, hình thành và phát triển TGQDVBC của sinh viên Nhà trường.
* Các yếu tố cấu thành thế giới quan duy vật biện chứng của sinh viên
Trường Cao đẳng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bắc Bộ
Một là, tri thức khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, tri thức về nông nghiệp, nông thôn, nông

dân. Tri thức khoa học nói chung và tri thức về khoa học chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, tri thức về
nông nghiệp, nông thôn, nông dân nói riêng đóng vai trò quan trọng, quyết
định nhất cấu thành nên TGQDVBC của sinh viên Trường Cao đẳng Nông

21


nghiệp và Phát triển nông thôn Bắc Bộ. Đây là yếu tố cốt lõi, chủ đạo trong
quá trình hình thành TGQDVBC của họ; tạo cơ sở, nền tảng cho hoàn thiện
TGQDVBC ở cấp độ cao hơn. TGQDVBC của sinh viên Nhà trường không
hình thành một cách tự phát, nó là kết quả của quá trình học tập, rèn luyện lâu
dài, vất vả; trong đó, có quá trình trang bị, bồi dưỡng về tri thức khoa học chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng,
tri thức về nông nghiệp, nông thôn. Tất cả các tri thức khoa học đó giúp sinh
viên có được cách nhìn nhận, xem xét, đánh giá và giải quyết mọi sự vật, hiện
tượng trên thực tiễn một cách đúng đắn, có hiệu quả cao. Vì vậy, cần tích cực,
chủ động trang bị, bồi dưỡng tri thức khoa học chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, tri thức về nông nghiệp, nông
thôn, nông dân góp phần hình thành TGQDVBC của sinh viên Nhà trường.
Hai là, sự tin tưởng tuyệt đối vào đường lối của Đảng, sự quản lý của
Nhà nước, mục tiêu, con đường chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và
Nhân dân ta đã lựa chọn. Niềm tin đúng đắn, có cơ sở khoa học, tác động
lớn tới sự hình thành TGQ và phương pháp luận của sinh viên; trong đó,
niềm tin khoa học là một yếu tố quan trọng trong cấu trúc TGQDVBC. Đối
với sinh viên Nhà trường, niềm tin khoa học có vai trò quan trọng trong
hình thành TGQDVBC của họ. Niềm tin của sinh viên Nhà trường thể hiện
ở sự tin tưởng tuyệt đối vào đường lối lãnh đạo của Đảng, cơ chế quản lý
của Nhà nước, vào mục tiêu, con đường CNXH mà Đảng, Bác Hồ và Nhân
dân ta đã lựa chọn. Đặc biệt, sinh viên Nhà trường tin tưởng vào sự thành
công của công cuộc xây dựng và phát triển nông nghiệp, nông thôn mới

hiện nay. Niềm tin đúng đắn sẽ giúp sinh viên có động lực mạnh mẽ, hình
thành động cơ học tập, rèn luyện đúng đắn, chủ động vươn lên tự hoàn
thiện, góp phần phát triển toàn diện, trong đó có TGQDVBC. Sự lãnh đạo
của Đảng, quản lý của Nhà nước về vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông
dân là những yếu tố thiết thực, rõ ràng nhất, thường xuyên tác động, chi
phối tới sự hình thành TGQ, phương pháp luận của sinh viên Nhà trường.

22


Do đó, cần tăng cường giáo dục, bồi dưỡng xây dựng niềm tin cho sinh viên
Nhà trường góp phần hình thành TGQDVBC của họ.
Ba là, lý tưởng phấn đấu vì mục tiêu cao đẹp, xây dựng xã hội tốt đẹp,
đất nước giàu mạnh, vươn lên lập thân, lập nghiệp làm giàu chính đáng.
Trong các yếu tố cấu thành nên TGQDVBC của sinh viên Nhà trường, mục
tiêu, lý tưởng có vai trò rất quan trọng. Mục tiêu, lý tưởng cao đẹp, đúng đắn
sẽ giúp họ nỗ lực không ngừng trong hoàn thiện bản thân, hình thành
TGQDVBC. Lý tưởng của sinh viên Nhà trường hiện nay đó là: Phấn đấu vì
mục tiêu cao đẹp, xây dựng xã hội tốt đẹp, đất nước giàu mạnh; phát triển
ngành nông nghiệp hiện đại, xây dựng nông thôn mới và thay đổi cuộc sống
người nông dân Việt Nam; vươn lên lập thân, lập nghiệp, làm giàu chính
đáng. Lý tưởng đúng đắn, cao đẹp sẽ tạo động lực mạnh mẽ, thôi thúc con
người vươn lên tự hoàn thiện, đạt nhiều thành công trong cuộc sống. Ngược
lại, sống không có lý tưởng hoặc lý tưởng không đúng, không đẹp dễ khiến
người ta chán nản, thiếu động lực và thường rơi vào bế tắc, tiêu cực. Do đó,
để hình thành TGQDVBC của sinh viên Nhà trường hiện nay cần tăng cường
giáo dục, bồi dưỡng lý tưởng đúng đắn, cao đẹp cho họ.
Bốn là, ý chí, nghị lực vươn lên mạnh mẽ, vượt qua mọi khó khăn,
chiếm lĩnh tri thức, hoàn thiện bản thân. Đây chính là nhân tố chủ quan có vai
trò và ý nghĩa quyết định tới sự hình thành TGQDVBC của sinh viên Nhà

trường. Ý chí, nghị lực vươn lên khắc phục khó khăn, chiếm lĩnh tri thức toàn
diện, trong đó có tri thức về nông nghiệp, nông thôn, nông dân tác động trực
tiếp tới sự hình thành, phát triển TGQDVBC của họ. TGQDVBC không tự
nhiên được hình thành, mà là kết quả của quá trình học tập, rèn luyện lâu dài,
gian khổ của mỗi người. Thực tiễn quá trình GD - ĐT ở Nhà trường cho thấy,
tính tích cực, tự giác, sự chủ động vươn lên trong học tập, rèn luyện của mỗi
sinh viên là yếu tố quyết định lớn tới sự hoàn thiện của họ, trong đó sự hình
thành TGQDVBC. Để đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống,
những biến động, đổi mới của ngành nông nghiệp, nông thôn và thực tiễn

23


nghề nghiệp hiện nay, cần tiếp tục tăng cường giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện
ý chí, nghị lực cho họ.
* Các nhân tố quy định sự phát triển thế giới duy vật biện chứng của
sinh viên Trường Cao đẳng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bắc Bộ
Một là, kế thừa và phát triển thế giới quan Triết học Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, truyền thống văn hóa dân tộc Việt Nam. Sự phát triển
TGQDVBC của sinh viên Nhà trường phụ thuộc vào quá trình kế thừa và phát
triển TGQ triết học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, truyền thống văn hóa
dân tộc Việt Nam. Đây là yếu tố nền tảng, quy định sự phát triển TGQDVBC
của sinh viên Nhà trường. Triết học Mác - Lênin là hạt nhân lý luận của
TGQDVBC, còn tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng đúng đắn,
phát triển sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của
cách mạng Việt Nam; là hệ thống những luận điểm khoa học về con đường
cách mạng giải phóng dân tộc và đi lên CNXH ở Việt Nam. Vì vậy, quá trình
phát triển TGQDVBC của sinh viên Nhà trường luôn chịu sự quy định và phụ
thuộc vào sự kế thừa, phát triển TGQ triết học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, truyền thống văn hóa dân tộc Việt Nam.

Trong quá trình dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã tạo dựng
nên những giá trị văn hóa đặc sắc của dân tộc mình. Đó là truyền thống yêu
nước, căm thù giặc; truyền thống cần cù, sáng tạo trong lao động, sản xuất;
truyền thống anh dũng, kiên cường, bất khuất trong chống giặc ngoại xâm,
v.v.. Tất cả những điều đó đã hòa quyện vào nhau, tạo nên truyền thống văn
hóa dân tộc Việt Nam, trở thành nền tảng đời sống tinh thần của con người
Việt Nam. Do vậy, kế thừa và phát triển giá trị văn hóa dân tộc Việt Nam
luôn có tác động, chi phối đến phát triển TGQDVBC của sinh viên Nhà
trường. Để kế thừa và phát triển TGQ triết học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, truyền thống văn hóa dân tộc Việt Nam có hiệu quả trong phát triển
TGQDVBC của sinh viên Nhà trường, cần tập trung trang bị cho họ nắm chắc
những quan điểm, nguyên lý, quy luật cơ bản của triết học Mác - Lênin,

24


những nội dung cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh và những giá trị truyền
thống nổi bật của dân tộc.
Hai là, chất lượng giáo dục - đào tạo của Nhà trường và tính tích cực,
tự giác học tập, rèn luyện của sinh viên. Đối với sinh viên Nhà trường, sự
phát triển TGQDVBC của họ phụ thuộc lớn vào chất lượng GD - ĐT của Nhà
trường và tính tích cực, tự giác trong học tập, rèn luyện của mỗi người. Quá
trình GD - ĐT ở Nhà trường với tính chất là cách thức, phương thức, con
đường chuyển hóa người học theo hướng thích nghi với thực tiễn hoạt động
nông nghiệp, nông thôn, diễn ra theo một logic nhất định; là quá trình tác
động tổng hợp những hành động chủ quan của con người thông qua sự phản
ánh chủ quan về quy luật khách quan vốn có của quá trình GD - ĐT. Đó chính
là mục tiêu, yêu cầu, chương trình, nội dung đào tạo, khối lượng tri thức, kinh
nghiệm, kỹ năng cho việc hình thành những phẩm chất, năng lực cần thiết của
sinh viên trong quá trình học tập, rèn luyện và hoạt động thực tiễn nông

nghiệp, nông thôn. Vì vậy, chất lượng GD - ĐT của Nhà trường trực tiếp tác
động, chi phối tới phát triển TGQDVBC của sinh viên.
Để có tri thức, niềm tin, lý tưởng, có điều kiện học tập, làm phong phú,
sâu sắc thêm tri thức của mình về thế giới, về vấn đề nông nghiệp, nông thôn
và nông dân, không có con đường nào khác là bản thân mỗi sinh viên phải
phát huy tính tích cực, tự giác trong học tập, rèn luyện, tự trau dồi kiến thức,
nỗ lực biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo. Thời gian tới, Nhà
trường cần tạo bước “đột phá” trong nâng cao chất lượng GD - ĐT; bằng
nhiều biện pháp, cách thức phát huy tính tích cực, tự giác của sinh viên trong
củng cố kiến thức, bồi dưỡng niềm tin, lý tưởng, ý chí, nghị lực vươn lên tự
hoàn thiện mình, qua đó phát triển TGQDVBC của họ.
Ba là, môi trường học tập, rèn luyện của Nhà trường, nhất là các hoạt
động rèn luyện thực tiễn vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Phát
triển TGQDVBC của sinh viên Nhà trường là quá trình xây dựng nhân cách
cho họ, từng bước thực hiện chuẩn hóa mục tiêu xây dựng con người mới

25


×