VỀ ĐỘC TÀI TOÀN TRỊ
BIÊN TẬP: MINH ANH – VI YÊN
TINH THẦN KHAI MINH
1 |2 9 0
VỀ ĐỘC TÀI TOÀN TRỊ
Biên soạn: Minh Anh – Vi Yên
[Nhóm Tinh Thần Khai Minh]
2 |2 9 0
LỜI NÓI ĐẦU
3 |2 9 0
NỘI DUNG
BÀI MỘT
CHẾ ĐỘ TOÀN TRỊ - TƯƠNG LAI TƯƠI SÁNG HAY LÀ QUÁ KHỨ TỐI TĂM
Mikhail Magid
Phạm Nguyên Trường dịch
Phần I
Chế độ toàn trị trong thế kỉ XX
Thế kỉ XX đã đi vào lịch sử như là thế kỉ của các chế độ toàn trị. Đấy là một giai đọan
lịch sử mà tại nhiều quốc gia bộ máy nhà nước đã khuất phục được tất cả các thiết
chế xã hội cũng như từng công dân riêng lẻ. Trong hàng chục năm, tại các nước này
mọi lĩnh vực họat động trong đời sống cá nhân cũng như xã hội đều nằm dưới sự
quản lí toàn diện và triệt để của chính quyền.
4 |2 9 0
Đấy là giai đoạn mà việc giết người đã trở thành một công việc thường ngày, giống
như công việc của một chiếc máy cơ khí. Trong đại chiến thế giới thứ II bè lũ phát xít
đã giết hàng triệu người Do thái, người Slav và các dân tộc khác trong các trại tập
trung và các trại lao động khổ sai. Vụ diệt chủng này được thực hiện với những lời
tuyên bố như sau: “Giữa chúng ta với nhau, chúng ta có thể gọi đúng tên các sự
kiện…Ý tôi muốn nói…việc tiêu diệt giống Do thái…Đa số các vị phải hiểu rằng đấy là
khi có 100, hay 500 hay 1000 xác chết nắm thành hàng, liền nhau. Chịu đựng điều đó
đến cùng mà vẫn là người đứng đắn, lương thiện…chính điều đó làm cho các vị trở
thành những người cứng rắn” (Trích bài nói chuyện của Heinrich Himmler với các
tướng lĩnh SS tại thành phố Poznan – Balan ngày 4 tháng 10 năm 1943). Hay: “Một
cải tiến khác được chúng tôi thực hiện, đó là các buồng hơi ngạt có thể xử lí hai ngàn
người một lúc, trong khi tại Treblinka có hàng chục buồng có thể tiêu diệt hai trăm
người mỗi buồng” (Trích lời khai của Rudolf Hess, trưởng trại Osvenzim
[1]
, tại phiên
tòa ở Nürnberg)
Ta có thể thấy thái độ tương tự của chế độ bolsevic ở Liên xô đối với các nạn nhân
của nó: “Cuộc bạo loạn rộng khắp của nông dân tỉnh Riazan bắt nguồn từ tệ đoan
của chính chúng ta”, Ovsianikov, đại diện của Ban chấp hành trung ương Liên xô đã
viết. “Cuộc bạo loạn không ảnh hưởng đến hai huyện là Skopinski, chính sách ở đây
mềm dẻo và huyện Dankovski, nơi chính sách khủng bố khốc liệt đã đè bẹp tất
cả....Đối với nông dân chỉ có hai cách, hoặc là cái bánh hoặc là nện cho đến ngất xỉu”.
“Không nghi ngờ gì là quan điểm có tính nguyên tắc của chúng ta rằng dân Cô dắc là
thành phần xa lạ đối với chủ nghĩa cộng sản và tư tưởng Xô viết là hoàn toàn đúng”,
Reinold, một cán bộ bolsevic cao cấp khác, viết năm 1919. “Người Cô dắc, hay là đa
số người Cô dắc trước sau gì cũng sẽ bị tiêu diệt, đơn giản là giết về mặt thể xác,
nhưng cần phải khôn khéo, cần phải rất thận trọng, cần phải ve vãn dân Cô dắc.
Không một phút giây nào được quên rằng chúng ta đang phải đối mặt với một dân
tộc hiếu chiến”.
Chế độ toàn trị đặt ra trước nhân lọai nhiều câu hỏi mới. Tại sao chuyện đó lại có thể
xảy ra? Tại sao người ta lại có thể phạm những tội ác khủng khiếp đến như vậy? Sau
những gì đã thấy, ta có thể nói về tiến bộ trong quan hệ giữa người với người và tiến
5 |2 9 0
bộ trong quan hệ xã hội sau hàng ngàn năm phát triển được không? Hay là ngược
lại, cần phải nói về sự suy đồi và thoái hoá của giống người?
Nhưng nhiều người lại cũng nói rằng dưới chế độ toàn trị họ cảm thấy tình đoàn kết,
cảm giác được tham dự vào các sự kiện vĩ đại, giữa người với người không có sự ghẻ
lạnh như hiện nay. Thể chế xã hội ấy là gì mà có thể kết hợp được những khía cạnh
tưởng chừng không thể kết hợp nổi như: sự man rợ lạnh lùng với tình đoàn kết và
niềm tin vào hạnh phúc chung?
Chế độ toàn trị, một hình thức chính quyền mới
Chúng ta có thể nhận thấy rằng các tư tưởng gia của các chế độ toàn trị có thể phủ
nhận hoàn toàn (như ở Liên xô trước đây) hoặc ngược lại, công khai công nhận tính
chất toàn trị của nó, hơn nữa còn cố gắng xác định những đặc trưng cơ bản của hình
thức cai trị ấy. Lãnh tụ phong trào phát-xít Ý, Mussolini, từng nói: “...Đối với một
người phát-xít thì tất cả đều nằm trong nhà nước, không có gì là nhân tính hay tinh
thần có thể tồn tại, hơn nữa có thể có giá trị bên ngoài nhà nước. Trong ý nghĩa này
thì chủ nghĩa phát-xít là toàn trị, và nhà nước phát-xít đóng vai trò như một cơ chế
tổng hợp và hợp nhất các giá trị, luận giải và phát triển toàn bộ đời sống của dân
chúng cũng như tăng tốc nhịp điệu của nó”. Như vậy là các lí thuyết gia cũng như
những người thiết lập nên các chế độ toàn trị đã nêu lên một trong những đặc trưng
cơ bản nhất của chế độ toàn trị: các chế độ này là biểu hiện cực đoan nhất của xu
hướng nhà nước hoá, xu hướng thống trị của nhà nước đối với xã hội. Xã hội bị nhà
nước nuốt chửng chính là mô hình “tổng thể”, nghĩa là một nhà nước bao hàm tất cả,
bao trùm tất cả, nuốt tất cả các thể xã hội vào trong bộ máy của mình. “Xuất phát
điểm của chế độ chuyên chế hoàn toàn trái ngược với chế độ toàn trị về mọi khía
cạnh”, Hannah Arendt, một nhà nghiên cứu về chế độ toàn trị viết. “Chế độ chuyên
chế dưới mọi hình thức luôn luôn lấn át hay là hạn chế tự do nhưng không bao giờ
thủ tiêu tự do. Chế độ toàn trị, không phụ thuộc vào mức độ bạo ngược, có mục đích
thủ tiêu tự do chứ không phải là giới hạn tự do”. Hướng đến một quyền lực không
giới hạn “là bản chất của các chế độ toàn trị. Chính quyền như vậy chỉ đứng vững khi
6 |2 9 0
tất cả mọi biểu hiện của đời sống cá nhân của tất cả mọi người, không có ngoại lệ
nào, đều bị kiểm soát một cách có hiệu quả”.
Khác với các chế độ độc tài hay chuyên chế thường gặp trong quá khứ, những chế độ
này cho phép sự tồn tại các đơn vị phụ thuộc và liên kết lại với nhau vào cùng một
trục dọc (hương ấp, hiệp hội, liên minh) bên trong hệ thống, nhà nước toàn trị cố
gắng tiêu diệt một cách có ý thức tất cả các mối liên kết phi chính thống theo chiều
ngang giữa các thành viên và không cho phép tồn tại những khoảng trống thiếu sự
bảo trợ của nhà nước. Trong trường hợp này chính quyền nhà nước được coi như cỗ
máy điều tiết hay quản lí tất cả các quan hệ xã hội, kể cả các quan hệ riêng tư nhất
(ở Liên xô trước đây các quan hệ gia đình nhiều khi được mang ra giải quyết tại các
cuộc họp chi bộ đảng). Điều kì lạ là các phong trào có tính quần chúng của các chính
phủ toàn trị lại nhận được sự ủng hộ nhiệt tình từ dưới lên.
Toàn trị là “nô dịch tích cực”
Khi nói về chế độ toàn trị người ta thường chú ý đến hiện tượng xã hội là các cá
nhân sống trong đó bị bộ máy nhà nước nuốt gọn. Nhưng đây chỉ là cái vỏ bên ngoài
của chủ nghĩa toàn trị. Cốt lõi của chủ nghĩa toàn trị chính là hiện tượng mà Yaakov
Oved, nhà nghiên cứu chính trị học Israel, gọi là “nô dịch tích cực”. Khác với các chế
độ chuyên chế cổ điển dựa trên nguyên tắc “nô dịch thụ động”, nghĩa là cấm “làm một
điều cụ thể nào đó”, chế độ toàn trị thiết lập nguyên tắc “nô dịch tích cực” nghĩa là nó
cố gắng đưa từng cá nhân hoặc cả một tập thể đến một tình trạng mà họ “tự làm cái
được phép”.
Hiện tượng này là kết quả của quá trình thôi miên quần chúng theo một ý thức hệ cụ
thể mà kết quả là họ trở thành những người tự nguyện, thường khi là những người
tham gia tích cực vào chính sách cũng như tội ác của chính chế độ ấy. Nhưng điều đó
không thể nào thực hiện được nếu chế độ toàn trị không dành cho quần chúng một
sự đền bù nhất định về mặt tâm lí. Chế độ toàn trị đưa cho người ta một niềm tin,
7 |2 9 0
một hệ toạ độ hoàn chỉnh, sự đồng nhất, tình đồng chí và cuối cùng là cảm giác say
sưa khi được tham gia vào đám đông hân hoan và phấn khích đầy thù hận.
Sự cưỡng ép và kiểm soát toàn diện của bộ máy nhà nước đối với xã hội cùng với
tính tích cực của phong trào quần chúng do chính bộ máy đó điều khiển, hai hiện
tượng này là cốt lõi và cũng là điểm khác biệt của nó với các chế độ chuyên chế khác.
Đề tài “nô dịch tích cực” đã được nhiều nhà nghiên cứu về chế độ toàn trị khảo sát.
Tất nhiên lãnh tụ của các phong trào này chính là những người đầu tiên đề cập tới
vấn đề đó. Chính Lênin là đã xác định trật tự bolsevic ở Nga là sự kết hợp giữa
chuyên chính vô sản (chính quyền của đảng bolsevic và bộ máy nhà nước do nó lãnh
đạo) và “sự sáng tạo sống động của quần chúng”. Adolf Hitler, khi còn trẻ, trong lúc
chứng kiến cuộc biểu tình do những người dân chủ xã hội tổ chức có hàng triệu công
nhân tham gia ở Viên đã cảm thấy vô cùng hoảng sợ và sau đó là thích thú. Hoảng sợ
vì cái đám đông quần chúng được một số lãnh tụ dẫn dắt đó có thể dễ dàng đè bẹp
đối phương (hắn tự coi mình là đối phương của đám đông đó). Thích thú vì hắn bỗng
hiểu rằng có thể lái sức mạnh của các phong trào quần chúng đó vào hướng cần
thiết.
Khi nói đến những người không chấp nhận chế độ toàn trị thì trước tiên người ta
nghĩ đến những thành viên cuộc khởi nghĩa trên đảo Kronshtadt năm 1921 (đảo ở
gần thành phố Leningrad – Saint Peterburg hiện nay – ND), cuộc khởi nghĩa chống
chế độ toàn trị đầu tiên trong thế kỉ XX. Trong số báo do Ủy Ban Cách Mạng Lâm
Thời Kronshtadt xuất bản vào tháng 3 năm 1921 có đoạn viết: “...Nhưng việc nô dịch
về tinh thần nhục nhã và tội lỗi nhất của những người cộng sản là: họ can thiệp cả
vào thế giới nội tâm của quần chúng lao động, bắt quần chúng phải suy nghĩ như
họ”.
Vsevolod Volin, một người vô chính phủ, thành viên tích cực của cách mạng Nga và là
một trong những người phê phán không khoan nhượng Liên xô, một trong những
người đầu tiên quan tâm đến hiện tượng là tại một số nước trên thế giới đã hình
thành những điều kiện làm cho các phong trào quần chúng tiếp thu tư tưởng chuyên
chính, ông cũng là người nhận ra sự tương đồng giữa chủ nghĩa phát xít và chủ
nghĩa cộng sản và như vậy đã mở ra phương hướng tư duy về chế độ toàn trị và nô
8 |2 9 0
dịch tích cực. Ông đã viết trong cuốn sách Chủ nghĩa phát xít đỏ xuất bản đầu những
năm 30 của thế kỉ trước như sau: “Nếu tư tưởng chuyên chính – tàn bạo hay bọc
đường - được công nhận và ủng hộ rộng rãi thì có nghĩa là con đường cho sự xâm
nhập của tâm lí, tư tưởng và hành động phát xít đã mở rộng rồi… Khi ý tưởng này
được… các nhà tư tưởng của các giai cấp vô sản nắm lấy và đưa vào thực hiện như
là phương tiện giải phóng cho họ thì ta phải công nhận rằng đấy là…một sự lầm lẫn
nguy hiểm. Thực chất đấy là tư tưởng phát xít, nếu được thực hiện nhất định sẽ dẫn
đến một tổ chức xã hội hoàn toàn mang tính phát xít”. Tất nhiên là các chế độ chuyên
chế khác cũng cần được xã hội mà nó cai trị công nhận chứ không thể chỉ dựa vào
báng súng. Nhưng các chế độ này chỉ cần các thần dân thoả hiệp với chính sách của
nó chứ không cố gắng nắm cả “trái tim và khối óc dân chúng”, không đòi hỏi sự ủng
hộ nhiệt tình và sự tham gia trực tiếp của dân chúng vào đường lối cũng như tội ác
của chế độ.
Tâm trạng đặc trưng cho trạng thái “nô dịch tích cực” được nữ văn sĩ Nga, Evghenia
Melser, viết ngay từ cuối những năm 20 của thế kỉ trước như sau: “Ghenia rất thích
những ngày lễ 7 tháng 11 và 1 tháng 5. Đấy là những cột mốc trong đời sống đất
nước, cột mốc trong hành trình như vũ bão tiến về phía trước, cũng là cột mốc trong
cuộc đời của chính cô, cô cho rằng mình có những tình cảm đặc biệt và sẽ nhớ những
ngày ấy theo một cách cũng thật là đặc biệt. Sau đó là cảm giác không gì so sánh
được, cảm giác được hòa tan vào đám đông quần chúng được khích lệ bởi niềm hân
hoan chiến thắng, khi tất cả cùng thở một nhịp, cùng một suy nghĩ, cùng một khí thế”.
Ở đây điều đáng lưu ý không chỉ là cảm giác say sưa khi được hoà tan vào đám đông,
mà ta sẽ thấy trong phần trình bày sau, có thể là hình thức tồn tại cổ sơ, tiền công
nghiệp của con người. Điều đáng buồn nhất và có thể cũng là vô lí nhất trong trường
hợp này là dân chúng đã ăn mừng “chiến thắng” trong một đất nước nghèo nàn, đói
khát, trong một đất nước đang chìm ngập trong những đợt thanh trừng tàn bạo cả
về qui mô và mức độ tàn nhẫn do nhà nước tiến hành. Họ mừng chiến thắng của nhà
nước đối với chính mình, mừng sự thất bại thảm hại của chính mình. Ở đây chúng ta
bắt gặp một trong những khía cạnh quan trọng nhất của hiện tượng nô dịch tích
cực: khi bạo lực trở nên không thể chịu đựng được mà dân chúng lại không có cách
nào né tránh thì họ đành phản ứng bằng cách yêu ngay những kẻ đang thi hành bạo
9 |2 9 0
lực. George Orwell, dựa vào lời kể của những người từng bị các chế độ toàn trị đàn
áp đã chỉ ra sự gắn bó một cách kì quặc giữa nạn nhân và những tên đao phủ. Một
nhà nghiên cứu chế độ toàn trị nổi tiếng khác, ông Erich Fromm, đã gọi hiện tượng
đó “biểu hiện của bệnh tự làm khổ mình và làm khổ người".
Một khía cạnh quan trọng nữa của hiện tượng nô dịch tích cực là nguyên tắc trách
nhiệm tập thể và cảm giác tội lỗi tập thể. Tại sao các chế độ toàn trị lại cần giành
được sự ủng hộ của toàn dân đối với tất cả các họat động của nó, đặc biệt là các họat
động thanh trừng? Tạo sao nó phải thường xuyên tổ chức các buổi mít tinh đông
người tại các công xưởng, nhà máy, hoặc các buổi diễu hành trên đường phố, nơi
thường vang lên các khẩu hiệu đòi tiêu diệt kẻ thù giai cấp hay các dân tộc hạ đẳng?
“Đoàn kết, đoàn kết - một nhân vật trong truyện ngắnTrên công trường xây dựng
Vạn lí trường thành của Franz Kafka reo lên - tất cả đứng, vai kề vai, cùng nắm tay
nhau, máu không chỉ chảy trong huyết quản từng cá nhân riêng lẻ nữa mà chảy
trong khắp nước Trung hoa rộng lớn để rồi cuối cùng lại trở về với chính bạn”. Ta có
thể thấy ẩn ý của từ máu trong tiếng reo mà nhà văn gắn vào miệng nhân vật của
những “công trình xây dựng vĩ đại”. Máu ở đây tượng trưng cho những vụ giết người
hàng loạt, những vụ giết người nhằm tăng cường sự thống nhất trong một nhà nước
toàn trị. Khi máu đã trở thành chất kết dính mọi người với nhau thì không thể nào
lùi được nữa, muộn rồi, cảm giác tội lỗi quá lớn, chỉ còn mỗi một cách là tiến lên.
Kết quả của nô dịch tích cực là con người như nó vốn là biến mất, nó đã trở thành
một chiếc đinh ốc nhỏ trong bộ máy đàn áp của nhà nước toàn trị. Con người bị bộ
máy to lớn đó nghiền nát, một bộ máy không cho người ta thể hiện tất cả các chiều
kích vốn có của cá nhân mình, không cho người ta suy nghĩ, cảm thụ độc lập, một bộ
máy làm cho cá nhân con người tan ra trong sự thần phục lãnh tụ, tan ra trong cơn
phấn khích của lòng hi sinh. Chủ nghĩa toàn trị, dù dựa trên tinh thần dân tộc hay
giai cấp, thực chất là “một vụ tranh chấp không bao giờ dứt”.
Cơ cấu xã hội tiền công nghiệp
Ngay từ khởi thủy con người đã sống trong những cộng đồng nhỏ, phù hợp với bản
năng xã hội về sự tương trợ nằm tận đáy sâu tâm hồn họ. Trải suốt chiều dài của lịch
10 |2 9 0
sử, cuộc sống tập thể đã được biểu hiện dưới nhiều hình thức: dòng họ, bộ lạc, cộng
đồng…Lao động, sinh hoạt và các hoạt động khác của con người trong hàng ngàn
năm được qui định theo truyền thống, sự khác nhau liên quan đến hoạt động giữa
các thành viên của xã hội chỉ mang tính tạm thời và không tạo ra đặc lợi. Những
nhiệm vụ quân sự và nhu cầu phối hợp trong hoạt động sản xuất của cộng đồng đã
thúc đẩy việc hình thành và củng cố dần dần quyền lực vào tay các lãnh tụ và các
thày tư tế. Quyền lực đã được thiết lập bằng cách đó và chính từ đây năm, sáu ngàn
năm trước bộ máy nhà nước đã ra đời. Nhưng mặc dù ngày nay chúng ta coi những
hệ thống chính trị thời tiền công nghiệp là những chế độ chuyên chế thì sự can thiệp
của nhà nước vào đời sống của các làng xã nông nghiệp hay các tổ chức thủ công
cũng rất hạn chế. Ở châu Âu thời trung cổ các cộng đồng nông nghiệp và hiệp hội thợ
thủ công, xưởng và các hiệp hội trực thuộc nhà thờ vẫn giữ được một sự tự trị nhất
định, nhà nước ít khi can thiệp vào đời sống của các tổ chức đó.
Sự phát triển của các dân tộc và các nền văn hoá đi theo những con đường khác
nhau, đôi khi hơi giống nhau. Nếu ở châu Âu, do chính sách của các chính quyền
chuyên chế, đã xuất hiện những thiết chế tư hữu để từ đó hình thành chủ nghĩa tư
bản hiện đại thì tình hình ở phần còn lại của thế giới lại hoàn toàn khác. “Nhà nước”
– Karl Marx viết về các nước phương Đông – “là chủ sở hữu tối thượng của đất đai.
Quyền lực tối thượng ở đây là sở hữu ruộng đất được tập trung trên qui mô toàn
quốc.…Trong trường hợp này không hề có sở hữu tư nhân về đất đai mặc dù có việc
sử dụng tư nhân hoặc cộng đồng”. Vì thời thượng cổ đất đai là phương tiện sản xuất
chủ yếu cho nên có thể nói rằng nhà nước và nhà vua không chỉ nắm quyền lực chính
trị mà còn nắm quyền lực kinh tế, áp đảo cả xã hội và cá nhân. Đa số tuyệt đối cư dân
là các cộng đồng nông dân, sống chủ yếu bằng tự cấp tự túc (kinh tế tự nhiên) được
quyền sử dụng đất (nhưng không phải là quyền sở hữu) và canh tác trên cơ sở chủ
nghĩa tập thể và tương đối bình đẳng về tài sản (mặc dù ở một số vùng ở phương
Đông đã có các trung tâm đô thị nơi các quan hệ buôn bán và tiểu thủ công nghiệp
đã phát triển). Marx gọi đấy là “chuyên chế châu Á”. Có thể đọc những bản báo cáo,
phân tích kĩ lưỡng cơ cấu xã hội loại này trong các tác phẩm của nhà nghiên cứu nổi
tiếng người Đức Karl Wittfogel, nhà sử học-phương đông học người Nga Leonid
Vasiliev và nhiều nhà nghiên cứu khác nữa.
11 |2 9 0
Chế độ chuyên chế Á châu thường cố kết bằng những truyền thống văn hoá rất
mạnh. Ở Nga, đấy là chính quyền của Sa hoàng đựơc nhà thờ tôn vinh như là “người
chủ của đất Nga”, mà hoàn toàn không phải theo nghĩa bóng của từ này vì ngoài
những khoảnh đất mênh mông là tài sản của chính Sa hoàng, các điền chủ, ở một
khía cạnh nào đó, cũng được coi là người quản lí đất đai của nhà nước. Mặc dù họ có
quyền mua bán đất đai, nhưng nhà nước vẫn thường can thiệp vào quan hệ ruộng
đất. Trong khi đó tuyệt đại đa số dân chúng là nông nô của nhà nước và địa chủ.
Trong các nước Hồi giáo ruộng đất được coi là của Thượng đế, Halif và Sultan chỉ là
những người đại diện cho Thượng đế quản lí mà thôi. Nền văn hoá Trung quốc trong
suốt hơn hai ngàn năm chịu ảnh hưởng mạnh của tư tưởng Khổng giáo, một học
thuyết xã hội mà nền tảng của nó là sự phục tùng bậc huynh trưởng; quan niệm vua
là thiên tử, có quyền sinh sát và quản lí đất đai thông qua bộ máy quan liêu và cuối
cùng là quan niệm bình quân chủ nghĩa về công bằng xã hội.
Nhưng không nên nghĩ rằng phương Đông là thế giới nằm dưới sự cai trị tuyệt đối
của nhà nước. Ngay ở đây vẫn tồn tại một sự tự trị nhất định của các làng xã nông
nghiệp, vốn tương đối tự trị trong nhiều lĩnh vực, là một thế giới khép kín, sống theo
những truyền thống và nguyên tắc có từ lâu đời. Khi nhà nước can thiệp quá mức
vào quan hệ làng xã hoặc áp bức quá mức về kinh tế (thuế khóa) thì làng xã có thể
phản ứng bằng những hành động bạo loạn để lập lại công bằng.
Những thiết chế xã hội truyền thống ở phương Tây đã bị đặt dưới áp lực của chủ
nghĩa tư bản đang phát triển được nhà nước ủng hộ và giúp đỡ. Kết quả là những
mối liên kết xã hội dựa trên sự tương trợ đã bị nhoà dần hoặc phá hủy. Chế độ tư
bản-công nghiệp đã phát triển và hoàn thiện trong các nước phương Tây, sau đó mở
rộng dần ra các nước, các lục địa khác dưới những hình thức khác nhau, đôi khi thật
là lố bịch.
Tăng tốc công nghiệp hoá
Các nhà nghiên cứu chủ nghĩa toàn trị thường gắn việc bành trướng khuynh hướng
toàn trị và vai trò điều tiết của nhà nước trong các lĩnh vực của đời sống xã hội cũng
như những vụ trấn áp tập thể với tiến trình tăng tốc công nghiệp hoá. Alvin Toffler,
12 |2 9 0
một nhà nghiên cứu chính trị hiện đại Mĩ cho rằng quá trình phát triển công nghệ
của xã hội loài người diễn ra theo hình sóng và có thể chia thành ba làn sóng thay
đổi công nghệ. Làn sóng thứ nhất là cuộc cách mạng nông nghiệp đã bắt đầu và cũng
đã hoàn thành từ rất lâu, cuộc cách mạng này chấm dứt thời kì hái lượm, đưa loài
người đến những quan hệ mới và lập ra những nền văn minh đầu tiên trong lịch sử.
Làn sóng thứ hai là cuộc cách mạng công nghiệp bắt đầu cách đây khoảng ba trăm
năm, dựa trên sản xuất công nghiệp đánh dấu việc hình thành những hình thức tổ
chức xã hội mà ta đã biết. Toffler coi một trong những đặc trưng quan trọng nhất
của nền sản xuất công nghiệp là sự tách rời giữa sản xuất và tiêu thụ và ưu thế của
sản xuất so với tiêu thụ. Khác với các xã hội thủ công-nông nghiệp tiền công nghiệp,
sản xuất tự cấp tự túc không còn nữa, thay vào đó là sản xuất hàng hoá, nghĩa là sản
phẩm dành cho những người tiêu thụ vô danh và có mục đính tìm kiếm lợi nhuận
(nói cách khác là sản xuất hàng hoá, chủ nghĩa tư bản).
Theo quan điểm của Toffler thì sự xuất hiện của các chế độ toàn trị gắn liền với quá
trình công nghiệp hoá. Xã hội công nghiệp với bộ máy quan liêu, bệnh sùng bái tổ
hợp lớn, tiêu chuẩn hoá, và vô danh đã sinh ra các chế độ toàn trị. Các nhà máy cực
lớn đã góp phần thúc đẩy sự phát triển chủ nghĩa quan liêu trong xã hội, đòi hỏi tăng
cường vai trò điều tiết của nhà nước, nhà nước phải theo dõi một cách gắt gao sự
tuân thủ, vâng lời của hàng triệu công nhân đang phải làm những công việc đơn
điệu đến kiệt sức. Xu hướng này càng tăng cường thêm khi xuất hiện phương pháp
“Ford”, phương pháp sản xuất theo dây chuyền được đưa vào đầu tiên trong các nhà
máy của hãng Ford. Đấy là hình thức tổ chức lao động trong nhà máy có chuyên môn
hoá cao, phân chia quá trình lao động thành rất nhiều bước nhỏ, tương đối đơn giản,
cấp dưới tuyệt đối phục tùng cấp trên cùng với các biện pháp khen thưởng và kỉ luật
nhằm hợp lí hoá sản xuất. Hệ thống tổ chức lao động như thế có thể dẫn đến và
trong một số trường hợp (Liên xô, nước Đức phát xít) đã dẫn đến sự xuất hiện các
hình thức chính quyền chuyên chế dựa trên cơ sở quản lí toàn bộ đời sống của xã hội.
Tại các nước đó người ta từng hi vọng rằng cùng với việc tăng nhanh tiềm năng
công nghiệp họ có thể đóng vai trò bá chủ thế giới hoặc chí ít cũng có thể ngang
hàng với các nước công nghiệp phát triển khác trên vũ đài chính trị quốc tế.
13 |2 9 0
Khác với Toffler, chúng tôi không cho rằng việc phát triển công nghiệp là nguyên
nhân chủ yếu và duy nhất của sự xuất hiện chế độ toàn trị. Tuy nhiên không nghi ngờ
gì rằng các xu hướng toàn trị có một mối liện hệ nhất định đối với quá trình công
nghiệp hoá.
Liên Xô
Hệ thống gọi là “Chủ nghĩa xã hội hiện thực” ở Liên xô cũng như các hệ thống toàn
trị khác đã tiến hành tăng tốc hiện đại hoá nền công nghiệp theo kiểu của mình.
Những người bolsevic đã xây dựng ở nước Nga cơ sở của hệ thống công nghiệp với
tốc độ rất nhanh, bằng phương pháp thực ra là sự tiếp tục và cấp tiến hơn của chính
sách công nghiệp hoá khởi đầu từ thời Nga hoàng. Từ những năm 60 của thế kỉ XIX
chính quyền Nga hoàng đã hiện đại hoá nền công nghiệp, tuy qui mô không thể nào
so sánh được với thời Xô viết. Tín dụng của chính phủ đóng vai trò quan trọng đối
với công nghiệp khai khoáng, dệt và luyện kim, nếu không có tín dụng thì cũng không
thể nào xây dựng được hệ thống đường sắt to lớn như vậy. Chính phủ Nga có hai
nguồn cung cấp tín dụng chính. Thứ nhất là trái phiếu của chính phủ trên các thị
trường Đức, Pháp, Bỉ và Anh. Thứ hai là chính sách thuế khoá, cụ thể là tăng thuế
gián thu đối với hàng hoá tiêu dùng. Mức thuế là gánh nặng đối với dân chúng, cả
thành thị và nhất là nông dân vốn là phần dân cư chủ yếu của đất nước. Nông dân bị
phá sản, họ phải di cư vào các trung tâm công nghiệp, đảm bảo cho các xí nghiệp
đang phát triển sức lao động rẻ mạt. Ở một khía cạnh nào đó, điều này có nghĩa là
nền công nghiệp Nga đã phát triển chủ yếu nhờ vào việc bóc lột cộng đồng nông dân
từ phía nhà nước và tất nhiên điều đó không thể không tạo ra căng thẳng xã hội cả ở
nông thôn vì cuộc sống ở đấy đã bị đảo lộn, cả ở thành thị vì ở đó đang có hàng triệu
người tức giận vì bị phá sản, bị đẩy ra khỏi môi trường sống quen thuộc, bị tước
đoạt
điều
kiện
sống
và
lao
động
quen
thuộc.
Sergei Pavliutrenkov, nhà sử học hiện đại Nga từng viết: “Cái gọi là “Chủ nghĩa cộng
sản thời chiến” (chính sách kinh tế và xã hội của chế độ bolsevic trong những năm
1918-1921) xuất hiện một cách tự nhiên từ nhà nước nông nô truyền thống, từ nền
công nghiệp công và tư được nuôi dưỡng bằng chế độ thuế khóa nặng nề đối với các
tầng lớp trung lưu và hạ lưu. Đầu thế kỉ XX chỉ có nước Nga là có các tiền đề lịch sử
14 |2 9 0
cần thiết và nền tảng để có thể tiến hành một cuộc thí nghiệm trên qui mô rộng lớn
về việc tăng cường về chất vai trò của nhà nước trong việc quản lí và can thiệp sâu
vào quá trình phát triển xã hội. Không có một nước nào có thể cung cấp cho các nhà
cách mạng những đòn bẩy quyền lực mạnh mẽ như vậy”. Nước Nga, với một nền kinh
tế bị chiến tranh tàn phá như năm 1918 thì trật tự xã hội toàn trị với sự tập trung
hoá nền kinh tế và các lĩnh vực khác vào tay nhà nước và việc cướp lúa mì bằng vũ
lực do chính quyền bolsevic áp đặt đã là một trong những phương án tổ chức xã hội
khả dĩ. Như vậy là những người bolsevic đã thực hiện công việc cải tạo do hoàn cảnh
chiến tranh đưa lại. Nhưng các biện pháp này đã bị một bộ phận công nhân và hàng
triệu nông dân lao động chống đối quyết liệt. Năm 1921 chính quyền chuyên chế
bolsevic suýt nữa thì bị làn sóng khởi nghĩa của nông dân nhấn chìm và buộc phải từ
bỏ chính sách đó (cộng sản thời chiến – ND). Việc cướp bóc nông dân một cách trực
tiếp và trên diện rộng đã chấm dứt. Người nông dân được tự do sử dụng thành quả
lao động của mình: bán hay trao đổi trực tiếp lấy sản phẩm của công nghiệp. Bắt đầu
thời kì chính sách kinh tế mới, một giai đoạn ngưng chiến trước một làn sóng tấn
công mới vào quyền lợi của người lao động ở cả thành thị và nông thôn. Trong suốt
những năm 20 các làng xã nông dân tiếp tục tồn tại và kháng cự, đôi khi khá cương
quyết, chính sách thuế khóa của chính quyền bolsevic.
Cuối những năm 20 Liên xô vẫn còn là nước kém phát triển, chủ yếu vẫn là một nước
nông nghiệp. Gần 80% dân cư sống ở nông thôn, sản phẩm nông nghiệp chiếm 2/3,
công nghiệp chỉ đóng góp 1/3 sản phẩm kinh tế quốc dân. Nền công nghiệp mới bắt
đầu vượt qua mức trước chiến tranh. Nắm được chính quyền ở một đất nước to lớn,
bộ máy cầm quyền thực chất đã ở vào đúng vị trí của chế độ Sa hoàng trước đây. Bộ
máy đó cũng muốn thực hiện chính sách đế quốc, nhưng cơ sở vật chất lại quá yếu.
Để thực thi chính sách đó thì cần phải hiện đại hoá đất nước về tất cả các mặt, phải
xây dựng cho được nền công nghiệp nặng và công nghiệp quốc phòng mạnh. Chính
quyền cho rằng đây không chỉ là cách giải quyết các vấn đề quốc nội mà còn bảo đảm
được nền độc lập và sức mạnh quốc gia cũng như khả năng bành trướng của nó và
điều đó cũng có nghĩa là sự ổn định và đặc quyền cho giai cấp cầm quyền. “Anh lạc
hậu, anh yếu, thì anh sai, nghĩa là có thể bị đánh, có thể bị nô dịch. Anh mạnh thì anh
15 |2 9 0
có lí, nghĩa là người ta phải tránh anh. Đấy là lí do vì sao chúng ta không thể lạc hậu
thêm được nữa” – Stalin từng tuyên bố như vậy.
Bộ máy quan liêu của đảng và nhà nước hi vọng rằng: “Dựa vào việc quốc hữu hoá
đất đai, nhà máy, phương tiện vận tải, ngân hàng, thương mại, thực thi chế độ tiết
kiệm tối đa, có thể tích lũy được đủ kinh phí cần thiết cho việc khôi phục và phát
triển công nghiệp nặng” (Stalin). Đây rõ ràng là công cuộc công nghiệp hoá do nhà
nước tiến hành, trong đó bộ máy nhà nước hoạt động giống như một nhà máy duy
nhất cực kì to lớn. “Sự biến đổi lớn lao” trong kinh tế đòi hỏi một sự tích tụ và đưa về
một mối sức người, sức của, sự tập trung quyền lực về kinh tế và trấn áp vào tay giới
cầm quyền chóp bu và các cơ quan kế hoạch nhà nước, việc áp dụng phương pháp
chỉ huy-hành chính cũng như lao động khổ sai của hàng triệu tù nhân, không một
công trường xây dựng lớn nào thời Stalin là không sử dụng lao động của tù nhân.
Người ta đã thiết lập được một bộ máy quản lí và kế họach hoá nền kinh tế quốc gia,
dựa trên các kế hoạch phát triển kinh tế năm năm. Công cuộc hiện đại hoá tiến kịp
theo các nước phát triển được thực hiện bằng cách cướp bóc nông dân, trả lương
thấp cho công nhân (sức mua của đồng lương từ năm 1928 đến năm 1940 đã giảm
đi ba lần), xuất khẩu nguyên liệu và lúa mì, tăng thuế và bán thêm rượu.
Và ở Đức
Việc tăng cường vai trò của nhà nước trong một loạt nước phươg Tây trong những
năm 20-30 của thế kỉ XX là kết quả của những biến chuyển xã hội và kinh tế. Áp dụng
sản xuất theo dây chuyền đã dẫn đến việc giảm đột ngột nhu cầu về nhân lực, bần
cùng hoá quần chúng, suy giảm nhu cầu có khả năng thanh toán và cuộc “Đại khủng
hoảng” đã làm cho căng thẳng xã hội tăng thêm. Người ta đã không giải quyết được
những vấn đề đó trong khuôn khổ của hệ thống thị trường tự do. Trong khi cuộc
cạnh tranh một mất một còn với các nước khác và việc củng cố sức mạnh chính trị và
kinh tế đòi hỏi phải cải tạo nhanh chóng nền công nghệ cũng như gấp rút ổn định
chính trị. Nhà nước buộc phải thực hiện những biện pháp nhất định, nếu không thì
xã hội không còn là một thực thể thống nhất nữa. Các qui tắc có tính cách hành chính
được áp dụng không chỉ trong lĩnh vực đời sống mà còn được đưa vào trong kinh tế
16 |2 9 0
thông qua hệ thống trợ cấp, thuế khóa, điều tiết giá cả và tiền lương, kế họach hoá
và quốc hữu hoá. Những vấn đề đó thể hiện rõ nhất đối với các nước thất trận trong
thế chiến thứ nhất và đang bị áp lực cả về kinh tế và chính trị từ phía các nước thắng
trận trong việc đền bù chiến phí và hạn chế phát triển công nghiệp quốc phòng cũng
như quân đội.
Ngoài ra, việc bành trướng của tư bản Đức ra nước ngoài đã bị ngăn chặn bởi chính
sách bảo hộ của nhiều chính phủ để phản ứng lại cuộc khủng hoảng kinh tế, còn việc
đầu tư vào những lĩnh vực phi quân sự thì không có lời vì nạn thất nghiệp cao và sức
mua thấp. Các thế lực công nghiệp liên kết chặt chẽ với đảng phát xít và đảng này đã
nhận được nguồn tài trợ rất lớn. Trong một loạt cuộc gặp với giới công nghiệp,
Hitler, đảng trưởng Đảng phát xít, đã thuyết phục được giới này rằng chỉ có chính
quyền do hắn cầm đầu, thực hiện việc tăng cường vũ trang, mở rộng các xí nghiệp
công nghiệp mới có thể giải quyết được vấn đề đầu tư và đàn áp được mọi sự chống
đối của quần chúng lao động.
Năm 1936 đảng phát xít đưa kế hoạch phát triển kinh tế 4 năm ra thực hiện. Một
trong những nhiệm vụ chủ yếu của kế hoạch này là tái cấu trúc nền kinh tế Đức để có
thể sống còn trong điều kiện bị bao vây về kinh tế. Theo kế hoạch, người ta đã thành
lập những nhà máy cực lớn chuyên sản xuất vải, cao su, nhiên liệu tổng hợp và các
sản phẩm khác bằng nguyên liệu trong nước. Những nhà máy luyện thép cực lớn
dựa vào quặng rẻ nội địa cũng được xây dựng. Một phần chi phí cho việc thành lập
và mở rộng các lĩnh vực công nghiệp mới được thanh toán bằng các kì phiếu “mefo”
do ngân hàng quốc gia phát hành và được nhà nước bảo lãnh. Như thế nghĩa là sự
phát triển của nền kinh tế Đức được thực hiện bằng công trái mà các thế hệ tương
lai sẽ phải thanh toán. Nền công nghiệp bị bao vây bởi một loạt các qui định của nhà
nước. Tiến sĩ Funk, năm 1937 giữ chức bộ trưởng bộ kinh tế Đức, đã từng tuyên bố:
“Hiện nay báo cáo chính thức chiếm hơn một nửa các thư từ giao dịch của các nhà
doanh nghiệp”. Dưới áp lực của chính phủ, các công ty tư nhân buộc phải liên hết
thành hiệp hội. Phòng kinh tế của đế chế là do các nhà tài phiệt, mà đứng đầu là một
quan chức, nắm. Các kế hoạch kinh tế của nhà nước được thực hiện thông qua tổ
chức này. Công ty tư nhân nào có mức lợi tức vượt 6% thì bắt buộc phải mua trái
phiếu chính phủ. Tuy nhiên phải nói thêm rằng nhà nước phát xít dù có hạn chế và
17 |2 9 0
định hướng hoạt động của các cơ sở tư nhân nhưng không hủy bỏ sở hữu tư nhân
như Liên xô đã làm. Sự phát triển một loạt ngành kinh tế và việc cấm các cuộc biểu
tình gây nhiều tổn thất đã có ảnh hưởng tích cực đối với thu nhập của phần đông
giới tư sản nên dù cảm thấy khó chịu với những qui định gò bó, giai cấp này đã ủng
hộ chế độ phát xít.
Quân sự hoá
Cần phải nhấn mạnh rằng chính sách của Liên xô thời Stalin và của nước Đức phát
xít trong những năm 30 của thế kỉ XX là nhằm chuẩn bị cho cuộc chiến tranh phân
chia lại thế giới trong tương lai. Hannah Arendt cho rằng nguồn gốc của chủ nghĩa
toàn trị hay là sự cưỡng chế toàn diện đối với cá nhân nằm trong sự bành trướng
mang tính đế quốc chủ nghĩa. “Chúng ta đang tiến dần đến cuộc chiến đấu đòi hỏi
một năng suất lao động cao nhất của mỗi chúng ta” – Herman Hering nói năm 1936
– “Chưa thấy giới hạn của công cuộc tái vũ trang. Chỉ có một lựa chọn - chiến thắng
hay là bị tiêu diệt....Chúng ta đang sống trong một thời kì mà trận chiến đấu quyết
định cuối cùng không còn xa nữa. Chúng ta đang đứng trên ngưỡng cửa của chiến
tranh và động viên...” Trong thời gian đó các lãnh tụ Liên xô không tuyên bố công
khai như thế. Nhưng trong các bộ phim tuyên truyền sản xuất năm 1938 các nhân
vật đã nói đến ước muốn có “một cuộc chiến tốt mà sau đó Liên xô sẽ gồm từ 30 đến
40 nước cộng hòa” (lúc đó mới có 11 nước).
Các đặt vấn đề như vậy đòi hỏi sự cố kết xã hội một cách vô điều kiện và thủ tiêu mọi
thành phần bất mãn. Trường học ở Liên xô và ở Đức bắt buộc học sinh tham gia các
khóa huấn luyện quân sự. Hầu như toàn bộ nền công nghiệp thời bình đều được tổ
chức theo cách để sao cho có thể nhanh chóng chuyển sang phục vụ cho mục đích
quân sự. “Chỉ cần phóng tầm mắt vào chính cuộc sống của chúng ta” – nhà văn Đức,
Ernst Jünger, đã viết – “nhìn vào cái kỉ luật nhẫn tâm của nó, với những khu vực khói
lửa ngút trời, với cách vận hành và cơ chế vận hành của nó, với các động cơ, máy bay
và những thành phố có hàng triệu dân của nó thì ta sẽ có cảm giác ngạc nhiên mà
hiểu rằng ở đây không có một nguyên tử nào không họat động, và chính chúng ta
18 |2 9 0
nữa, thực chất là chúng ta đã bị cái quá trình điên rồ này khống chế mất rồi. Không
phải con người thực hiện cuộc động viên toàn diện này mà là nó tự thực hiện, nó là
biểu hiện của một đòi hỏi bắt buộc và ẩn danh mà cuộc sống trong thời buổi của máy
móc và đám đông này bắt ta phải theo cả trong thời chiến cũng như thời bình.”
Các biện pháp khủng bố ở cả Liên xô và ở nước Đức phát xít đã được thực hiện trong
hoàn cảnh như thế. “Năm 1937 là cần thiết” – V. Molotov đã nói với nhà văn F. Truev
như vậy – “Nếu biết rằng sau cách mạng chúng ta đã băm cả bọn tả lẫn bọn hữu và
đã chiến thắng, nhưng tàn dư của kẻ thù đủ mọi xu hướng thì vẫn còn...Vì có năm
1937 mà trong chiến tranh ta đã không bị đội quân thứ năm quấy nhiễu”. Ba triệu
người là nạn nhân của các cuộc đàn áp trong những năm 1937-1938, trong đó gần
một triệu người bị xử bắn.
Đồng hoá tư tưởng và chủng tộc
Hannah Arendt cho rằng chế độ toàn trị là một “cái ác tuyệt đối” do chính con người
tạo ra. Arendt quan tâm đặc biệt đến mối liên hệ giữ hệ tư tưởng và khủng bố. Theo
bà, hệ tư tưởng toàn trị là “logic của một tư tưởng đơn giản duy nhất”, tư duy toàn
trị dựa hoàn toàn vào tư tưởng này. Đấy là tư tưởng về tính ưu việt của một chủng
tộc hay đấu tranh giai cấp. Đấy là thế giới quan bắt buộc đối với tất cả mọi người.
Trên thực tế, một hệ tư tưởng được tiêu chuẩn hoá, duy nhất được coi là bộ khung
cho thế giới quan của tất cả công dân của nhà nước toàn trị. Hệ thống tư duy này có
những đặc điểm một bên là tình đoàn kết và chủ nghĩa tập thể và bên kia là hình ảnh
kẻ thù, kẻ thù có thể là một giai cấp, một chủng tộc hay một nước. Tư duy toàn trị
luôn luôn là tư duy chia cắt, nó coi thế giới như một sơ đồ đen-trắng: một bên là “ta”
– nhân dân hay giai cấp duy nhất, tuân theo ý chí của lãnh tụ và lí tưởng cao đẹp,
bên kia là địch, kẻ chịu mọi trách nhiệm trước tập thể “ta”. Chúng phải chịu trách
nhiệm về cả những khó khăn và tổn thất của chính “ta”. Đối với nước Đức thì “địch”
là người Do thái, đối với Liên xô thì đấy là: “kẻ thù của nhân dân” hay “kẻ thù giai
cấp”.
“Một đất nước, một dân tộc, một lãnh tụ” – là khẩu hiệu của Đảng phát xít. “Ai không
theo ta là chống lại ta” - những người bolsevic khẳng định. Cấu trúc ngôn ngữ và tư
19 |2 9 0
duy tiêu chuẩn hoá phù hợp với nhiệm vụ quản lí một đất nước như là một cỗ máy
duy nhất, đảm bảo sự cố kết xã hội trên cơ sở những tư tưởng và nguyên tắc đơn
giản, duy nhất. Cũng vì lí do như vậy mà tất cả các chế độ toàn trị đều thực hiện
chính sách đồng hoá các chủng tộc. Các dân tộc thiểu số hoặc là bị xào xáo trong một
cái chảo của nền văn hóa chính thức duy nhất (như được tuyên bố ở Liên xô những
năm 30, nơi người ta cố gắng tạo ra một mẫu văn hoá chung gọi là “nhân dân Xô
viết”) hoặc là bị hoà tan vào một nền văn hoá của một dân tộc (chính nền văn hoá
này cũng bị đồng nhất và cải biên một cách thô bạo) mà nhà nước toàn trị lấy làm cơ
sở (chính sách Nga hoá sau thời kì chiến tranh thế giới thứ II) hoặc là bị tiêu diệt
hoàn toàn (như người Do thái và người Di gan ở Đức). Ngay cả khi chế độ toàn trị
tuyên bố theo chủ nghĩa quốc tế, nó vẫn theo đuổi xu hướng đồng hoá. “Nước Nga vĩ
đại đoàn kết đến muôn đời Liên bang bền vững của các nước cộng hòa độc lập, tự
do” - lời mở đầu của Quốc ca Liên xô cho ta thấy ngay quan hệ lệ thuộc của các nước
cộng hoà thành viên so với nước Nga. Nhưng chính nền văn hoá của dân tộc “cơ sở”
này cũng bị cải biên một cách thô bạo, nhiều tầng văn hóa liên quan đến những tìm
tòi mang tính tôn giáo, văn học và kí ức lịch sử đã bị cố tình loại bỏ. Lịch sử nước
Nga bị viết đi viết lại nhiều lần cho hợp gu với ý thức hệ của chế độ toàn trị, ngôn
ngữ cũng bị bộ máy tuyên truyền chính thức và hệ thống giáo dục cải biên. Các chính
sách và biện pháp tương tự đối với văn hoá cũng được tiến hành ở Đức và ở các
nước theo chế độ toàn trị khác.
Và hậu quả
Chính sách như vậy nhất định đòi hỏi một cơ chế xã hội đặt biệt, một mặt đấy là lòng
nhiệt tình của quần chúng được định hướng từ bên trên và mặt khác, đấy là những
cuộc trấn áp có tính tập thể. Phá hủy một cách triệt để nếp sống của phần lớn cư
dân, tăng tốc tiến trình công nghiệp hoá – các biện pháp này đòi hỏi sự kiểm soát gắt
gao từ phía nhà nước. Cần thực hiện những biện pháp mạnh để có thể tiêu diệt tư
tưởng bất tuân ngay từ trong trứng nước. Tại Liên xô, trong những xí nghiệp tập thể
ở nông thôn, trong các hợp tác xã người ta đã áp dụng hình thức tổ chức lao động
giống như tại các xí nghiệp công nghiệp: đứng đầu là một chủ tịch do chính quyền bổ
nhiệm, đến lượt mình, ông ta bổ nhiệm lãnh đạo các đội sản xuất dưới quyền. Trên
20 |2 9 0
thực tế, toàn bộ lương thực, thực phẩm sản xuất ra đều phải nộp cho nhà nước, xã
viên chỉ được nhận những tờ biên lai gọi là “ngày công”. Tất cả công việc sản xuất
phải theo kế hoạch do cấp trên đưa xuống, không hoàn thành thì bị phạt nặng. Xã
viên phải xin phép mới được đi khỏi nơi cư trú [1] . Những người không chịu vào hợp
tác xã bị coi là “địa chủ” hoặc “tay sai địa chủ” và bị đàn áp khốc liệt. Cuối năm 1929
Stalin tuyên bố rằng nông dân “xin” vào hợp tác xã “từng làng, từng xã, đôi khi từng
huyện” một lần và hạ lệnh “tiêu diệt giai cấp địa chủ”. “Địa chủ” và “tay sai địa chủ”
bị tịch thu hết tài sản, cả gia đình bị đầy lên phương Bắc hay sang Sibirie. “Người ta
tịch thu từ cái tã, giật từ chân trẻ con.” - một nhân chứng đã viết như vậy. Theo lời
của Isaak Steinberg, một đảng viên Xã hội cách mạng theo đường lối tả khuynh thì
“thực ra là người ta đã tuyên bố một cuộc đàn áp toàn thể nông dân, kể cả tầng lớp
dân nghèo. Trung bình có 10-15% số hộ bị tịch thu, nhiều tỉnh có đến 40%”. Những
làng giàu có bị cho đi đầy tất. Những người nông dân còn sót lại bị buộc phải vào
hợp tác xã. Sau này Stalin từng thú nhận với Churchill rằng “chính sách tập thể hoá
là một cuộc đấu tranh khủng khiếp”, phải chiến đấu với “hàng chục triệu nông dân”,
phải chiến đấu với “những con người nhỏ bé”. “Chuyện khủng khiếp đó kéo dài bốn
năm. Thật là khó khăn và khủng khiếp, nhưng là việc cần thiết”. Chỉ trong mấy năm
đầu công nghiệp hoá và tập thể hoá đã có 10 triệu nông dân trốn nạn đói, chạy vào
thành phố và như vậy đã cung cấp cho nền công nghiệp quốc doanh đang phát triển
như vũ bão sức lao động rẻ mạt. Năm 1930 nông dân đã phản ứng với chính sách đó
bằng những cuộc bạo loạn. Trong năm đó, năm tập thể hoá toàn diện đã xảy ra 1375
cuộc bạo động với sự tham gia của 3,5 triệu nông dân. Cuộc phản kháng của nông
dân Ukraine là kiên cường và mãnh liệt nhất - tổng cộng có 4098 cuộc nổi dậy ở
Ukraine. Những vùng kiên cường khởi nghĩa bị đàn áp khốc liệt: trong những năm
1932-1933 người ta đã cố tình gây ra nạn đói giết chết 4 đến 5 triệu nông dân
Ukraine.
Ở nước Đức, Trong những năm 30-40 việc kiểm soát của nhà nước đối với kinh tế
không quá mức như ở Liên xô, vẫn còn các ngành công nghiệp tư nhân, tuy các
ngành này ngày càng bị nhà nước kiểm soát chặt chẽ hơn. Ngoài ra, việc tăng tốc
hiện đại hoá công nghiệp không làm giảm mức sống mà ngược lại đã tạo ra hàng
triệu việc làm mới, tình trạng thất nghiệp gần như được thanh toán. Nhưng đấy
21 |2 9 0
trước hết là do tăng cường đầu tư vào các tổ hợp công nghiệp quốc phòng. Chính
điều đó đã giúp nước Đức phát động thế chiến thứ II. Các tổ hợp quốc phòng không
làm ra hàng hoá tiêu dùng mà dân chúng cần, nhưng lại không thể họat động chỉ để
họat động, nếu thế nó sẽ tạo ra tình trạng khủng hoảng trong nền kinh tế Đức. Phải
sử dụng cơ hội do việc tăng cường vũ trang đưa lại để tiến hành chiến tranh xâm
lược (Liên xô cũng đặt ra nhiệm vụ như vậy). Các biện pháp phát triển công nghiệp
đi kèm với quá trình quân sự hoá lao động, cột người lao động với xí nghiệp không
khác gì nông nô. Ở Liên xô người ta sử dụng những cuốn sổ gọi là sổ lao động. Nếu
lãnh đạo xí nghiệp không đồng ý cho người lao động chuyển sang xí nghiệp khác thì
họ không đưa cho người lao động cuốn sổ, xí nghiệp có ý tuyển dụng không thể nhận
người lao động này.
Nạn nhân của các cuộc đàn áp ở Đức ít hơn ở Liên xô, chỉ có khoảng một trịêu người
bị đưa vào trại tập trung, mấy trăm ngàn người bị thủ tiêu. ...Nhiều tầng lớp dân cư đại diện các đảng phái chính trị, các nhà họat động công đoàn, giới trí thức đối lập,
người Do thái, người Di gan. Cuộc thanh trừng nội bộ không lớn như ở Liên xô. Nước
Đức lúc đó đã là một nước công nghiệp phát triển, nó không cần thực hiện một cuộc
tấn công dữ dội đến như thế vào nếp sống của người dân như ở Liên xô. Đàn áp phát
xít diễn ra trong chiến tranh thế giới thứ II. Bọn phát xít muốn thiết lập một trật tự
mới ở châu Âu, nghĩa là kiểm soát các cơ sở sản xuất chủ yếu, các nguồn tài nguyên
quan trọng và phân bố lại dân cư trên những vùng đất chiếm được. Hàng triệu
người dân Ukraine, Bạch nga, Ba lan, Nga và các nước khác bị lùa sang làm việc khổ
sai tại Đức, một số đã chết vì phải làm trong những điều kiện quá tồi tệ. “Lúc đó
[2]
”–
Himler nói – “chúng ta chưa đánh giá đúng nguồn nhân lực dồi dào như ta đánh giá
hôm nay[3] . Đấy cũng không phải là điều đáng lấy làm tiếc nếu ta suy nghĩ theo
những phạm trù của các thế hệ, nhưng việc mất mát lực lượng lao động, nghĩa là
việc tù binh bị chết một lúc hàng chục, thậm chí hàng trăm ngàn vì kiệt sức và vì đói,
ngày nay phải coi là việc phi lí”. Chế độ phát xít bị qui tội giết chết 6 triệu người Do
thái, tiêu diệt rất nhiều người Slav, cưỡng bức di dân và di chuyển một lực lượng lao
động to lớn. Người ta còn định chuyển một số dân Đức đến định cư ở một số vùng
đất bị chiếm đóng.
22 |2 9 0
Một điều đáng chú ý nữa là quân chiếm đóng phát xít đã không giải tán các hợp tác
xã nông nghiệp tại các khu vực chiếm được của Liên xô mà tiếp tục sử dụng các hợp
tác xã đó như là phương tiện để cướp bóc lương thực cho nhu cầu chiến tranh.
Toàn trị ở phương Đông
Nhiệm vụ tăng tốc quá trình công nghiệp hoá đất nước và hiện đại hoá quân đội
cũng được ban lãnh đạo maoist của Trung quốc giải quyết trong những năm 50-60
của thế kỉ trước. Ở đây tình hình cũng gần giống Liên xô – Trung quốc vốn là một
nước nông nghiệp lạc hậu cho nên chính sách hiện đại hoá phần lớn cũng sao chép
các phương pháp của Liên xô. Chế độ cộng sản Trung quốc đã xây dựng được một
nền công nghiệp quốc phòng hiện đại, thậm chí chế tạo được cả bom nguyên tử. Đa
số nông dân bị thúc ép vào các công xã, thực chất là các xí nghiệp quốc doanh, tương
tự như các hợp tác xã ở Liên xô, dĩ nhiên là cũng bằng các biện pháp tương tự như ở
Liên xô. Cái giá phải trả thật là khủng khiếp: theo một vài thống kê thì số người bị
đàn áp lên đến 100 triệu (dân số Trung quốc lúc đó khoảng 600 triệu).
Trong thế giới Hồi giáo, sau khi được giải phóng khỏi chế độ thực dân hồi những
năm 50-70, các phong trào dân tộc đã giành được chính quyền. Các chế độ đó, cũng
giống như những người maoist ở Trung quốc, đã làm mọi cách để phát triển công
nghiệp để có thể nói chuyện tay đôi với các nước phát triển phương Tây, và họ đã
dựa vào truyền thống độc tài Á đông, nghĩa là dựa vào bộ máy nhà nước quan liêu
bao trùm lên toàn xã hội. Hầu như toàn bộ nền công nghiệp, thương nghiệp, dịch vụ
xã hội cũng như đất đai trong các nước này đều do nhà nước kiểm soát và quản lí.
Cũng giống như ở Liên xô và Trung quốc, phe đối lập ở đây bị thủ tiêu về mặt thể xác.
Như vậy nghĩa là các phong trào giải phóng dân tộc sau khi đã giành chính quyền ở
những nước này đã thi hành các chính sách có thể coi là toàn trị tuy mức độ không
bằng Trung quốc. Các vụ cải tạo đó không phá vỡ được các cộng đồng cư dân nông
nghiệp, tuy có làm lung lay vai trò và ảnh hưởng của nó đối với xã hội. Các cơ sở của
truyền thống làng xã được đạo Hồi cố kết tỏ ra mạnh hơn so với một số nước khác
trên thế giới.
23 |2 9 0
Một số biện pháp toàn trị đặc thù cũng được nhà nước Do thái thực hiện. Sau khi
thành lập vào năm 1947, nhà nước này cũng cố gắng thành lập một nền công nghiệp
quốc phòng mạnh do nhà nước bảo trợ và quản lí. Đời sống xã hội bị quân sự hoá,
tất cả đàn ông và phần lớn phụ nữ phải tham gia nghĩa vụ quân sự. Một nền văn hoá
đồng nhất dựa trên tiếng Ivrit (một ngôn ngữ được tạo lập trên cơ sở tiếng Do thái
cổ) để có thể đưa “một dân tộc của những người thợ thủ công và buôn bán” thành
“dân tộc của các nông dân, công nhân và bộ đội” như các khẩu hiệu chính thức
thường kêu gọi. Các ngôn ngữ có nguồn gốc châu Âu, được hình thành một cách tự
nhiên như Yiddish, Espanol-Ladino, Jude-Arab bị loại bỏ. Có thể đây chính là một
cuộc thí nghiệm được tiến hành một cách hệ thống nhất đối với ngôn ngữ trong toàn
bộ lịch sử loài người. Các cố gắng nhằm thành lập một nhà nước đồng chủng được
thực hiện cùng với việc trục xuất 750 ngàn người Palestin, những vụ diệt chủng như
vụ giết người tàn bạo tại làng Deir-Yasin vào năm 1948, việc phá huỷ và lăng mạ các
đền thờ Hồi giáo và các biểu tượng của nền văn hoá A-rập khác. Cho đến nay vẫn
chưa thể khắc phục được những hậu quả của nhà nước toàn trị Do thái, cuộc sống
của hàng triệu người cả Do thái và A-rập, những người đang tham gia vào những
cuộc xung đột thường xuyên và không biết bao giờ mới chấm dứt ở Trung Đông.
Trong các nền văn minh phương Đông chỉ có Ấn độ là tránh được chế độ độc tài. Tất
nhiên chính phủ nước này ở một mức độ nào đó cũng kiểm soát kinh tế, cũng định
hướng sự phát triển công nghiệp, cũng tăng cường bộ máy quân sự, cũng đàn áp đối
lập, bóc lột nông dân. Nhưng về chiều rộng và chiều sâu của các biện pháp thì không
thể nào so sánh với Liên xô, Trung quốc và một số nước Hồi giáo khác. Đa phần nông
dân Ấn độ vẫn sống ở nông thôn, tuy các thiết chế cộng đồng ở đây cũng đã lung lay
rất nhiều.
Nguyên nhân là do thiết chế nhà nước ở Ấn độ chưa bao giờ mạnh mẽ như ở Nga và
Trung quốc. Vai trò điều tiết của nhà nước còn thấp, cộng đồng nông dân cũng như
thợ thủ công ở thành thị đóng vai trò lớn hơn so với các nền văn minh phương Đông
khác. Mặt khác, truyền thống do phong trào Quốc dân Đại hội Ấn độ do Mahatma
Gandhi thiết lập trong giai đoạn đấu tranh giải phóng: tự quản, bất bạo động, như là
biện pháp giải quyết các bất đồng chính trị đã có ảnh hưởng nhất định.
24 |2 9 0
Chủ nghĩa tư bản nhà nước, độc tài kiểu châu Á hay là thể chế xã hội mới?
Các nhà nghiên cứu chế độ toàn trị chưa tìm được tiếng nói chung xem nên coi chế
độ toàn trị là hình thức đặc biệt của chủ nghĩa tư bản (chủ nghĩa tư bản nhà nước)
hay chế độ chuyên chế kiểu châu Á trong thời đại công nghiệp hoá hay thể chế xã hội
hoàn toàn mới.
Các nhà Đông phương học tại Liên xô trước đây, những người bảo vệ luận điểm cho
rằng đây là chế độ chuyên chế kiểu châu Á (họ còn viện dẫn cả Karl Marx và đã bỏ
qua một số hiện tượng của lịch sử cận đại Nga, chỉ chú trọng vào lịch sử cổ đại Trung
quốc và Assiria), đã bị đàn áp khốc liệt. Đa số các nhà khoa học này đã bị giết trong
các cuộc thanh trừng thời Stalin và học thuyết của Karl Marx về nền chuyên chế châu
Á đã bị khoa học lịch sử Xô viết bỏ qua. Người ta còn sáng chế ra năm hình thái (cộng
sản nguyên thuỷ, chiếm nô, phong kiến, tư bản và xã hội chủ nghĩa) – và tuy không
được các sự kiện lịch sử xác nhận và dĩ nhiên là chẳng phải do Marx tìm ra, vẫn được
gắn với tên tuổi của ông và được coi là lí thuyết lịch sử toàn năng. Nói chung lí
thuyết về nền chuyên chế châu Á là một lí thuyết đặc biệt: người ta coi Karl Marx là
thiên tài không ai vượt qua nổi về kinh tế học và chính trị học, nhưng đồng thời
người ta lại cố tình cắt xén một loạt tư tưởng của ông. Nguyên nhân: các mô tả của
Karl Marx về nền chuyên chế châu Á rất giống với xã hội Xô viết đương thời. Cũng là
chuyên chế về chính trị trị kết hợp với việc kiểm soát của nhà nước đối với hoạt động
kinh tế. “Trong các nước xã hội chủ nghĩa”, nhà Đông phương học Nga, Leonid
Vasiliev, viết “người ta thấy trước hết chính quyền và nạn bạo hành do nó tạo
ra....Theo ý nghĩa này thì các nước xã hội chủ nghĩa chỉ là biến thể của cơ cấu
phương Đông truyền thống. Tất nhiên công cuộc hiện đại hoá và tiến bộ kĩ thuật, quá
trình công nghiệp hoá và đô thị hoá đã thay đổi hoàn toàn bộ mặt của những nước
này. Xuất hiện ảo tưởng rằng giữ nguyên cơ cấu nội tại, dựa trên sự đàn áp và quyền
hành vô giới hạn của nhà nước người ta vẫn có thể vượt được chủ nghĩa tư bản.
Nhưng ảo tưởng này không thể đứng vững nổi khi ta phát hiện ra những khiếm
khuyết của một hệ thống phi nhân”. Như vậy, theo quan điểm của các lí thuyết gia
này thì đấy chỉ là sự thiết lập hay tiếp tục của nền chuyên chế Á Đông trên một cơ sở
mới, cơ sở của nền công nghiệp. “Khi toàn thế giới kinh ngạc theo dõi các cuộc thí
nghiệm của Mao, người định đẩy cả một đất nước rộng lớn vào trại lính thì ở chính
25 |2 9 0