Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ NHỮNG vấn đề cơ bản về cổ PHẦN hóa DOANH NGHIỆP NHÀ nước và tác ĐỘNG của nó đến TIỀM lực QUỐC PHÒNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (436.23 KB, 100 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng về phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN, kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng. Thành
công đó có sự đóng góp tích cực của thành phần kinh tế nhà nước. Tuy nhiên,
thành phần kinh tế này còn nhiều yếu kém, đặc biệt là các DNNN chưa thực sự
phát huy tốt vị trí nòng cốt của chúng trong việc làm cho kinh tế nhà nước thực sự
đóng vai trò chủ đạo. Nhiều tiêu cực trong các Tổng công ty nhà nước đã gây thất
thoát lớn tiền, của của Nhà nước. Tư duy kinh tế thị trường của các DNNN còn hạn
chế, thiếu tầm nhìn chiến lược và tư duy khoa học về việc lập kế hoạch sản xuất
kinh doanh. Hiệu quả sản xuất, kinh doanh thấp, chưa tương xứng với tiềm năng và
sự ưu đãi của Nhà nước. Nhiều doanh nghiệp không có lãi, thua lỗ, làm thất thoát,
lãng

phí

các

nguồn

lực

xã hội.
Để giữ vững định hướng XHCN cho nền kinh tế và đáp ứng yêu cầu xây dựng
nền kinh tế độc lập, tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế cũng như củng cố
quốc phòng trong điều kiện hiện nay, đòi hỏi phải nâng cao hiệu quả và vai trò chủ
đạo của thành phần kinh tế nhà nước. Một trong những giải pháp cơ bản là tiến
hành cổ phần hoá một bộ phận DNNN nhằm đa dạng hoá sở hữu, nâng cao năng
lực cạnh tranh, xác lập một mô hình doanh nghiệp hữu hiệu trong nền kinh tế thị
trường. Cổ phần hoá DNNN được bắt đầu triển khai từ năm 1992 với những bước
đi thử nghiệm và sau đó là sự triển khai rộng khắp trên cả nước. Tuy nhiên, do


nhiều lý do khác nhau, CPH vẫn chưa mang lại những kết quả như mong muốn.
Mặc dù, hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước được CPH đã chứng tỏ tác
dụng to lớn của nó, song chưa đạt được kế hoạch đặt ra. Mặt khác, CPH động
chạm đến nhiều vấn đề vừa phức tạp, vừa nhạy cảm, không chỉ là về vấn đề sở
hữu, vấn đề vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, hậu quả xã hội đối với người lao
động, mà còn tác động đến quốc phòng - an ninh quốc gia. Đây là lĩnh vực rất quan


trọng, có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển của đất nước. Trên thực tế, lĩnh vực
này thời gian qua chưa được chú ý, quan tâm nghiên cứu nhiều. Chính vì vậy, việc
nghiên cứu CPH doanh nghiệp nhà nước và tác động của nó tới củng cố tiềm lực
quốc phòng của đất nước, nhằm chỉ ra những đóng góp và hạn chế của nó, từ đó đề
xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm đẩy nhanh quá trình CPH, phát
huy vai trò của nó đối với củng cố tiềm lực quốc phòng là việc làm rất có ý nghĩa
cả về mặt lý luận và thực tiễn. Với ý nghĩa đó, tác giả chọn đề tài: “ Cổ phần hoá
doanh nghiệp Nhà nước và tác động của nó tới củng cố tiềm lực quốc phòng ở
Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu của luận văn .
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Cổ phần hoá DNNN, nhằm nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp, phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước, đây là vấn đề có tính
cấp bách hiện nay, nên được Đảng, Nhà nước, các nhà hoạch định chính sách, các
nhà quản lý, nhà khoa học quan tâm nghiên cứu giải quyết. Nhiều Nghị quyết,
chính sách và công trình khoa học có liên quan về vấn đề này đã được công bố.
Đáng chú ý là: Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương (khoá
IX) về “Tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN”; Nghị
quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành Trung ương (khoá IX) về tiếp tục đổi mới
mạnh mẽ, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của khu vực DNNN, mà trọng tâm
là CPH mạnh hơn nữa; Đề tài khoa học cấp Nhà nước “Kinh tế Nhà nước và quá
trình đổi mới DNNN” do Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Quang Minh làm chủ biên; CPH
doanh nghiệp nhà nước - những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb CTQG, 2004 do

PGS, Tiến sĩ Lê Hồng Hạnh làm chủ biên. Cổ phần hoá nhà nước - cơ sở lý luận và
thực tiễn, Nxb KHXH, 1996 do Nguyễn Ngọc Quang làm chủ biên; Cổ phần hoá một số giải pháp nâng cao sức cạnh tranh của DNNN, Tạp chí Thương mại, số 72003 của Bùi Quốc Anh; Cổ phần hoá DNNN kết quả, vướng mắc và giải pháp,
Tạp chí Cộng sản, số 18-2004 của Hồ Xuân Hùng; Sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp
quân đội thực tiễn và giải pháp, Tạp chí Công nghiệp quốc phòng & kinh tế, số 3-


2005 của Nguyễn Văn Thưởng; Ngoài ra còn có rất nhiều công trình nghiên cứu
khác có liên quan đến cổ phần hoá DNNN được đăng tải trên các tạp chí. Các công
trình này bước đầu đã nghiên cứu và làm rõ CPH doanh nghiệp nhà nước dưới
những góc độ khác nhau, có đánh giá thực trạng và đưa ra một số giải pháp nhằm
thực hiện CPH. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một công trình khoa học nào nghiên
cứu một cách có hệ thống dưới góc độ kinh tế chính trị về “Cổ phần hoá DNNN và
tác động của nó tới củng cố tiềm lực quốc phòng ở Việt Nam hiện nay”.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích:
Luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn của cổ phần hoá DNNN và tác động
của nó tới củng cố tiềm lực quốc phòng, trên cơ sở đó đề xuất một số quan điểm,
giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình cổ phần hoá DNNN, đáp ứng yêu cầu phát triển
kinh tế và củng cố tiềm lực quốc phòng ở nước ta hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Phân tích sự cần thiết, thực trạng, nguyên nhân và hạn chế yếu kém của quá trình
cổ phần hoá DNNN.
- Phân tích tác động của cổ phần hoá DNNN tới củng cố tiềm lực quốc phòng ở
nước ta hiện nay.
- Đề xuất một số quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy quá trình
cổ phần hoá DNNN, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế và củng cố tiềm lực quốc
phòng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là cổ phần hoá DNNN ở tất cả các hình thức
dưới góc độ kinh tế chính trị và sự tác động của nó tới củng cố tiềm lực quốc phòng.

Phạm vi nghiên cứu là tất cả các DNNN đã CPH từ năm 1992 đến nay tác động
tới các nhân tố cấu thành tiềm lực quốc phòng.


5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, các quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, phát triển kinh tế và củng cố quốc phòng trong giai đoạn hiện nay; các chỉ
thị, nghị quyết của Đảng ủy quân sự Trung ương và Bộ quốc phòng có liên quan
đến đề tài.
Phương pháp nghiên cứu của luận văn là: sử dụng phương pháp của chủ nghĩa
duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, các phương pháp của kinh tế chính trị học và
các phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh đang được sử dụng trong
khoa học kinh tế, đồng thời có kế thừa các kết quả nghiên cứu của các công trình
khoa học đã được công bố có liên quan đến đề tài.
6. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn về cổ phần
hoá DNNN và tác động của nó tới củng cố tiềm lực quốc phòng. Đề xuất một số
quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm đẩy nhanh tiến trình CPH doanh
nghiệp nhà nước để đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn
hiện nay.
Luận văn có thể làm tài liệu tuyên truyền, tham khảo, và giảng dạy môn kinh tế
chính trị, kinh tế quân sự trong các nhà trường quân đội.
7. Kết cấu của luận văn
Gồm phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và
phụ lục.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CỔ PHẦN HOÁ DOANH
NGHIỆP NHÀ NƯỚC VÀ
TÁC ĐỘNG CỦA NÓ TỚI CỦNG CỐ TIỀM LỰC QUỐC PHÒNG



1.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước và
tác động của nó tới củng cố tiềm lực quốc phòng
Thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước của Đảng trong đó có đường lối
xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Muốn hội nhập thành công, phải không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh của cả
nền kinh tế, của từng doanh nghiệp và từng sản phẩm trên thị trường. Điều đó phụ
thuộc rất lớn vào vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, mà nòng cốt là các DNNN.
Để nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, CPH một bộ
phận DNNN được xác định là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, một giải
pháp quan trọng mang tính chiến lược. Tuy nhiên, đây là việc làm mới, nên còn
nhiều vấn đề phải vừa làm, vừa rút kinh nghiệm cả về lý luận và thực tiễn.
1.1.1. Khái niệm, bản chất cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
Khái niệm cổ phần hoá DNNN
Những năm qua ở Việt Nam, cổ phần hoá DNNN là vấn đề thu hút được sự quan
tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Do cách tiếp cận và mục đích nghiên cứu khác nhau
nên có nhiều quan niệm khác nhau về cổ phần hoá DNNN, tựu trung lại có 3 quan
niệm cơ bản như sau:
- Quan niệm thứ nhất: CPH là sự xác định chủ sở hữu đích thực, cụ thể của
DNNN. Cách hiểu này còn hết sức phiến diện, chưa phản ánh đầy đủ nội hàm của
nó.
Vì cổ phần hoá DNNN không chỉ xác định chủ sở hữu đích thực cho khối lượng
tài sản (giá trị) cho mỗi thành viên, mà còn thay đổi cả cách thức tổ chức, quản lý
sản xuất - kinh doanh và phân phối lợi nhuận trong doanh nghiệp.
- Quan niệm thứ hai: CPH là xã hội hoá các DNNN. Quan niệm này nhấn mạnh
tới tính chất hỗn hợp của sở hữu trong công ty cổ phần, nhưng còn chung chung và
chưa làm rõ được những đặc trưng cơ bản của CPH.



- Quan niệm thứ ba: CPH là việc chuyển DNNN thành công ty cổ phần, hay
chuyển hình thức tổ chức kinh doanh một chủ là Nhà nước thành công ty cổ phần
với chế độ đồng sở hữu, hỗn hợp nhiều chủ: bao gồm Nhà nước, các tổ chức xã hội
và cá nhân... tạo ra mô hình doanh nghiệp mới, phù hợp với nền kinh tế thị trường.
Có thể nói, đây là quan điểm phản ánh khá đầy đủ về những đặc trưng, bản chất
của CPH song tính khái quát lại chưa cao.
Tiếp cận vấn đề nghiên cứu dưới góc độ kinh tế chính trị Mác-Lê nin, quan điểm
của Đảng, đồng thời có kế thừa, phát triển các quan niệm trên đây, luận văn đưa ra
khái niệm cổ phần hoá DNNN như sau:Cổ phần hoá DNNN là việc chuyển DNNN
từ một chủ sở hữu (100% vốn Nhà nước) thành một loại hình doanh nghiệp mới công ty cổ phần, có cơ cấu sở hữu đa dạng của mô hình doanh nghiệp hiện đại,
theo đó toàn bộ quá trình tổ chức quản lý sản xuất - kinh doanh, phân phối lợi
nhuận đều thay đổi phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Kinh nghiệm của các nước khi CPH họ thường chọn một trong hai hình thức
sau:
Một là, bán toàn bộ hoặc một phần tài sản của DNNN cho các cá nhân, tổ chức
kinh tế, xã hội bằng phương thức phân chia tài sản doanh nghiệp thành nhiều cổ
phiếu và đem bán toàn bộ hoặc một phần số cổ phiếu đó.
Hai là, giữ nguyên toàn bộ tài sản của doanh nghiệp, phát hành thêm cổ phiếu,
bán ra thị trường nhằm tăng thêm vốn và cũng làm thay đổi từ một chủ sở hữu là
Nhà nước sang nhiều chủ sở hữu.
Ở nước ta quá trình CPH một bộ phận DNNN có nhiều nét đặc thù. Đó là CPH
những doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước, mà về thực chất là chuyển một bộ
phận tài sản, vốn từ một chủ sở hữu là Nhà nước thành nhiều chủ sở hữu. Trên cơ
sở đó làm giảm bớt vai trò trực tiếp làm chủ sở hữu của Nhà nước trong các doanh
nghiệp, giảm bớt đầu tư của Nhà nước, tăng thêm nguồn vốn đầu tư từ dân cư, các
tổ chức kinh tế, xã hội cả trong và ngoài nước để tạo thêm sức mạnh, nâng cao
hiệu quả của các DNNN. Cụ thể là, tìm một hình thức quản lý vừa phát huy quyền


làm chủ của người lao động, vừa bảo đảm quản lý một cách có hiệu quả những tài

sản của doanh nghiệp.
Đối tượng của CPH là những DNNN hiện có mà Nhà nước không cần nắm giữ
100% vốn, không phụ thuộc vào thực trạng kết quả sản xuất, kinh doanh. Cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền căn cứ vào định hướng sắp xếp, phát triển DNNN và điều
kiện thực tế của từng doanh nghiệp mà quyết định chuyển DNNN hiện có thành
công ty cổ phần, trong đó Nhà nước có cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt, cổ phần ở
mức thấp hoặc Nhà nước không cần giữ cổ phần.
Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay chủ yếu được thực hiện
theo bốn hình thức sau:
Thứ nhất, giữ nguyên giá trị doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu để thu hút thêm
vốn.
Thứ hai, bán một phần giá trị hiện có của doanh nghiệp cho các cổ đông.
Thứ ba, cổ phần hoá đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp.
Thứ tư, chuyển toàn bộ doanh nghiệp thành công ty cổ phần.
Bản chất cổ phần hoá DNNN
Kể từ khi Nhà nước ta có chủ trương thực hiện CPH một bộ phận DNNN đã có
không ít người có nhận thức rằng, CPH thực chất là tư nhân hoá DNNN, thực ra,
hiểu như vậy là không đúng. Cổ phần hoá và tư nhân hoá là hai phạm trù kinh tế
rất gần nhau, nhưng về bản chất là hoàn toàn khác nhau.
Trước hết: “Tư nhân hoá là việc chuyển DNNN (có thể 100% vốn Nhà nước
hoặc có vốn Nhà nước) sang công ty cổ phần có cơ cấu sở hữu chủ yếu là sở hữu
tư nhân”. Hoặc có thể hiểu tư nhân hoá là quá trình chuyển DNNN sang doanh
nghiệp tư nhân, từ một chủ sở hữu là Nhà nước sang môt chủ sở hữu là tư nhân. Tư
nhân hoá đồng nghĩa với việc loại DNNN ra khỏi thành phần kinh tế Nhà nước.
Cải cách DNNN dưới hình thức tư nhân hoá được coi là làn sóng của chính sách tự


do kinh tế mới trong những năm 80 và 90 của thế kỷ XX ở các nước TBCN có nền
kinh tế phát triển.
Còn “CPH là quá trình chuyển DNNN từ một chủ sở hữu là Nhà nước thành

doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu”. Người làm chủ sở hữu doanh nghiệp là các cổ
đông, họ được quyền tự do bầu chọn ra Hội đồng quản trị là người đại diện cho
mình. Nếu xét ở khía cạnh hình thức sở hữu và dựa vào thực tế cải cách DNNN ở
các nước trên thế giới thì CPH được coi là một trong những phương thức của tư
nhân hoá. Quan điểm này được chấp nhận khá phổ biến. Vì việc CPH được thực
hiện thông qua sự phân chia vốn của DNNN ra thành các cổ phần. Một phần cổ
phần được bán cho tư nhân hoặc người lao động, một phần Nhà nước sở hữu. Như
vậy, với CPH thì một lượng vốn, tài sản của một số DNNN được chuyển thành sở
hữu hỗn hợp của người lao động, và của Nhà nước. Rõ ràng, DNNN bị tư nhân hoá
một phần, tức là phần giành cho doanh nhân và người lao động. Nghĩa là một phần
tài sản của thành phần kinh tế nhà nước đã chuyển sang kinh tế tư nhân. Thực tế
này cho thấy CPH là tư nhân hoá từng phần các DNNN. Vì lý do này nên nhiều
quốc gia khi tiến hành cải cách thành phần kinh tế nhà nước đều coi CPH chỉ là
một trong những phương thức thực hiện tư nhân hoá. Tuy nhiên, giữa CPH và tư
nhân hoá ở các nước theo mô hình tư nhân hoá vẫn có những điểm khác nhau rất
cơ bản sau đây:
Thứ nhất, tư nhân hoá được coi là một chính sách và mục tiêu nhằm hạn chế đến
mức tối đa phần vốn, tài sản thuộc sở hữu Nhà nước, còn CPH chỉ được coi là một
giải pháp thực hiện.
Thứ hai, tư nhân hoá được thực hiện với nhiều phương thức khác nhau. Trong đó
có cả phương thức phi quốc hữu hoá, tức là trả lại cho chủ cũ những tài sản đã bị
quốc hữu hoá, kể cả toàn bộ doanh nghiệp đang hoạt động. Cổ phần hoá trong khi
đó chỉ thực hiện thông qua việc DNNN tiến hành phát hành cổ phần ra công chúng
lần đầu.


Thứ ba, tác động của CPH và tư nhân hoá hoàn toàn khác nhau cả về mức độ lẫn
tính chất. Tư nhân hoá dẫn đến sự thay đổi hình thức sở hữu của doanh nghiệp từ
sở hữu Nhà nước, sở hữu tập thể sang sở hữu tư nhân. Còn CPH có tác dụng làm
giảm sở hữu của Nhà nước trong công ty cổ phần. Với tư cách là một chính sách,

tư nhân hoá tác động đến toàn bộ nền kinh tế, còn CPH với tư cách là một giải
pháp thực hiện chính sách này tác động chủ yếu đến các DNNN cổ phần hoá.
Thứ tư, tư nhân hoá thường được tiến hành trên cơ sở của luật về tư nhân hoá.
Cổ phần hoá được thực hiện trên cơ sở của luật công ty hiện hành.
Cổ phần hoá không chỉ khác với tư nhân hoá ở các quốc gia lựa chọn giải pháp
tư nhân hoá đồng loạt mà còn khác với CPH được tiến hành ở nước ta. Sự khác
nhau cơ bản này thể hiện ở một số điểm sau:
Một là, ở nước ta, CPH được Đảng xác định là một giải pháp trong cải cách, đổi
mới thành phần kinh tế nhà nước.
Hai là, phương thức thực hiện CPH chủ yếu là phát hành cổ phần cho các thành
phần kinh tế, các tổ chức và cá nhân người lao động. Các DNNN được CPH để
nhằm nâng cao hiệu qủa sản xuất, kinh doanh. Chỉ sau khi CPH nếu hoạt động vẫn
không có hiệu quả thì có thể được đem bán.
Ba là, cổ phần hoá được thực hiện thông qua các chương trình và lộ trình cụ thể
với tư cách là chương trình quốc gia nhằm cải cách, đổi mới DNNN.
Như vậy, ở nước ta bản chất của CPH một bộ phận DNNN không phải là tư
nhân hoá. Bởi lẽ, một thời gian dài DNNN đã hình thành một cách tràn lan, nay
Nhà nước chỉ nắm những ngành, những lĩnh vực thật cần thiết “Vũ đài chỉ huy”
toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước sẽ
không thể được củng cố thêm, thậm chí còn bị yếu đi, nếu cứ tiếp tục duy trì những
doanh nghiệp hiệu quả kinh tế thấp, dàn trải và năng lực cạnh tranh kém. Cổ phần
hoá không xoá bỏ hoàn toàn sở hữu nhà nước trong các cơ sở kinh tế nhà nước mà
chỉ giảm mức độ sở hữu, tức là chỉ có sự thay đổi về lượng chứ không có sự thay


đổi về chất các cơ sở kinh tế này. Cổ phần hoá không làm thay đổi một cách cơ
bản kết cấu sở hữu của nền kinh tế. Vì vậy, nền tảng kinh tế của xã hội không thay
đổi lớn khi tiến hành CPH. Còn khi bán toàn bộ tài sản Nhà nước chỉ áp dụng đối
với những ngành, những lĩnh vực mà Nhà nước không cần nắm giữ, những lĩnh
vực mà khu vực tư nhân hoàn toàn có thể làm tốt hơn DNNN, đó là giải pháp hoàn

toàn hợp lý. Quá trình thực hiện, Nhà nước sẽ lựa chọn hình thức bán cho phù hợp
và nếu bán theo cách để cho người lao động có cổ phần ưu đãi, hay cổ phần khống
chế thì rõ ràng không thể nói rằng đó là tư nhân hoá.
1.1.2. Qúa trình nhận thức và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về cổ
phần hoá doanh nghiệp nhà nước
Với nước ta, do đặc trưng của nền kinh tế trong thời kỳ quá độ và thực hiện
đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Với sự tham gia của
nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước được xác định giữ vai trò chủ
đạo. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững
chắc của nền kinh tế, thì việc duy trì thành phần kinh tế nhà nước có hiệu quả, có
khả năng chi phối nền kinh tế là một trong những đặc trưng của nền KTTT định
hướng XHCN. Tuy nhiên, ở nước ta, kinh tế nhà nước mà nòng cốt là DNNN, trên
thực tế đang ở trong mâu thuẫn giữa sứ mệnh và thực trạng. Vì vậy, cải cách
DNNN đã từ lâu là mối quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước cũng như các cơ
quan quản lý. Cổ phần hoá là một phần giải pháp quan trọng trong cải cách hệ
thống DNNN, là quá trình tìm tòi, thử nghiệm và từng bước tháo gỡ khó khăn
trong quá trình triển khai.
Ý tưởng về cổ phần hoá DNNN của Đảng được hình thành khá sớm ngay từ Đại
hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986), với đường lối đổi mới toàn diện
nền kinh tế đất nước. Tại Hội nghị Trung ương 3 (khoá VI) về đổi mới cơ chế
quản lý kinh tế đã nêu: Nếu không đủ điều kiện để củng cố và không cần thiết duy
trì hình thức quốc doanh thì chuyển sang hình thức sở hữu khác (kể cả cho tập thể,
tư nhân thuê), hoặc giải thể, trước hết là những xí nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng


không thuộc loại thiết yếu, xí nghiệp dịch vụ trang bị kỹ thuật thấp, bị thua lỗ
thường xuyên. Trong quyết định số 21/HĐBT ngày 14/7/1987 của Hội đồng Bộ
trưởng (nay là Chính phủ), về đổi mới kế hoạch và hạch toán kinh doanh XHCN,
đảm bảo quyền tự chủ đối với xí nghiệp quốc doanh, đã đề cập tới việc thí điểm
tiến hành cổ phần hoá DNNN và giao cho Bộ Tài chính chủ trì. Tuy nhiên, do điều

kiện thị trường chưa phát triển, đồng thời do tồn tại quá lâu trong cơ chế cũ nên từ
Trung ương tới cơ sở đều chưa hiểu hết vấn đề phức tạp này, từ đó chưa có sự
thống nhất về quan điểm. Đến nay ở nước ta CPH vẫn là vấn đề mới đối với thực
tiễn quản lý DNNN. Đầu năm 1990, trên cơ sở đánh giá kết quả sau 5 năm thực
hiện đường lối đổi mới, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành quyết định số 143/HĐBT
ngày 10/5/1990 về chủ trương nghiên cứu và làm thử mô hình chuyển xí nghiệp
quốc doanh sang công ty cổ phần. Tuy vậy, cho đến năm 1992 cả nước vẫn chưa
triển khai CPH được một doanh nghiệp nào. Đến Đại hội VII, Đảng ta tiếp tục
khẳng định: “khẩn trương sắp xếp lại và đổi mới quản lý kinh tế quốc doanh. Cho
thuê, chuyển hình thức sở hữu hoặc giải thể các cơ sở thua lỗ kéo dài và không có
khả năng vươn lên”. Đại hội chỉ rõ: “Đối với những cơ sở không cần giữ hình thức
quốc doanh, cần chuyển hình thức kinh doanh, hình thức sở hữu hoặc giải thể,
đồng thời giải quyết việc làm và đời sống cho người lao động. Khuynh hướng coi
nhẹ kinh tế quốc doanh, muốn tư nhân hoá tràn lan, cho rằng để chuyển sang cơ
chế thị trường phải tư hữu hoá tất cả TLSX là sai lầm. Cố nhiên, nếu duy trì và
phát triển kinh tế quốc doanh một cách tràn lan, kéo dài cơ chế bao cấp cũng không
đúng” [12, tr.116].
Nhằm thể chế hoá Nghị quyết Đại hội VII, ngày 8/6/1992, Hội đồng Bộ trưởng
đã ra Quyết định số 202/QĐ-HĐBT chỉ đạo tiếp tục triển khai cổ phần hoá DNNN
bằng việc thí điểm chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần. Đây được coi là
cái mốc đánh dấu bước chuyển vào giai đoạn thí điểm cổ phần hoá DNNN. Để
thực hiện quyết định này, theo chỉ thị số 84/TTG ngày 4/3/1993, Thủ tướng Chính
phủ đã chọn 7 doanh nghiệp, đồng thời giao nhiệm vụ cho các bộ, Uỷ ban nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chọn một đến hai doanh nghiệp tiến


hành thí điểm CPH. Triển khai chỉ thị của Thủ tướng, các bộ, ngành, địa phương
đã thông báo đến từng DNNN, để các doanh nghiệp tự nguyện đăng ký thí điểm
chuyển thành công ty cổ phần. Đến cuối năm 1993, đã có 30 doanh nghiệp đăng ký
thực hiện thí điểm CPH, nhưng vì nhiều lý do, 7 DNNN được Chính phủ chọn để

thí điểm CPH và nhiều doanh nghiệp khác cũng xin rút hoặc không được tiếp tục
làm

thử

do

không

đủ

điều kiện.
Trước những khó khăn của việc thí điểm cổ phần hoá DNNN, tại Hội nghị giữa
nhiệm kỳ (khoá VII), Đảng ta chủ trương: “Để thu hút thêm các nguồn vốn, tạo
nên động lực, ngăn chặn tiêu cực, thúc đẩy DNNN làm ăn có hiệu quả, cần thực
hiện các hình thức CPH có mức độ phù hợp với tính chất và lĩnh vực sản xuất kinh doanh; trong đó, sở hữu nhà nước chiếm tỉ lệ cổ phần chi phối”[13, tr.37].
Mặc dù quan điểm của Đảng về cổ phần hoá DNNN đã được nêu khá rõ ràng, song
cho tới tháng 4/1996, cả nước chỉ có 5 DNNN chuyển thành công ty cổ phần (2/61
tỉnh, thành phố và 3/7 bộ có DNNN cổ phần hoá). Cả 5 doanh nghiệp này đều là
những doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, chủ yếu sản xuất hàng hoá và dịch vụ
trong những lĩnh vực không quan trọng, kinh doanh có lãi. Như vậy, quá trình thí
điểm cổ phần hoá DNNN ở nước ta diễn ra quá chậm và nhiều khó khăn.
Tuy còn nhiều vướng mắc về khung pháp lý đối với loại hình doanh nghiệp mới,
nhưng kết quả hoạt động của cả 5 công ty cổ phần mới là khả quan. Với kinh
nghiệm bước đầu sau 4 năm thí điểm cổ phần hoá DNNN và trước nhu cầu bức
xúc về vốn của DNNN, ngày 7/5/1996 Chính phủ chủ trương mở rộng CPH bằng
việc ban hành Nghị định số 28/NĐ-CP nhằm tạo hành lang pháp lý tương đối rõ
ràng hơn cho các doanh nghiệp tiến hành CPH và đi vào hoạt động trong môi
trường mới. Sau hơn hai năm thực hiện Nghị định, cả nước đã CPH được 25
DNNN. Nhưng việc triển khai thực hiện Nghị định 28/CP vẫn còn nhiều vướng

mắc. Nhiều quy định không còn phù hợp với thực tế đã trở thành rào cản làm giảm
tốc độ CPH (như phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp, ưu đãi cho doanh


nghiệp và người lao động sau CPH...), nhưng kết quả CPH bước đầu được mở
rộng.
Trên cơ sở những kết quả bước đầu của giai đoạn mở rộng CPH, Đảng ta chủ
trương đẩy mạnh cổ phần hoá DNNN. Trong báo cáo chính trị tại Đại hội VIII của
Đảng đã xác định: “triển khai tích cực và vững chắc việc cổ phần hoá DNNN để
huy động thên vốn, tạo thêm động lực thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu qủa,
làm cho tài sản nhà nước ngày càng tăng lên, không phải để tư nhân hoá” [14,
tr.94]. Để đẩy mạnh CPH, Hội nghị Trung ương 4 (khoá VIII) yêu cầu: đối với các
doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm 100% vốn, cần lập kế hoạch CPH để
tạo động lực phát triển, thúc đẩy làm ăn có hiệu quả, sửa đổi bổ sung các quy định,
kiện toàn tổ chức chỉ đạo CPH các cấp. Thí điểm việc bán cổ phần cho người nước
ngoài. Khuyến khích nông dân sản xuất nguyên liệu, tham gia mua cổ phần ở
doanh nghiệp chế biến nông sản. Thể chế hoá quan điểm của Đảng, ngày
29/6/1998 Chính phủ ban hành Nghị định số 44/1998 NĐ-CP thay thế cho các văn
bản trước đó về CPH. Cùng với Chỉ thị 20/CT-TTg ngày 21/4/1998 của Thủ tướng
Chính phủ về đẩy mạnh sắp xếp và đổi mới DNNN, Nghị định này đã thay đổi một
cách căn bản cơ chế, chính sách CPH theo hướng mở rộng ưu đãi, đơn giản hoá thủ
tục, đảm bảo thoả đáng hơn chính sách xã hội đối với người lao động... nhằm đẩy
nhanh tiến trình CPH. Thực hiện Nghị định số 44/1998 NĐ-CP, 6 tháng cuối năm
1998 đã có 90 DNNN được CPH, gấp hơn 3 lần kết quả của những năm trước đó.
Đặc biệt năm 1999, cả nước đã CPH được hơn 240 doanh nghiệp. Có được kết qủa
đáng khích lệ này là nhờ trong vòng hai năm, các cơ quan nhà nước đã ban hành
15

văn


bản

hướng

dẫn,

tháo

gỡ

những

khó

khăn

vướng

mắc

trong CPH.
Tuy nhiên, năm 2000 cả nước chỉ CPH được 155 doanh nghiệp và bộ phận
doanh nghiệp, đạt 26% kế hoạch. Sự chững lại của tiến trình CPH giai đoạn này có
nhiều nguyên nhân, trong đó có sự bất hợp lý của chính sách và cơ chế pháp lý là
những yếu tố cản trở. Các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động CPH nhìn chung


vẫn thiếu rõ ràng về nhiều nội dung như mục tiêu CPH, hình thức CPH, xác định
giá trị doanh nghiệp, giải quyết lao động dôi dư... Trước tình hình đó, Hội nghị
Trung ương 3 (khoá IX) về sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả

DNNN, Đảng ta xác định phải kiên quyết điều chỉnh cơ cấu để DNNN có cơ cấu
hợp lý, theo đó một trong những giải pháp cơ bản là đẩy mạnh CPH. Cổ phần hoá
DNNN được coi là khâu quan trọng để tạo chuyển biến cơ bản trong việc nâng cao
hiệu quả DNNN. Với chủ trương đổi mới toàn diện, sâu sắc DNNN theo tinh thần
Nghị quyết Trung ương 3 (khoá IX), Chính phủ ban hành Nghị định số
64/2002/NĐ-CP thay thế Nghị định 44/1998/NĐ-CP và ra Quyết định số
50/2002/NĐ-CP về ban hành tiêu chí, danh mục phân loại DNNN và một số văn
bản khác, từng bước tháo gỡ những vướng mắc về mặt chính sách của các văn bản
pháp luật trước đó, tạo điều kiện dễ dàng hơn cho thực tiễn triển khai CPH. Tuy
vậy, trong 3 năm (2000 - 2003) hoạt động CPH vẫn chưa đáp ứng yêu cầu. Cả
nước chỉ CPH được 789 doanh nghiệp, đạt khoảng 50% kế hoạch. Các DNNN
được CPH chỉ chiếm khoảng 6% tổng số vốn của DNNN. Với tốc độ, số lượng và
mức độ vốn được CPH như vậy, tình hình CPH chưa thể tạo được sự chuyển biến
cơ bản cho việc nâng cao hiệu quả DNNN như Nghị quyết Trung ương 3 (khoá IX)
đặt ra.
Bước sang năm 2004, Hội nghị Trung ương 9 (khoá IX) đã đề ra những chủ
trương giải pháp mới và hết sức quan trọng cho việc sắp xếp lại DNNN, trong đó
có nhiều vấn đề đã được thực tế chứng minh là cần thiết và được nêu lên từ lâu
nhưng do nhiều lý do nay mới được quyết định. Nghị quyết Trung ương chủ
trương tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của
khu vực DNNN, trọng tâm là CPH mạnh hơn nữa. Hội nghị nhấn mạnh: “kiên
quyết đẩy nhanh tiến độ CPH và mở rộng diện các DNNN cần CPH kể cả những
doanh nghiệp lớn và một số tổng công ty kinh doanh có hiệu quả, gắn với việc phát
hành cổ phiếu và tham gia niêm yết trên thị trường chứng khoán giá trị DNNN
được CPH, trong đó có giá trị quyền sử dụng đất về nguyên tắc phải do thị trường
quyết định. Việc mua bán cổ phiếu phải công khai trên thị trường, khắc phục tình


trạng CPH khép kín trong nội bộ doanh nghiệp”. Nghị quyết Trung ương 9 (khoá
IX) ra đời đã giải quyết được nhiều bức xúc về đổi mới DNNN mà cuộc sống đòi

hỏi. Năm 2004 cả nước đã CPH được 715 doanh nghiệp, là năm đầu tiên hoàn
thành chỉ tiêu đề ra. Để hoàn thành cơ bản việc sắp xếp DNNN vào cuối năm 2005
vấn đề đặt ra là phải sớm có các biện pháp mạnh mẽ, tích cực, phải thể chế hoá
tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 (khoá IX), Nghị quyết Trung ương 9 (khoá IX)
thành các văn bản pháp luật và tổ chức thực hiện nghiêm túc các văn bản đó để
phát triển hệ thống DNNN, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế trong giai đoạn mới.
1.1.3. Sự cần thiết phải cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Chủ trương thực hiện CPH một bộ phận DNNN mà Đảng ta đưa ra là hoàn toàn
đúng đắn. Điều đó được lý giải trên các nội dung chủ yếu sau:
Một là, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là một tất yếu do yêu cầu của
quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất.
Quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX là quy
luật cơ bản trong sự phát triển kinh tế xã hội. Nó phản ánh mối quan hệ biện chứng
giữa trình độ phát triển về mặt kinh tế kỹ thuật với mặt xã hội của nền sản xuất xã
hội của mỗi quốc gia trong các thời kỳ.
Sự phù hợp của QHSX với tính chất và trình độ phát triển của LLSX không chỉ
biểu hiện ở chỗ khi LLSX phát triển đến một trình độ nhất định, đòi hỏi QHSX
phải thay đổi phù hợp, mà còn bao hàm cả quá trình ngược lại. Khi LLSX còn ở
trình độ thấp, tính chất xã hội hoá của nền sản xuất xã hội chưa cao, thì một QHSX
tiên tiến vượt quá xa so với trình độ của LLSX không những không giúp cho
LLSX phát triển, mà còn làm cho sản xuất bộc lộ nhiều yếu kém, bất cập, kìm hãm
sự phát triển của toàn bộ nền sản xuất xã hội.


Thực tế đã khẳng định, những nhân tố gây ra sự trì trệ thường bắt đầu nảy sinh
từ khu vực kinh tế có QHSX không phù hợp. Không chỉ ở các nước XHCN, mà cả
ở các nước tư bản phát triển cũng vậy. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, khu vực
kinh tế nhà nước được mở rộng nhanh chóng. Nhiều DNNN ra đời và phát triển,

nhưng chỉ sau một thời gian hoạt động, những doanh nghiệp này đã thể hiện tính
kém hiệu quả của nó, buộc Nhà nước phải tiến hành các biện pháp cải cách, cải tổ
nền kinh tế mà tập trung chủ yếu là kinh tế nhà nước.
Nước ta, khi bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH, để từng bước xác lập quan hệ
sản xuất XHCN Đảng và Nhà nước đã thực hiện quốc doanh hoá, tập thể hoá các
thành phần kinh tế phi XHCN, xây dựng mới các xí nghiệp quốc doanh. Đây là chủ
trương đúng, nhưng cách làm của chúng ta thể hiện sự nóng vội, không phản ánh
đúng yêu cầu của quy luật về sự phù hợp giữa QHSX và LLSX. Từ đó dẫn đến
phần lớn các xí nghiệp quốc doanh, các hợp tác xã làm ăn kém hiệu quả, trì trệ, đẩy
nền kinh tế lâm vào khủng hoảng, đe doạ sự tồn tại của chế độ xã hội mới.
Có thể nói, nguyên nhân xét đến cùng của sự yếu kém của các DNNN nói riêng,
của nền kinh tế nói chung ở nước ta trong thời gian qua là do chúng ta đã vội vàng
xây dựng QHSX mới mang tính chất xã hội hoá cao khi mà trình độ phát triển của
LLSX trên tất cả các yếu tố của nó ( như con người, công cụ lao động, phân công
lao động ) lại chưa đạt đến trình độ đó.
Do vậy, để làm cho hệ thống DNNN sản xuất kinh doanh có hiệu qủa, làm cơ sở
để kinh tế nhà nước phát huy được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành
phần chúng ta nhất thiết phải đổi mới, cải cách hệ thống DNNN. Một trong các
biện pháp quan trọng của quá trình đó là thực hiện CPH một bộ phận DNNN, làm
cho các doanh nghiệp thực sự được xây dựng trên cơ sở tuân thủ những yêu cầu
khách quan về sự phù hợp giữa tính chất, trình độ của LLSXvà QHSX.
Cổ phần hoá DNNN là một trong những giải pháp cơ bản để thực hiện sự đa
dạng hoá các hình thức sở hữu, tạo ra sự phù hợp giữa QHSX với tính chất và trình
độ phát triển của LLSX; là giải pháp để điều chỉnh mối tương quan giữa sở hữu


nhà nước và các hình thức sở hữu khác trong nền kinh tế quốc dân, nhằm đạt mục
tiêu phát triển có hiệu qủa và bền vững. Củng cố vai trò chủ đạo của kinh tế nhà
nước, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo ra sự năng động và hiệu qủa hơn
cho nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.

Hai là, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là một tất yếu nhằm nâng cao
hiệu quả sản xuất kinh doanh và vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thực hiện đường lối đổi mới kinh tế đất nước, phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở nước ta nhằm thực hiện mục tiêu “ Dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ văn minh”. Kinh tế thị trường định hướng XHCN là mô
hình kinh tế tổng quát mà nước ta lựa chọn trong thời kỳ quá độ. Đây là kiểu tổ
chức nền kinh tế thị trường đặc biệt, khác về bản chất so với nền kinh tế thị trường
tự do TBCN. Do đó, nó vừa mang tính chất chung của KTTT, vừa có những nét
đặc thù, được quyết định bởi các nguyên tắc và bản chất của CNXH. Trong mối
quan hệ giữa cái chung và các đặc thù, thì KTTT thể hiện với tư cách là động lực,
phương tiện để phát triển kinh tế xã hội; định hướng XHCN giữ vai trò dẫn dắt quá
trình phát triển KTTT theo những mục tiêu đã định.
Đây là sự vận dụng sáng tạo những kinh nghiệm trong nước và thế giới về phát
triển KTTT, là sự kết tinh trí tuệ của toàn Đảng trong quá trình lãnh đạo nhân dân
xây dựng đất nước. Đảng ta đã khẳng định phát triển kinh tế nhiều thành phần là
chính sách nhất quán, lâu dài: “Mọi tổ chức kinh doanh theo các hình thức sở hữu
khác nhau hoặc đan xen hỗn hợp đều được khuyến khích phát triển lâu dài, hợp
tác, cạnh tranh bình đẳng và là bộ phận cấu thành quan trọng của nền KTTT định
hướng XHCN” [15, tr.188], trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Vì
vậy, việc xác định một cách rõ ràng, nhất quán vị trí, vai trò của kinh tế nhà nước
trong quá trình hoạch định đường lối, chính sách phát triển kinh tế đất nước là rất
cần thiết.


Ở nước ta, khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước là xuất phát từ lợi
ích của đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Kinh tế nhà nước quyết định đến
sự đúng hướng hay chệch hướng XHCN trong tiến trình phát triển kinh tế. Kinh tế
nhà nước phát huy tốt vai trò chủ đạo bao nhiêu thì kinh tế - xã hội sẽ phát triển
nhanh, góp phần thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân

chủ, văn minh” nhanh và vững chắc bấy nhiêu. Theo quan niệm về vai trò chủ đạo
của kinh tế nhà nước trong nền KTTT định hướng XHCN mà Đảng ta xác định,
DNNN phải là hình mẫu của các doanh nghiệp khác xét ở nhiều tiêu chí: đóng góp
hàng năm vào ngân sách nhà nước, đóng góp vào GDP, công nghệ tiên tiến, quản
lý hiện đại, hiệu quả sản xuất kinh doanh và lợi nhuận cao...
Trong thực tế phát triển kinh tế đất nước, về cơ bản DNNN đã phát huy tốt vị trí
nòng cốt. Nhiều DNNN sản xuất kinh doanh có hiệu qủa, tiêu biểu là những
DNNN hoạt động trong lĩnh vực công ích đã thể hiện rõ vai trò chủ đạo của kinh tế
nhà nước. Đó là những “Người lính đi đầu” trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước, trong cuộc chiến chống đói, nghèo và tụt hậu, là chỗ dựa để Nhà
nước điều tiết nền KTTT đúng định hướng XHCN.
Tuy nhiên phải thừa nhận rằng, hiện nay có không ít DNNN chưa xứng đáng với
vị trí nòng cốt mà nó đang nắm giữ. Vẫn tồn tại những DNNN làm ăn thua lỗ, nợ
nần ngày càng tăng, khó có khả năng thanh toán cho ngân hàng và thực hiện nghĩa
vụ đối với Nhà nước. Những doanh nghiệp này thực sự đang là những gánh nặng
đối với Nhà nước cần sớm được khắc phục.
Vì vậy, vấn đề cần làm hiện nay là phải tiếp tục đổi mới, sắp xếp lại các DNNN
với bước đi và biện pháp đồng bộ. Bên cạnh, việc giải thể những doanh nghiệp
không còn khả năng tự tồn tại, cần tiếp tục đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá
DNNN. Làm cho DNNN thực sự là nòng cốt, là chỗ dựa cho Nhà nước trong quản
lý, điều tiết và phát triển nền KTTT định hướng XHCN.
Ba là, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là đòi hỏi khách quan nhằm khai
thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho phát triển kinh tế – xã hội.


Mục tiêu của CPH doanh nghiệp nhà nước được Đảng ta xác định là nhằm tạo ra
loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, trong đó có đông đảo người lao động,
để sử dụng có hiệu qủa vốn, tài sản của Nhà nước và huy động thêm vốn xã hội
vào phát triển sản xuất kinh doanh, tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng
động, có hiệu qủa cho DNNN. Phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao

động, của các cổ đông và tăng cường sự giám sát của xã hội đối với doanh nghiệp.
Bảo đảm hài hoà lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp, người lao động.
Cổ phần hoá DNNN là một giải pháp có nhiều ưu điểm nhất trong các giải pháp
tái cơ cấu lại DNNN. So với giao, bán, khoán, cho thuê, giải thể, phá sản DNNN
thì CPH có 3 ưu thế sau đây:
Thứ nhất, giúp DNNN hiện tại có cơ chế huy động vốn nhằm thoát khỏi tình
trạng yếu kém hiện nay trên cơ sở vẫn duy trì liên tục hoạt động sản xuất kinh
doanh, đồng thời cho phép Nhà nước quản lý được doanh nghiệp
(nếu cần).
Vốn là một vấn đề rất phức tạp, giải quyết vấn đề vốn và phát huy hiệu quả sử
dụng vốn luôn là vấn đề thời sự của nền KTTT ở nước ta hiện nay. Hiệu quả sử
dụng vốn không chỉ phụ thuộc vào nguồn gốc của vốn, mà chủ yếu phụ thuộc vào
năng lực khai thác, quản lý và sử dụng các nguồn lực nhờ vốn đó đem lại và tài
năng kinh doanh của chủ thể doanh nghiệp trên thị trường. Vốn của phần lớn
DNNN là dựa vào sự đầu tư ban đầu của Nhà nước và vốn vay từ ngân hàng, do đó
nhiều ngân hàng phải chịu số dư nợ rất lớn. Vì vậy, các doanh nghiệp cũng phải
chia sẻ với ngân hàng bằng cách chuyển phương thức làm ăn mới, mở rộng thu hút
vốn trong xã hội, giảm bớt gánh nặng cho ngân hàng, từ đó có nhiều khả năng đầu
tư mở rộng quy mô, đổi mới thiết bị, công nghệ cho doanh nghiệp. Trong điều kiện
hiện nay, loại hình DNNN khai thác, sử dụng vốn có hiệu quả nhất là công ty cổ
phần thông qua việc tổ chức bán đấu giá trái phiếu và phát hành trái phiếu công ty.
Cổ phần hoá DNNN không chỉ làm giảm số lượng các DNNN thuần tuý (tức là
doanh nghiệp 100% vốn của Nhà nước) mà còn giảm bớt được một khoản bổ sung


vốn từ ngân sách cho những doanh nghiệp này để giành đầu tư vào những nhu cầu
phát triển khác, tạo động lực mới cho nền kinh tế. Từ đó làm giảm nhu cầu hỗ trợ
và ưu đãi về vốn tín dụng của Nhà nước. Đặc biệt nó sẽ làm giảm bớt áp lực vay
vốn lên các ngân hàng thương mại quốc doanh và các quỹ tín dụng nhà nước.
Thông qua CPH, Nhà nước thu được một phần giá trị tài sản của Nhà nước trước

đây giao cho các doanh nghiệp quản lý. Khoản tiền này sẽ được đầu tư trở lại để
phát triển doanh nghiệp, làm tăng phần giá trị tài sản còn lại của Nhà nước tại các
doanh nghiệp đó, bảo đảm quyền lợi cho các cổ đông khác, cho người lao động
cũng như giải quyết các vấn đề phát sinh từ quá trình CPH.
Thông qua CPH, khả năng tiếp nhận đầu tư của xã hội tăng lên rõ rệt, từ đó
làm tăng nguồn vốn cho doanh nghiệp, tăng tính tự chủ về tài chính của doanh
nghiệp trong việc thực hiện chiến lược, các kế hoạch sản xuất, kinh doanh. Đồng
thời, nâng cao trách nhiệm của hội đồng quản trị, giám đốc điều hành về việc bảo
toàn và phát triển vốn của doanh nghiệp.
Thứ hai, tạo cơ chế, mô hình quản lý hiệu quả cho doanh nghiệp nhà nước sau
cổ phần hoá.
Thực hiện đổi mới, sắp xếp DNNN đó là quá trình sàng lọc và đào thải những
doanh nghiệp kém hiệu quả, tạo môi trường cạnh tranh giữa các doanh nghiệp và
động lực phát triển. Những DNNN kinh doanh không hiệu qủa phần lớn là do khâu
quản lý yếu kém, bộ máy điều hành thiếu năng động, sáng tạo hoặc thiếu vốn. Đi
vào CPH tức là chuyển sang một hình thức quản lý hiện đại hơn, bên cạnh vai trò
chi phối của Nhà nước, có sự tham gia của các thành phần kinh tế khác. Cổ phần
hoá là một bước chuyển về chất trong quản lý kinh doanh, nó xoá bỏ được kiểu
quản lý độc đoán, chuyên quyền của cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp trước đây.
Phát huy được trí tuệ tập thể, thực hiện được dân chủ hoá kinh tế thông qua Đại hội
cổ đông, những vấn đề về chiến lược phát triển công ty, kế hoạch sản xuất kinh
doanh, phân chia lợi nhuận mới được quyết định. Nêu cao được trách nhiệm của
Hội đồng quản trị, Giám đốc điều hành, Ban kiểm soát đảm bảo quyền lợi cho các


cổ đông. Từ đó, đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp mà thực
chất đó là Hội đồng quản trị, Giám đốc điều hành có trình độ, năng lực đáp ứng
yêu cầu của nền KTTT.
Khi chuyển sang công ty cổ phần vừa xác định rõ chủ sở hữu, vừa tạo quyền tự
chủ rộng rãi cho doanh nghiệp, điều đó được thể hiện: tính dân chủ trong kinh

doanh, trong doanh nghiệp được tăng lên, quyền tự chủ của người lao động cũng
tăng lên. Vì lợi ích kinh tế sẽ phát huy sức mạnh trí tuệ của các cổ đông tham gia
vào việc quản lý và sử dụng hợp lý hơn, hiệu qủa hơn các nguồn lực của doanh
nghiệp CPH.
Thứ ba, thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán, thị trường vốn, thị
trường công nghệ...
Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta vừa có những đặc trưng của
KTTT nói chung vừa có nét đặc thù riêng do bản chất của CNXH. Muốn phát triển
nền KTTT định hướng XHCN không chỉ cần sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của
Nhà nước mà còn phải có một hệ thống thị trường đồng bộ như: thị trường chứng
khoán, thị trường vốn, thị trường công nghệ, thị trường lao động... trong đó đặc
biệt là vai trò của thị trường chứng khoán.
Chứng khoán và thị trường chứng khoán là những biểu hiện của sự phát triển ở
mức độ cao của KTTT. Thị trường chứng khoán hình thành do nhu cầu mua bán,
trao đổi cổ phiếu do các công ty phát hành.
Cổ phần hoá DNNN về mặt lý thuyết sẽ là điều kiện, tiền đề của sự hình thành
và phát triển thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán phụ thuộc chủ yếu
vào việc trên thị trường có chứng khoán để giao dịch hay không. Cổ phần hoá có
tác động rất lớn đối với thị trường chứng khoán, thông qua việc ra đời của hàng
loạt các công ty cổ phần. Với sự xuất hiện của những công ty cổ phần này, “Hàng
hoá chứng khoán” trên trung tâm giao dịch chứng khoán đặc biệt là trên thị trường
OTC sẽ nhiều hơn, chất lượng hơn, ảnh hưởng của thị trường vốn quan trọng này
đối với nền kinh tế sẽ ngày càng rõ nét hơn.


Sự hoạt động hiệu quả của thị trường chứng khoán sẽ dễ dàng thu hút các nguồn
vốn trong xã hội cho phát triển kinh tế. Nguồn lực này còn được mở rộng đáng kể
khi Nhà nước cho phép tổ chức, cá nhân nước ngoài được mua cổ phiếu của
DNNN cổ phần hoá. Trong điều kiện nước ta hiện nay, việc đẩy nhanh CPH sẽ gắn
chặt với việc phát triển thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán phát triển

đến mức độ nhất định và hoạt động có hiệu quả sẽ tác động tích cực đến cổ phần
hoá DNNN. Cổ phần hoá DNNN được tiến hành tốt sẽ làm cho không chỉ thị
trường chứng khoán phát triển sôi động hơn mà còn góp phần thúc đẩy hệ thống
thị trường ngày càng phát triển đồng bộ phù hợp với cơ chế thị trường hiện nay.
Bốn là, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước nhằm đáp ứng yêu cầu xây
dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế.
Ngày nay, với những thành tựu của công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước,
đặc biệt là thành tựu về kinh tế. Trình độ của LLSX ngày càng phát triển cao, tính
chất xã hội hoá của nó đã vượt ra khỏi phạm vi biên giới quốc gia trở thành một bộ
phận của quốc tế. Mặt khác, tự do hoá thương mại cũng đang trở thành xu hướng
tất yếu và được xem là nhân tố quan trọng thúc đẩy buôn bán, giao lưu giữa các
nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và nâng cao sức sống của nền kinh tế cho mọi
quốc gia nếu biết lựa chọn hình thức, giải pháp, bước đi phù hợp. Vì vậy, hầu hết
các quốc gia trên thế giới đều điều chỉnh chính sách theo hướng mở cửa, giảm và
tiến tới dỡ bỏ các rào cản thương mại tạo điều kiện cho việc lưu chuyển các nguồn
lực và hàng hoá giữa các quốc gia ngày càng thuận lợi hơn, thông thoáng hơn, Việt
Nam cũng không nằm ngoài quá trình này. Vì thế, trong điều kiện hiện nay cho dù
các quốc gia giàu có đến đâu cũng không thể tự mình đáp ứng được tất cả những
nhu cầu cho phát triển kinh tế - xã hội. Trình độ phát triển càng cao, càng phụ
thuộc với mức độ nhiều hơn vào thị trường thế giới, đó là vấn đề có tính quy luật.
Những quốc gia chậm trễ trong hội nhập kinh tế quốc tế thường phải trả giá bằng
chính sự tụt hậu của mình. Ngược lại những nước vội vã không phát huy nội lực,
không chủ động hội nhập cũng bị trả giá. Vì vậy, hội nhập kinh tế quốc tế vừa là


thời cơ, vận hội nhưng đồng thời nó cũng chứa đựng những khó khăn, thách thức
đối với mỗi quốc gia.
Trước xu thế khách quan của toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế để
nắm bắt thời cơ, vượt qua thử thách, chúng ta cần phát huy tối đa nội lực, đồng
thời tranh thủ thu hút ngoại lực tạo thành nguồn lực tổng hợp để phát triển.

Thực chất của hội nhập kinh tế quốc tế thể hiện trên hai vấn đề cơ bản: một mặt,
hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện để các sản phẩm trong nước xâm nhập mạnh
mẽ hơn ra thị trường quốc tế, thương hiệu hàng hoá Việt Nam ngày càng được thế
giới biết đến, các doanh nghiệp nắm bắt được nhu cầu của thị trường thế giới, học
hỏi được nhiều kinh nghiệm trong tổ chức, quản lý sản xuất kinh doanh, hoạt động
thương mại, mở ra những triển vọng về thu hút vốn, chuyển giao công nghệ, giải
quyết được các vấn đề khó khăn trong thời kỳ đầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước.
Mặt khác, hội nhập kinh tế quốc tế đồng thời là quá trình mở cửa thị trường nội
địa, thực hiện tự do hoá thương mại và đầu tư, loại bỏ dần mọi sự bảo hộ sản xuất
trong nước, đưa các doanh nghiệp nội địa đối mặt với cạnh tranh quốc tế ngày càng
quyết liệt.
Để chủ động hội nhập kinh tế quốc tế với xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ
cần phải phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước mà nòng cốt là DNNN. Cổ
phần hoá DNNN là nhằm tạo ra một mô hình doanh nghiệp hiện đại phù hợp với
xu thế hiện nay trên thế giới. Tạo cho các doanh nghiệp CPH một sức sống mới
năng động hơn, tự chủ hơn trong sản xuất kinh doanh, mở rộng cơ hội tìm kiếm đối
tác làm ăn cả trong và ngoài nước, nâng cao năng lực sản xuất và sức cạnh tranh
cho các DNNN đẩy mạnh giao lưu hợp tác thương mại quốc tế.
Hiện nay, mô hình công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp khá phổ biến ở các
nước tư bản phát triển, nó có nhiều ưu điểm trong việc khai thác, sử dụng và phát
huy các nguồn lực. ảnh hưởng của nó rất lớn đến các nước đang phát triển. Do vậy,
để chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ thì


việc chuyển một bộ phận DNNN sang hình thức công ty cổ phần bằng việc cổ
phần hoá các DNNN sẽ cho phép chúng ta hội nhập tốt hơn, hiệu qủa hơn.
Vì vậy, cổ phần hoá DNNN là một giải pháp nhằm nâng cao hiệu qủa và sức cạnh
tranh của DNNN trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, là yêu cầu khách quan và
cấp bách ở nước ta hiện nay, nhằm đảm bảo cho khu vực kinh tế này thực hiện tốt

chức năng, vai trò, vị trí của mình trong nền kinh tế quốc dân.
1.1.4. Tác động của cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước tới củng cố tiềm lực
quốc phòng ở nước ta hiện nay
Cổ phần hoá một bộ phận DNNN là con đường phù hợp nhằm giải toả những bế
tắc đối với DNNN, là giải pháp cơ bản để cơ cấu lại khu vực kinh tế nhà nước mà
nội dung cốt lõi là giảm về số lượng DNNN mà Nhà nước không cần nắm 100%
vốn, nâng cao hiệu qủa và sức cạnh tranh của kinh tế nhà nước. Làm cho kinh tế
nhà nước, bộ phận nòng cốt của nền kinh tế giữ vững được vai trò chủ đạo và định
hướng XHCN đối với nền kinh tế.
Quốc phòng là công cuộc giữ nước của một quốc gia. Đây là một lĩnh vực rộng
lớn bao gồm tổng thể các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, quân sự, đối
nội, đối ngoại của Nhà nước và nhân dân nhằm mục đích bảo vệ vững chắc độc lập
chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, chế độ chính trị xã hội...
Kinh tế và quốc phòng là hai lĩnh vực hoạt động khác nhau, nhưng giữa chúng
lại có mối quan hệ biện chứng tác động qua lại lẫn nhau. Cơ sở của nó xuất phát từ
mối quan hệ giữa kinh tế với chiến tranh và quốc phòng. Theo quan điểm của Chủ
nghĩa Mác-Lê nin, kinh tế là nhân tố xét đến cùng quyết định một cách toàn diện
đối với lĩnh vực quốc phòng cả về nguồn gốc, bản chất, quy mô, trình độ và tổ
chức biên chế. Khi nghiên cứu vấn đề này Ph.Ăng ghen khẳng định: “Không có gì
lại phụ thuộc vào những điều kiện kinh tế hơn là chính ngay quân đội và hạm đội.
Vũ trang, biên chế, tổ chức, chiến thuật, chiến lược phụ thuộc trước hết vào trình
độ sản xuất đạt được trong một thời điểm nhất định” [35, tr. 235].


Tiềm lực quốc phòng do tiềm lực kinh tế quyết định. Song hoạt động kinh tế lại
phụ thuộc vào trình độ phát triển của LLSX, mức độ hoàn thiện của hệ thống
QHSX mà đặc biệt là QHSX giữ vai trò thống trị hay nền tảng. Điều đó cho thấy,
mỗi bước tiến trong quá trình phát triển của LLSX, củng cố hoàn thiện QHSX
thông qua việc tác động đến các hình thức hoạt động sản xuất, kinh doanh mà trên
đó các loại hình QHSX tồn tại sẽ tác động đến sự phát triển của nền kinh tế và theo

đó sẽ tác động đến tiềm lực quốc phòng.
Ở nước ta, kinh tế nhà nước mà nòng cốt là DNNN là lực lượng kinh tế giữ vai
trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Sự phát triển của kinh tế nhà nước là cơ sở
để xây dựng sức mạnh quốc phòng toàn dân. Vì vậy, CPH một bộ phận doanh
nghiệp nhà nước không chỉ vì mục tiêu kinh tế thuần tuý, mà còn góp phần tăng
cường sức mạnh quốc phòng nói chung và tiềm lực quốc phòng nói riêng. Nghiên
cứu những tác động của cổ phần hoá DNNN tới củng cố tiềm lực quốc phòng ở
nước ta hiện nay cũng dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - lê nin về mối
quan hệ kinh tế với quốc phòng và chiến tranh. Do đó, cần phải xem xét toàn diện
trên cả góc độ QHSX và LLSX, cả vật chất và tinh thần của xã hội, cả trực tiếp và
gián tiếp, đa dạng, nhiều chiều, cả những tác động tích cực và tác động tiêu cực
của CPH doanh nghiệp nhà nước đến củng cố tiềm lực quốc phòng đất nước.
Thứ nhất, những tác động tích cực của cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
tới củng cố tiềm lực quốc phòng.
Nền quốc phòng toàn dân ở nước ta hiện nay được xây dựng trên cả hai nội dung
cơ bản là thế trận quốc phòng và tiền lực quốc phòng, thế trận quốc phòng luôn đi
đôi với tiềm lực quốc phòng. Tiềm lực quốc phòng là khả năng về vật chất và tinh
thần mà mỗi quốc gia, dân tộc có thể huy động nhằm mục tiêu bảo vệ đất nước, giữ
vững hoà bình ngăn chặn mọi âm mưu và hành động gây chiến của các thế lực thù
địch, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược mọi quy mô có thể xảy ra. Tiềm
lực quốc phòng của đất nước dựa trên nền tảng của tiềm lực quân sự, tiềm lực kinh
tế, tiềm lực chính trị - tinh thần, tiềm lực khoa học. Trong đó, tiềm lực quân sự là


×