Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

Nghĩa tình thái đạo lí của câu trong thơ việt nam hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.48 MB, 120 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

ĐẶNG THANH MAI

NGHĨA TÌNH THÁI ĐẠO LÍ
CỦA CÂU TRONG THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2016


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

ĐẶNG THANH MAI

NGHĨA TÌNH THÁI ĐẠO LÍ
CỦA CÂU TRONG THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
Chuyên ngành: Ngôn ngữ Việt Nam
Mã số: 60.22.01.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Nhung

THÁI NGUYÊN - 2016



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
khảo sát, thống kê, các kết quả nghiên cứu và những kết luận trong luận văn là
trung thực và chưa từng công bố ở bất kì công trình nào khác.
Tác giả luận văn

Đặng Thanh Mai

i


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến TS. Nguyễn Thị
Nhung, cô đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình
nghiên cứu để tôi có thể hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
Luận văn này là kết quả của một quá trình học tập và nghiên cứu. Vì vậy,
tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến những người thầy, người cô đã giảng dạy các
chuyên đề cao học cho lớp Ngôn ngữ K22 (2014 - 2016) tại trường Đại học Sư
phạm - Đại học Thái Nguyên.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè và những người thân đã luôn
ủng hộ động viên tôi trong quá trình học tập và thực hiện luận văn.
Thái Nguyên, tháng 9 năm 2016
Tác giả luận văn

Đặng Thanh Mai

ii



MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN................................................................................................ i
LỜI CẢM ƠN .................................................................................................... ii
MỤC LỤC ......................................................................................................... iii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ................................................................. iv
DANH MỤC BẢNG .......................................................................................... v
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................. 2
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................... 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 4
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 5
6. Đóng góp mới của luận văn ............................................................................. 5
7. Cấu trúc của đề tài ........................................................................................... 6
Chương 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN ............................................................................. 6
1.1. Sơ lược về một số đơn vị ngôn ngữ liên quan đến đề tài ............................. 7
1.1.1. Câu ............................................................................................................. 7
1.1.2. Từ ............................................................................................................... 8
1.1.3. Tổ hợp từ ................................................................................................... 9
1.2. Khái quát về nghĩa tình thái và nghĩa tình thái đạo lí của câu ................... 10
1.2.1. Về khái niệm nghĩa tình thái của câu ...................................................... 10
1.2.2. Về phân loại nghĩa tình thái của câu ....................................................... 13
1.2.3. Nghĩa tình thái đạo lý của câu ................................................................. 18
1.3. Sơ lược về thơ và các tác phẩm thơ Việt Nam hiện đại ............................. 23
1.3.1. Sơ lược về thơ .......................................................................................... 23
1.3.2. Sơ lược về các tác phẩm thơ Việt Nam hiện đại trong sách giáo khoa
phổ thông .......................................................................................................... 27
iii



1.4. Tiểu kết ....................................................................................................... 34
Chương 2 KHẢO SÁT NGHĨA TÌNH THÁI ĐẠO LÍ CỦA CÂU TRONG
CÁC TÁC PHẨM THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI ......................................... 35
2.1. Sắc thái khả năng hiện thực của nghĩa tình thái đạo lí trong các tác phẩm thơ
Việt Nam hiện đại .............................................................................................. 35
2.1.1. Khảo sát tư liệu ........................................................................................ 35
2.1.2. Phương tiện biểu thị sắc thái khả năng hiện thực .................................... 41
2.2. Sắc thái khả năng phi hiện thực của nghĩa tình thái đạo lí trong các tác phẩm
thơ Việt Nam hiện đại........................................................................................ 51
2.2.1. Khảo sát tư liệu ........................................................................................ 51
2.2.2. Phương tiện biểu hiện sắc thái khả năng phi hiện thực ........................... 53
2.3. Sắc thái bắt buộc hiện thực của nghĩa tình thái đạo lí trong các tác phẩm thơ
Việt Nam hiện đại .............................................................................................. 55
2.3.1. Ví dụ ........................................................................................................ 55
2.3.2. Phương tiện biểu thị sắc thái bắt buộc hiện thực ..................................... 58
2.4. Sắc thái bắt buộc phi hiện thực của nghĩa tình thái đạo lí trong các tác phẩm
thơ Việt Nam hiện đại........................................................................................ 65
2.4.1. Ví dụ ........................................................................................................ 65
2.4.2. Phương tiện biểu thị sắc thái bắt buộc phi hiện thực .............................. 67
2.5. Phân biệt bốn nhóm sắc thái của nghĩa tình thái đạo lí trong các tác phẩm
thơ Việt Nam hiện đại........................................................................................ 70
2.6. Tiểu kết ....................................................................................................... 72
Chương 3 GIÁ TRỊ NGHĨA TÌNH THÁI ĐẠO LÍ CỦA CÂU TRONG CÁC
TÁC PHẨM THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI................................................... 73
3.1. Nghĩa tình thái đạo lí của câu với việc khắc họa nhân vật trong các tác phẩm
thơ Việt Nam hiện đại........................................................................................ 73
3.1.1. Nghĩa tình thái đạo lí với việc khắc họa nhân vật trữ tình - tác giả ....... 73
3.1.2. Nghĩa tình thái đạo lí với việc khắc họa các nhân vật trong thơ ............. 79
iv



3.2. Nghĩa tình thái đạo lí với việc thể hiện chủ đề trong các tác phẩm thơ Việt
Nam hiện đại ...................................................................................................... 85
3.2.1. Nghĩa tình thái đạo lí góp phần thể hiện chủ đề giáo dục khát vọng sống
cho thế hệ trẻ ...................................................................................................... 86
3.2.2. Nghĩa tình thái đạo lí góp phần bộc lộ chủ đề giáo dục ý thức, trách nhiệm
công dân ............................................................................................................. 88
3.2.3. Nghĩa tình thái đạo lí góp phần bộc lộ chủ đề định hướng tình cảm cảm
xúc cho người đọc.............................................................................................. 90
3.3. Tiểu kết ....................................................................................................... 93
KẾT LUẬN....................................................................................................... 95
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................... 96
NGUỒN TRÍCH DẪN................................................................................... 102
PHỤ LỤC

v


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

NNT

: Nghĩa tình thái

NTTĐL

: Nghĩa tình thái đạo lí

NV


: Ngữ văn

TV

: Tiếng Việt

iv


DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1 Thống kê các tác phẩm thơ Việt Nam hiện đại .................................. 27
Bảng 2.1. Phân loại các phương tiện biểu thị sắc thái khả năng hiện thực theo đặc
điểm cấu tạo, từ loại và chức vụ ngữ pháp ........................................ 48
Bảng 2.2. Số lượng và tỉ lệ các từ loại được dùng để biểu thị sắc thái khả năng
hiện thực ............................................................................................ 49
Bảng 2.3. Phân loại phương tiện biểu thị sắc thái khả năng phi hiện thực theo đặc
điểm cấu tạo, từ loại và chức vụ ngữ pháp ........................................ 54
Bảng 2.4. Số lượng và tỉ lệ các từ loại được dùng để biểu thị sắc thái khả năng
phi hiện thực ...................................................................................... 55
Bảng 2.5. Phân loại các phương tiện biểu thị sắc thái bắt buộc hiện thực theo đặc
điểm cấu tạo, từ loại và chức vụ ngữ pháp ........................................ 63
Bảng 2.6. Số lượng và tỉ lệ các từ loại và tổ hợp từ được dùng để biểu thị sắc thái
bắt buộc hiện thực ............................................................................. 64
Bảng 2.7. Phân loại các phương tiện biểu thị sắc thái bắt buộc phi hiện thực theo
cấu tạo, từ loại và chức vụ ngữ pháp ................................................. 68
Bảng 2.8. Số lượng và tỉ lệ các từ loại được dùng để biểu thị sắc thái bắt buộc
phi hiện thực ...................................................................................... 69
Bảng 2.9. Đối chiếu các sắc thái nghĩa của nghĩa tình thái đạo lí ..................... 70

v



MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Vấn đề tình thái trong ngôn ngữ không phải là mới. Từ thời Hy Lạp cổ
đại, khái niệm tình thái của logic học đã được hình thành dựa trên tính hiện thực,
tính tất yếu và tính khả hữu trong ngôn ngữ tự nhiên với muôn vàn sắc thái đa
dạng. Trong những năm gần đây, sự quan tâm đến tình thái là một tất yếu trong
quá trình phát triển của ngôn ngữ học. Bởi lẽ nếu không quan tâm đến các bình
diện của tình thái, thì chúng ta không thể hiểu được bản chất của ngôn ngữ với
tư cách là công cụ con người dùng để phản ánh thế giới trong hoạt động nhận
thức và tương tác xã hội. Khi bắt gặp một phát ngôn của người này hay người
kia, trong nghĩa tường minh của câu, bên cạnh nội dung biểu thị nghĩa miêu tả,
chúng ta cần quan tâm một nội dung nghĩa biểu thị các mối quan hệ: quan hệ
giữa điều được nói đến trong câu với hiện thực khách quan, quan hệ giữa người
nói với điều được nói tới và với người nghe. Đó là nghĩa tình thái (NTT). Không
có NTT, nội dung được thể hiện trong câu nói chỉ là những mảng nguyên liệu
còn thiếu sự kết nối của các mối quan hệ. Cũng vì điều này mà nhà ngôn ngữ học
của Pháp - Ch. Bally đã nhận định rằng: “tình thái tính là linh hồn của phát
ngôn”.
Nghĩa tình thái đạo lí (NTTĐL) là một bộ phận của NTT, cho đến nay vẫn
chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ về các biểu hiện của nó trong những thể
loại văn bản khác nhau. Trong đời sống, NTTĐL có vai trò rất quan trọng trong
việc góp phần nâng cao hiệu quả giao tiếp. Trong các tác phẩm văn chương,
NTTĐL cũng có đóng góp lớn vào việc tạo nên giá trị nội dung và nghệ thuật.
Thơ ca là thể loại văn học ra đời từ rất sớm trong đời sống con người, nó
tồn tại với sức sống mạnh mẽ suốt chiều dài lịch sử của nhân loại. Thơ Việt Nam
cũng không nằm ngoài sự vận động và biến đổi của thơ ca nhân loại. Đến thế kỷ
XX, thơ ca trên thế giới đã có nhiều nỗ lực cách tân với các trường phái gây ảnh


1


hưởng nhiều mặt trong đời sống và sáng tạo thơ ca Việt Nam. Thơ Việt Nam từ
đầu thế kỷ XX đến nay vẫn tiếp tục nằm trong quá trình hiện đại hóa và có những
đóng góp không nhỏ về nội dung tư tưởng và hình thức thể hiện cho nền văn học
nước nhà. Vì thế, rất nhiều tác phẩm thơ tiêu biểu cho từng giai đoạn phát triển
của thơ Việt Nam hiện đại được lựa chọn đưa vào giảng dạy trong nhà trường
phổ thông. Những tác phẩm này đều tập trung vào các vấn đề cơ bản của thời đại
đồng thời có giá trị ở mọi phương diện. Vì vậy, việc tìm hiểu các tác phẩm thơ
Việt Nam hiện đại trong chương trình trường phổ thông sẽ giúp chúng ta hiểu rõ
hơn về vị trí và sự cách tân mới mẻ của thơ Việt Nam hiện đại trong tiến trình
phát triển của thơ ca Việt Nam.
Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có một công trình nào nghiên cứu về
NTTĐL của câu trong các tác phẩm thơ Việt Nam hiện đại được đưa vào giảng
dạy trong nhà trường phổ thông. Do đó chúng tôi xác định vấn đề nghiên cứu
của luận văn là “Nghĩa tình thái đạo lí của câu trong các phẩm thơ Việt Nam
hiện đại”.
2. Lịch sử vấn đề
Trên thế giới và trong nước, đã có một số công trình nghiên cứu về
NTTĐL.
Các nhà ngôn ngữ học nổi tiếng thế giới như Lyons, Palmer đều đã tìm
hiểu và đưa ra những nhận định ban đầu về NTTĐL trong quan hệ so sánh với
với nghĩa tình thái nhận thức. Lyons đã chia tình thái thành hai loại, đó là tình
thái nhận thức và tình thái đạo lí.
Ở Việt Nam, nhiều nhà ngôn ngữ học cũng đã tìm hiểu và nghiên cứu về
NTTĐL.
Trong Cơ sở ngữ nghĩa phân tích cú pháp, Nguyễn Văn Hiệp đã đề cập
đến sự đối lập giữa tình thái nhận thức và tình thái đạo nghĩa. Dẫn theo lí thuyết
của Palmer, tác giả đã đưa ra khái niệm về tình thái đạo nghĩa và phân loại nó.

“Đây là loại tình thái có liên quan đến nhân tố ý chí của người nói. Nếu như tình

2


thái nhận thức chỉ ra vị thế hiểu biết của người nói, bao gồm cả sự xác nhận
cũng như những đảm bảo cá nhân của người nói đối với điều anh ta nói ra thì
tình thái đạo nghĩa lại liên quan đến tính hợp thức về đạo đức hay các chuẩn
mực xã hội đối với hành động do một người nào đó hay chính người nói thực
hiện” [23, tr.110]. Tác giả đã chia NTTĐL thành bốn nhóm: hiện thực, bắt buộc,
phi hiện thực và cấm đoán.
Nguyễn Văn Hiệp và Lê Đông ở bài viết “Khái niệm tình thái trong ngôn
ngữ học” trong Tạp chí Ngôn ngữ đã đề cập đến vấn đề phân loại các kiểu ý
nghĩa thuộc phạm trù tình thái, trong đó có tình thái đạo lí và đồng thời cũng tiến
hành phân biệt tình thái đạo lí với tình thái nhận thức.
Nguyễn Thị Lương với Tiểu từ tình thái dứt câu dùng để hỏi với việc biểu
thị các hành vi ngôn ngữ trong tiếng Việt và Lưu Văn Hưng với Tình thái nhận
thức trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu cũng đã nhắc đến NTTĐL khi các tác
giả phân biệt loại nghĩa này với tình thái nhận thức.
Nguyễn Thị Nhung trong Đề cương bài giảng Một số vấn đề cơ bản về
ngữ nghĩa học (trên cứ liệu tiếng Việt) đã đưa ra quan niệm về NTTĐL, các sắc
thái của NTTĐL đồng thời chỉ rõ mối quan hệ của NTTĐL với các nghĩa tình
thái khác.
Bên cạnh những công trình đề cập đến lí luận chung về NTTĐL, chúng ta
cần phải nói tới những công trình nghiên cứu ứng dụng lí thuyết NTTĐL vào câu
tiếng Việt. Trước hết cần kể tới bài viết Nghĩa tình thái đạo lí của câu trong các
văn bản văn học giảng dạy ở trường Trung học phổ thông của Nguyễn Thị
Nhung. Trên cơ sở khảo sát được 326 câu chứa NTTĐL cùng 97 phương tiện thể
hiện NTTĐL trong tất cả các văn bản văn học ở sách Ngữ văn THPT, tác giả đã
tập trung mô tả 4 sắc thái NTTĐL, đưa ra các kết luận khái quát nhất về NTTĐL.

Tiếp theo phải kể đến các Khóa luận tốt nghiệp liên quan đến NTTĐL,
Phan Thị Thương với Nghĩa tình thái đạo nghĩa trong câu văn của tác phẩm Tắt
đèn - Ngô Tất Tố và Nguyễn Thị Liên trong Nghĩa tình thái đạo nghĩa của câu trong

3


Vĩnh Biệt Cửu trùng đài (Nguyễn Huy Tưởng) và Hồn Trương Ba, da hàng thịt
(Lưu Quang Vũ) đã tiến hành tìm hiểu và nghiên cứu khá sâu về NTTĐL qua việc
phân tích những phương tiện biểu đạt và phân loại các bộ phận NTT dựa trên cơ sở
ngữ liệu các câu văn của tác phẩm Tắt đèn, Vĩnh Biệt Cửu trùng đài và Hồn Trương
Ba, da hàng thịt, đồng thời làm rõ được vai trò của loại nghĩa này đối với tác phẩm
Tắt đèn của nhà văn Ngô Tất Tố, Vĩnh Biệt Cửu trùng đài (Nguyễn Huy Tưởng) và
Hồn Trương Ba, da hàng thịt (Lưu Quang Vũ) .
Như vậy, có thể nói, NTTĐL đã và đang được các tác giả quan tâm nghiên
cứu. Tuy nhiên, chưa có một công trình nào nghiên cứu về NTTĐL của câu một
cách toàn diện trong các tác phẩm thơ Việt Nam hiện đại.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Qua việc tìm hiểu các sắc thái và đặc điểm các phương tiện biểu hiện của
NTTĐL của câu tiếng Việt trong các tác phẩm thơ Việt Nam hiện đại, sẽ có được
những hiểu biết sâu sắc hơn về NTT nói chung và NTTĐL nói riêng trong thơ
Việt Nam hiện đại.
Tìm hiểu giá trị của NTTĐL trong các tác phẩm thơ Việt Nam hiện đại sẽ
góp phần nâng cao kỹ năng đọc hiểu tác phẩm thơ, phục vụ cho việc nâng cao
chất lượng giảng dạy Ngữ văn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xác định cơ sở lí luận của đề tài.
- Khảo sát, thống kê, chỉ ra đặc điểm của các sắc thái NTTĐL và đặc điểm
các phương tiện biểu hiện của NTTĐL trong các tác phẩm thơ Việt Nam hiện

đại.
- Phân tích vai trò của NTTĐL trong việc khắc họa nhân vật trữ tình và
thể hiện chủ đề tác phẩm.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu

4


Đối tượng nghiên cứu của đề tài là NTTĐL của câu trong các tác phẩm
thơ Việt Nam hiện đại ở ba phương diện: các sắc thái, phương tiện biểu hiện, các
sắc thái và giá trị với việc.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Ngữ liệu được khảo sát để nghiên cứu đối tượng luận văn là NTTĐL của
câu trong những tác phẩm thơ Việt Nam hiện đại được đưa vào giảng dạy trong
sách giáo khoa Tiếng Việt và Ngữ văn phổ thông từ lớp 1 đến lớp 12.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lí thuyết: giúp chúng tôi nắm được các tri thức
lí luận về về NTT nói chung và NTTĐL nói riêng.
- Phương pháp điều tra khảo sát: được sử dụng để tìm ra các phương tiện
biểu thị NTTĐL khác nhau trong các tác phẩm thơ Việt Nam hiện đại.
-Phương pháp miêu tả: dùng để mô tả, phân tích đặc điểm của các phương
tiện, các sắc thái và vai trò của NTTĐL trong câu của các tác phẩm thơ Việt Nam
hiện đại. Ở phương pháp này, luận văn sử dụng các thủ pháp sau:
Thủ pháp thống kê toán học, phân loại và hệ thống hóa: chúng tôi sử dụng
thủ pháp này để xác định, phân loại các phương tiện và các sắc thái NTTĐL của
câu trong các tác phẩm thơ Việt Nam hiện đại.
Thủ pháp phân tích nghĩa tố: được dùng để xét ý nghĩa của các phương
tiện biểu thị NTTĐL trong câu.
Thủ pháp phân tích ngôn cảnh: được sử dụng để hiểu NTTĐL của câu

trong ngôn cảnh tình huống và ngôn cảnh văn hóa.
Thủ pháp so sánh: được sử dụng để chỉ ra sự thống nhất và khác biệt giữa
NTTĐL trong các tác phẩm thơ Việt Nam hiện đại.
6. Đóng góp mới của luận văn
6.1. Về mặt lý luận

5


Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần hoàn thiện tri thức lí luận về
NTT của câu tiếng Việt nói chung và của câu thơ tiếng Việt nói riêng.
6.2. Về mặt thực tiễn
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy
ngữ nghĩa học tiếng Việt, và cho việc dạy học các tác phẩm thơ Việt Nam hiện
đại trong nhà trường hiện nay.
7. Cấu trúc của đề tài
Luận văn của chúng tôi gồm ba phần
Phần một: Mở đầu;
Phần hai: Nội dung;
Phần ba: Kết luận.
Phần Nội dung, chúng tôi chia làm ba chương với các nội dung chính như
sau:
Chương 1: Cơ sở lí luận
Ở chương này, chúng tôi xác định những cơ sở lí thuyết cơ bản liên quan
đến đề tài như: khái quát về câu, từ, tổ hợp từ; khái quát về NTT của câu và
NTTĐL của câu tiếng Việt, một vài nét sơ lược về thơ và tác phẩm thơ Việt Nam
hiện đại.
Chương 2: Khảo sát nghĩa tình thái của câu trong các tác phẩm thơ
Việt Nam hiện đại
Trong chương này, chúng tôi phân tích các sắc thái NTTĐL, trình bày kết

quả khảo sát, phân loại và miêu tả các phương tiện biểu đạt NTTĐL trong các
tác phẩm thơ Việt Nam hiện đại.
Chương 3: Giá trị của nghĩa tình thái đạo lý của câu trong các tác
phẩm thơ Việt Nam hiện đại
Chương này, chúng tôi tiến hành phân tích và làm rõ vai trò của NTTĐL
đối với việc khắc họa nhân vật và bộc lộ chủ đề tác phẩm thơ.
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN
6


1.1. Sơ lược về một số đơn vị ngôn ngữ liên quan đến đề tài
1.1.1. Câu
1.1.1.1. Định nghĩa câu
“Câu” là một khái niệm được các nhà nghiên cứu ngôn ngữ trong và ngoài
nước quan tâm từ lâu. Khái niệm này đã được tiếp cận theo nhiều phương diện khác
nhau. Để thuận lợi cho việc nghiên cứu đề tài này, chúng tôi lựa chọn một định nghĩa
có thể đề cập đến câu một cách toàn diện, từ sự hình thành tới chức năng, từ nội dung
đến hình thức của câu. Đó là định nghĩa của Nguyễn Thị Nhung: “Câu là đơn vị ngôn
ngữ được tạo ra trong quá trình tư duy và giao tiếp, do các từ, ngữ trực tiếp tạo thành
theo một quy tắc ngữ pháp, sử dụng một ngữ điệu kết thúc nhất định, thường biểu đạt
một sự tình kèm theo thái độ, sự đánh giá của người nói hoặc chỉ biểu thị thái độ, sự
đánh giá của người nói. Câu đồng thời là đơn vị lời nói nhỏ nhất có chức năng thông
báo” [48, tr.148].
1.1.1.2. Phân loại câu
Có thể phân loại câu dựa vào 2 tiêu chí là cấu tạo ngữ pháp và mục đích
nói. Để thuận lợi cho việc nhiệm vụ nghiên cứu, trong luận văn này, chúng tôi
lựa chọn cách phân loại câu theo cấu tạo ngữ pháp.
Theo Nguyễn Thị Nhung, dựa vào cấu trúc, có thể chia câu tiếng Việt
thành một hệ thống các kiểu loại ở các cấp độ khác nhau.

Trước hết dựa vào tiêu chí kiểu nòng cốt, có thể chia câu tiếng Việt thành
2 nhóm: nhóm nòng cốt không phải là cụm C- V (gọi là câu đặc biệt) và nhóm
nòng cốt là cụm C-V (bao gồm tất cả các kiểu câu còn lại mà chúng tôi tạm gọi
là câu bình thường).
Dựa vào số lượng cụm nòng cốt, có thể chia nhóm thứ nhất thành câu đặc
biệt đơn (có 1 nòng cốt) và câu đặc biệt phức(có 2 nòng cốt trở lên), và chia
nhóm thứ hai thành 2 kiểu: câu đơn (câu có 1 cụm C-V) và câu phức (câu có hai
cụm C- V trở lên).

7


Dựa vào quan hệ giữa các cụm C-V, có thể tiếp tục chia câu phức thành câu
phức mà quan hệ giữa các cụm C-V là quan hệ bao nhau và câu phức mà quan
hệ giữa các cụm C-V là không bao nhau. Loại thứ nhất (gọi là câu phức thành
phần) chỉ có một kết cấu C- V làm nòng cốt câu, các kết cấu C- V còn lại giữ vai
trò làm thành phần bên trong của nòng cốt câu. Loại thứ hai (gọi là câu ghép)
không kết cấu C-V nào bao kết cấu C-V nào. Ở mỗi kiểu này, lại có thể tiếp tục
chia thành những kiểu nhỏ hơn nữa.
Ngoài ra, dựa vào sự có mặt hay tạm thời vắng mặt của bộ phận nòng
cốt, có thể chia câu đơn, câu phức thành 2 kiểu đối lập nhau là câu tỉnh lược
và câu không tỉnh lược.
1.1.1.3. Nghĩa của câu
Theo Nguyễn Thị Nhung: “Nghĩa của câu là toàn bộ nội dung mà câu biểu
thị” [48, tr.206].
Nghĩa của câu được biểu thị bởi hình thức cấu tạo của câu, còn hình thức
cấu tạo của câu được tạo thành bởi các phương tiện từ vựng và các phương thức
ngữ pháp (trật tự từ, hư từ, ngữ điệu). Các phương tiện từ vựng và ngữ pháp khác
nhau sẽ tạo nên các câu có ý nghĩa khác nhau.
Cũng như nghĩa của từ, nghĩa của câu có tổ chức phức tạp bao gồm các

kiểu khác nhau. Phù hợp với lí thuyết về ba bình diện của câu, có thể xác định
ba kiểu nghĩa chính của câu: nghĩa biểu hiện, nghĩa cú pháp và nghĩa tình thái.
1.1.2. Từ
1.1.2.1. Khái niệm
Hiện nay có tới trên 300 định nghĩa về từ. Để phù hợp với việc nghiên cứu
đề tài luận văn, chúng tôi chọn định nghĩa sau:
“Từ là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa của ngôn ngữ được vận dụng độc lập, tái
hiện tự do trong lời nói để xây dựng nên câu” [46, tr.43].
1.1.2.2. Phân loại

8


Có rất nhiều cách phân loại từ như: phân loại theo nguồn gốc, phân loại
theo ngữ nghĩa, phân loại theo đặc điểm cấu tạo, v.v. Ở đây, chúng tôi xin được
đề cập tới cách phân loại từ theo đặc điểm cấu tạo và đặc điểm mặt ngữ pháp bởi
nó cần thiết với việc nghiên cứu đề tài luận văn.
* Phân loại theo cấu tạo
Theo phương thức cấu tạo có thể phân từ thành các kiểu sau:
Từ đơn: “Từ đơn là những từ được cấu tạo theo phương thức từ hóa hình
vị, đo đó, trong cấu tạo của từ đơn chỉ có một hình vị” [46, tr.47].
Từ phức: “Từ phức là những từ mà trong cấu tạo của nó gồm hai hoặc
hơn hai hình vị” [46, tr.48].
*Phân loại về mặt ngữ pháp
Những lớp từ được phân định dựa vào đặc điểm chung về ý nghĩa ngữ
pháp và hình thức ngữ pháp gọi là từ loại.
Việc phân định từ loại tiếng Việt thành những lớp từ cụ thể chủ yếu căn
cứ vào ba tiêu chuẩn: ý nghĩa khái quát, khả năng kết hợp, chức vụ ngữ pháp.
Căn cứ vào ba tiêu chuẩn trên, từ loại tiếng Việt được phân định như sau:
+ Thực từ gồm: danh từ, động từ, tính từ, số từ, đại từ.

+ Hư từ gồm: phó từ, kết từ, tình thái từ (tiểu từ tình thái), trợ từ, thán từ.
Hệ thống từ loại tiếng Việt này có vai trò rất quan trọng đối việc xác định
và biểu thị NTTĐL trong câu. Trong đó các từ loại có liên quan trực tiếp đến
NTTĐL bao gồm :
Động từ: “Động từ thường là những từ có ý nghĩa chỉ tình thái, hoạt
động, trạng thái của sự vật” [48, tr.51].
Phó từ: “Phó từ là từ đi kèm thực từ với tư cách thành tố phụ, có thể làm
phương tiện nhận diện và phân biệt các thực từ” [48, tr.85].
Tình thái từ: “Tình thái từ là những từ dùng để biểu thị mục đích nói của
câu và các sắc thái tình cảm của người nói” [48, tr.102].
1.1.3. Tổ hợp từ
Tổ hợp từ là một thuật ngữ được sử dụng tương đối phổ biến nhưng chưa
được quan tâm về mặt khái niệm. Chúng tôi sử dụng thuật ngữ này trong đề tài
để chỉ một đơn vị gồm từ hai từ trở lên, kết hợp với nhau theo một mối quan hệ
9


ngữ pháp, ngữ nghĩa nhất định. Chúng có thể do các thực từ tạo thành, do các hư
từ tạo thành, hay bao gồm cả thực và hư từ như: hay hớm gì, hằng nghe, quái lạ,
chao ôi, may mà, đã đành,...
1.2. Khái quát về nghĩa tình thái và nghĩa tình thái đạo lí của câu
1.2.1. Về khái niệm nghĩa tình thái của câu
Mặc dù tình thái trong ngôn ngữ là một vấn đề khá mới so với các vấn
đề ngôn ngữ khác, nhưng nó đã được các nhà nghiên cứu quan tâm tiếp cận
theo nhiều hướng với những phương diện khác nhau. NTT là một thành phần
nghĩa phức tạp, bởi vậy nó được hiểu theo nhiều cách khác nhau và quan niệm về nó chưa có
sự nhất quán giữa các nhà ngôn ngữ học. Điều đó được thể hiện như sau:
- Quan niệm của các nhà ngôn ngữ học nước ngoài.
+ Vinogradov xem tình thái như phạm trù ngữ pháp độc lập, tồn tại song
song với phạm trù vị tính và định nghĩa nó như sau: “Mỗi câu đều mang một ý

nghĩa tình thái như dấu hiệu cấu trúc cơ bản, tức chỉ ra quan hệ đối với hiện
thực” [dẫn theo 22, tr.84].
+ Ch. Bally cũng là một trong những người đầu tiên đề cập đến vấn đề tình
thái một cách hệ thống. Ông chủ trương phân biệt trong cấu trúc nghĩa của phát
ngôn hai thành phần cơ bản tương ứng là dictum (tình thái) và modus (ngôn liệu).
Trong đó, dictum là bộ phận biểu hiện nội dung sự tình ở dạng tiềm năng. Nó
gắn với chức năng kinh nghiệm, chức năng miêu tả của ngôn ngữ. Còn mudus
thì gắn với bình diện chủ quan, thể hiện những nhân tố như ý chí, thái độ, sự
đánh giá của người nói đối với điều được nói ra, xét trong các chiều kích quan
hệ với thực tế, quan hệ với người đối thoại và quan hệ với hoàn cảnh giao tiếp.
Modus tham gia vào quá trình thực tại hóa, nhờ đó nội dung sự tình còn ở dạng
tiềm năng có thể trở thành phát ngôn hiện thực. Modus cho biết sự tình nêu trong
phát ngôn chỉ là khả năng hay đã là hiện thực, là khẳng định hay phủ định, cho
biết mức độ cam kết của người nói đối với độ xác thực của điều được nói ra, thể

10


hiện đánh giá của người nói đối với hành động được nêu ra trong câu, cho biết ý
chí, mong muốn, mục đích của người nói khi phát ngôn câu nói. Xuất phát từ hai
thuật ngữ dictum và modus trên, Ch. Bally đã đưa ra định nghĩa như sau: “Tình
thái là thái độ của người nói được biểu thị đối với sự việc hay trạng thái diễn đạt
trong câu” [dẫn theo 22, tr.86].
+ O.B. Xirotinina cho rằng tình thái nằm trong vị tính của câu “thời tính,
tình thái tính và ngôi tính nằm trong cấu trúc vị tính và cùng nhau tạo nên cái
gọi là vị tính mà thiếu nó thì không thể có thông báo” [dẫn theo 22, tr.84].
+ Liapol quan niệm: “Tình thái là phạm trù ngữ nghĩa chức năng thể hiện
các dạng quan hệ khác nhau của phát ngôn với thực tế cũng như các dạng đánh
giá chủ quan khác nhau với điều được thông báo” [dẫn theo 22, tr.85].
+ Palmer định nghĩa: “Tình thái là thông tin ngữ nghĩa của câu thể hiện thái độ

hoặc ý kiến của người nói đối với điều được nói đến trong câu” [dẫn theo 22, tr.85].
+ Theo Lyons: “Tình thái là thái độ của người nói với nội dung mệnh đề
mà câu biểu thị hay sự tình mà mệnh đề miêu tả” [dẫn theo 22, tr.85].
+ N. Chomsky quan niệm rằng: câu bao giờ cũng phải là câu tường thuật
hay câu nghi vấn hoặc câu mệnh lệnh. Tính chất khác nhau của các câu đó là tình
thái. Như vậy, tình thái là yếu tố bắt buộc phải có, để cùng với “hạt nhân” tạo ra
“câu cơ sở” [dẫn theo 49, tr.104 - 105].
+ J. Bybee hiểu tình thái theo nghĩa rộng, đó là “tất cả những gì mà người
nói thực hiện cùng với toàn bộ nội dung mệnh đề” [dẫn theo 22, tr.92].
Như vậy, trên thế giới có quan niệm rộng, hẹp khác nhau về NTT.
+ Theo quan niệm hẹp, NTT thường được cho là phần nghĩa phản ánh mối
quan hệ, thái độ, ý định của người nói đối với nội dung phát ngôn và quan hệ nội
dung phát ngôn đối với thực tế.
+ Theo quan niệm rộng, tình thái - nói theo Bybee - là “tất cả nhũng gì mà
người nói thực hiện cùng với toàn bộ nội dung mệnh đề”.
- Quan niệm của các nhà ngôn ngữ học Việt Nam
11


+ Hoàng Trọng Phiến cho tình thái là một điều kiện để tạo câu (cùng với
tính vị ngữ: “Câu bao giờ cũng mang tính tình thái nhất định. (…). Nó có tác
dụng thông báo một điều gì mới mẻ. Qua câu, người nhận hiểu rõ người nói có
thái độ như thế nào đối với hiện thực, người nói trình bày hiện thực với sự đánh
giá của mình” (đúng hay sai, tin hay ngờ, ước đoán hay đã tồn tại thực, khuyên
bảo hay ra lệnh…) [dẫn theo 49, tr.105].
+ Cao Xuân Hạo phân biệt: “Trong lô gích học, nội dung của một mệnh
đề được chia làm hai phần. Phần thứ nhất gọi là ngôn liệu (lexis hay dictum),
tức cái tập hợp gồm sở thuyết (vị ngữ lô gích) và các tham tố của nó được xét
như một mối liên hệ tiềm năng, và phần thứ hai gọi là tình thái (modalité), là
cách thực hiện mối quan hệ ấy, cho biết mối liên hệ ấy là có thật (hiện thực) hay

là không có (phủ định nó, coi nó là phi hiện thực), là tất yếu hay là không tất
yếu, là có thể có được hay không thể có được” [dẫn theo 49, tr.105 - 106].
+ Theo Diệp Quang Ban, câu có nghĩa miêu tả và nghĩa tình thái. Nghĩa miêu
tả phản ánh vật, việc, hiện tượng được nói đến trong câu. Nghĩa tình thái chỉ ý định
(ý chí, ý muốn), thái độ, tình cảm của người nói đối với điều được nói ra (còn được
gọi là nghĩa liên nhân, nghĩa bộc lộ). Ngoài ra, phần nghĩa chỉ quan hệ của người
nói đối với người nghe cũng có thể xếp vào nghĩa tình thái [2, tr.181].
+ Nguyễn Văn Hiệp cho rằng “Nghĩa tình thái là phạm trù ngữ nghĩa
bao gồm những quan điểm, thái độ khác nhau của người nói, được hiểu như
là những thông tin kèm theo, có tác dụng định tính cho nội dung được miêu
tả trong câu, xét trong mối quan hệ với người nghe, với hoàn cảnh giao tiếp”
[22, tr.84].
+ Nguyễn Thiện Giáp đã phân biệt tình thái trong lô gích và trong ngôn ngữ.
Lô gích học quan tâm tới tình thái khách quan, chỉ quan tâm tới giá trị chân lí của
mệnh đề. Tình thái trong ngôn ngữ liên quan đến thái độ chủ quan của người nói.
Đó là thái độ của người nói với nội dung mệnh đề mà câu biểu thị hay tình trạng mà
mệnh đề đó miêu tả, là thông tin ngữ nghĩa của câu thể hiện thái độ hoặc ý kiến của
người nói đối với điều được nói ra [14, tr.334 - 335].

12


+ Nguyễn Thị Lương định nghĩa: “Tình thái là một phần nghĩa của câu
thể hiện thái độ, ý định, mục đích hay quan hệ giữa người nói với người nghe,
giữa người nói với hiện thực (sự tình) được phản ánh trong câu, giữa nội dung
được phản ánh trong câu với hiện thực ngoài thực tế khách quan” [38, tr.178].
+ Nguyễn Thị Nhung, trong Đề cương bài giảng dành cho học viên cao
học, theo quan niệm rộng, tác giả cho rằng: “Tình thái là tất cả những gì mà
người nói thể hiện kèm theo nội dung mệnh đề khi thực hiện một lời nói. Nó biểu
thị ý định, thái độ, sự đánh giá của người nói với nội dung phát ngôn, quan hệ

của nội dung phát ngôn với hiện thực khách quan và quan hệ của người nói với
người nghe” [49, tr.107].
Tổng hợp những quan niệm của các nhà ngôn ngữ học về khái niệm NTT
từ trước đến nay, chúng tôi nhận thấy tình thái là một phạm trù khá phức tạp và
chưa hoàn toàn đạt được sự thống nhất. Trong công trình này chúng tôi theo quan
điểm rộng về NTT của Nguyễn Thị Nhung, bởi nội dung định nghĩa đã bao quát
được những vấn đề quan trọng nhất của NTT mà hầu hết các tác giả đều nhắc
đến và định nghĩa này cũng phù hợp với việc nghiên cứu các vấn đề liên quan
đến nội dung mà chúng tôi sẽ tiến hành khảo sát trong cả luận văn.
1.2.2. Về phân loại nghĩa tình thái của câu
- Cách phân loại của các nhà ngôn ngữ học nước ngoài
+ Jespersen chia phạm trù tình thái thành hai nhóm: nhóm 1 có chứa thành
tố ý chí (cầu khiến, ép buộc, nghĩa vụ, khuyên bảo, khẩn cầu, khích lệ, cho phép,
hứa hẹn, mong mỏi, ước vọng, dự tính…); nhóm 2 không chứa thành tố ý chí (xác
thực, xác nhận, giả định, hồ nghi, điều kiện, giả thiết…). Sự phân chia này ứng
với hai phạm trù quan trọng là tình thái đạo lí và tình thái nhận thức sau này [dẫn
theo 49, tr.109].
+ V.N. Bondrenko cho rằng chỉ có hai nhóm ý nghĩa dưới đây mới đúng
là các ý nghĩa tình thái: . Nhóm 1: Tính khả năng, tính thực tế và tính cần yếu.
Nhóm ý nghĩa này là cơ sở cho tình thái khách quan. . Nhóm 2: Sự nghi ngờ, tính

13


không chắc chắn (giả định khả năng) và tính dứt khoát. Nhóm ý nghĩa này là cơ
sở chính cho tình thái chủ quan. + J. Lyons nêu lên hai loại ý nghĩa tình thái là
tình thái nhận thức và tình thái đạo nghĩa. Cả hai tình thái này đều có thể mang
tính khách quan hoặc chủ quan. Tính khách quan có ở “tình thái được trình bày
như một cái gì đó hiện tồn trong thế giới khả hữu mang tính nhận thức hay đạo
nghĩa nào đó, vốn ở bên ngoài bất kì ai nói câu đó trong những trường hợp phát

ngôn cụ thể” [dẫn theo 41, tr.340].
+ F. Pamer cũng nói tới tình thái nhận thức và đạo nghĩa. Trong đó, tình
thái nhận thức “cần được xem là dùng để chỉ ra vị thế hiểu hay biết của người
nói”, nó “không chỉ liên quan đến tính khả năng hay tất yếu mà còn liên quan
đến mức độ cam kết của người nói đối với điều anh ta nói ra”. Còn “tình thái đạo
nghĩa lại liên quan đến tính hợp thức về đạo lý của hành động do một người nào
đó hay chính người nói thực hiện” [dẫn theo 67, tr.16].
+ M. Liapon có cách chia khác như sau: Ông chia ý nghĩa tình thái thành
hai loại là tình thái khách quan và tình thái chủ quan. Tình thái khách quan là
dấu hiệu tất yếu của một phát ngôn bất kì, biểu thị mối quan hệ giữa cái được
thông báo với thực tế ở bình diện hiện thực tính và phi hiện thực tính. Tình thái
chủ quan là dấu hiệu không bắt buộc của một phát ngôn, biểu thị quan hệ của
người nói với điều được thông báo. Khái niệm “đánh giá” làm nên cơ sở ngữ
nghĩa cho “tình thái chủ quan” nó bao gồm không chỉ các đánh giá lô gich (lí
tính, duy lí) mà cả các dạng khác nhau về phản ứng có tính cảm giác (phi lí
tính).
+ V. Wright thì phân biệt bốn thức trong một công trình về lô gích tình
thái: tất suy (thức của chân lí), nhận thức (thức của hiểu biết), đạo lí (thức của sự
bắt buộc), tồn tại (thức của hiện hữu) [dẫn theo 22, tr.78-80].
+ Rescher (1969) đã đề nghị một hệ thống mở về tình thái. Bên cạnh các loại
tình thái tất suy và đạo lí ông đề cập các loại tình thái: tình thái thời đoạn, mong ước,
những tình thái đánh giá và những tình thái nhân quả [dẫn theo 22, tr.80 - 81].

14


+ Theo J. Lyons, tình thái gồm tình thái nhận thức và tình thái đạo nghĩa.
Cả hai tình thái này đều có thể mang tính khách quan hoặc chủ quan. Tính khách
quan có ở “tình thái được trình bày như một cái gì đó hiện tồn trong thế giới khả
hữu mang tính nhận thức hay đạo nghĩa nào đó, vốn ở bên ngoài bất kì ai nói

câu đó trong những trường hợp phát ngôn cụ thể” [19, tr.340]. Tính chủ quan
thể hiện “khi phát ngôn câu này, người nói (khái quát hơn, tác thể tạo lời) có thể
biểu đạt hoặc niềm tin và thái độ riêng, hoặc mong muốn và thẩm quyền riêng
của mình chứ không phải chỉ là tường thuật sự tồn tại của một sự tình này nọ,
với tư cách của một người quan sát trung dung” [41, tr.340].
Như vậy, các nhà ngôn ngữ học nước ngoài thường phân biệt giữa tình
thái nhận thức và tình thái đạo nghĩa (ở các mức độ khác nhau) khi nói tới tình
thái. Họ đều dựa trên hai tiêu chí là tính chủ quan và tính khách quan trong mối
quan hệ với hành động và ý nghĩa ngôn từ.
- Quan niệm của các nhà ngôn ngữ học Việt Nam
+ Cao Xuân Hạo trước hết phân biệt hai loại tình thái: tình thái của hành
động phát ngôn và tình thái của lời phát ngôn. Tình thái của hành động phát ngôn
thuộc bình diện dụng pháp, phân biệt các lời về phương diện mục tiêu, tác dụng
của giao tế. Tình thái của lời phát ngôn thuộc bình diện nghĩa học, gắn với nội
dung được truyền đạt, thái độ của người nói với điều được nói ra, quan hệ giữa sở
đề và sở thuyết của mệnh đề. Tình thái của lời phát ngôn lại được chia thành: tình
thái của câu (thái độ của người nói với điều nói ra, tính hiện thực, xác thực, tất
yếu, khả năng,…); tình thái của cấu trúc vị ngữ hạt nhân (dạng thức của hành
động, tính chất, trạng thái do phần thuyết biểu thị) [19].
+ Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học (Nguyễn Như Ý chủ biên)
phân biệt tình thái khách quan với tình thái chủ quan. Tình thái khách quan “biểu
hiện mối quan hệ của điều được thông báo đối với hiện thực khách quan (có thật
hay không có thật, có thể hay không có thể, tất yếu hay ngẫu nhiên) bằng các

15


phạm trù thức, phạm trù thời, các loại ngữ điệu khác nhau v.v…” [71, tr.297].
Tình thái chủ quan “biểu hiện thái độ (quan hệ) của người nói đối với điều được
thông báo (tin hay không tin, đồng ý hay không đồng ý, đánh giá, biểu cảm) bằng

trật tự từ, ngữ điệu, phép kí từ, từ tình thái, tiểu từ, từ cảm, từ xen, v.v…” [71,
tr.297].
+ Nguyễn Văn Hiệp cho rằng, phải qua những đối lập thì bức tranh về tình
thái mới hiện ra một cách rõ ràng nhất, đúng bản chất nhất. Tác giả đã đưa ra các
thể đối lập: tình thái trong logic và tình thái trong ngôn ngữ; trong ngôn ngữ lại
có đối lập giữa tình thái nhận thức và tình thái đạo nghĩa, đối lập giữa tình thái
nhận thức và tình thái căn bản, đối lập giữa tình thái hướng tác thể và tình thái
hướng người nói, đối lập giữa tình thái của mục đích phát ngôn và tình thái của
lời phát ngôn và cuối cùng là những đối lập tình thái mang tính “lập trường”
thuộc chủ quan của người nói [22, tr.96 - 127].
+ Diệp Quang Ban cũng phân biệt tình thái của hành động phát ngôn
nói và tình thái của phát ngôn: “Tình thái của hành động nói là ý định (ý chí,
ý muốn, còn gọi là cái đích, mục đích) thực hiện một hành động nào đó của
người nói khi nói ra một lời. Tình thái của phát ngôn là cách đánh giá, thái
độ của người nói đối với sự thể (vật, việc, hiện tượng) được nói đến trong
phát ngôn” [2, tr.183].
Tình thái của phát ngôn gồm tình thái khách quan và tình thái chủ quan.
Tình thái khách quan có thể kiểm tra được tính đúng sai, gồm tình thái khẳng
định và tình thái phủ định. Tình thái chủ quan là thứ tình thái không kiểm tra
được tính đúng sai, chỉ thái độ, cách đánh giá của người nói đối với vật, việc,
hiện tượng được nói đến. Ngoài ra, tình thái chỉ ý kiến và tình thái chỉ quan hệ
của người nói đối với người nghe cũng có thể xếp vào phạm trù tình thái trong
câu [2, tr.201-204].
+ Nguyễn Thị Nhung trong Tạp chí ngôn ngữ số 10 năm 2015 đã đề xuất
cách phân loại theo NTT sơ đồ như sau:

16



×