Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Tài nguyên du lịch tự nhiên hue

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (79.96 KB, 8 trang )

TÀI NGUYÊN DU LỊCH TỰ NHIÊN
1.

Địa hình

Địa hình thừa thiên huế khá phức tạp gồm nhiều dạng: vùng đồi núi, đồng bằng,
biển. Cấu trúc của địa hình theo chiều ngang từ Đông sang Tây gồm:biển đầm
phá, đồng bằng nhỏ hẹp, vùng đồi thấp và núi. Đại hình thừa thiên huế có cấu
tạo dạng bậc khá rõ rệt.
-vùng đồi núi :
Hệ thống búi của Thừa Thiên huế chiếm khoảng 75% diện tích của tỉnh, từ biên
giới Việt Lào và kéo dài đến thành phố Đà Nẵng, là bộ phận phía nam của dải
Trường Sơn Bắc. Dãy núi phía tây chạy theo hướng tây bắc-đông nam càng về
phía nam càng cao dần và bẻ quặt theo hướng tây-đông(dãy Bạch Mã). Độ cao
trung bình từ 500m- 600m, độ cao này tăng dần về phía tây, phía nam và đông
nam.
-

Vùng đồng bằng duyên hải:

Đồng bằng Thừa Thiên Huế điển hình cho kiểu đồng bằng mài mòn, tích tụ, có
cồn cát, đầm phá. Diện tích vùng đồng bằng chiếm khoảng 1.400km2.
-

Vùng đầm phá:
Là một hệ cảnh quan độc đáo của thừa Thiên Huế, vùng đầm phá có diện
tích 22.040 ha, dài 68 km, bắt đầu từ cửa sông Ô Lâu phía bắc chạy song
song với bờ biển đến cửa Tư Hiền, chiều rộng từ 1 đến 6 km. Độ sâu tăng
dần từ Tây sang Đông. Hiện nay sự lắng tụ phù sa, làm độ sâu của đầm phá
đang có chiều hướng cạn dần.
 Ảnh hưởng của địa hình đến phát triển du lịch:


Do ảnh hưởng của địa hình, đại bộ phạn dân cư của tỉnh Thừa Thiên Huế
phân bố không đều. Miền núi là địa bàn cư trú của đồng bào thiểu số. Sự
phân bố dân cư này làm cho du lịch tập trung phát triển hơn ở một số
vùng trọng điểm nhất định và hướng tới hình thức du lịch văn hóa, tìm
hiểu các nền văn hóa của các dân tộc Việt Nam.
Sự phân hóa của địa hình đã tạo nên nhiều vùng tự nhiên khá thuận lợi
cho phát triển các loại hình du lịch sinh thái, nghĩ dưỡng...
Tuy nhiên địa hình vùng trung du nhỏ hẹp làm độ dốc giảm, gây ra hiện
tượng xói mòn mạnh, nhất là trong mùa mưa lũ. Điều này cực kỳ nguy


2.

hiểm đối với phát triển du lịch và việc xây dựng các cơ sở vật chât mang
tính lâu dài, thu hút đầu tư quy mô lớn nhằm phục vụ du lịch.
Khí hậu
Đặc điểm chung của khí hậu Thừa Thiên Huế là nhiệt độ cao, độ ẩm lớn ,
mưa theo mùa. Do vị trí địa lý và sự kéo dài của lãnh thổ theo vĩ tuyến, kết
hợp với hướng địa hình và hoàn lưu khí quyển đã tác động sâu sắc đến việc
hình thành một kiểu khí hậu đặc trưng và tạo nên những hệ quả phức tạp
trong chế độ mưa, chế độ nhiệt và các yếu tố khí hậu khác.
Nhiệt độ trung bình hàng năm của Thừa Thiên huế khoảng 250C. Tổng lượng
bức xạ nhiệt trung bình năm tăng dần từ Bắc vào Nam của tỉnh và dao động
trong khoảng từ 110 đến 140 kcal/cm2 , ứng với hai lần mặt trời qua thiên
đỉnh tổng lượng bức xạ có hai cực đại: lần thứ nhất vào tháng V và lần thứ
hai vào tháng VII, lượng bức xạ thấp nhất vào tháng 12. Cán cân bức xạ
nhiệt trung bình từ 75 đến 85 kcal/cm2 , ngay cả tháng lạnh nhất vẫn mang
trị số dương. Do tác động của vị trí, địa hình và hình dạng lãnh thổ, nhiệt độ
có sự thay đổi theo không gian và thời gian:
+ phân bố theo không gian : theo chiều Đông – Tây nhiệt độ vùng núi (Nam

Đông và A Lưới) trung bình năm thường chênh lệch với vùng đồng bằng từ
00C đến 30C. Riêng trong mùa lạnh, sự phân hóa nhiệt sâu sắc hơn.
+ phân bố theo thời gian : do sự tác động của gió mùa nên đã hình thanhfhai
mùa với sự khác biệt về chế độ nhiệt rõ rệt.
Mùa lạnh : là khoảng thời gian nhiệt độ trung bình trong ngày ổn định dưới
200 C. Thời gian lạnh của Thừa Thiên Huế tùy theo vùng có thể kéo dài từ
30 đến 60 ngày.
Mùa nóng : là thời kỳ nhiệt độ trung bình ổn định trên 250C. Mùa nóng bắt
đầu từ tháng IV đến hết tháng IX. Những tháng đầu mùa nhiệt độ tăng khá
đều trên các vùng, nhiệt độ cực đại vào tháng VII và giảm dần cho đến tháng
I năm sau. Từ tháng Vcho đến tháng IX, hiệu ứng phơn Tây Nam đã làm
nhiệt độ tăng cao, độ ẩm giảm thấp gây ra những đợt nóng kéo dài ảnh
hưởng nghiêm trọng đến sinh hoạt và các hoạt động sản xuất nông nghiệp.
Biên độ nhiệt : Thừa Thiên Huế có nhiệt độ trung bình hằng năm gần 100C.
Đây là một điểm rất đặc biệt vì tính cách khắc nghiệt của khí hậu gần giống
với những vùng lãnh thổ có vĩ độ cao hay của những lãnh thổ nằm sâu trong
luc địa.


3.

4.

Do sự tác động phối hợp giữa địa hình và hướng dịch chuyển của các khối
khí theo mùa , Thừa Thiên Huế có thời kỳ khô và ẩm bị lệch pha so với cả
nước.
+ Từ tháng IX đến tháng III độ ẩm không khí cao trên 90% trùng với mùa
mưa và thời gian hoạt động của khối không khí lạnh biến tính từ biển đông
tràn vào lãnh thổ
+Hàng năm Thừa Thiên Huế nhận được một lượng mưa lớn, trung bình trên

3000mm, song phân bố không đều. Mưa phần lớn tập trung vào tháng X và
XI, trong khoản thời gian này bão thường xuất hiện gây nên những cơn lũ
lớn. Năm 1953 (4937mm); năm 1975(3278mm) lụt vượt mức báo động 3
với đỉnh lũ là 6m (kim long).
 Ảnh hưởng của khí hậu đến du lịch:
Khí hậu của tỉnh Thừa Thiên Huế có sự thuận lợi nhất định cho việc phát
triển du lịch. Tuy nhiên , khí hậu có nhiều biến động khá phức tạp, hiện
tượng lệch pha so với khí hậu cả nước đòi hỏi Thừa Thiên Huế phải có kế
hoạch tổ chức các hoạt động du lịch phù hợp. Thời gian mưa kéo dài
khiến du lịch theo thời vụ ở Huế là rất rõ nét. Bên cạnh đó, theo thống kê
mỗi năm có ít nhất một cơn bão đổ bộ trực tiếp vào lãnh thổ gây thiệt hại
và khó khăn rất lớn cho việc phát triển cơ sở hạ tầng du lịch.
Thủy văn:
Thừa Thiên – Huế có hệ thống sông ngòi khá dày đặc nhưng các sông đều
nhỏ, độ dốc lớn. Phần lớn bắt nguồn từ phía đônn của trường sơn, chảy theo
hướng Tây – Đông, cửa sông hẹp. Tổng chiều dài các song chính chảy trên
lãnh thổ của tỉnh là khoảng 300km trên đó hệ thống sông Hương chiếm đến
60%. Nhìn chung, sông ngòi ở huế ngắn và dốc, ít có sông lớn. Các sông có
sự chênh lệch rất lớn về dòng chảy trong năm. Tổng lượng nước trong ba
tháng mùa lũ lớn gấp 2 lần tổng lượng nước trong 9 tháng mùa cạn. Diện
tích các lưu vực sông không lớn, lớn nhất là sông Hương với diện tích lưu
vực khoảng 1626 km2
 Đánh giá:
Với mạng lưới sông ngòi và đầm phá, Thừa Thiên Huế có thể nối liền các
huyện và thành phố rất thuận lợi cho giao thông đường thủy, phục vụ du
lịch. Các cảng biển Thuận An, Chân Mây thuận lợi cho việc đón các du
khách quốc tế. Sông hương với những nét văn hóa đậm chất Huế đã và
đang thu hút một lượng khách không nhỏ mỗi năm.
Sinh vật:



Thừa Thiên Huế có vị trí chuyển tiếp của 2 miền khí hậu Bắc và Nam đã
hình thành thảm thực vật rừng nhiệt đới đa dạng, hội tụ nhiều loại cây: cây
bản địa như lim, gõ, kiền,chò...(cây họ đậu phương Bắc) cây di cư như dẻ,
re, thông, bàng và các cây họ dầu phương Nam...Diện tích rừng chiếm
khoảng 57% đất tự nhiên, độ che phủ 55%(2008).
Động vật thiên nhiên của Thừa Thiên Huế khá phong phú, có giá trị kinh tế
cao.
+ Động vât rừng: ngoài những động vật phổ biến trong rừng như: khỉ , hươu,
nai, công, gà rừng...nhiều động vật quý hiếm đã được phát hiện ở Nam
Đông, Phú Lộc, A Lưới như: voi, hổ, trĩ, sao, gà lôi, chồn bay, gấu chó...
+Thủy sản: với gần 126 km đường bờ biển, 22.000 ha đầm phá và một hệ
sông ngòi phong phú, Thừa Thiên Huế có lượng thủy sản đa dạng với nhiều
loại quý hiếm có giá trị kinh tế cao: sò huyết, mực, tôm, rau câu...
 Đánh giá:
Hệ thống sinh vật phong phú góp phần tạo nên cảnh quan môi trường
sinh thái và cảnh quan du lịch của vùng, vườn quốc gia Bạch Mã có khí
hậu mát mẻ cùng sự đa dạng sinh vật đã trở thành một trung tâm du lịch
sinh thái rất hấp dẫn.
TÀI NGUYÊN DU LỊCH NHÂN VĂN
Tài nguyên du lịch nhân văn của Thừa Thiên Huế có nhiều loại
hình phong phú và đa dạng rất khác nhau. Hệ thống kiến trúc thành
quách, cung điện, chùa, di sản văn hóa (được công nhận là di sản văn
hóa thế giới). Tài nguyên phi vật thể: lễ hội, ẩm thực, làng nghề, nhã
nhạc cung đình Huế (di sản văn hóa phi vật thể)..các tài nguyên đó đã tạo
cho Thừa Thiên Huế có tiềm năng to lớn để trở thành trung tâm du lịch
của cả nước.
Nét đặc sắc là sự kết hợp hài hòa giữa văn hóa dân gian và văn hóa cung
đình. Thừa Thiên-Huế là một trong những trung tâm du lịch văn hóa của
của Việt Nam, là nơi duy nhất còn giữ lại được một kho tàng sử liệu vật

chất đồ sộ, một di sản văn hóa vô cùng phong phú với hàng trăm công
trình kiến trúc nghệ thuật đặc sắc và nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng.
Huế là “một kiệt tác về thơ – kiến trúc đô thị”. Vì lẽ đó mà cuối năm
1993, UNESCO đã chính thức công nhận Huế là một di sản văn hóa thế
giới.
1.Các di tích lịch sử văn hóa:


Xứ Huế vốn nổi tiếng bởi những công trình lăng tẩm, đền đài, cung điện
nổi tiếng và là kinh đô xưa của triều đại Nguyễn kéo dài gần 2 thế kỷ.
Trải qua thời gian Huế vẫn phần nào giữ được những nét cổ kính và trầm
lắng và vô cùng quyến rũ. Các khu di tích rất đặc sắc tại đây có thể kể
đến như: Chùa Thiên Mụ, Quần thể Cố Đô HUẾ...
Tên di tích

Đặc điểm

Chùa Thiên Mụ

Chùa nằm cách trung tâm thành
phố huế khoảng 5km, trên đồi Hà
Khê, tả ngạn song Hương, xã
Hương Long. Trước các điện,
quanh chùa là các vườn hoa cây
cảnh xanh tươi, rực rỡ. phía sau
cùng là vườn thông tĩnh mịch,
phong cảnh nên thơ. Chùa bị hư
hỏng nặng năm 1943. Từ năm
1945, Hòa thượng Thích Đôn Hậu
đã tổ chức công cuộc đại trùng tu

kéo dài hơn 30 năm.
Quần thể di tích Cố Đô Huế nằm
dọc bên bờ sông Hương thuộc
thành phố Huế và một vùng phụ
cận thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế là
trung tâm văn hóa, chính trị, kinh tế
của tỉnh, là cố đô của Việt Nam thời
phong kiến dưới triều nhà Nguyễn,
từ năm 1802 đén 1945. Bên bờ Bắc
của con song Hương, hệ thống kiến
trúc biểu thị cho quyền uy của chế
độ trung ương tập quyền Nguyễn là
ba tòa thành: Kinh thành Huế,
Hoàng thành Huế, Tử cấm thành
Huế, lồng vào nhau được bố trí
đăng đối trên một trục dọc xuyên
suốt từ mặt Nam ra mặt Bắc. hệ
thống thành quách ở đây là một
mẫu mực của sự kết hợp hài hòa
nhuần nhuyễn giữa tinh hoa kiến

Quần thể di tích Cố Đô Huế
(di sản văn hóa thế giới)


trúc Đông và Tây, được đặt trong
một khung cảnh thiên nhiên kỳ thú
với nhiều yếu tố biểu tượng sẵn có
tự nhiên đến mức người ta mặc
nhiên xem đó là những bộ phận của

kinh thành Huế - đó là núi Ngự
Bình, dòng Hương giang, cồn Giã
Viên, cồn Bộc Thanh… Hoàng
thành giới hạn bởi một vòng tường
thành gần vuông với mỗi chiều xấp
xỉ 600m với 4 cổng ra vào mà độc
đáo nhất thường được lấy làm biểu
tượng của cố đô: Ngọ Môn, chính
là khu vực hành chính tối cao của
triều đình Nguyễn. Bên trong
Hoàng thành, hơi dịch về phía sau,
là Tử cấm thành, hơi dịch về phía
sau, là Tử cấm thành – nơi ăn ở
sinh hoạt của Hoàng Gia.


Đánh giá:
Các địa điểm di tích lịch sử, văn hóa nêu trên là những di tích nổi bật thu
hút đông đảo du khách tham quan, vãn cảnh. Đa số các di tích lịch sử,
văn hóa tâp trung ở thành phố Huế. Các di tích còn tồn tại cho tới ngày
nay đều là những di tích, danh thắng nổi tiếng, những công trình có giá trị
phục vụ cho việc tham quan, nghiên cứu, học tập của các đối tượng
khách trong và ngoài nước. Đây là một điều kiện thuận lợi để phát triển
loại hình du lịch văn hóa tôn giáo, tín ngưỡng tâm linh.
2. Lễ hội:
Thừa Thiên Huế là một vùng đất có truyền thống văn hóa, tuy không lâu
đời như ở miền Bắc, nhưng cũng có hơn 700 năm lịch sử. Từ khi chúa
Nguyễn đặt thủ phủ tại đây cho đến khi nhà Nguyễn cáo chung (1945),
có thể nói Huế là nơi hội tụ những con người hoạt động văn hóa có tầm
cỡ, là nơi gặp gỡ của các luồng tư tưởng Đông Tây Kim Cổ. Văn hóa

Huế có truyền thống từ Bắc tràn vào, theo những lưu dân lập nghiệp trên
vùng đất mới. Tại đây còn tồn tại dân tộc Chăm với nền văn hóa Ấn Độ.
Và sau này văn hóa phương Tây cũng có cơ hội thâm nhập vào từ thời


-

-

-

chúa Nguyễn . Các lễ hội truyền thống được duy trì, phát triển cũng từ
những nguồn văn hóa ấy.
Lễ hội các loại là một nhu cầu sinh hoạt văn hóa của con người Thừa
Thiên Huế đã trở thành truyền thống. Nhìn tổng quát về lễ hội và sự tham
gia lễ hội của cư dân vùng này, ta sẽ thấy lễ hội ở Thừa Thiên Huế tuy
không phong phú như Miền Bắc, nhưng cũng khá đa dạng, có hai loại lễ
hội: lễ hội cung đình và lễ hội dân gian. Lễ hội cung đình phản ánh sinh
hoạt lễ nghi của triều Nguyễn . Phần lớn chỉ chú trọng về “lễ” hơn “hội”.
Lễ hội dân gian gồm nhiều loại rất phong phú, có thể kể đến một số lễ hội
tiêu biểu như sau: lễ hội Huệ Nam (điện Hòn Chén) hay còn gọi là lễ
rước sắc nữ thần Thiên Y A Na theo tín ngưỡng của người Chamwpa
xưa… Trong những dịp tế lễ, nhiều sinh hoạt văn hóa bổ ích nư đua
thuyền, kéo co, đấu vật… còn được tổ chức và thu hút rất đông người
xem.
Hội đua ghe truyền thống: Hội đua ghe truyền thống tỉnh Thừa Thiên Huế là
một lễ hội mới được tổ chức sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam năm
1975. Hội được tổ chức trong một ngày nhằm ngày lễ Quốc kanhs 29(dương lịch). Địa điểm đua là bờ Nam song Hương trước trường Quốc học.
Hội nhằm tạo điều kiện thuận tiện cho thanh niên nam nữ có cơ hội thi tài
trên song nước, qua đó rèn luyện tăng cường bảo vệ sức khỏe và tạo không

khí vui vui tươi lành mạnh cho nhân dân .
Hội vật làng sình: Vật võ cũng là một hình thức để tưởng nhớ ngài khai canh
làng đã truyền dạy dân làng nghề vật. Nên đến ngày giỗ Ngài, dân làng tổ
chức vật võ.
…….
Festival Huế: tổ chức lần đầu tiên vào năm 2000, đén nay Festival Huế tổ
chức được 7 lần (2000,2002,2004,2006,2008,2010,2012…). Đây là sự kiện
văn hóa lớn có quy mô quốc gia tầm cỡ quốc tế, có ý nghĩa quan trọng trong
đời sống của người dân Huế. Là điều kiện quan trọng để xây dựng Huế
thành phố Festival cuả Việt Nam.
 Đánh giá:
Thừa Thiên Huế có khá nhiều lễ hội lớn với các loại hình khác nhau: lễ
hội vui chơi giải trí, lệ hội cầu ngưu, lễ hội đua thuyền… Những lễ hội
này nhằm tôn vinh bản sắc văn hóa vùng miền, và chúng góp phần thu
hút đông đảo các khách du lịch từ các địa phương khác trong cả nước
cũng như khách du lịch nước ngoài.


3. Văn hóa , ẩm thực:
Văn hóa vật thể: quần thể di tích Huế được UNESCO công nhận là di sản
văn hóa thế giới. Ngoài ra, Huế còn quê hương của nhiều công trình kiến
trúc tôn giáo độc đáo.
Văn hóa phi vật thể: Nhã nhạc cung đình Huế cũng được UNESCO công
nhận là di sản văn hóa phi vật thể của thế giới. Ngoài ra, Huế còn bảo tồn
được rất nhiều phong tục tập quán thông qua các lễ hội dân gian được tổ
chức hàng năm như: lễ hộ điện Hòn Chén, hội võ làng Sình…

4.
-


-

Ẩm thực đặc sắc: Huế còn lưu giữ trên 1000 món ăn nấu theo lối Huế, có
cả những món ăn ngự thiện của các vua triều Nguyễn. Bản thực đơn ngự
thiện có trên vài chục món thuộc loại cao lương mỹ vị, được chuẩn bị và
tổ chức rất công phu, tỷ mỷ, cầu kỳ. Các món ăn dân dã rất phổ biến
trong quần chúng với bản thực đơn phong phú hàng trăm món được chế
biến khéo léo hương vị quyến rũ màu sắc hấp dẫn , coi trọng phần chất
hơn lượng; nghệ thuật bày biện các món ăn đẹp mắt, nghệ thuật thưởng
thức tinh tế.
Làng nghề truyền thống:
Làng nghề nón bài thơ Tây Hồ.
Làng nghề phường đúc đồng.
Làng nghề làm hoa giấy Thanh Tiên.
Tranh làng sình.
…….



×