Tải bản đầy đủ (.pdf) (46 trang)

Nghiên cứu đa hình di truyền gen thyroglobulin (TG5) ở một số nhóm bò vàng Việt Nam (luận văn thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.64 MB, 46 trang )

IH
TRƢ NG

QU

I HỌ

GI H N I
HO HỌ T

NHI N

-----------------------

PH M THỊ BÍ H THU

NGHI N ỨU

HÌNH DI TRUYỀN GEN THYROGLOBULIN

(TG5) Ở MỘT SỐ NHÓM BÒ VÀNG VIỆT N M

LU N V N TH

S

Năm 2015

1

HO HỌ




MỞ ẦU
Việc bảo tồn và sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên đa dạng sinh học nói
chung và nguồn gen động vật nuôi nói riêng ở nước ta hiện nay đang là vấn đề
cấp thiết. Do áp lực của kinh tế thị trường đòi hỏi các giống có năng suất cao,
do biến đổi khí hậu và đô thị hóa nên nhiều giống vật nuôi bản địa đang có nguy
cơ bị mất đi.
Từ những năm 1990 tổ chức Nông lương thực thế giới (F O) đã xây dựng
một chương trình phát triển bền vững nguồn gen động vật nuôi trên toàn cầu,
mục tiêu của chương trình này nhằm trợ giúp việc duy trì sự đa dạng sinh học
và phát triển nông nghiệp bền vững. ây là một chương trình tổng thể sử dụng
các kỹ thuật di truyền phân tử như các chỉ thị vi vệ tinh (microsatellite), phân
tích trình tự

DN, P R-RFLP, SNP… để đánh giá sự đa dạng di truyền giữa

các giống và trong bản thân mỗi giống vật nuôi ở mức độ phân tử nhằm định
hướng cho việc quản lý, bảo tồn và sử dụng nguồn gen động vật nuôi trên quy
mô toàn cầu [20].
Theo thống kê của F O thì hiện nay trên thế giới có khoảng trên 3500
giống vật nuôi, trong đó có khoảng 815 giống bò khác nhau. Tuy nhiên đây là
con số thống kê chưa đầy đủ vì nhiều giống bò bản địa khác vẫn chưa được
phát hiện, đồng thời nhiều giống cũng đang có nguy cơ bị mất đi do không
được bảo tồn [19].
Tình hình chăn nuôi bò thịt ở Việt Nam hiện nay mặc dù chính phủ đã
đẩy mạnh công tác khuyến nông nhằm “u hóa” đàn bò nhưng tỷ lệ bò vàng
gốc chưa bị lai tạp vẫn còn nhiều [11]. ác chương trình lai tạo đều tập trung
vào cải thiện tầm vóc và năng suất, còn vấn đề liên quan đến chất lượng thịt
để phục vụ thị trường thì còn bỏ ngỏ. Theo các chuyên gia trong ngành chăn

nuôi đánh giá thì hiện nay Việt Nam có khoảng 7 nhóm bò vàng địa phương,
mỗi nhóm mang những nét đặc trưng được chọn lọc theo sở thích của người
dân và đáp ứng với điều kiện khí hậu ở từng vùng. ác nhóm bò này thường
2


có kích thước nhỏ năng suất thịt, sản lượng sữa thấp nhưng chúng lại có khả
năng chịu được điều kiện khó khăn, khả năng kháng bệnh và sinh sản tốt [5].
Nhưng liệu bò vàng Việt Nam có những gen tiềm ẩn liên quan đến chất lượng
thịt như: độ mềm thịt, độ ngọt, mỡ giắt trong thịt… có thể được kiểm tra
thông qua các marker phân tử để thiết kế các chương trình lai tạo hợp lý hay
không?
Trên thế giới đã ứng dụng nhiều kỹ thuật trong lĩnh vực di truyền phân tử
để xác định sự đa hình các gen liên quan đến đến các tính trạng kinh tế như:
chất lượng thịt, tốc độ sinh trưởng…nhằm phát triển chúng như các chỉ thị
phân tử hỗ trợ chọn lọc những giống bò thịt có năng suất và chất lượng cao.
Thịt có mỡ giắt và độ dày mỡ lưng là 2 đặc điểm chất lượng quan trọng có
ảnh hưởng đến chất lượng thịt xẻ và tác động đến nền sản xuất bò thịt.
họn lọc nhằm làm tăng thịt có giắt mỡ nhưng lại có độ dày mỡ lưng thấp
từ lâu đã được công nhận là một mục tiêu quan trọng cho sản xuất thịt bò
chất lượng cao. Trong chăn nuôi bò thịt, truyền thống lựa chọn để tăng thịt có
mỡ giắt và giảm mỡ lưng không hề đơn giản do hai tính trạng này có quan
hệ đồng biến (thịt có mỡ giắt nhiều thì độ dày mỡ lưng cũng cao). Ngày nay
với sự phát triển mạnh của lĩnh vực di truyền phân tử, việc kiểm tra ở mức độ
phân tử

DN nhằm xác định gen quy định phẩm chất tốt đối với tính trạng

mỡ giắt trong thịt sẽ cung cấp một công cụ hữu hiệu để cải tiến di truyền tính
trạng này một cách thuận lợi hơn. Một số gen đã được liên quan đến chất

lượng thịt bò đã được xác định như: TG5,

ST-T1, Calpain 316-T2, Calpain

4751-T3. Sự thay đổi trình tự nucelotide của những gen này dẫn đến làm tăng
hay giảm độ dày mỡ lưng và tỷ lệ mỡ giắt trong thịt làm biến đổi độ mềm và
mùi vị thịt, có thể phát hiện được bằng các kỹ thuật di truyền như P R-RFLP
hay giải trình tự gen. Do đó, việc kiểm tra di truyền đối với các chỉ thị
(marker) liên quan đến độ mềm của thịt đã trở thành sản phẩm thương mại
[31], [32] và đang được ứng dụng trong việc xác đinh kiểu gen mong muốn

3


phục vụ công tác lai tạo giống bò thịt. Tác giả De và cộng sự (2004) chỉ ra
rằng gen Thyroglobulin -TG5- có liên quan đến độ dày mỡ lưng và mỡ giắt
trong bắp thịt (marbling) ở quần thể bò lai F2 Wagyu X Limousin [18]. Giống
bò Wagyu nổi tiếng của Nhật về thịt mềm mọng, thơm, tỷ lệ thịt có mỡ giắt
rất cao nên được ưa chuộng trên thị trường. Do vậy, gen TG5 được đề cử là
một trong các chỉ thị phân tử dựa trên

DN được ứng dụng trong chọn lọc

giống bò thịt.
ho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu về đa hình di truyền gen
TG5 trong các giống bò Việt Nam. Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề
tài “Nghiên cứu đa hình di truyền gen thyroglobulin (TG5) ở một số
nhóm bò vàng Việt Nam” với mục đích: Xác định sự sai khác di truyền gen
TG5 giữa các nhóm bò vàng địa phương của Việt Nam ở mức độ phân tử giúp
định hướng cho việc bảo tồn và phát huy giá trị các giống bản địa Việt Nam.


4


HƢƠNG 1. TỔNG QU N TÀI LIỆU
1. ác phƣơng pháp đánh giá đa dạng di truyền
a dạng di truyền có thể được biểu hiện ở một vài mức độ, từ quan sát kiểu
hình đến các chỉ thị phân tử. Phương pháp đầu tiên là phương pháp đánh giá
đa dạng giống qua đặc điểm kiểu hình [28]. ác chỉ thị kiểu hình được chia
thành các tính trạng riêng biệt (ví dụ như các tính trạng về hình thái và sinh
thái di truyền) và các tính trạng số lượng (ví dụ như trọng lượng cơ thể) được
sử dụng để đánh giá biến dị di truyền và mối quan hệ phát sinh loài giữa các
giống và quần thể.
ác chỉ thị khác như đa hình protein, hoạt tính enzym và các nhóm máu
được sử dụng để đánh giá biến dị di truyền trong các quần thể [21], [25], [26].
Tuy nhiên, các chỉ thị này cho kết quả đa hình thấp và hạn chế trong nghiên
cứu đa dạng di truyền.
Hiện nay với sự phát triển của

ông nghệ sinh học đặc biệt là công

nghệ phân tích gen đã cung cấp nhiều dấu hiệu cùng với các kỹ thuật di
truyền phân tử như: P R-RFLP, kỹ thuật microsatellile, giải trình tự
DN...được sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu với các đối tượng khác nhau.
ặc biệt là các kỹ thuật, công nghệ phân tích di truyền đã và đang được áp
dụng nhiều trong chăn nuôi nhằm hỗ trợ chọn tạo giống vật nuôi (marker
assisted selection) cũng như các nghiên cứu về đa dạng di truyền, các dự án
bảo tồn và khai thác nguồn gen. Kỹ thuật di truyền phân tử được coi là hữu
hiệu nhất được dùng đề đánh giá mức độ sai khác di truyền giữa các giống và
trong bản thân các giống gia súc, gia cầm.

1.1.

ỹ thuật P R
Kỹ thuật P R (Polymerase chain reaction) hay còn gọi là phản ứng

chuỗi trùng hợp, được Karry Mullis hoàn thiện vào giữa những năm 80 và đã
đưa lại một cuộc cách mạng trong di truyền học phân tử.

5


Kỹ thuật P R cho phép nhân các đoạn
sử dụng các đặc điểm của quá trình sao chép
các đoạn

DN định trước. Kỹ thuật P R
DN.

DN polymerase dùng

DN mạch đơn làm khuôn để tổng hợp nên sợi mới tương hợp với

nó. ả hai sợi

DN đều được dùng để làm khuôn cho quá trình tổng hợp nếu

các đoạn mồi oligonucleotide được cung cấp cho cả hai sợi. Hỗn hợp phản
ứng lại được đun nóng lên để tách sợi ban đầu khỏi sợi mới tổng hợp, các sợi
này sau đó lại được dùng tiếp cho chu trình tiếp theo, bao gồm các bước: gắn
đoạn mồi, tổng hợp


DN và tách rời các đoạn. Kết quả cuối cùng của phản

ứng P R là sau n chu kỳ phản ứng, tính theo lý thuyết, ta sẽ có 2n bản sao các
phân tử

DN mạch kép nằm giữa hai đoạn mồi.

ó là đặc điểm quan trọng

thứ hai của kỹ thuật P R, nó dẫn đến kết quả là một đoạn

DN định trước

được nhân lên [4].
1.2. ác phƣơng pháp nghiên cứu đa hình di truyền dựa trên P R
1.2.1. Phƣơng pháp P R-RFLP( Polymerase chain reaction-Restriction
fragment length polymorphism )
Sau khi nhân đoạn

DN nhờ một cặp mồi đặc hiệu, sản phẩm P R

được cắt bằng một hoặc một số enzym giới hạn. Sau khi phân tích các sản
phẩm cắt bằng enzym giới hạn, điện di trên gel có thể phát hiện được sự thay
thế các base nitơ hay sự thay đổi trật tự các base nitơ tại vị trí cắt trên

DN

được nhân lên.
Phương pháp này được áp dụng khá phổ biến trên nhiều phòng thí

nghiệm trên thế giới do sự biểu hiện đa hình tương đối cao, dễ tiến hành và
chi phí thấp.
1.2.2. Phƣơng pháp FLP (Amplified fragment length polymorphism)
FLP là phương pháp nghiên cứu đa hình chiều dài các đoạn được
nhân bản chọn lọc. ơ sở của phương pháp này là dùng enzym giới hạn để cắt
nhỏ

DN genome thành các phân đoạn có kích thước khác nhau, trong đó có

những đoạn mang đầu mút giống nhau. Nếu ta sử dụng một đoạn nối
6


(adaptor) như nhau có gắn thêm một hoặc một số oligonucleotide được chọn
trước để định hướng cho việc gắn mồi thì tất cả những đoạn DN có đầu gắn
giống nhau sẽ được nhân lên. Khi ta thay đổi số lượng và trật tự các
oligonucleotide ở các đầu nối ta có thể nhận được những đoạn DN nhân bản
có kich thước khác nhau giúp ta có thể phân biệt được sự đa hình giữa chúng.

1.2.3. Phƣơng pháp R PD (Random amplified polymorphism DNA)
R PD là phương pháp phân tích đa hình các đoạn

DN được nhân

bản ngẫu nhiên. Dựa trên cơ sở của phản ứng P R với các cặp mồi có trình tự
ngẫu nhiên thường dài khoảng 10 base. Phương pháp này có thể áp dụng đối
với các đối tượng chưa biết trình tự về

DN genom. Phương pháp này cho


phép phát hiện đa hình cao và ngày càng được áp dụng rộng rãi trong chọn
giống và phân loại thực vật.
Nhìn chung các phương pháp phân tích đa hình di truyền nhờ chỉ thị
DN dựa trên P R ngày càng phát triển nhanh chóng và áp dụng rộng rãi
trong chọn giống. Tuy nhiên có một số hạn chế cho việc áp dụng các phương
pháp chọn lọc này:
- Tốc độ lập bản đồ gen cho việc áp dụng các phương pháp này còn rất chậm,
nhiều gen đã được đưa vào bản đồ còn quá xa các chỉ thị đã biết.
- Việc sử dụng các chỉ thị phân tử dựa vào P R khá tốn kém nên hiện nay
mới chỉ có một số lượng hạn chế các chỉ thị dựa vào P R được sử dụng trong
chọn lọc.
1.2.4. Microsatellite
Thuật ngữ Microsatellite được Litt và Luty giới thiệu vào năm 1989
nhằm chỉ các trình tự
DN

sequence).

DN lặp lại một cách có trật tự (Tandemly repeated

ác đoạn này có độ dài chỉ vài cặp bazơ nitơ (2-6 bp), có

tính đa hình cao và có thể được nhân lên bằng phản ứng P R.

7


Microsatellite được phân bố ngẫu nhiên trên toàn bộ hệ gen, tập trung
thành những cụm nhỏ (clusters) khoảng 200bp và được tìm thấy trong tất cả
cơ thể sống đặc biệt là ở những cơ thể sống có hệ gen lớn. Người ta thấy rằng

trung bình cứ 10.000 nucleotide thì gặp một trình tự microsatellite.
Những đoạn lặp lại của poly /polyT là kiểu phổ biến nhất trong tất cả
các hệ gen nhưng tần số phân bố giữa các loài rất khác nhau. Ngoài ra còn có
một số kiểu lặp lại phổ biến khác như kiểu lặp lại 2 nucleotide như (

)/(GT)

[10].
Microsatellite có các tính chất cần thiết cho một chỉ thị phân tử
(Molecular marker) do sự đa dạng và khả năng biến đổi lớn về chiều dài của
chúng và có thể dễ dàng phát hiện bằng phản ứng P R từ một lượng DN rất
nhỏ.
1.3. Giải trình tự DN
Nguyên tắc của hầu hết các phương pháp giải trình tự

DN hiện nay

đều dựa trên phương pháp được Sanger và cộng sự công bố năm 1977, được
gọi là phương pháp dideoxyribonucleotide (gọi tắt là phương pháp dideroxy).
Nguyên tắc của phương pháp dideroxy dựa trên việc bổ sung các dẫn xuất
tương ứng của các dNTP là 2’,3’-dideoxynucleotide (viết tắt là ddNTP) vào
thành phần phản ứng tổng hợp

DN trong ống nghiệm. Do ddNTP thiếu

nhóm 3’-OH, nên một khi nó được gắn vào mạch

DN đang tổng hợp, thì

quá trình tổng hợp DN sẽ dừng lại. Trong phương pháp Sanger, sự sao chép

DN được bắt đầu bằng việc gắn một đoạn oligonucleotide có trình tự bổ
sung với trình tự

DN cần giải rồi ủ chúng cùng enzym

DN polymerase.

Phân tử DN tổng hợp mới sẽ có trình tự bổ sung với mạch DN làm khuôn.
ác phản ứng tổng hợp trình tự được chia thành 4 ống nghiệm tách biệt. Mỗi
ống được bổ sung một hỗn hợp gồm 4 loại dNTP thông thường, một trong
những loại dNTP này được đánh dấu phóng xạ để phát hiện mạch mới đang
được tổng hợp. Ngoài ra từng loại trong 4 loại ddNTP (dd TP. ddGTP,

8


dd TP, ddTTP) sẽ được bổ sung lần lượt tương ứng vào mỗi ống nghiệm nêu
trên với nồng độ bằng 1/10 so với nộng độ loại dNTP tương ứng. Với thành
phần phản ứng như vậy, trong phần lớn trường hợp, dNTP sẽ liên kết vào
mạch

DN đang tổng hợp, nhưng ddNTP (ở nồng độ thấp) cũng sẽ liên kết

vào một số mạch

DN đang được tổng hợp và làm kết thúc quá trình sao

chép. Do có nhiều phân tử

DN được tổng hợp đồng thời nên quá trình này


dẫn đến sự hình thành của một hỗn hợp nhiều phân tử

DN được sao chép

không hoàn chỉnh giống nhau ở đầu 5’ được đánh dấu và khác nhau ở đầu 3’
về chiều dài và loại nucleotide kết thúc chuỗi. ác sản phẩm này sau đó được
phân tách trên gel polyacrylamide và đọc trình tự theo thứ tự các băng xuất
hiện trên bản điện di theo chiều từ cực dương sang cực âm [3].
Giải trình tự DN tự động
Kỹ thuật giải trình tự được Sanger mô tả có thể xác định chính xác trình
tự nucleotide của một đoạn

DN dài tới 300bp. Tuy nhiên, phương pháp này

cần nhiều thao tác kỹ thuật. Ngoài ra việc đọc kết quả điện di bằng mắt đôi
khi vẫn còn sai sót. Hiện nay, có thể giải trình tự DN các hệ gen lớn đều dựa
vào phương pháp giải trình tự tự động.
Phương pháp giải trình tự tự động kết hợp đồng thời 4 phản ứng độc
lập vào một phản ứng chung. Trong điều kiện như vậy, việc dùng các
nucleotide được đánh dấu phóng xạ (gắn vào đầu 5’ của mạch DN tổng hợp
mới) là không phù hợp vì các đoạn

DN mới tổng hợp chỉ khác nhau một

nucleotide nên khó phân tách bằng điện di thông thường.

ể khắc phục điều

đó, người ta dùng một bộ các ddNTP được gắn chất phát quang. ác ddNTP

lúc này vẫn có thể liên kết vào mạch
ứng sao chép.

DN đang kéo dài và làm ngừng phản

ấu trúc phần phát quang của ddNTP gồm một “gốc phát

quang” liên kết với một trong 4 gốc dicholororhodamine (viết tắt là
dRhodamine, là chất nhận năng lượng quang) khác nhau qua một đoạn nối.
Bốn gốc dRhodamine khi bị “gốc phát quang” kích thích (bởi nguồn sáng

9


lazer thường từ rgon) nhận năng lượng rồi phát quang ở các bước sóng khác
nhau. Nhờ vậy, mỗi loại ddNTP khi được kích thích bởi nguồn sáng

rgon

của máy giải trình tự sẽ phát đi “tín hiệu” khác nhau. Thông tin này được cảm
biến tín hiệu kết hợp với máy tính xử lý và tự động chuyển thành trình tự
DN. ác ddNTP được gắn chất phát quang theo nguyên lý nêu trên được gọi
là các yếu tố kết thúc chuỗi BigDyeTM [3].
2. Một số nghiên cứu về vai trò và cấu trúc của gen Thyroglobulin
Thyroglobulin là một hóc môn glycoprotein có trọng lượng phân tử
khoảng 660 kDa, được tổng hợp từ tế bào nang tuyến giáp và được giải phóng
vào máu dưới dạng tiền hóc môn. Mỗi phân tử thyroglobulin chứa 140 amino
acid tyrosine (amino acid này nằm trong cấu trúc phân tử của thyroglobulin)
Thyroglobulin chứa triodothyronine (T3) và thyroxin (T4). Trong cơ thể
người Thyroglobulin được giải phóng với một lượng không đáng kể. Thay

vào đó, T4 và T3 được tách khỏi phân tử thyroglobulin để đi vào máu. Hầu
hết các hóc môn tuyến giáp sản xuất là T4. Nội tiết tố này tương đối không
hoạt động, nhưng nó được chuyển thành dạng T3 hoạt động hơn trong gan và
các mô khác nhờ phản ứng deioddinated. Khoảng 99,7

T3 trong máu được

gắn vào globulin và số còn lại là hormon tự do. Hóc môn T3 có ảnh hưởng
đến sự trưởng thành của các cơ quan trong cơ thể. Ailhaud và cộng sự (1992)
cho thấy vai trò của hóc môn T3 và T4 có tác động tới sự sinh trưởng và biệt
hóa của tế bào tạo mỡ trong in vitro và in vivo đã [12]. Tương tự, T3 và T4
cũng được cho là có liên quan đến sự tích tụ mỡ giắt trong cơ ở bò Wagyu
[24]. Thịt bò có tỷ lệ mỡ giắt cao thì mềm hơn và ngọt hơn so với thịt
không có mỡ giắt. Mỡ giắt trong cơ của bò Wagyu có thành phần a xít béo
no nên rất tốt cho sức khỏe người ăn kiêng như người béo và người bị tim
mạch [35]

10


Hình 1. Lát cắt bắp thịt chứa mỡ giắt của bò Wagyu- Nhật Bản
Mỡ giắt trong thịt tạo thành các vân thịt (hình 1). Vân thịt là một yếu
tố được quan tâm khá nhiều trong đánh giá chất lượng thịt. Vân thịt có ảnh
hưởng nhiều tới các tính trạng về độ ngon miệng như mùi và vị. Vân thịt
được đánh giá theo các cấp từ không đến rất nhiều theo màu mỡ hoặc theo
màu thịt minh họa trên hình 2.
A

B


Hình 2. Thịt giắt mỡ với các mức độ khác nhau phân theo màu mỡ (A) và
màu thịt (B)

11


Gen tổng hợp Thyroglobulin nằm trong trung đoạn nhiễm sắc thể 14
của bò. Gen Thyroglobulin bò dài khoảng 200.000 bp với hơn 42 exon trong
đó 34 exon đã được xác định và được cho là gen lớn nhất trong các loài sinh
vật nhân chuẩn đã được nghiên cứu [34]. De Martynoff. (1987) đã giải trình
tự vùng 5’ và exon 1 của gen TG5 và so sánh với vùng tương ứng của gen
TG5 của người cho thấy phần lớn là tương đồng. Tuy nhiên vùng promoter
của bò có một đoạn trình tự xen khoảng 220 bp khác với của người, và trình
tự vùng “Pu box” của người dài hơn của bò [17] (hình 3)

12


Hình 3. So sánh trình tự ( ) và cấu trúc (B) vùng 5’ và exon 1 của gen
TG5 của người và bò [17]
ác đa hình của gen Thyroglobulin thường xuất hiện ở trình tự đầu 5’ và
có mối liên quan chặt chẽ với sự tích tụ các mô mỡ trong cơ ở những con bò
trưởng thành [13]. Cũng theo tác giả này, những cá thể mang alen đồng hợp
TT hay dị hợp T có vân mỡ giắt cao hơn những cá thể mang alen đồng hợp
(đột biến biến đổi T thành

ở vùng trước exon 1 của gen). Nói cách

khác, sự hiện diện của alen T cũng làm tăng sự tăng trưởng và tích tụ vân mỡ
giắt trong cơ. iều thú vị là không thấy tương quan giữa alen T tới độ dày mỡ

mông hay trọng lượng thịt xẻ. Kết quả nghiên cứu của Barendse cho thấy có
thể lựa chọn TG5 như một chỉ thị phân tử trong chọn lọc giống bò thịt. Tần
số alen

và T của một số giống bò trên thế giới của một số tác giả được thể

hiện ở bảng 1
Bảng 1. Tần số alen
Tác giả

và T của một số giống bò

Giống bò

Tần số alen

Tần số alen T

De (2004) [18]

Bò F2 Wagyu x Limousin

0,61

0,39

Casas (2005) [15]

Bò Brahman


0.96

0,04

Casas (2008) [16]

Bò Wagyu

0.69

0,31

0,77

0,23

Kaplanova (2009) [23] Bò lai Czech Spotted

13


3. Tình hình chăn nuôi bò thịt giai đoạn 2001-2005 và định hƣớng phát
triển giai đoạn 2006-2015
3.1.

ết quả chăn nuôi bò giai đoạn 2001-2005

3.1.1. Tăng trƣởng đầu con
Trong vòng 5 năm, chăn nuôi của nước ta đã phát triển nhanh về số
lượng và chất lượng sản phẩm, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội về

thịt, trứng, sữa.

hăn nuôi bò đã có nhiều cơ hội tốt để phát triển và tăng

trưởng về số lượng đàn bò và cải tiến về chất lượng giống. Số lượng đàn bò
của nước giai đoạn 2001-2005 được trình bày ở bảng 2 [11].
Bảng 2. Số lượng đàn bò và tốc độ tăng đàn hàng năm 2001-2005
Trung
Số lƣợng

ơn vị
Triệu

àn bò

con

Tốc độ tăng đàn

%

2000

2001

2002 2003

2004

2005


4,13

3,89

4,06

4,39

4,91

5,54

0

- 5,74

4,37

8,12

11,84 12,83 6,29

bình
4,49

Từ năm 2001 đến 2005, đàn bò đã tăng từ 3,89 triệu con lên 5,54 triệu
con đạt tốc độ tăng trưởng 6,29

năm. Hiện nay, đã có 15 tỉnh tham gia dự


án phát triển giống bò thịt chất lượng cao. Hàng nghìn bò thịt giống cao sản
đã được nhập về nước trong giai đoạn vừa qua nhằm đáp ứng nhu cầu giống
phát triển chăn nuôi bò của nhân dân. Tỷ lệ đàn bò lai chiếm trên 30

tổng

đàn bò và là đàn bò nền để tiếp tục lai tạo bò thịt chất lượng cao.
3.1.2. Phân bố đàn bò theo vùng
Năm 2005 tổng đàn bò của cả nước trên 5,5 triệu con, phân bố của đàn bò cho
2 vùng sinh thái như sau: miền Bắc chiếm trên 48,67
trên 51,33

và miền Nam chiếm

tổng đàn bò. Trong đó riêng khu vực Bắc Trung bộ và Nam

Trung Bộ thuộc 2 vùng sinh thái trên là nơi có điều kiện tự nhiên phù hợp với
14


phát triển của bò nên đàn bò được tập trung cao nhất ở đây (trên 38

tổng

đàn bò của cả nước được nuôi ở 2 khu vực này). Khu vực Tây Bắc là vùng núi
cao của miền Bắc có điều kiện phù hợp với sinh thái của trâu hơn là bò. Do đó
đàn bò của vùng Tây Bắc thấp nhất, chỉ chiếm trên 4

tổng đàn (bảng 3) [11].


Bảng 3. Số lượng đàn bò năm 2005 và phân bố đàn bò theo vùng sinh thái
(đơn vị tính là 1000 con)
Năm 2005

Tỷ lệ so với cả nước ( )

ả nƣớc

5.540,7

100

Miền Bắc

2.696,4

48,67

685,8

12,38

STT

1

Vùng sinh thái

ồng Bằng sông Hồng


2

Vùng ông Bắc

675,4

12,19

3

Vùng Tây Bắc

224,2

4,05

4

Vùng Bắc Trung Bộ

1.110,8

20,05

Miền Nam

2,844.2

51,33


5

Vùng Nam Trung Bộ

1.007,3

18,18

6

Vùng Tây Nguyên

616,9

11,13

7

Vùng ông Nam Bộ

682,1

12,31

8

ồng Bằng Sông

537,8


9.71

ửu Long

3.1.3. Sản phẩm của chăn nuôi bò
Tổng sản lượng thịt hơi các loại của nước ta năm 2001 đạt 1.939,3 ngàn
tấn, năm 2005 đã tăng lên 2.812,1 ngàn tấn; tốc độ tăng trưởng bình quân/năm
của sản lượng thịt hơi là 9,81

/năm. Trong đó tổng sản lượng thịt bò tăng

97,7 ngàn tấn năm 2001 lên 142,1 ngàn tấn năm 2005 với tốc độ tăng trưởng
8,83

năm.
ác sản phẩm da và sừng, móng: Năm 2005 có khoảng 550-600 nghìn

bò được mổ thịt cung cấp hàng nghìn tấn da tươi, sừng, móng bò cho công
nghiệp thuộc da và nguyên liệu cho các nghề thủ công, mỹ nghệ [11].
15


Ngoài ra phân bón và sức kéo của bò có vai trò quan trọng dối với nông
nghiệp. Hàng năm chăn nuôi bò cung cấp cho nông dân nguồn sức kéo lớn
trong làm đất và cung cấp 15-20 triệu tấn phân bón hữu cơ cho trồng lúa, các
cây màu, rau, đậu, các loại hoa quả và các cây công nghiệp như hạt tiêu, cao
su, cà phê và cây điều [11].
3.2. ịnh hƣớng phát triển
Với mục tiêu phát triển chăn nuôi bò thịt nhằm tạo ra khối lượng lớn

sản phẩm thịt bò có giá trị và chất lượng cao, tạo việc làm, tăng thu nhập và
cải thiện đời sống cho nông dân, phát triển chăn nuôi bò thịt bền vững và bảo
vệ môi trường cụ thể là [11]:
1)

ưa số lượng bò từ 5,54 triệu con năm 2005 lên trên 7,1 triệu con

vào năm 2010 và 9,0 triệu con vào năm 2015, đồng thời đưa cơ cấu giống bò
lai, bò thịt chất lượng cao từ 30

năm 2005 lên 36

năm 2010 và 40

năm

2015.
2) ưa sản lượng thịt bò từ 142 nghìn tấn năm 2005 lên trên 210 nghìn
tấn vào năm 2010 và đạt 310 nghìn tấn năm 2015 và bình quân thịt bò/người
từ 1,7 kg năm 2005 lên 2,35 kg năm 2010 và 2,84 kg năm 2015.
ể thực hiện tốt các mục tiêu trên, định hướng phát triển chăn nuôi bò
thịt giai đoạn 2006-2015 của nước ta là [11]:
1). huyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn theo Nghị quyết
06 của Bộ hính Trị 12/2000. huyển một phần đất canh tác sang trồng cây
thức ăn chăn nuôi, trồng cỏ thâm canh sản xuất thức ăn cho chăn nuôi bò.
2). Khuyến khích và ưu tiên phát triển chăn nuôi bò trang trại thâm
canh quy mô vừa và nhỏ sản xuất hàng hóa chất lượng cao.
3). Phát triển chăn nuôi bò thịt phù hợp với điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội của từng địa phương, phát huy tập quán chăn nuôi, sử dụng nguồn lao
động và các nguồn lợi tự nhiên về thức ăn.


16


4). Áp dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ sinh học vào phát triển
chăn nuôi bò thịt đặc biệt các công nghệ ứng dụng cho công tác giống và sinh
sản để tăng nhanh tiến bộ di truyền, năng suất và chất lượng sản phẩm chăn
nuôi bò thịt.
5). Tăng cường hệ thống quản lý và nhân giống bò thịt chất lượng cao.
4. ặc điểm của các nhóm bò vàng Việt Nam
Theo một số tác giả như Lê Viết Ly (1999) [5]thì ở nước ta hiện nay có
khoảng 7 nhóm bò vàng địa phương đặc trưng cho các vùng sinh thái đó là:
nhóm bò vàng Lạng Sơn, bò H’Mông, bò vàng Thanh Hoá, bò vàng Nghệ n,
bò U đầu rìu Nghệ n, bò vàng Phú Yên và bò vàng Bà Rịa Vũng Tàu.
Sở dĩ có tên gọi bò vàng vì phần lớn (>90 ) chúng có sắc lông màu vàng,
chúng được cho là có nguồn gốc từ bò Ấn

ộ có u và bò vàng Trung Quốc

không u. Trong quá trình thuần hóa, giao lưu buôn bán bò được đưa vào Việt
Nam từ lâu đời. Từ đó, bò vàng đã trở thành con vật quý giá đối với người
nông dân, nó gắn liền với đời sống kinh tế văn hóa, xã hội ở từng địa phương
vì vậy đã hình thành nên các tên mang tính chất địa danh nơi nó sinh sống.
4.1. Nhóm bò vàng Hà Giang (bò H’Mông)
Từ lâu đời, người H’Mông và các dân tộc ít nguời vùng núi cao, đã thuần
hóa, chọn lọc, nuôi dưỡng tạo nên nhóm bò vàng thích ứng tốt với điều kiện
lạnh khô vùng núi cao. Do vậy thường gọi nhóm bò này là bò H’Mông (hình
4) [8]. Bò phân bố nhiều vùng núi cao phía Bắc như Sơn La,

iện Biên, Lai


hâu, Hà Giang,...Trong đó Hà Giang được xem là sứ sở của bò H’Mông [6].
Bò có ngoại hình cân đối, cao to, cấu tạo chắc chắn, linh hoạt. Phần lớn
bò màu vàng tơ, một số ít màu cánh gián xẫm (tối), da mỏng, lông mịn. on
đực có u vai to, cao, có yếm rộng, đuôi dài. ầu bò cái thanh, đầu bò đực thô
hơn.

ỉnh trán có u gồ (91 ), một số ít có trán lõm (9 ) hoặc rộng phẳng,

đôi khi hơi lõm hoặc gồ lên. Hai tai nhỏ, sừng mọc chỉ về phía trước ra hai
bên, ngắn hoặc mọc nhú lên xù xì.

ực trông hung dữ, con cái dáng thanh,

17


đầu nhẹ, sống mũi thẳng, đằng truớc hẹp, phía mông rộng hơn. Trọng lượng
sơ sinh của bê 15-16 kg, khối lượng 5 năm tuổi con cái đạt 250-270 kg, con
đực đạt 382-388 kg. ó thể nói bò H’Mông là một giống có tầm vóc lớn so
với các giống bò nội.

Bò đực H’Mông

Bò cái H’Mông

Hình 4. Bò đực và bò cái H’Mông
4.2. Nhóm bò vàng Lạng Sơn
Ngoại hình của bò vàng Lạng Sơn mang các đặc điểm chung của bò vàng
Việt Nam là sắc lông màu vàng. Da mỏng, lông mịn, tầm vóc nhỏ bé (hình 5).
Bò có tầm vóc trung bình, kết cấu vững chắc, cao vây đạt 101-106 cm; dài

thân chéo 113-117 cm; vòng ngực 132-141 cm. Lúc trưởng thành, con cái có
khối lượng con cái 180- 230 kg, con đực 300-350 kg [5].

Bò đực Lạng Sơn

Bò cái Lạng Sơn
Hình 5. Bò đực và bò cái Lạng Sơn

4.3. Nhóm bò vàng Thanh Hóa
18


Bò vàng Thanh Hóa có tầm vóc trung bình. Toàn thân hình chữ nhật dài,
đầu con cái thanh, đầu con đực thô, sừng ngắn, trán phẳng hoặc hơi lõm, bò
đực mõm ngắn, bò cái mõm dài thanh hơn, mạch máu nổi rõ trên mặt, mắt to
nhanh nhẹn. ổ bò cái thanh, cổ bò đực to, dày, lông đen. Yếm của bò kéo dài
từ hầu đến ức, da cổ, yếm có nhiều nếp nhăn nhỏ. Bò đực có u, bò cái không
có u; lưng hông thẳng, hơi rộng, bắp thịt nở nang; mông hơi xuôi, ngắn và
lép. Ngực tương đối sâu nhưng lép, bụng to tròn, không sệ; bốn chân cứng
cáp, thanh tú, hai chân trước thẳng, hai chân sau ở một số con có chạm kheo.
Bầu vú đều, phát triển kém. Màu sắc lông da vàng tươi, ở bụng, yếm và bên
trong đùi màu vàng nhạt, da mỏng, lông mịn dài (hình 6).
Khối lượng sơ sinh 13-22 kg trung bình dưới 14-15kg, con cái trưởng
thành có khối lượng 180-200 kg; con đực 250-320kg. Bò có chiều cao 100105cm; vòng ngực 132-133cm; dài thân chéo 112-113 cm.
Bò được phối giống lần đầu vào lúc 20-24 tháng tuổi. Ưu điểm nổi bật
của bò là chịu đựng tốt trong điều kiện dinh dưỡng thấp, chịu nóng tốt, sức
chống bệnh cao [5].

Bò đực Thanh Hóa


Bò cái Thanh Hóa

Hình 6. Bò đực và bò cái Thanh Hóa
4.4. Nhóm bò vàng Nghệ n
Bò Nghệ

n có tầm vóc trung bình. on cái đa số tiền thấp hậu cao, con

đực tiền cao hậu thấp, màu lông vàng sẫm chiếm 70-80%. Bò thường có một
19


sọc đen kéo dài từ u vai đến mông. Số còn lại có màu vàng nhạt hoặc màu
đen. Da mỏng lông mịn (hình 7).

ầu bò đực thô, nặng, đầu bò cái thanh.

Trán rộng phẳng, thỉnh thoảng có con hơi lõm đỉnh trán hơi dô lên, mắt lồi,
mõm rộng; tai to đưa ngang. Sừng bò đực hình búp măng mập, chỏm sừng
màu đen, chân sừng màu tro; sừng bò cái nhỏ, dài và cong về phía trước. ổ
bò đực dày, tròn; cổ bò cái thanh và dài. Yếm to kéo dài từ hầu đến xương mỏ
ác. on đực có u vai cao, con cái u vai thấp [5].
Khối lượng bò Nghệ

n tương tự hoặc cao hơn bò Thanh Hóa chút ít.

ao vây của bò 104-110; dài thân chéo 115-124 cm; vòng ngực 139-156 cm.
Bò cái trưởng thành có khối lượng 190-210 kg; bò đực trưởng thành 300-350
kg. Khối lượng sơ sinh của bê: 13-16 kg


Bò đực Nghệ n

Bò cái Nghệ n

Hình 7. Bò đực và bò cái Nghệ n
4.5. Nhóm bò vàng Phú Yên
Là giống bò địa phương có thể coi là đại diện cho bò duyên hải miền
Trung, thuộc bò vàng Việt Nam (hình 8) [5].
Bò được phân bố tại các tỉnh duyên hải miền Trung từ à Nẵng, Quảng Nam
đến Ninh Thuận, Bình Thuận. Bò thích nghi tốt trong điều kiện nóng, khô,
thức ăn nghèo nàn của địa phương.
Bò Phú Yên có màu vàng.

ơ thể phát triển cân đối, chắc chắn, bò có

dạng đầu ngắn và nhỏ, có chiều dài thân và lưng rộng, ngực rộng và sâu. Bò
có tầm vóc trung bình , khối lượng có cao hơn chút ít so với các bò địa
20


phương khác. Khối lượng sơ sinh 15-15 kg, 3 năm tuổi là 180-200 kg; 4 năm
tuổi đạt là 200-230 kg và 5 năm tuổi 220-250 kg.

Bò đực Phú Yên

Bò cái Phú Yên

Hình 8. Bò đực và bò cái Phú Yên
4.6. Nhóm bò vàng Bà Rịa
Là giống bò địa phương có thể coi là đại diện cho bò miền ông Nam Bộ,

thuộc bò vàng Việt Nam (hình 9) [5]. Bò được phân bố tại các tỉnh miền
ông Nam Bộ như ồng Nai, Bình Phước, Bình Dương, Tây Ninh.
Bò có màu lông vàng, số ít có màu vàng sáng hoặc cánh gián đậm (ở con
đực). Tầm vóc to hơn các bò địa phương khác, khối lượng trung bình đạt 250280 kg. Bò có yếm cổ ngắn, một số không có yếm.

Bò đực Bà Rịa-Vũng Tàu

Bò cái Bà Rịa-Vũng Tàu

Hình 9. Bò đực và bò cái Bà Rịa - Vũng Tàu
4.7. Nhóm bò U đầu rìu

21


Từ lâu đời, bò U đầu rìu được nhân dân địa phương chọn lọc nuôi dưỡng
theo phương thức riêng biệt phù hợp với điều kiện sinh thái của địa phương
(hình 10).Bò phân bố rải rác ở Nghệ n, Hà Tĩnh nhưng tập trung nhièu nhất
ở hai huyện Nam àn- Nghệ n và Kỳ nh- Hà Tĩnh.
Bò U đầu rìu có màu sắc lông nâu nhạt đến màu vàng. Một số bò đực u
vai có màu đen. Mặt thanh, sừng ngắn to ở bò đực, nhỏ ở bò cái; tai nhỏ,
thẳng, yếm thẳng và gọn; lông thưa, ngắn và mịn, màu sắc lông biến đổi từ
nâu đậm cánh gián đến màu vàng.

uôi dài, chỏm đuôi có màu đen. Bò đực

có u vai hình đầu rìu. Bò có kích thước trung bình so với bò vàng ở nước ta.
Khối lượng sơ sinh của bò 13-16 kg. Khối lượng trưởng thành ở bò cái: 190210 kg, bò đực 270-320 kg [5], [7].

Bò đực U đầu rìu


Bò cái U đầu rìu

Hình 10. Bò đực và bò cái U đầu rìu
5. ặc điểm của giống bò lai Sind
Nguồn gốc: Bò lai Sind là con lai cấp tiến giữa bò đực giống RedSindhi
và bò cái vàng Việt Nam (hình 11) [8].
Hình thái: Bò có màu nâu đỏ, đỏ vàng hoặc màu đỏ. Tai to rủ xuống, u
to, yếm rộng và nhiều nếp nhăn, âm hộ có nhiều nếp nhăn. Da chùng và rộng,
nhiều vùng da có thể rung cục bộ để xua đuổi ruồi, muỗi khi bị cắn. Lúc
trưởng thành bò đực nặng khoảng 320-440 kg, bò cái nặng 275-300 kg.
ây là giống bò kiêm dụng để cày kéo, lấy thịt, lấy sữa. Bò lai Sind
nuôi nhanh lớn và cho nhiều thịt hơn so với bò vàng bản địa. Bò bắt đầu phối
22


giống lúc 20 tháng tuổi. Sản lượng sữa có thể đạt 1200 – 1400kg/240 – 270
ngày, tỷ lệ mỡ sữa cao hơn so với bò sữa gốc Hà lan (4,5

- 4,8%).

Bò đực lai Sind

Bò cái lai Sind

Hình 11. Bò đực và bò cái lai Sind
6. ặc điểm của bò Brahman đỏ
Nguồn gốc của giống bò Brahman đỏ xuất phát từ bò Bos indicus của
Ấn ộ và Pakistan, sau đó được nhập vào Mỹ, Australia và trở thành giống bò
thịt nổi tiếng. Giống bò Brahman đỏ tương đối giống bò Vàng Việt Nam, song

tầm vóc và khả năng sản xuất cao hơn giống bò Vàng Việt Nam. Giống bò
này có khả năng thích nghi tốt với điều kiện nhiệt đới, nóng và ẩm cũng như
khô hạn vì là giống bò nhiệt đới. Bò đực trưởng thành có màu lông sẩm hơn
so với bò cái và lông ở vùng cổ, vai, đùi, hông sẩm màu hơn các vùng khác
(hình 12).

Bò Brahman đực

Bò Brahman cái

Hình 12. Bò đực và bò cái Brahman đỏ

23


Brahman đỏ là giống bò có tầm vóc lớn, ngoại hình đẹp, thân dài, lưng
thẳng, tai to, u, yếm phát triển. Trọng lượng trưởng thành của bò đực khoảng
800-1000 kg, bò cái khoảng 450 kg [8]. Giống bò Brahman đỏ động dục lần
đầu trong phạm vi 15-18 tháng tuổi, mắn đẻ, dễ đẻ, lành tính, nuôi con giỏi.
ây là giống kháng ve tốt, ít mắc bệnh ký sinh trùng đường máu, cũng như
các bệnh về mắt, móng.

24


HƢƠNG 2. ỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHI N ỨU
2.1. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
ề tài được tiến hành từ tháng 6/2009 đến tháng 6/2010 tại phòng thí
nghiệm trọng điểm ông Nghệ Tế Bào ộng Vật – Viện hăn Nuôi.
2.2. ối tƣợng nghiên cứu

húng tôi nghiên cứu 7 nhóm bò vàng địa phương: bò vàng Lạng Sơn,
bò vàng Hà Giang, bò vàng Thanh Hóa, bò vàng Nghệ
vàng Phú Yên, bò vàng Bà Rịa Vũng Tàu.

n, bò U đầu rìu, bò

ồng thời chúng tôi cũng nghiên

cứu hai giống bò đối chứng: bò lai Sind và giống bò ngoại nhập Brahman đỏ.
Chúng tôi sử dụng kìm bấm tai chuyên dụng để thu thập tế bào mô tai để tách
chiết

DN. Mỗi nhóm bò sẽ tiến hành lấy mẫu mô tai ít nhất là 50 cá thể có

tuổi từ 2 năm trở lên, không có quan hệ huyết thống và kiểu hình tương đồng.
Mẫu mô được bảo quản trong cồn tuyệt đối và giữ trong tủ lạnh sâu -200C.
Số liệu thu thập mẫu của các nhóm, giống bò; địa điểm thu mẫu, và số
lượng các cá thể của từng nhóm, giống được sử dụng trong nghiên cứu thể
hiện ở bảng 4.
Bảng 4. Bảng số liệu thu thập các nhóm, giống bò nghiên cứu
ịa điểm thu mẫu

Nhóm
Bò vàng Hà Giang

ồng Văn- Hà Giang

Số mẫu
66


Bò vàng Lạng Sơn

Bình Gia- Lạng Sơn

66

Bò vàng Thanh Hóa

Như Xuân- Thanh Hóa

66

Bò vàng Nghệ n

Yên Thành- Nghệ n

66

Bò vàng U đầu rìu

Nam àn- Nghệ n

66

Bò vàng Phú Yên

Sông Hinh- Phú Yên

66


Bò vàng Bà Rịa

hâu ức- Vũng Tàu

66

Bò Brahman đỏ

ủ hi- TP HCM

100

Bò lai Sind

Ba Vì- Hà Nội
Tổng

59
621

25


×