Tải bản đầy đủ (.docx) (86 trang)

Luận văn Hội đồng dân tộc của Quốc hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (417.67 KB, 86 trang )

MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ HỘI ĐỒNG
DÂN TỘC CỦA QUỐC HỘI VIỆT NAM...............................................................1
1.1. Vai trò của Hội đồng dân tộc..............................................................................1
1.1.1. Vai trò của Hội đồng dân tộc trong việc thực hiện chức năng lập pháp của
Quốc hội........................................................................................................................4
1.1.2. Vai trò của Hội đồng dân tộc trong việc thực hiện chức năng giám sát của
Quốc hội .......................................................................................................................5
1.1.3. Vai trò của Hội đồng dân tộc trong việc thực hiện chức năng quyết định
những vấn đề quan trọng của Quốc hội........................................................................7
1.2. Cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn, phương thức hoạt động và cơ chế
phối hợp của Hội đồng dân tộc...............................................................................10
1.2.1. Cơ cấu tổ chức của Hội đồng dân tộc..............................................................10
1.2.2. Nhiệm vụ quyền hạn của Hội đồng dân tộc.....................................................13
1.2.3. Phương thức hoạt động và cơ chế phối hợp của Hội đồng dân tộc.................23
1.3. Quá trình hình thành và phát triển của Hội đồng dân tộc...........................27
1.3.1. Giai đoạn từ năm 1946 đến năm 1959.............................................................27
1.3.2. Giai đoạn từ 1959 đến 1980.............................................................................29
1.3.3. Giai đoạn từ 1980 đến nay...............................................................................33
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC, HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG
DÂN TỘC VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN........................................39
2.1. Thực trạng về tổ chức và hoạt động của Hội đồng dân tộc..........................39
2.1.1. Thực trạng về tổ chức của Hội đồng dân tộc...................................................39
2.1.2. Thực trạng về hoạt động của Hội đồng dân tộc trong việc thực hiện chức năng
lập pháp của Quốc hội................................................................................................45
2.1.3. Thực trạng về hoạt động của Hội đồng dân tộc trong việc thực hiện chức năng
giám sát bộ máy nhà nước của Quốc hội...................................................................52



2.1.4. Thực trạng về hoạt động của Hội đồng dân tộc trong việc thực hiện chức năng
quyết định những vấn đề quan trọng của Quốc hội...................................................62
2.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Hội đồng dân
tộc................................................................................................................................66
2.2.1. Sự cần thiết và định hướng hoàn thiện.............................................................66
2.2.2. Các giải pháp hoàn thiện..................................................................................69
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

2


LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tại Điều 69 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013 có
quy định:
“Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện
quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và
giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước”.
Theo đó, Quốc hội thực hiện các quyền lực của mình thông qua các cơ quan
của Quốc hội là Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của
Quốc hội, đại biểu Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội với sự trợ giúp đắc lực của
Văn phòng Quốc hội nhằm tạo điều kiện cho các cơ quan trong quá trình hoạt động
của mình.
Trong gần 70 năm tồn tại và phát triển, Quốc hội đã đạt được nhiều thành tựu
tuy nhiên, bên cạnh đó Quốc hội cũng gặp không ít những khó khăn. Nhưng hơn
hết, Quốc hội luôn cố gắng thực hiện các biện pháp khắc phục những hạn chế làm
ảnh hưởng đến hoạt động để xứng đáng là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân,
là nơi thể hiện ý chí nguyện vọng của cử tri trên khắp cả nước. Trong quá trình đổi

mới hiện nay, Quốc hội đang tiếp tục xây dựng và củng cố về tổ chức, hoạt động
của các cơ quan, trong đó, Hội đồng dân tộc (phụ trách về lĩnh vực dân tộc của
Quốc hội) được Quốc hội đặc biệt quan tâm nhằm tăng cường khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, phát huy sức mạnh của toàn Đảng, toàn dân trong công cuộc xây dựng
đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Chính vì điều đó, đặt ra những nhiệm vụ quan trọng cho Quốc hội trong việc
xây dựng Hội đồng dân tộc trở thành một cơ quan hoạt động động tích cực và hiệu
quả. Những năm qua, đã có nhiều đề tài nghiên cứu nhằm đề ra những biện pháp để
thực hiện mục tiêu trên. Để góp phần vào tiến trình chung đó, đề tài luận văn “Hội
đồng dân tộc của Quốc hội Việt Nam” sẽ cung cấp những thông tin cơ bản về tổ
chức, hoạt động của Hội đồng dân tộc, có những đề xuất kiến nghị để kiện toàn tổ
chức, hoạt động của Hội đồng dân tộc. Đây cũng là tài liệu tham khảo cho những
hoạt động nghiên cứu tiếp theo về cơ quan này.
Trong quá trình nghiên cứu, tuy đã cố gắng nhưng luận văn vẫn còn nhiều
điểm thiếu sót do sự tiếp cận tài liệu còn hạn chế, kiến thức bản thân chưa đáp ứng

3


được mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài, vì vậy, rất mong nhận được những ý kiến đóng
góp từ phía thầy cô và những người nghiên cứu khác để đề tài được hoàn thiện hơn.
2. Tình hình nghiên cứu
Cho đến nay, có một số đề tài đã nghiên cứu về vấn đề liên quan đến hoạt
động của Hội đồng dân tộc. Tuy nhiên, đặt trong bối cảnh luôn luôn có sự đổi mới
về tổ chức và hoạt động của Quốc hội để đáp ứng yêu cầu trong hoạt động lập pháp,
giám sát, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, các cơ quan trong đó có
Hội đồng dân tộc cũng có nhiều sự thay đổi lớn. Mặt khác, hầu hết các đề tài đều có
phạm vi nghiên cứu tương đối rộng đó là nghiên cứu về tổ chức hoạt động của cả
Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội nên việc nghiên cứu này chưa tập
trung nói về Hội đồng dân tộc. Vì thế cho nên, đề tài này sẽ chỉ chú trọng nghiên

cứu về tổ chức và hoạt động cơ quan này, tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu
cũng có sự liên hệ với cơ quan khác để làm rõ cơ chế phối hợp của Hội đồng dân
tộc và các Ủy ban của Quốc hội.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
Mục đích của luận văn là làm rõ cách thức tổ chức của Hội đồng dân tộc,
nhiệm vụ quyền hạn của Hội đồng dân tộc, đồng thời đánh giá vai trò của Hội đồng
dân tộc trong việc thực hiện các chức năng của Quốc hội và chính sách dân tộc của
Đảng, Nhà nước. Quan trọng hơn, tìm hiểu về thực trạng tổ chức và hoạt động của
Hội đồng dân tộc trong việc thực hiện nhiệm vụ quyền hạn của mình từ đó tìm ra
nguyên nhân của hạn chế và đề xuất những giải pháp khắc phục nhằm nâng cao chất
lượng hoạt động của Quốc hội.
Để đạt mục đích trên, cần phải thực hiện những nhiệm vụ như sau:
Một là: ở chương 1 của luận văn sẽ chú trọng và làm rõ về vị trí và vai trò của
Hội đồng dân tộc. Đồng thời, phân tích cơ cấu, tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ
quan này. Phần quá trình hình thành và phát triển của Hội đồng dân tộc cũng sẽ
được nhấn mạnh nhằm đưa ra được cách nhìn tổng quát của Hội đồng dân tộc từ khi
được thành lập cho đến nay.
Hai là: ở chương 2 – được xác định là chương trọng tâm của luận văn. Tại
chương này, luận văn sẽ tập trung đánh giá những kết quả mà Hội đồng dân tộc đã
thực hiện. Bên cạnh đó, cũng là sự nghiên cứu kĩ lưỡng về những hạn chế còn tồn
tại mà Quốc hội, Hội đồng dân tộc cần phải khắc phục trong tổ chức và hoạt động.
Việc đưa ra nguyên nhân, chính là điều cần thiết để từ đó đề ra những biện pháp

4


hoàn thiện nhằm khắc phục hạn chế đồng thời duy trì và phát triển hơn nữa những
kết quả mà Hội đồng dân tộc đã đạt được.
3. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu
Về phạm vi nghiên cứu: là đề tài liên quan đến Luật Hiến pháp, đến tổ chức bộ

máy nhà nước mà cụ thể là Quốc hội, phạm vi nghiên cứu của luận văn sẽ xoay
quanh và làm sáng tỏ các vấn đề liên quan đến nhiệm vụ quyền hạn của Hội đồng
dân tộc trong việc thực hiện các chức năng lập pháp, giám sát tối cao, quyết định
những vấn đề quan trọng của Quốc hội. Bên cạnh đó, luận văn cũng tập trung phân
tích, tổng hợp các vấn đề liên quan đến thực trạng các hoạt động trên, đề ra giải
pháp nhằm đổi mới hoạt động của Hội đồng dân tộc trong giai đoạn hiện nay.
Về phương pháp nghiên cứu: dựa trên phương pháp luận của triết học MacLenin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện
chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, các quan điểm của Đảng và Nhà nước, pháp luật
liên quan đến chính sách dân tộc, hoạt động của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban
của Quốc hội. Trong quá trình nghiên cứu, đề tài sử dụng phương pháp lịch sử,
phương pháp logic, phương pháp thống kê, phân tích, tập hợp, tổng hợp, so sánh…
4. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần lời mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo thì luận văn có 2 chương như
sau:
Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp lý về Hội đồng dân tộc của Quốc hội Việt
Nam
Chương 2. Thực trạng tổ chức, hoạt động của Hội đồng dân tộc và một số kiến nghị
hoàn thiện.

5


6
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ
VỀ HỘI ĐỒNG DÂN TỘC CỦA QUỐC HỘI VIỆT NAM
1.1. Vị trí, vai trò của Hội đồng dân tộc
Từ cương lĩnh đầu tiên của Đảng ta, qua các thời kỳ cách mạng và ngày nay
xây dựng đất nước đi lên công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nội dung chính sách dân
tộc của Đảng và Nhà nước là nhất quán dựa trên nguyên tắc cơ bản là: “Bình đẳng,

đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc”1.
Kế thừa nguyên tắc: “Bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc” và
những quy định của các bản Hiến pháp trước về chính sách dân tộc của Đảng và
Nhà nước (đặc biệt là Hiến pháp 1992), tại Điều 5 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam quy định:
“1. Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các
dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam.
2. Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển;
nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc.
3. Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ
viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn
hoá tốt đẹp của mình.
4. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các
dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước”.
Với quy định này, Hiến pháp 2013 một lần nữa thể hiện được những nguyên
tắc mà Đảng đã đề ra từ khi thành lập cho đến nay. Theo đó, nguyên tắc: “Bình
đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc” được thể hiện cụ thể như sau:
Bình đẳng: Thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc trên mọi lĩnh vực.
Bình đẳng về chính trị, kinh tế, văn hóa. Bình đẳng là nguyên tắc, là động lực to lớn
cho khối đại đoàn kết dân tộc ngày càng bền vững. Bình đẳng về chính trị là sự bình
đẳng về quyền làm chủ đất nước. Bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, trước hết và
cụ thể là quyền tham gia chính quyền của các dân tộc. Bình đẳng về kinh tế, là sự
phát triển về kinh tế đồng đều giữa các dân tộc và các vùng, có thể lấy mục tiêu về
1 (truy cập ngày 21/5/2014)


7
bình quân thu nhập tính theo đầu người làm chuẩn, hay nói cách khác, đó là mục
tiêu là thước đo để phấn đấu cho sự bình đẳng về kinh tế. Bình đẳng về kinh tế là
nội dung rất quan trọng vì nó có ý nghĩa quyết định cho sự bình đẳng về mọi mặt.

Bình đẳng về văn hóa là các dân tộc có sự phát triển hài hòa trong một nền văn hóa
đa dân tộc, không những không làm mất đi bản sắc dân tộc, mà trái lại bản sắc văn
hóa của các dân tộc còn được giữ vững và ngày càng phát triển, các dân tộc có
quyền sử dụng tiếng nói và chữ viết của mình, các dân tộc được hưởng thụ văn hóa,
dân trí của các dân tộc đều được nâng cao.
Đoàn kết: Các dân tộc đều là những thành viên, hợp thành cộng đồng các dân
tộc Việt Nam. Không phân biệt dân tộc đa số hay dân tộc thiểu số. Sức mạnh của
dân tộc Việt Nam là ở chỗ đoàn kết, như Bác Hồ nói: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn
kết. Thành công, thành công, đại thành công”.
Tương trợ lẫn nhau cùng phát triển: Một đất nước có nhiều dân tộc, để tồn tại
và phát triển cần có sự giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc. Dân tộc nào cũng có nhu
cầu cần được giúp đỡ và ngược lại dân tộc nào cũng có trách nhiệm phải giúp đỡ
dân tộc khác. Tương trợ, giúp nhau bằng huy động các nguồn lực của các dân tộc,
tạo điều kiện để các dân tộc phát triển lên trình độ cao hơn; khai thác, sử dụng tốt
hơn các nguồn lực. Tương trợ để tăng cường sức mạnh đại đoàn kết dân tộc.
Nước Việt Nam là đất nước đa dân tộc. Cả nước có 54 dân tộc cùng sinh sống
trên khắp lãnh thổ2. Trong cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, đồng bào các dân tộc đã
có nhiều đóng góp cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Khi hòa bình lập lại, các dân
tộc cùng nhau tái thiết đất nước, khắc phục, hàn gắn vết thương chiến tranh. Cho
đến nay, mặc dù trình độ của đồng bào dân tộc thiểu số nói chung vẫn còn thấp,
kinh tế vẫn còn khó khăn vì sự phát triển không đồng đều giữa các dân tộc nhưng
cũng phải thừa nhận rằng đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số đã được cải thiện
hơn trước nhiều. Đó là nhờ sự cố gắng của các cấp chính quyền cùng với sự nỗ lực
của đồng bào dân tộc thiểu số trong việc nâng cao trình độ dân trí, cải thiện điều
kiện sống, cùng nhau phát triển kinh tế. Trong những năm qua, Nhà nước đã có
nhiều chính sách nhằm phát triển kinh tế-xã hội cho đồng bào dân tộc thiểu số, đồng
thời nhiều văn bản quy phạm pháp luật được ban hành đã tạo ra những cơ sở pháp
lý cho hoạt động của Chính phủ, chính quyền địa phương trong việc thực hiện các
chủ trương, chính sách đó. Với vị trí là một cơ quan chuyên môn, phụ trách về lĩnh
2 Vào năm 1979, Tổng cục thống kê lần đầu tiên công bố danh mục dân tộc ở nước ta. Nguồn:

(truy cập ngày 21/5/2014)


8
vực dân tộc, Hội đồng dân tộc đã có vai trò quan trọng trong việc góp phần cùng
với các cơ quan nhà nước thực hiện tốt những quy định của pháp luật về chính sách
dân tộc.
Tại Điều 1 Luật Tổ chức Quốc hội 2001, Quốc hội là cơ quan quyền lực cao
nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội là cơ quan duy nhất
có quyền lập hiến, lập pháp; Quốc hội quyết định những vấn đề quan trọng, liên
quan đến vận mệnh của đất nước như: quyết định những chính sách cơ bản về đối
nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước,
những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan
hệ xã hội và hoạt động của công dân; đồng thời, Quốc hội thực hiện quyền giám sát
tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước.
Với số lượng nhiệm vụ, quyền hạn nhiều như thế, Quốc hội với 2 kì họp mỗi
năm không thể đảm đương được hết trách nhiệm của mình. Vì vậy, những vấn đề
liên quan đến chính sách dân tộc có thể chưa nhận được sự quan tâm đúng mức của
Quốc hội. Cho nên, Hội đồng dân tộc của Quốc hội có vị trí quan trọng, một vai trò
không thể thiếu trong việc giúp Quốc hội thực hiện tốt chính sách dân tộc mà Đảng
đã đề ra.
Như vậy, về vị trí, chức năng của Hội đồng dân tộc: Hội đồng dân tộc và các
Uỷ ban của Quốc hội là những cơ quan của Quốc hội, do Quốc hội thành lập. Chức
năng và nhiệm vụ chủ yếu là: “Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội có
nhiệm vụ thẩm tra dự án luật, kiến nghị về luật, dự án pháp lệnh và các dự án khác;
thẩm tra những báo cáo được Quốc hội hoặc Ủy ban Thường vụ Quốc hội giao;
trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ý kiến về chương trình xây dựng luật,
pháp lệnh; thực hiện quyền giám sát; kiến nghị với Ủy ban Thường vụ Quốc hội về
việc giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh và những vấn đề trong phạm vi nhiệm vụ,
quyền hạn của mình.

Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội có quyền kiến nghị Ủy ban Thường
vụ Quốc hội xem xét trình Quốc hội việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người
giữ các chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn”3.
Từ khi thành lập cho đến nay, trải qua các giai đoạn phát triển, cùng với các
Ủy ban khác của Quốc hội, Hội đồng dân tộc đã được Hiến pháp, Luật Tổ chức
Quốc hội quy định những nhiệm vụ quyền hạn nhằm thực hiện những chức năng
3 Điều 21 Luật Tổ chức Quốc hội 2001.


9
của Quốc hội. Với việc thực hiện những chức năng của mình, cơ quan này ngày
càng khẳng định được vai trò quan trọng trong cơ cấu, tổ chức của Quốc hội. Đồng
thời, còn tăng cường, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong quá trình phát
triển về kinh tế-xã hội như hiện nay.
Hội đồng dân tộc trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình có
những vai trò như sau:
1.1.1. Vai trò của Hội đồng dân tộc trong việc thực hiện chức năng lập pháp
của Quốc hội
Thứ nhất, Hội đồng dân tộc đóng vai trò như là “cửa ngõ” của Quốc hội
trong việc thực hiện chức năng lập pháp, góp phần đảm bảo chất lượng hoạt động
lập pháp của Quốc hội
Vai trò “cửa ngõ” của Quốc hội thể hiện thông qua hoạt động thẩm tra dự án
luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết. Nói là “cửa ngõ” vì Hội đồng dân tộc là cơ
quan đầu tiên của Quốc hội tiếp cận và xem xét đối với các dự thảo luật, pháp lệnh,
nghị quyết mà các cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình trước khi chuyển cho
Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, cho ý kiến và trình Quốc hội thảo luận thông
qua tại kì họp Quốc hội. Tức là để trải qua những bước tiếp theo nhằm ban hành
một văn bản luật, pháp lệnh, nghị quyết thì phải thông qua bước đầu tiên là thẩm
tra. Hội đồng dân tộc sẽ là cơ quan chủ trì thẩm tra nếu dự án cần thẩm tra có liên
quan đến chính sách dân tộc và phối hợp với các Ủy ban khác của Quốc hội thẩm

tra những dự án luật, pháp lệnh được Ủy ban thường vụ Quốc hội phân công.
Trong hoạt động thẩm tra của mình, Hội đồng dân tộc chủ yếu tập trung vào kĩ
thuật lập pháp, sự phù hợp của nội dung dự thảo văn bản với đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng, với Hiến pháp, pháp luật nhiều hơn là nội dung của dự thảo.
Hội đồng dân tộc xem xét nhiều ở các dùng từ ngữ trong văn bản xem có phù hợp;
quy định của dự án luật, pháp lệnh có đúng với phạm vi và đối tượng điều chỉnh hay
không chứ chưa có thể xem xét được một cách chi tiết về nội dung, tính khả thi của
dự án. Tuy vậy, với vai trò là “cửa ngõ”, Hội đồng dân tộc giúp những cơ quan về
sau có sự đánh giá bước đầu, đồng thời giảm tải cho Quốc hội tại kì họp.
Thứ hai, thông qua hoạt động đóng góp ý kiến vào dự thảo luật, pháp lệnh
của cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội, Hội đồng dân tộc cũng đã thể hiện vai trò
của mình trong hoạt động lập pháp của Quốc hội
Hoạt động soạn thảo các dự án luật không phải là một việc đơn giản và cũng
không phải chỉ một cơ quan, tổ chức đảm nhiệm thực hiện một cách độc lập hoàn


10
toàn. Với tính chất quan trọng của luật, pháp lệnh trong việc điều chỉnh các quan hệ
xã hội nên các dự án luật, pháp lệnh bên cạnh cơ quan chủ trì soạn thảo cần được sự
phối hợp từ các cơ quan khác. Chính vì thế mà các dự thảo thường được các cơ
quan, tổ chức (đặc biệt là Chính phủ) gửi đến Hội đồng dân tộc nhằm nhận được
những ý kiến đóng góp để hoàn thiện hơn dự thảo mà các cơ quan tổ chức này xây
dựng. Việc đóng góp ý kiến này mục đích chính là đảm bảo chất lượng của dự án
luật khi trình Quốc hội, thể hiện sự cẩn trọng, nhất là những dự thảo luật mà nội
dung của nó có liên quan đến đồng bào dân tộc thiểu số hay rộng hơn là người dân
ở miền núi, vùng đặc biệt khó khăn. Việc tham gia đóng góp ý kiến vào các văn bản
pháp luật ban hành có liên quan đến dân tộc cũng phải đảm bảo bình đẳng dân tộc
và đoàn kết dân tộc4.
1.1.2. Vai trò của Hội đồng dân tộc trong việc thực hiện chức năng giám sát
của Quốc hội

Thứ nhất, Hội đồng dân tộc đóng vai trò là một cơ quan giám sát quan trọng
của Quốc hội, giúp Quốc hội thực hiện tốt chức năng giám sát tối cao
Điều này thể hiện trong hoạt động giám sát của Hội đồng dân tộc. Hội đồng
dân tộc không những giúp Quốc hội giám sát hoạt động, việc thực thi luật, pháp
lệnh, ban hành văn bản pháp luật của cơ quan nhà nước ở trung ương mà còn tổ
chức thực hiện việc giám sát ở địa phương.
Quốc hội tuy có chức năng giám sát nhưng đó là quyền giám sát tối cao.
Quyền giám sát tối cao thể hiện ở việc xét báo cáo công tác của Chủ tịch nước, Uỷ
ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân
dân tối cao; xem xét báo cáo của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về tình hình thi hành
Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; xem xét văn bản quy phạm pháp luật của
những chủ thể có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở trung ương
như Chủ tịch nước, Chính phủ...; xem xét trả lời chất vấn và thành lập Uỷ ban lâm
thời để điều tra về một vấn đề nhất định và xem xét báo cáo kết quả điều tra của Uỷ
ban5. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao của mình nhằm đảm bảo cho những
quy định của Hiến pháp, pháp luật được thi hành một cách triệt để, nghiêm minh và
thống nhất. Quốc hội giám sát cơ quan nhà nước nhằm đảm bảo cho các cơ quan
4 />
5 Điều 7 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội 2003.


11
này hoàn thành nhiệm vụ, quyền hạn đã được quy định, làm cho bộ máy nhà nước
hoạt động một cách nhịp nhàng, không chồng chéo.
Như vậy, với những hình thức giám sát như trên, Quốc hội chỉ thực hiện
quyền giám sát tối cao của mình đối với những đối tượng là cơ quan nhà nước, cá
nhân ở trung ương và những văn bản pháp luật của các chủ thể này ban hành mà
không có giám sát ở địa phương. Thay vào đó, việc giám sát ở địa phương được
giao cho Ủy ban thường vụ Quốc hội. Tuy nhiên, đến lượt mình, cơ quan này lại
phân công cho Hội đồng dân tộc và các Ủy ban khác của Quốc hội thực hiện. Lý do

có thể kể đến đó là Ủy ban thường vụ Quốc hội đóng vai trò là một cơ quan thường
trực của Quốc hội, trong thời gian giữa hai kì họp, cơ quan này thay mặt cho Quốc
hội để giải quyết những vấn đề phát sinh nằm trong nhiệm vụ, quyền hạn của mình
nên ít khi Ủy ban thường vụ Quốc hội tự mình tiến hành việc giám sát ở địa
phương.
Về đại biểu Quốc hội, các hoạt động giám sát còn thu hẹp hơn nhiều so với
quyền hạn chung của Quốc hội hay Ủy ban thường vụ Quốc hội. Theo đó, đại biểu
Quốc hội thực hiện quyền giám sát của mình thông qua các hoạt động như: Chất
vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các
thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao; giám sát văn bản quy phạm pháp luật; giám sát việc
thi hành pháp luật ở địa phương; giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công
dân. Thường thì trong hoạt động giám sát của mình, đại biểu Quốc hội thường chú
trọng nhiều hơn vào việc chất vấn 6. Về hoạt động giám sát thi hành pháp luật ở các
địa phương, hoạt động này chỉ là đơn thuần xem xét việc thi hành pháp luật có đúng
hay không chứ không thể có phạm vi giám sát rộng khi so sánh với đoàn giám sát.
Ngược lại, đối với Hội đồng dân tộc, Ủy ban thường vụ Quốc hội thường phân
công giám sát việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ ở các
địa phương là địa bàn cư trú của đồng bào các dân tộc thiểu số, miền núi, vùng đặc
biệt khó khăn. Để tiến hành giám sát thì Hội đồng dân tộc phải tổ chức đoàn giám
sát, kết quả giám sát được báo cáo cáo về cho Ủy ban thường vụ Quốc hội. Vì vậy,
có thể nói, với hoạt động giám sát của mình ở địa phương, Hội đồng dân tộc là một
cơ quan phục vụ đắc lực cho chức năng giám sát của Quốc hội, giúp Quốc hội có
một cách nhìn chi tiết hơn về tình hình ngay tại địa phương đó chứ không bó hẹp ở
phạm vi các cơ quan trung ương.
6 Điều 37 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội 2003.


12
Thứ hai, vai trò của Hội đồng dân tộc trong việc thực hiện chức năng giám

sát của Quốc hội còn thể hiện ở việc đảm bảo sự bình đẳng giữa các dân tộc
Suy cho cùng, việc thực hiện các chức năng của Quốc hội kể cả chức năng
giám sát đều nhằm mục đích là thực hiện tốt chính sách dân tộc dựa trên nguyên tắc
cơ bản là bình đẳng – đoàn kết – tương trợ. Đối với sự bình đẳng về kinh tế và văn
hóa – xã hội giữa các dân tộc, Hội đồng dân tộc giữ vai trò là cơ quan giám sát việc
thi hành những văn bản pháp luật của cơ quan nhà nước ở trung ương, kiến nghị với
Chính phủ, Quốc hội những vấn đề liên quan đến dân tộc. Trong quá trình hoạt
động của mình, Hội đồng dân tộc chú trọng vào những địa bàn khó khăn, có đông
đồng bào dân tộc sinh sống. Sự chú trọng dành cho các địa bàn này không phải là sự
bất bình đẳng giữa dân tộc đa số và dân tộc thiểu số, hay giữa những dân tộc thiểu
số có sự phát triển khác nhau. Nó thể hiện được sự quan tâm nhiều hơn đối với
những dân tộc còn có đời sống khó khăn, sự phát triển thấp hơn các dân tộc khác để
những dân tộc này có thể bắt kịp sự tiến bộ của các dân tộc khác nhằm thực hiện
đúng nguyên tắc bình đẳng về kinh tế, đảm bảo cho sự phát triển đồng đều giữa các
dân tộc mà thu nhập bình quân đầu người là thước đo.
1.1.3. Vai trò của Hội đồng dân tộc trong việc thực hiện chức năng quyết định
những vấn đề quan trọng của Quốc hội
Thứ nhất, Hội đồng dân tộc đóng vai trò như là một cầu nối giữa cơ quan Nhà
nước với đồng bào các dân tộc thiểu số
Các dân tộc thiểu số sống không tập trung và phân bố không đồng đều trên
toàn lãnh thổ Việt Nam. Địa bàn cư trú của họ thường là ở các khu vực có vị trí địa
lý phức tạp, địa hình hiểm trở, gây nhiều khó khăn trong việc tiếp cận, quản lý hay
phát triển kinh tế xã hội. Những vùng miền tập trung đông đồng bào dân tộc thiểu
số có thể kể đến đó là vùng núi tây bắc bộ, đông bắc bộ, khu vực tây nguyên hay
dọc theo biên giới với các nước Lào, Campuchia. Những vùng này ngoài vị trí
không thuận lợi còn có khí hậu cũng khá khắc nghiệt, ảnh hưởng không ít đến cuộc
sống của dân cư nơi đây trong đó phần đông là người dân tộc thiểu số. Đây lại là
nơi thường hay xảy ra thiên tai, gây nguy hiểm cho người dân sống ở khu vực này.
Về cơ cấu dân cư miền núi cũng có nhiều biến đổi. Trong cộng đồng đó, mỗi dân
tộc giữ bản sắc riêng. Đó là truyền thống, là phong tục tập quán trong sinh hoạt

cũng như trong hoạt động sản xuất nhất là sản xuất nông nghiệp.
Với những đặc điểm về điều kiện tự nhiên và xã hội như vậy rất khó có thể
thực hiện đồng bộ những chính sách nhằm phát triển kinh tế xã hội nơi đây nếu


13
không có những người thật sự am hiểu những đặc điểm này. Thực tế, các cơ quan
Nhà nước ở trung ương sẽ rất khó khăn để đảm bảo tính khả thi của một dự án phát
triển cho miền núi hay của một văn bản pháp luật nếu như không nắm rõ thực tiễn.
Trong quy trình xây dựng và ban hành văn bản pháp luật, các cơ quan, tổ chức
muốn xây dựng nên một văn bản có chất lượng, có giá trị để điều chỉnh các quan hệ
xã hội thì cần thiết phải khảo sát tình hình thực tế. Đối với chính sách dân tộc cũng
như vậy. Cho nên, cần phải có một sự hiểu biết nhất định về địa bàn cũng như về
cộng đồng dân tộc thiểu số để làm cơ sở xây dựng những chính sách về dân tộc.
Về phía địa phương, các cán bộ ở đây là những người hiểu rõ nhất về những
vấn đề nêu trên. Họ là người trực tiếp tiếp xúc, quản lý dân cư trong một khu vực
hành chính nhất định. Những văn bản mà các chủ thể này ban hành, hay những
chính sách phát triển kinh tế do các chủ thể này xây dựng sẽ có nhiều giá trị về thực
tiễn tuy nhiên nó sẽ trái với pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên nếu như các
văn bản của Quốc hội hay Chính phủ… chưa có quy định hay quy định khác đi về
những vấn đề mà chính quyền địa phương ban hành. Hoặc có những vấn đề mà cơ
quan hành chính ở địa phương không thể ban hành văn bản để điều chỉnh vì chưa có
cơ sở pháp lý.
Với những bất cập nêu trên, Hội đồng dân tộc là chủ thể nhằm tạo ra một sự
liên kết giữa trung ương với địa phương. Thành phần của Hội đồng dân tộc vừa là
đại biểu chuyên trách vừa có đại biểu kiêm nhiệm (chiếm số đông) mà đại biểu
kiêm nhiệm chủ yếu hoạt động ở địa phương. Hơn nữa, thành viên của Hội đồng
dân tộc đại bộ phận là người dân tộc cho nên họ sẽ có một sự hiểu biết nhất định về
dân tộc của mình cũng như những điều kiện nơi mình sống và công tác. Các đại
biểu này, có nhiều người giữ những chức vụ quan trọng ở địa phương, họ có quyền

ban hành quyết định hoặc tham mưu cho cấp trên ra các quyết định nhằm áp dụng
và thực thi pháp luật, giải quyết những vấn đề gặp phải trong quá trình điều hành.
Vậy nên với tư cách là thành viên Hội đồng dân tộc đồng thời là các cán bộ ở địa
phương, các cá nhân này được dự những phiên họp của Hội đồng, được đóng góp ý
kiến, được phân công nhiệm vụ… cho nên họ sẽ biết được những chủ trương chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước liên quan đến Hội đồng dân tộc để từ đó áp
dụng vào tình hình ở địa phương. Đồng thời, họ cũng có những báo cáo, những đề
xuất về tình hình ở địa phương liên quan đến vấn đề dân tộc, Thường trực Hội đồng
dân tộc thông qua đó sẽ ghi nhận và nắm bắt được tình hình cụ thể ở địa phương
nhằm đề xuất, kiến nghị với Quốc hội hay cơ quan hữu quan trong việc ban hành,
sửa chữa, bổ sung nội dung của các chính sách về dân tộc.


14
Hội đồng dân tộc còn là nơi tiếp nhận những nguyện vọng của nhân dân, từ đó
chuyển những đơn thư phản ánh những nguyện vọng này đến cơ quan có thẩm
quyền giải quyết. Tại báo cáo số 77/BC-HĐDT13 về kết quả hoạt động của Hội
đồng dân tộc từ sau kỳ họp thứ nhất đến kỳ họp thứ hai ngày 11 tháng 11 năm 2011,
Hội đồng dân tộc đã tiếp nhận, xử lý 32/32 đơn thư khiếu nại của công dân, trong
đó có: 15 đơn liên quan đến nhà, đất; 07 đơn liên quan đến cơ quan tư pháp; 06 đơn
liên quan đến việc tố cáo cán bộ tham nhũng, sai phạm; 01 đơn đề nghị xem xét tư
cách đại biểu Quốc hội; 02 đơn liên quan đến chính sách dân tộc; 01 đơn phản ánh
chung. Thực hiện trách nhiệm của mình, Hội đồng dân tộc đã chuyển Ban Dân
nguyện 31 đơn, chuyển địa phương và cơ quan liên quan 01 đơn để xử lý theo quy
định. Đến kì họp thứ hai, báo cáo ghi nhận Hội đồng dân tộc đã tiếp nhận tổng số
56 đơn khiếu nại, tố cáo của công dân; trong đó có 16 đơn khiếu nại, 22 đơn tố cáo,
18 đơn thư phản ánh, kiến nghị. Thường trực Hội đồng dân tộc đã nghiên cứu, chỉ
đạo xử lý: chuyển 01 đơn về địa phương; chuyển 55 đơn tới Ban Dân nguyện để
nghiên cứu, giải quyết theo thẩm quyền7.
Thứ hai, Hội đồng dân tộc tham mưu, tư vấn cho Quốc hội về chính sách dân

tộc
Cụ thể hơn có thể nói đó là vai trò của Thường trực Hội đồng dân tộc và của
Chủ tịch Hội đồng dân tộc. Những chủ thể này là những chủ thể có điều kiện để
đóng góp nhiều ý kiến cho vấn đề mà Quốc hội hay Ủy ban thường vụ Quốc hội
đang quan tâm nhất là vấn đề liên quan đến chính sách dân tộc. Điều này được đảm
bảo bằng các quy định của pháp luật thể hiện sự tham gia của Thường trực Hội
đồng, của Chủ tịch Hội đồng dân tộc trong phiên họp của Ủy ban thường vụ Quốc
hội. Cụ thể: Thường trực Hội đồng dân tộc có trách nhiệm chuẩn bị những ý kiến
của mình về những nội dung trong chương trình phiên họp của Ủy ban thường vụ
Quốc hội khi được mời tham dự. Như vậy, trong trường hợp này, những ý kiến mà
Thường trực Hội đồng dân tộc trình bày trước phiên họp như là những ý kiến mang
tính chất tham khảo, làm cơ sở để Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, đánh giá.
Giá trị của những ý kiến sẽ được nâng cao hơn nếu Thường trực Hội đồng dân tộc
chuẩn bị tốt những ý kiến của mình.
Về phía Chủ tịch Hội đồng dân tộc. Với tư cách là người đứng đầu Hội đồng
dân tộc, trong trường hợp cần thiết sẽ được Chủ tịch Quốc hội triệu tập để bàn bạc
7 Báo cáo số 192/BC-HĐDT13 ngày 15/5/2012 của Hội đồng dân tộc về Hoạt động của Hội đồng Dân tộc, từ
sau kỳ họp thứ hai, đến kỳ họp thứ ba; dự kiến nội dung hoạt động từ sau kỳ họp thứ ba, đến kỳ họp thứ tư.


15
những vấn đề liên quan đến chương trình hoạt động của Hội đồng dân tộc hay lớn
hơn là của Quốc hội. Chủ tịch Hội đồng dân tộc còn được mời tham dự các phiên
họp của Ủy ban thường vụ Quốc hội để bàn về thực hiện chính sách dân tộc.
Không phải ngẫu nhiên mà Luật Tổ chức Quốc hội, Quy chế hoạt động của
Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội quy định như vậy. Quy định này xuất
phát từ vị trí, chức năng của Hội đồng dân tộc. Nói về vị trí, Hội đồng dân tộc có vị
trí gần giống như là một ủy ban của Quốc hội, nằm trong cơ cấu tổ chức của Quốc
hội. Quốc hội cũng hoạt động theo chế độ tập thể, đề cao tính dân chủ cho nên Hội
đồng dân tộc được quyền thể hiện những ý kiến của mình. Những ý kiến đóng góp

đó có giá trị như là một sự tư vấn cho Quốc hội. Nói về chức năng của Hội đồng
dân tộc, xuất phát từ việc được giao phụ trách về lĩnh vực dân tộc cho nên hơn ai
hết, Hội đồng dân tộc (ở đây là Thường trực Hội đồng và Chủ tịch Hội đồng) nắm
rõ những vấn đề thuộc mảng mà mình được phân công. Điều đó được thể hiện
thông qua chế độ báo cáo của ủy viên Hội đồng dân tộc, của trưởng các đoàn công
tác, khảo sát, giám sát, sau khi hoàn thành chương trình và tiến hành báo cáo kết
quả hoạt động cho Thường trực Hội đồng. Cho nên, với sự hiểu biết về tình hình
thực tế như vậy mà những thông tin, những ý kiến tư vấn đưa ra có sức thuyết phục
cao, xứng đáng như một “cơ quan tham mưu” của Ủy ban thường vụ Quốc hội và cả
Quốc hội.
Thứ ba, Hội đồng dân tộc là cơ quan ghi nhận và chuyển những kiến nghị, đề
xuất cho Quốc hội, Chính phủ
Với việc được Ủy ban thường vụ Quốc hội phân công giám sát ở địa phương,
Hội đồng dân tộc đã thể hiện vai trò cầu nối của mình khi ghi nhận và chuyển
những đề xuất, kiến nghị của chính quyền địa phương cho những cơ quan nhà nước
có thẩm quyền như Quốc hội hoặc Chính phủ. Khi được phân công giám sát, Đoàn
giám sát của Hội đồng dân tộc trước hết sẽ khảo sát thực tế tại nơi thực hiện giám
sát và sau đó sẽ có buổi làm việc với đại diện của địa phương. Trong buổi làm việc
này, Đoàn giám sát sẽ đánh giá và nhận xét những kết quả mà địa phương đã đạt
được trong công tác tổ chức thực hiện các văn bản của cơ quan nhà nước trung
ương (thường là của Chính phủ) đồng thời, đề cập đến những vấn đề mà địa phương
cần chú ý. Thông qua buổi làm việc, địa phương cũng có những đề xuất, kiến nghị
đối với cơ quan cấp trên trong việc chỉ đạo, giúp đỡ để khắc phục những khó khăn
mà địa phương gặp phải. Đoàn giám sát của Hội đồng dân tộc sẽ tiếp thu và báo cáo
cho Ủy ban thường vụ Quốc hội về kết quả của chuyến công tác.


16
1.2. Cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn, phương thức hoạt động và cơ chế
phối hợp của Hội đồng dân tộc

1.2.1. Cơ cấu tổ chức của Hội đồng dân tộc
Hội đồng dân tộc gồm có Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các Uỷ viên. Số Phó
Chủ tịch và số Uỷ viên của Hội đồng dân tộc do Quốc hội quyết định. Thành viên
của Hội đồng dân tộc không thể đồng thời là thành viên Chính phủ, Chánh án Toà
án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Tại kỳ họp thứ
nhất của mỗi khoá Quốc hội, Quốc hội bầu Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các Uỷ
viên Hội đồng dân tộc trong số các đại biểu Quốc hội theo danh sách đề cử chức vụ
từng người do Chủ tịch Quốc hội giới thiệu. Thường trực Hội đồng dân tộc gồm có
Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và một số Uỷ viên thường trực là Uỷ viên hoạt động
chuyên trách tại Hội đồng do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định theo đề nghị
của Chủ tịch Hội đồng dân tộc. Khi cần thiết, Quốc hội có thể bầu bổ sung, miễn
nhiệm, bãi nhiệm thành viên của Hội đồng dân tộc, Uỷ ban theo đề nghị của Chủ
tịch Quốc hội.
Hội đồng dân tộc Quốc hội khóa XIII có 40 thành viên. Trong đó có 1 Chủ
tịch, 4 Phó Chủ tịch và 2 ủy viên thường trực. Đây cũng là thành viên của thường
trực Hội đồng dân tộc. Thường trực Hội đồng dân tộc hoạt động theo chế độ chuyên
trách. Hội đồng dân tộc cũng có một số thành viên hoạt động chuyên trách ở địa
phương. Các thành viên còn lại của Hội đồng dân tộc hoạt động theo chế độ kiêm
nhiệm. Nhiệm vụ quyền hạn của thường trực Hội đồng dân tộc được quy định tại
khoản 2 Điều 7 Quy chế hoạt động của Hội đồng dân tộc và các ủy ban của Quốc
hội (ban hành kèm theo Nghị quyết số 27/2004/NQ-QH11 ngày 15 tháng 6 năm
2004 của Quốc hội khóa XI).
Chủ tịch Hội đồng dân tộc có nhiệm vụ và quyền hạn như sau: điều hành công
việc của Hội đồng, Thường trực Hội đồng; triệu tập và chủ trì các phiên họp của
Hội đồng, Thường trực Hội đồng; giữ mối liên hệ thường xuyên với các thành viên
của Hội đồng; báo cáo hoạt động của Hội đồng với Quốc hội, Uỷ ban thường vụ
Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội; tham gia hội nghị Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Chủ
nhiệm Uỷ ban của Quốc hội do Chủ tịch Quốc hội triệu tập để bàn chương trình
hoạt động của Quốc hội, Hội đồng, Uỷ ban; thay mặt Hội đồng, Uỷ ban giữ mối
quan hệ với Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch, các Phó Chủ tịch Quốc hội, với

các cơ quan, tổ chức hữu quan và cả trong quan hệ đối ngoại; thực hiện một số
nhiệm vụ khác do Uỷ ban thường vụ Quốc hội giao. Chủ tịch Hội đồng dân tộc
ngoài những nhiệm vụ quyền hạn nêu trên còn được tham dự các phiên họp của Uỷ


17
ban thường vụ Quốc hội; được mời tham dự các phiên họp của Chính phủ bàn về
việc thực hiện chính sách dân tộc8.
Phó Chủ tịch Hội đồng dân tộc giúp Chủ tịch Hội đồng thực hiện nhiệm vụ
theo sự phân công của Chủ tịch Hội đồng; được phân công phụ trách công tác nhất
định của Hội đồng và ký văn bản của Hội đồng khi được uỷ quyền. Khi Chủ tịch
Hội đồng dân tộc vắng mặt thì một Phó Chủ tịch được chủ tịch ủy nhiệm thực hiện
nhiệm vụ và quyền hạn của Chủ tịch. Các ủy viên thì phân thành ủy viên thường
trực Hội đồng dân tộc (ủy viên này hoạt động chuyên trách), ủy viên không thuộc
Thường trực Hội đồng nhưng hoạt động chuyên trách và ủy viên kiêm nhiệm.
Quyền và nghĩa vụ của Ủy viên Hội đồng dân tộc được quy định tại Điều 9 Quy chế
hoạt động của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội.
Hội đồng dân tộc còn thành lập các tiểu ban nhằm phụ trách nghiên cứu những
lĩnh vực được phân công. Trưởng tiểu ban phải là thành viên của Hội đồng dân tộc
(thường là các Phó Chủ tịch). Các thành viên khác có thể không nhất thiết phải là
đại biểu Quốc hội (Điều 42 Luật Tổ chức Quốc hội 2001). Trong nhiệm kì của
mình, Hội đồng dân tộc khóa XIII đã thành lập các tiểu ban như sau:
Tiểu ban pháp luật - nội chính: nghiên cứu, chuẩn bị các vấn đề thuộc lĩnh vực
hoạt động của Hội đồng dân tộc liên quan đến Ủy ban pháp luật, Ủy ban tư pháp,
Ủy ban quốc phòng và an ninh khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định
của pháp luật.
Tiểu ban kinh tế: nghiên cứu, chuẩn bị các vấn đề thuộc lĩnh vực hoạt động
của Hội đồng dân tộc liên quan đến Ủy ban kinh tế, Ủy ban tài chính - ngân sách,
Ủy ban khoa học, công nghệ và môi trường khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo
quy định của pháp luật.

Tiểu ban văn hóa - xã hội: nghiên cứu, chuẩn bị các vấn đề thuộc lĩnh vực hoạt
động của Hội đồng dân tộc liên quan đến Ủy ban văn hóa, giáo dục, thanh niên,
thiếu niên và nhi đồng, Ủy ban các vấn đề xã hội và Ủy ban đối ngoại khi thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật.
Cơ cấu tổ chức của các tiểu ban gồm Trưởng tiểu ban và các thành viên. Ngoài
ra, tiểu ban còn có một đội ngũ chuyên gia, cộng tác viên. Những người này do
Trưởng tiểu ban đề xuất và Chủ tịch Hội đồng dân tộc quyết định. Bên cạnh đó, còn
8 Điều 8 Quy chế hoạt động của Hội đồng dân tộc và các ủy ban của Quốc hội (ban hành kèm theo Nghị
quyết số 27/2004/NQ-QH13 ngày 15/6/2004)


18
có thư kí và chuyên viên giúp việc cho các tiểu ban. Các vị trí này thường là chuyên
viên của Vụ Dân tộc thuộc Văn phòng Quốc hội.
Cơ quan giúp việc của Hội đồng dân tộc là Vụ dân tộc thuộc Văn phòng Quốc
hội. Cơ quan này thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình được quy
định tại tại Quyết định số 841/QĐ-VPQH ngày 28/4/2005 về chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn, tổ chức của Vụ Dân tộc và Quyết định số 1758/QĐ-CNVP ngày
29/9/2005 về Quy chế làm việc của Văn phòng Quốc hội của Chủ nhiệm Văn phòng
Quốc hội. Đồng thời, trong phạm vi nhiệm vụ quyền hạn của mình, Vụ Dân tộc chịu
trách nhiệm về những nội dung sau:
Một là: chịu trách nhiệm tổ chức hoạt động nghiên cứu, tham mưu, đề xuất
trực tiếp với Chủ tịch Hội đồng dân tộc và tại phiên họp của Thường trực Hội đồng
dân tộc về các vấn đề liên quan đến Hội đồng dân tộc hoặc Thường trực Hội đồng
dân tộc.
Hai là: chịu trách nhiệm tổ chức đảm bảo các điều kiện liên quan phục vụ hoạt
động chuyên môn để Hội đồng dân tộc, Thường trực Hội đồng dân tộc, các thành
viên Hội đồng dân tộc thực hiện tốt nhiệm vụ quyền hạn theo quy định.
Ba là: có trách nhiệm thường xuyên liên hệ, phối hợp với các Vụ, đơn vị của
Văn phòng Quốc hội; phối hợp với đơn vị chuyên môn của các cơ quan, tổ chức;

các tổ chức quốc tế và địa phương liên quan để phục vụ các hoạt động, yêu cầu của
Thường trực Hội đồng dân tộc và của Lãnh đạo Văn phòng Quốc hội9.
1.2.2. Nhiệm vụ quyền hạn của Hội đồng dân tộc
1.2.2.1. Thẩm tra các dự án Luật, kiến nghị về Luật, dự án pháp lệnh và
các dự án khác liên quan đến vấn đề dân tộc
Thẩm tra là việc cơ quan có thẩm quyền thực hiện kiểm tra tính hợp lý và hợp
pháp của dự thảo văn bản luật, pháp lệnh 10. Cơ sở pháp lý của hoạt động thẩm tra
được quy định tại khoản 1 Điều 26 Luật Tổ chức Quốc hội 2001. Quy định này ghi
nhận nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng dân tộc trong hoạt động thẩm tra các dự
án, kiến nghị về luật, dự án pháp lệnh và các dự án khác liên quan đến vấn đề dân

9 Điều 24 Quy chế làm việc của Hội đồng dân tộc khóa XIII

10 Trường Đại học Luật TP.HCM (2013),Giáo trình xây dựng văn bản pháp luật, nhà xuất bản Hồng ĐứcHội Luật gia Việt Nam, Hà Nội, Tr.216.


19
tộc. Ngoài ra, một văn bản khác là Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008
cũng có quy định tương tự như sau:
“Dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết trước khi trình Quốc hội, Uỷ ban
thường vụ Quốc hội thảo luận, cho ý kiến phải được Hội đồng dân tộc, Uỷ ban hữu
quan của Quốc hội thẩm tra.
Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội có trách nhiệm chủ trì thẩm tra dự
án, dự thảo thuộc lĩnh vực do mình phụ trách và dự án, dự thảo khác do Quốc hội,
Ủy ban thường vụ Quốc hội giao; tham gia thẩm tra dự án, dự thảo do cơ quan
khác của Quốc hội chủ trì thẩm tra theo sự phân công của Uỷ ban thường vụ Quốc
hội”11
Thẩm tra dự án luật được tiến hành theo 2 hình thức: Thẩm tra sơ bộ và thẩm
tra chính thức. Thẩm tra sơ bộ được tiến hành tại phiên họp của thường trực Hội
đồng dân tộc. Thẩm tra chính thức được tiến hành tại phiên họp toàn thể của Hội

đồng dân tộc. Phiên họp toàn thể này phải có sự tham gia đầy đủ của tất cả các
thành viên Hội đồng dân tộc.
Về nội dung thẩm tra
Trong hoạt động thẩm tra của mình, để đảm bảo có thể đánh giá được tính hợp
lý và hợp pháp của dự án luật, pháp lệnh thì Hội đồng dân tộc cần tổ chức phiên họp
toàn thể tiến hành thẩm tra theo các nội dung như sau:
Một là: sự cần thiết ban hành dự án; đối tượng, phạm vi điều chỉnh. Việc xác
định đối tượng và phạm vi điều chỉnh của một dự án luật, dự án pháp lệnh bảo đảm
cho nội dung các quy định của dự án đó được thể hiện theo đúng yêu cầu của văn
bản, bao quát hết nội dung cần thực hiện, đồng thời giữ cho văn bản không vượt ra
ngoài những vấn đề cần giải quyết đối với văn bản đó.
Hai là: sự phù hợp của nội dung dự án với đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng; tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của văn bản với hệ thống
pháp luật. Cơ quan thẩm tra cần quan tâm, xem xét cụ thể dự án này có được xây
dựng trên cơ sở thể chế hóa chủ trương của Đảng hay không? Có theo đúng quan
điểm của Đảng chưa? Dự án đã thể hiện đúng tinh thần và nội dung của chủ trương,
đường lối, chính sách đó hay không?

11 Khoản 1 Điều 41 Luật Ban hành văn bản pháp luật 2008.


20
Khi thẩm tra một dự án luật, dự án pháp lệnh, cơ quan thẩm tra phải xem xét
tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản đó, có nghĩa là những quy định của dự án đang
thẩm tra có phù hợp (không trái) với những quy định của văn bản có giá trị pháp lý
cao hơn đồng thời có sự chồng chéo, mâu thuẫn với các văn bản khác hay không?
Ba là: Việc tuân thủ thủ tục và trình tự soạn thảo. Trình tự soạn thảo dự án
luật của Quốc hội, pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội phải đảm bảo thực
hiện đúng những trình tự được quy định tại Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp
luật 2008 và văn bản khác có liên quan. Phải có tổng kết tình hình thi hành pháp

luật, khảo sát thực tiễn, đánh giá tác động của dự thảo văn bản, tổ chức việc lấy ý
kiến các cơ quan tổ chức...
Bốn là: tính khả thi của dự án. Là xem xét khả năng thi hành và áp dụng sau
khi được ban hành. Đây cũng là mục đích mà các cơ quan soạn thảo luật hướng tới
và cũng là tiêu chí đánh giá chất lượng của văn bản luật.
Năm là: các nội dung cụ thể của dự án; những vấn đề còn có ý kiến khác nhau.
Đây là phần quan trọng, trọng tâm của báo cáo thẩm tra. Thực chất đây là việc thẩm
tra xem chính sách được thể hiện trong dự án luật đã đúng chưa, đã hợp lý chưa.
Sáu là: Ngôn ngữ, kỹ thuật văn bản. Phải đảm bảo được độ chính xác một
cách cao nhất việc sử dụng thuật ngữ, ngữ pháp12.
Đối với hoạt động thẩm tra của mình, trước tiên, Thường trực Hội đồng dân
tộc cần phải giao cho tiểu ban hoặc thành viên Hội đồng nghiên cứu và chuẩn bị ý
kiến. Sau đó, Hội đồng dân tộc có trách nhiệm mời đại diện cơ quan được phân
công tham gia thẩm tra tham dự phiên họp thẩm tra để phát biểu ý kiến về những
nội dung của dự án, dự thảo liên quan đến lĩnh vực do cơ quan đó phụ trách và
những vấn đề khác thuộc nội dung của dự án, dự thảo. Song song đó, Hội đồng dân
tộc cũng có quyền mời đại diện cơ quan, tổ chức có liên quan, các chuyên gia, nhà
khoa học và đại diện các đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản tham dự
cuộc họp do mình tổ chức để phát biểu ý kiến về những vấn đề liên quan đến nội
dung của dự án, dự thảo. Nếu cần thiết, Hội đồng dân tộc có thể tự mình hoặc cùng
cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo tổ chức hội thảo, khảo sát thực tế về những vấn
đề thuộc nội dung của dự án, dự thảo.
Về quy trình thẩm tra

12 Điều 23 Quy chế hoạt động của Hội đồng dân tộc và các ủy ban của Quốc hội 2004


21
Việc tuân thủ đúng quy trình sẽ góp phần làm cho hoạt động thẩm tra được
chính xác, thực hiện được mục đích của việc thẩm tra văn bản. Quy trình của hoạt

động thẩm tra được xây dựng một cách chặt chẽ trong đó có sự tham gia của chủ thể
thẩm tra và chủ thể thực hiện dự án đang được thẩm tra. Căn cứ theo quy định pháp
luật thì quy trình thẩm tra của Hội đồng dân tộc như sau:
Đại diện cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo, báo cáo
trình bày về dự án, dự thảo, báo cáo.
Các đại biểu tham dự phiên họp nêu câu hỏi và đại diện cơ quan, tổ chức, đại
biểu Quốc hội trình dự án trình bày bổ sung;
Đại diện Thường trực Hội đồng phát biểu ý kiến;
Đại diện Thường trực Hội đồng tham gia thẩm tra và đại diện cơ quan, tổ
chức hữu quan tham dự phiên họp phát biểu ý kiến;
Thành viên Hội đồng thảo luận.
Trong quá trình thẩm tra, đại diện cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình
dự án, dự thảo, báo cáo có thể giải trình, trình bày bổ sung ý kiến để làm rõ vấn đề
mà Hội đồng, Uỷ ban, đại biểu tham dự phiên họp thẩm tra nêu ra hoặc yêu cầu;
Chủ toạ phiên họp kết luận; đối với những vấn đề quan trọng và cần thiết thì
chủ toạ phiên họp lấy biểu quyết.
Báo cáo thẩm tra của Hội đồng, Uỷ ban được gửi đến Quốc hội, Uỷ ban
thường vụ Quốc hội theo thời hạn do pháp luật quy định.13
Trong quá trình thẩm tra, Hội đồng dân tộc có quyền yêu cầu thành viên
Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
tối cao, cơ quan khác hoặc tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp tài liệu hoặc đến
trình bày những vấn đề mà Hội đồng, Uỷ ban đang xem xét, thẩm tra. Người nhận
được yêu cầu có trách nhiệm thực hiện. Cùng với đó, nếu Hội đồng dân tộc là cơ
quan chủ trì thẩm tra thì có thể tham khảo ý kiến của Ủy ban khác của Quốc hội 14.
Trong phạm vi nhiệm vụ quyền hạn của mình, Hội đồng dân tộc có các trách
nhiệm như sau:
13 Khoàn 2 Điều 22 Quy chế hoạt động của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội.

14 Điều 27 Quy chế hoạt động của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội.



22
Tham gia với Uỷ ban kinh tế thẩm tra chương trình, dự án, kế hoạch nhà nước
về phát triển kinh tế - xã hội; báo cáo của Chính phủ về việc thực hiện nhiệm vụ, kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
Tham gia với Uỷ ban tài chính-ngân sách thẩm tra dự toán ngân sách nhà
nước, phương án phân bổ ngân sách trung ương và tổng quyết toán ngân sách nhà
nước.
Tham gia với Uỷ ban pháp luật thẩm tra đề án về thành lập, bãi bỏ các bộ, cơ
quan ngang bộ; thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương; thành lập hoặc giải thể đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt; báo
cáo của Chính phủ về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân;
Tham gia với Uỷ ban tư pháp thẩm tra báo cáo của Chính phủ về công tác
phòng, chống tham nhũng15.
Ý nghĩa:
Thứ nhất, với tính chất bắt buộc của hoạt động thẩm tra trong quy trình xây
dựng và ban hành văn bản luật, pháp lệnh đã làm cho vai trò của Hội đồng dân tộc
trong hoạt động lập pháp của Quốc hội được củng cố và duy trì. Hội đồng dân tộc
cùng với các Ủy ban khác của Quốc hội đã thực hiện thẩm tra nhiều dự án Luật,
đảm bảo thực hiện đúng quy trình xây dựng và ban hành văn bản pháp luật.
Thứ hai, tạo cơ sở cho Ủy ban thường vụ Quốc hội cho ý kiến. Trong quy
trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật, trước khi dự án luật được
trình cho Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét cho ý kiến thì phải được Hội đồng
dân tộc và các ủy ban hữu quan của Quốc hội thẩm tra. Kết thúc quá trình thẩm tra,
cơ quan thẩm tra phải thông qua báo cáo thẩm tra. Báo cáo này phải thể hiện rõ
quan điểm của cơ quan thẩm tra về những vấn đề thuộc nội dung thẩm tra và đề
xuất những nội dung cần sửa đổi, bổ sung. Sau đó, tại phiên họp của Ủy ban thường
vụ Quốc hội, đại diện cơ quan chủ trì thẩm tra phải trình bày báo cáo thẩm tra, kiến
nghị những vấn đề cần thiết. Sau khi tập hợp những văn bản, ý kiến của cơ quan, tổ
chức, đại biểu trình dự án luật, cơ quan thẩm tra, các cơ quan tổ chức cá nhân khác,

Ủy ban thường vụ Quốc hội tiến hành thảo luận để đưa ra kết luận cuối cùng.
Thứ ba, Hội đồng dân tộc phối hợp với các Ủy ban khác của Quốc hội trong
việc thẩm tra các dự án về phát triển kinh tế, ngân sách nhà nước... đã góp phần
không nhỏ giúp Quốc hội thực hiện tốt nhiệm vụ quyền hạn của mình trong việc
15 Khoản 6 Điều 1 Luật Sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Quốc hội.


23
xem xét, quyết định vấn đề về tài chính, ngân sách nhà nước, đánh giá được sự phát
triển kinh tế-xã hội một cách khách quan (dựa trên kết quả của báo cáo phối hợp
thẩm tra của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban khác của Quốc hội) nhất là đối với
hoạt động thẩm tra báo cáo của Chính phủ về công tác phòng chống tham nhũng (là
một vấn đề mà cả hệ thống chính trị đang rất quan tâm).
1.2.2.2. Giám sát việc thực hiện luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội,
Ủy ban thường vụ Quốc hội thuộc lĩnh vực dân tộc; giám sát hoạt động của
Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ
Giám sát là việc Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ
ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội theo dõi, xem xét,
đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc thi
hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban
thường vụ Quốc hội16.
Thứ nhất, về cơ sở pháp lý, khoản 2 Điều 26 Luật Tổ chức Quốc hội quy định:
“Giám sát việc thực hiện luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội thuộc lĩnh vực dân tộc; giám sát hoạt động của
Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ trong việc thực hiện chương trình, kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội miền núi, vùng có đồng bào dân tộc thiểu số”.
Đây là cơ sở trực tiếp quy định nhiệm vụ quyền hạn của Hội đồng dân tộc
trong hoạt động giám sát. Cụ thể hơn nữa, tại điểm c khoản 1 Điều 3 Luật Hoạt
động giám sát của Quốc hội quy định về đối tượng giám sát của Hội đồng dân tộc.
Theo đó, Hội đồng dân tộc có quyền giám sát hoạt động của Chính phủ, Thủ tướng

Chính phủ, bộ, cơ quan ngang bộ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân
tối cao trong việc thi hành luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của
Uỷ ban thường vụ Quốc hội; giám sát văn bản quy phạm pháp luật thuộc lĩnh vực
Hội đồng dân tộc; giúp Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội thực hiện quyền
giám sát theo sự phân công của các cơ quan này.
Ngoài ra, Hội đồng dân tộc còn tham gia giám sát việc thực hiện ngân sách
nhà nước, công tác phòng ngừa tham nhũng thuộc lĩnh vực của mình phụ trách17.
16 Khoản 1 Điều 2 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội 2003

17 Khoản 6 Điều 1 Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Quốc hội


24
Thứ hai, về hình thức giám sát
Một là: thẩm tra báo cáo công tác của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao thuộc lĩnh vực Hội đồng, Uỷ ban phụ trách hoặc
theo sự phân công của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Mục đích nhằm xem xét về
phương diện công tác dân tộc, chính sách dân tộc, các vấn đề khác có liên quan đến
dân tộc và các chương trình phát triển kinh tế-xã hội ở vùng miền núi-nơi có nhiều
dân tộc thiểu số sinh sống18.
Theo nhiệm vụ quyền hạn của mình, Hội đồng dân tộc tổ chức phiên họp thẩm
tra đối với báo cáo công tác của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao hay tổ chức phiên họp để xem xét báo cáo hoạt động của Chính
phủ, bộ, cơ quan ngang bộ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao
thuộc lĩnh vực Hội đồng phụ trách. Trình tự được tiến hành theo quy định tại khoản
3 Điều 29 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội.
Hai là: xem xét văn bản quy phạm pháp luật của các đối tượng chịu sự giám
sát của Hội đồng dân tộc19. Đó là xem xét văn bản quy phạm pháp luật của Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Toà án nhân
dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, văn bản quy phạm pháp luật liên tịch

giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở trung ương hoặc giữa cơ quan nhà
nước có thẩm quyền với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội có dấu
hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của
Uỷ ban thường vụ Quốc hội và văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước
cấp trên. Để thực hiện được điều này, Hội đồng dân tộc có trách nhiệm:
Thường xuyên theo dõi, đôn đốc Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng,
Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao ban hành văn bản quy phạm pháp luật để hướng dẫn thi hành luật, nghị quyết
của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về những vấn
đề dân tộc hoặc liên quan đến dân tộc đúng thời hạn theo quy định của pháp luật.
Có trách nhiệm nghiên cứu, xem xét nội dung văn bản quy phạm pháp luật do
cơ quan hữu quan gửi đến Hội đồng dân tộc

18 Khoản 1 Điều 27 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội 2003

19 Khoản 2 Điều 27 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội 2003


25
Trong trường hợp phát hiện văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu trái với
Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường
vụ Quốc hội thì Hội đồng dân tộc – trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình –
có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét, sửa đổi, bổ
sung, đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản đó. Trong
thời hạn ba mươi ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu, cơ quan, tổ chức, cá nhân
phải thông báo cho Hội đồng dân tộc biết việc giải quyết. Quá thời hạn nói trên mà
không trả lời hoặc giải quyết không đáp ứng với yêu cầu thì Hội đồng dân tộc có
quyền đề nghị Ủy ban thường vụ, kiến nghị với Chính phủ, cơ quan nhà nước có
thẩm quyền xem xét quyết định việc xử lý các văn bản trái với Hiến pháp và luật 20.
Mục đích: đảm bảo cho các văn bản quy phạm pháp luật thể hiện đúng đắn,

phù hợp với thực tiễn, thống nhất, đồng bộ, kịp thời với những vấn đề dân tộc đã
được các văn bản có giá trị pháp lý cao hơn xác định. Từ đó, góp phần tạo ra sự
đảm bảo cho hệ thống chính sách về dân tộc quy định trong hệ thống các văn bản
quy phạm pháp luật từ cao xuống thấp là nhất quán, không mâu thuẫn, chồng chéo,
phủ định lẫn nhau khi những quy định không họp lý đã được Hội đồng dân tộc kiến
nghị, đề nghị xem xét và xử lý.
Ba là: cử thành viên đến cơ quan, tổ chức hữu quan để xem xét, xác minh về
vấn đề mà Hội đồng, Uỷ ban quan tâm 21. Vấn đề này được cũng được quy định tại
Điều 39 Luật Tổ chức Quốc hội 2001. Cụ thể: trong trường hợp Hội đồng dân tộc
cử thành viên đến xác minh thì các cơ quan, tổ chức hữu quan phải có trách nhiệm
tạo điều kiện cho thành viên Hội đồng dân tộc thực hiện nhiệm vụ.
Ngoài ra, trong trường hợp cần thiết, Hội đồng dân tộc còn có quyền yêu cầu
Chính phủ, bộ, cơ quan ngang bộ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân
tối cao báo cáo về hoạt động thuộc lĩnh vực Hội đồng, Uỷ ban phụ trách 22.
Bốn là: tổ chức nghiên cứu, xử lý và xem xét việc giải quyết khiếu nại, tố cáo
của công dân23. Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Hội đồng dân tộc có
20 Điều 30 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội 2003

21 Khoản 5 Điều 27 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội 2003

22 Khoản 3 Điều 27 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội 2003

23 Khoản 6 Điều 27 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội 2003


×