Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

1 quan niệm về câu bị động trong tiếng anh và tiếng việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (91.53 KB, 8 trang )

Nội dung
1.

2.
3.
4.

Định nghĩa
1.1 Trong T/A
1.2 Trong TV
1.3 Chức năng của câu bị động
Mô tả câu bị động
Đối chiếu
Kết luận, game..
CỤ THỂ

1 Quan niệm về câu bị động trong tiếng Anh và tiếng Việt.
1.1 Khái niệm về câu bị động trong tiếng Anh.
Trong tiếng Anh khái niệm thể được coi là một phạm trù ngữ pháp, tiếng Anh có 2
thể: thể chủ động và bị động.Thể bị động (passive voice) là một khái niệm phạm trù rất
phổ biến trong ngữ pháp tiếng Anh, một phạm trù ngữ pháp mà tân ngữ của động từ đứng
ở vị trí của chủ ngữ.có thể khẳng định thể bị động là một hiện tượng ngôn ngữ đã được
miêu tả khá chi tiết và đầy đủ trong tiếng Anh.
Sơ đồ chuyển câu chủ động sang câu bị động:
Subject Verb Object
Subject Be+ V-pp Object
Cấu trúc rút gọn:
BE + V-PP
Qua đó ta có thể dễ dàng nhận biết đâu là câu bị động và khi chuyển từ thể chủ
động sang bị động, tân ngữ của động từ trong câu chủ động trở thành chủ ngữ của câu bị
động. Ví dụ:


Chủ động : My father waters this flower.
SVO
Bị động : This flower is watered by my father.
S Be+ V-pp O
Nhìn vào ví dụ trên ta thấy sự hoán đổi vị trí và vai trò trong câu của các bộ phận
chủ ngữ, tân ngữ, vị ngữ trong câu. Cụ thể :


- My father đóng vai trò là chủ ngữ (câu chủ động)  vai trò là vị ngữ ( câu bị
động)
- This flower đóng vai trò là tân ngữ( câu chủ động)  vai trò là chủ ngữ ( câu bị
động)
- Water là động từ chính ở dạng nguyên thể ( câu chủ động)  vai trò là động từ ở
dạng phân từ ( câu bị động). Nói nôm na, có sự chuyển đổi chủ ngữ, vị ngữ ,động từ ,và
các thành phần khác trong câu,chuyển đổi thì trong câu bị động của Tiếng Anh.
1.2 Khái niệm về câu bị động trong tiếng Việt
Tiếng Việt là một ngôn ngữ phân tích tính, lấy ngữ pháp chủ từ và trật tự từ làm
phương thức ngữ pháp cơ bản, các từ Tiếng Việt không đổi hình thái,kể cả động từ. Do
vậy, không thể căn cứ vào dạng thức của động từ hoặc ngữ pháp để xác định dạng thức
chủ động hay bị động. Nếu căn cứ hoàn toàn vào cấu trúc ngữ pháp cũng không được bởi
trong Tiếng Việt nhiều trường hợp cấu trúc của câu chủ động không thể phân biệt được.
Một số tán thành Tiếng Việt có cấu trúc câu bị động, trong khi một số lại phủ nhận. Theo
các ý kiến phủ nhận, họ cho rằng: thứ nhất:Tiếng Việt thuộc loại hình đơn lập, phân tích
tính, động từ Tiếng Việt là một ngôn ngữ thuộc loại hình đơn lập, phân tích tính, động từ
tiếng Việt không có các chỉ tố đánh dấu về ngôi, thời, thức, dạng…, nên không tồn tại
câu bị động như các ngôn ngữ biến hình (tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.). Để chuyển được
một câu từ dạng chủ động sang dạng bị động thì các ngôn ngữ biến hình phải dùng đến sự
biến đổi hình thái của động từ( eg: do- did- done,etc ). Tiếng Việt vốn là một ngôn ngữ
không có hiện tượng biến hình từ nên không thể đáp ứng được tiêu chí hình thái học khắt
khe này của dạng bị động với tư cách là một phạm trù ngữ pháp. L.C. Thompson (1965:

217) cũng cho rằng những cấu trúc có được và bị chỉ là sự chuyển dịch tương đương từ
những cấu trúc bị động trong ngôn ngữ Châu Âu. Ông gọi đó là cách diễn đạt bị động
logic chứ không coi chúng là một phạm trù ngữ pháp tách biệt. Ngoài tiêu chí hình thái
học một số tác giả còn dựa vào đặc điểm tiếng Việt là một ngôn ngữ thiên chủ đề chứ
không phải thiên chủ ngữ để phủ nhận sự có mặt của phạm trù bị động trong tiếng Việt.
Họ cho rằng trong các ngôn ngữ thiên chủ đề thì không thể xuất hiện bị động bởi bị động
là đặc trưng của các ngôn ngữ thiên chủ ngữ. Theo các tác giả, tiếng Anh và các thứ tiếng
Châu Âu khác là những ngôn ngữ “thiên chủ ngữ”, còn tiếng Việt có đủ những thuộc tính
của một ngôn ngữ “thiên chủ đề”, vì thế rất khó có thể có cấu trúc bị động.
Những tác giả ủng hộ quan điểm tiếng Việt không có dạng bị động và câu bị động
còn dựa trên quan niệm rằng các động từ bị và được là những động từ ngoại động chính
danh, nên không thể coi chúng là dấu hiệu ngữ pháp biểu hiện quan hệ bị động.). Tuy
nhiên, cũng có những ý kiến ủng hộ rằng, Tiếng Việt có thức bị động.Một số nhà nghiên
cứu khác lại cho rằng trong tiếng Việt mặc dùkhông có phạm trù bị động với tư cách là
một phạm trù hình thái học nhưng vẫn có cấu trúc bị động hay câu bị động. Nguyễn Phú
Phong (1976) thừa nhận “bị động” như là một phạm trù ngữ pháp tách biệt trong Tiếng
Việt. Ông biện luận rằng có thể xác lập một cặp câu chủ động – bị động tiếng Việt tương
ứng về mặt chuyển dịch với cặp câu chủ động – bị động trong tiếng Pháp, và chỉ rõ mối


quan hệ hình thức giữa các thành phần của mỗi cặp câu trong những thuật ngữ chung.
Ông cũng cho được, bị, do là những trợ từ bị động. Hoàng Trọng Phiến (1980) quan niệm
“trong Tiếng Việt phương thức đối lập bị động và chủ độngkhông phải bằng con đường
ngữ pháp thuần tuý mà bằng con đường từ vựng – ngữ pháp”. Theo tác giả, quan hệ cú
pháp trong câu bị động tiếng Việt được biểu hiện như sau:
- Bổ ngữ đối tượng trong câu chủ động trở thành chủ ngữ trong câu bị động tương
ứng.
- Vị ngữ bao gồm các từ bị, được, do kèm theo động từ ngoại động.
- Chủ thể ở câu chủ động không bắt buộc phải xuất hiện trong câu bị động tương
ứng.

Một nhà nghiên cứu khác: Lê Xuân Thại cho rằng, cấu trúc câu bị động trong Tiếng
Việt có thể không hoàn toàn giống với các như các nước phương Tây. Nhưng cũng có
những loại câu có thể gọi là câu bị động với những đặc điểm sau đây:
- Chủ ngữ của câu biểu thị đối tượng hành động chứ không phải là chủ thể hành
động.
- Vị ngữ của câu bị động do các động từ bị, được đảm nhận.
- Sau vị ngữ là một cụm chủ – vị.
Ví dụ: Thành phố Hà Nội bị máy bay giặc tàn phá.
Ngoài ra, tác giả cũng thừa nhận các câu bị động có những biến thể bằng/ bị/ được,
kiểu:
(1) Cái bàn này đã được sửa chữa.
(2) Ngôi nhà này xây bằng gạch.
1.3 Chức năng dụng học của câu bị động.
Theo nhiều nhà nghiên cứu ,có những lý do dụng học nhất
định khiến cho các ngôn ngữ sử dụng các câu bị động thay thế cho câu chủ động
trong một số tình huống giao tiếp. Trước hết, câu bị động được sử dụng trong những tình
huống mà người nói không muốn đề cập đến tác thể (agens). Các lý do của việc tránh đề
cập đến tác thể được mô tả trong các công trình nghiên cứu khá phong phú. Đó có thể là
vì :
- Người nói không biết rõ tác thể,
Ví dụ: He was killed in the war. (Anh ấy bị giết trong chiến tranh.)


- Người nói biết nhưng không muốn đề cập đến tác thể (vì muốn giữ bí mật, vì lịch
sự, vv):
Ví dụ: Mai was informed that her car was broken
(Mai được thông báo rằng xe của cô ấy đã bị hỏng)
- Tác thể đã được nhắc đến ở câu trước hoặc sau đó, ví dụ: Robbers broke into
houses. All money was lost (Bọn cướp đột nhập vào nhà, toàn bộ tiền bạc mất hết.)
- Tác thể có thể được người nghe ngầm hiểu nhờ tình huống:

Ví dụ: The plane was brought down safety.
(Máy bay đã (được) hạ xuống an toàn)
- Tác thể được hiểu là mọi người hay dư luận nói chung:
Ví dụ: It is said that he will get marriage
(Người ta đồn rằng anh ấy sắp cưới vợ)
Lý do thứ hai khiến các ngôn ngữ sử dụng câu bị động là người nói không muốn đề
cập đến bản thân hành động mà chỉ muốn nhấn mạnh đến kết quả do hành động đó mang
lại đối với bị thể:
Ví dụ: All the trees have been cut down.
( Tất cả cây đã bị chặt hết rồi)
Ở đây, việc sử dụng cấu trúc bị động không chỉ tạo cho câu có được
sự liên kết chặt chẽ, lô gích về chủ đề mà còn loại bỏ bớt các thông tin trùng lặp, dư
thừa trong phát ngôn.
2 . Một số dạng câu bị động điển hình trong tiếng Anh và tiếng Việt.
-Câu bị động chuyển đổi theo các thì tương ứng.
-VD:
My house is repainted by him / This information was informed
- Câu bị động có chứa "bị/ được" có sự xuất hiện của chủ thể hành động và đối thể
hành động.
• Câu bị động chứa bị được như một động từ độc lập, saunó không xuất hiện một
đông từ nào khác.
VD: "Con được điểm 10".


• Câu bị động có chứa "bị /được" đứng trước một độngtừ, trở thành yếu tố bổ sung ý
nghĩa thụ động cho động từ đó.
VD:"Fan K-Pop bị dư luận phản đối"
- Cấu trúc bị động với chủ từ ảo cho một mệnh đề ( To be said that/ It isbelieved
that).
-VD: “It is said that there is a ghost in this house”.

- Câu bị động có chứa "bị/được" nhưng không có sự xuất hiện của tân ngữ.
-VD: "Ngôi làng đã có cách đây mấy trăm năm".
- Dạng bị động với động từ có 2 tân ngữ. Việc chọn giữa 2 cấu trúc bị động phụ
thuộc vào việc ta muốn
nhấn mạnh thông tin nào.
-VD: He was given a nice present on his birthday / A nice present was given to him
on his birthday.
- Câu bị động không có sự xuất hiện của "bị/được".Tuy nhiên có thể thêm”bị/ được”
vào câu này.
-VD: Căn phòng ngăn làm hai / Căn phòng được ngăn làm hai.
-Dạng bị động được theo sau bởi -Câu bị động không diễn tả ý nghĩa động từ
nguyên mẫu.
VD: She is allowed to visit her son twice của hoạt động mà diễn tả ý nghĩa trạng
thái tồn tại.
-VD: “Tôi bị mất tiền".
- Câu bị động với tân ngữ là bổ ngữ.
-VD: She was called stupid
- Câu bị động với động từ nguyên mẫu bị động. Dạng câu này thường được dùng
cùng với các từ đặc biệt và động từ khiếm khuyết.VD: She must be punished.
- Câu bị động với động từ nguyên mẫu quá khứ.VD: It must have been rained.
- Dạng bị động ở thể truyền khiến (Have something done).VD: He has his car
washed.
-Dạng bị động nguyên mẫu có "to".


-VD: There is nothing to be done.
- Dạng bị động với cấu trúc "ing form"
-VD: Human love being praised
- Dạng "ing- form" với ý nghĩa bị động.
-VD: he grass need cutting

3 Đối chiếu:
3.1 Sự tương đồng.Tiếng anh Tiếng Việt
- Câu bị động chuyển đổi theo các thì tương ứng
Cấu trúc: trợ động từ (be) + động từ chính ở dạng phân từ.
VD1: She was taken to hospital after accident
VD2 :That cakes are made by my mother
- Sử dụng các từ ngữ như được, bị ,do
Cấu trúc: bị ,được, do + động từ ( nội động). các từ bị, được ,do giúpta xác định
được dấu hiệu của thể
bị động VD1: Cô ấy được đưa đến bênh viện sau vụ tai nạn.
VD2: Những chiếc bánh này do mẹ tôi làm.
- Dạng bị động ẩn do có sử - Câu bị động không xuất hiện dụng mệnh đề quan hệ
VD: Using travel guideline, information ( which are ) supplied by travel agencies từ
“ bị, được” ( trong một số trường hợp sau)
VD: Số liệu dân số Việt Nam dựa trên các cuộc điều tra .
3.2 Sự khác biệt
3.2.1 Theo khía cạnh các yếu tố ngôn ngữ.
Để xác định hình thức bị động trong câu của tiếng việt chủ yếu dựa vào ý nghĩa từ
vựng hoặc tình trạng ngữ pháp của một số từ :” được/ bị/ phải. tuy nhiên, trong một vài
trường hợp, ý nghĩa bị động được hiểu như là ý nghĩa ngữ nghĩa trong toàn bộ câu:
Ví dụ : (1) thuyền đẩy ra xa.
(2) nhà đã xây xong.


Hai câu trên, xét về ngữ pháp thì đúng. Nhưng theo góc độ ngữ pháp, nó không
được hợp lý vì thuyền và nhà là hai vật thể và nó không thể tự thực hiện được hành động.
Để hiểu được những dạng câu như thế này, người đọc và người nghe phải ý thức được
rằng đó chính là ý nghĩa bị động.
Câu bị động trong tiếng Anh được nhận dạng bằng hình thái ngữ pháp theo đặc
điểm của ngôn ngữ tổng hợp tính nhưng khi có nghĩa "bị động" được nhận ra mà không

cần đến hình thái ngữ pháp quy định.Yếu tố bị động được hiểu ngầm trong văn cảnh của
lời nói hay văn bản.
3.2.2 Yếu tố ngoài ngôn ngữ.
Trong cả Tiếng Việt và Tiếng Anh, thức bị động được dùng với mục đích nhấn
mạnh vào thực tế, hành động, hay kết quả của một chuỗi hành động
cấu trúc câu bị động đóng vai trò quan trọng trong tiếng Anh ,đặc biệt là trong các
công trình học thuật. Trong nội dung của học thuật, thì nó chỉ đề cập tới hành động mà
không đề cập tới người gây ra hành động .
Trong khi đó, người Việt Nam thì lại thích sử dụng cấu trúc câu chủ động hơn. Tuy
nhiên, khi dịch văn bản từ Tiếng Anh sang Việt, người phiên dịch sẽ giữ nguyên cấu trúc
câu vì khi dịch sang văn bản Tiếng
Việt , nó không giữ được nét nghĩa ban đầu.
Ví dụ: - An initial safety assessment is made by experts, with public comment
invited.
Nên dịch là: các chuyên gia đánh giá đầu tiên về độ an toàn có tham khảo ý kiến
công chúng.
- A rewiew of all the fiding is undertaken. Dịch là: Tổng kết tất cả những phát hiện.
Bên cạnh đó, chúng ta nhận thấy rằng, hầu như bất cứ sự vật nào đều có thể viết
thông qua thể chủ động nhưng trong các văn bản miêu tả, sử dụng thể bị động khiến câu
văn đặc biệt hơn.
Ví dụ: Active: Jame Watt invented the steam engine in 1784.
Passive: The steam engine was invented by Jame Watt in 1784.
Trên thực tế, có một số điểm thú vị khi sử dụng “ bị, được, do” trong
tiếng Việt.
Ví dụ:
Tôi nấu ăn hơi bị ngon đấy.


Có thể, khi nhìn ví dụ trên,có nhiều người nhầm tưởng đó là cấu trúc của thể bị
động vì xuất hiện từ “ bị” trong câu. Nhưng thực ra, trong câu trên, không hề có chút liên

hệ nào với thể bị động cả. Có thể người nói muốn nhấn mạnh về sự “ nghi ngờ” về khả
năng nấu ăn của mình.câu này thể hiện ý nghĩa tiêu cực nhiều hơn là tích cực. Những từ “
hơi, bị”làm cho câu có ý nghĩa tiêu cực hơn.
Tuy nhiên , từ “ được” được sử dụng theo sau một động từ nhằm diễn tả ý nghĩa của
một kết quả tốt của một hành động. Ví dụ:
Tôi được điểm 10 môn toán.
Cuối cùng, tôi muốn nói đến thói quen của người Việt khi dịch câu với từ “ bị,
được” sang tiếng Anh. Ở mức độ bình thường, “bị, được” được cường điệu hóa trong
dịch Anh-Việt. Từ đó dẫn đến hậu quả, những câu có từ “ bị,được” đều có khuynh hướng
chuyển sang như câu bị động.
Ví dụ: Tôi bị phạt : I was punished.
Xe bị hỏng: The car was broken down.
Họ cho rằng, phạm vi của từ “bi, được” rộng hơn so với cách sử dụng của họ trong
câu bị động. Do đó, ghi chú cẩn thận phải được trao cho người mới bắt đầu học tiếng Anh
để tránh gây nhầm lẫn lâu dài.
Mặc dù nghiên cứu về câu bị động, chúng ta có thể thấy rằng ,ngôn ngữ thật là phức
tạp và đa dạng. Bên cạnh những điểm tương đồng, điểm khác nhau
quan trọng giữa thức bị động trong tiếng Anh và tiếng Việt là động từ trong tiếng
Việt không tự bao hàm một ý niệm rõ ràng trong ngữ pháp. Trong khi đó,động từ tiếng
Anh được chia rõ ràng thành hai loại : nội động từ và ngoại động từ. Trong tiếng Việt thì
không có sự phân biệt rõ ràng như vậy. Do vây, đối tượng trong câu tiếng việt chưa được
xác định rõ ràng. Vấn đề tôi đề cập ở đây có thể chư đầy đủ nhưng tôi hy vọng nó có thể
cung cấp một số thông tin hữu ích cho ngươi học ngôn ngữ bằng văn bản và thay đổi câu
trong hoàn cảnh cụ thể. Hơn thế nữa, nên nghiên cứu thêm về thể bị động.



×