Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Vấn đề cổ phần hóa Doanh nghiệp Nhà Nước.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (95.09 KB, 11 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Ngân hàng Thương mại Nhà nước đang đứng trước thực trạng nợ tồn đọng lớn, vốn tự có quá
thấp so với nhu cầu thực tiễn và so với các ngân hàng trên thế giới, tình trạng này đang làm hạn
chế khả năng huy động vốn và cho vay của hệ thống ngân hàng.
Vấn đề cổ phần hoá ngân hàng Thương mại Nhà nước đặt ra trong giai đoạn này là phù hợp với
tiến trình đổi mới hoạt động ngân hàng để hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, việc cổ phần hoá
một ngân hàng Thương mại Nhà nước không đơn thuần như việc cổ phần hóa một doanh nghiệp
nhà nước, nhưng cũng không phải là vấn đề quá khó khăn không thể không thực hiện được. Do
đó, quan trọng hiện nay là xác định được mục tiêu cổ phần hóa, xác định những điều kiện cần và
đủ để giải quyết những vấn đề trong quá trình cổ phần hóa và phải đảm bảo được một ngân hàng
sau khi cổ phần hóa phải đáp ứng được các chuẩn mực Hội nhập kinh tế quốc tế, đủ năng lực cạnh
tranh được với các ngân hàng trong nước và trên thế giới.
Hoạt động ngân hàng, trong đó ngân hàng Thương mại Nhà nước với vai trò chủ đạo trong những
năm qua đã có sự đóng góp rất lớn vào sự thành công trong sự nghiệp đổi mới đất nước, đã triển
khai thực hiện chính sách tiền tệ một cách tích cực, cơ bản ổn định được giá trị và sức mua của
đồng tiền, kìm chế lạm phát, tăng dự trữ ngoại tệ cho quốc gia và góp phần tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên, nhìn chung vẫn chưa đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển chung của nền kinh tế, chưa
phát huy hết chức năng huy động và sử dụng vốn có hiệu quả để làm cho kinh tế nhà nước thực sự
đóng vai trò chủ đạo.
Việc cổ phần hóa ngân hàng là một khâu trong quá trình đổi mới hoạt động ngân hàng, củng cố và
cơ cấu lại các ngân hàng Thương mại theo hướng tiếp tục phát huy thành tựu, khắc phục những
tồn tại nhằm nâng cao năng lực tài chính, trình độ công nghệ, năng lực tổ chức kinh doanh đáp
ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của công cuộc đổi mới trong những năm tới.
Do yêu cầu của CNH-HĐH đất nước cần phải có một khối lượng vốn, vì vậy cần phải có ngân
hàng Thương mại đủ tiềm lực tài chính để thực hiện phân phối và sử dụng vốn một cách hiệu quả.
Chính vì vậy, đặt ra vấn đề cổ phần hóa ngân hàng Thương mại Nhà nước là rất cần thiết.
Quá trình thực hiện Hiệp định thương mại Việt-Mỹ và chuẩn bị hội nhập vào thị trường tài chính
quốc tế với việc tự do hóa tài chính đã làm cho môi trường cạnh tranh gay gắt hơn, đầy rủi ro hơn.
Bối cảnh này đã đặt ra cho ngành ngân hàng cần thiết phải cổ phần hóa ngân hàng Thương mại
Nhà nước. Với những yêu cầu hết sức cần thiết và bức xúc như đã nêu trên, đòi hỏi trong hoạt
động của ngân hàng Việt Nam phải có một ngân hàng với quy mô lớn, năng lực tài chính mạnh


trong khi các ngân hàng Thương mại Nhà nước cũng như các ngân hàng Thương mại cổ phần
không thể đáp ứng được thì vấn đề cổ phần hóa ngân hàng Thương mại Nhà nước là một yêu cầu
cần thiết khách quan.
PHẦN I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước nhằm nâng cao
hiệu quả kinh tế của các doanh nghiệp nhà nước. Sau 15 năm thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp
nhà nước, có nhiều ý kiến đánh giá khác nhau về quá trình này. Nhiều vấn đề lý luận và tư duy
kinh tế đang đặt ra cần giải quyết để nâng cao hiệu quả của quá trình cổ phần hóa trong thời gian
tới.
Cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước là một trong những vấn đề đang được đẩy mạnh ở nước
ta, nhưng việc thực hiện một cách có hiệu quả không đơn giản. Vì vậy, sau 15 năm thực hiện cổ
phần hóa, rất cần có sự nhìn lại thực trạng, đánh giá triển vọng và các giải pháp nâng cao hiệu quả
quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở nước ta trong những năm tới.
1. Thực trạng cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước 15 năm qua:
Tính chung, tính đến hết tháng 12 năm 2007, trong cả nước đã sắp xếp, cổ phần hóa được trên
3.800 doanh nghiệp nhà nước. Chiếm trên 70% doanh nghiệp cần được sắp xếp lại và chiếm 25%
vốn nhà nước tại các doanh nghiệp. Tuy số vốn Nhà nước đã cổ phần hóa còn khá khiêm tốn,
nhưng số lượng doanh nghiệp cổ phần hóa nói trên đã tạo một khối lượng hàng hóa rất lớn cho thị
trường chứng khoản giao dịch chính thức. Cổ phiếu niêm yết trên sở giao dịch chứng khoản thành
Trang 1
phố Hồ Chí Minh và trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội, cũng như cung cấp một khối lượng
rất lớn cổ phếu giao dịch trên thị trường phi tập trung, tức thị trường OTC.
Từ số liệu trong các báo cáo, bước đầu có thể phân tích thực trạng cổ phần hóa doanh nghiệp ở
một số khía cạnh sau:
Đối tượng cổ phần hóa: Nói đến đối tượng cổ phần hóa là nói đến việc lựa chọn doanh nghiệp nhà
nước nào để thực hiện cổ phần hóa. So với quy định ban đầu, chúng ta đã bổ sung đối tượng cổ
phần hóa là các doanh nghiệp có quy mô lớn, các tổng công ty nhà nước. Tuy vậy cho đến nay,
77% số doanh nghiệp đã cổ phần hóa chỉ có quy mô vốn dưới 10 tỉ đồng. Riêng đối với loại
doanh nghiệp cổ phần hóa mà Nhà nước không giữ tỷ lệ nào trong vốn điều lệ thì đều là doanh
nghiệp nhỏ có vốn nhà nước dưới 1 tỉ đồng và kinh doanh kém hiệu quả. Loại doanh nghiệp nhỏ

này chiếm gần 30% số doanh nghiệp mà Nhà nước thực hiện cổ phần hóa.
Sự lựa chọn các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa như vậy đã làm chậm tiến độ thực hiện chủ
trương cổ phần hóa; các doanh nghiệp nhà nước chưa thể hiện được rõ những ưu thế của doanh
nghiệp đã cổ phần hóa với những doanh nghiệp chưa cổ phần hóa, chưa thực hiện được các mục
tiêu cổ phần hóa đề ra.
Cơ cấu vốn điều lệ: Tỷ lệ cổ phần do Nhà nước giữ ở các doanh nghiệp đã cổ phần hóa như sau:
nắm giữ cổ phần chi phối trên 50% ở 33% số doanh nghiệp; dưới 50% số vốn ở 37% số doanh
nghiệp và không giữ lại tỷ lệ % vốn nào ở gần 30% số doanh nghiệp.
Xem xét cụ thể hơn có thể thấy: số vốn nhà nước đã được cổ phần hóa chỉ mới chiếm 12%, và
ngay trong số vốn này, Nhà nước vẫn nắm khoảng 40%, vì thế số vốn mà Nhà nước cổ phần hóa
được bán ra ngoài mới chiếm một tỷ lệ rất nhỏ (khoảng 3,6%).
Với cơ cấu vốn nhà nước đã cổ phần hóa như trên có thể thấy bức tranh cổ phần hóa doanh nghiệp
nhà nước ở nước ta hiện nay và hiểu rõ hơn khái niệm cổ phần “chi phối” của nhà nước.
Cơ cấu cổ đông: Cổ đông trong các doanh nghiệp đã cổ phần hóa là cán bộ, công nhân viên nắm
29,6% cổ phần; cổ đông là người ngoài doanh nghiệp nắm 24,1% cổ phần; cổ đông là Nhà nước
nắm 46,3% cổ phần.
Nét đáng chú ý về cơ cấu cổ đông là các nhà đầu tư chiến lược trong nước khó mua được lượng
cổ phần đủ lớn để có thể tham gia quản lý, điều hành doanh nghiệp, còn nhà đầu tư nước ngoài có
tiềm năng về vốn, công nghệ, có năng lực quản lý kinh doanh cũng chỉ được mua số lượng cổ
phần hạn chế. Điều này làm cho các doanh nghiệp đã cổ phần hóa rất khó hoạt động có hiệu quả,
nhất là trước sức ép cạnh tranh ở cấp độ quốc tế, khi nước ta đã chính thức gia nhập Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO).
Phân tích một số bài viết nghiên cứu về quá trình cổ phần hóa trên báo chí, chẳng hạn bài “Cổ
phần hóa - quỹ đạo nào để bảo toàn, phát triển thị trường vốn?” đăng trên báo Tài chính; qua
những thông tin từ Ban Chỉ đạo đổi mới doanh nghiệp, có thể nhận thấy việc đánh giá về hiệu quả
cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước có những ý kiến không giống nhau. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, sau khi cổ phần hóa, có tới 90% doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, góp phần tăng
ngân sách nhà nước, tăng thu nhập cho người lao động, huy động vốn xã hội cũng tăng lên, chấm
dứt tình trạng bù lỗ của ngân sách nhà nước, tạo thêm công ăn việc làm. Chỉ có 10% số doanh
nghiệp sau cổ phần hóa hoạt động kém hiệu quả vì trước khi cổ phần hóa các doanh nghiệp này đã

hoạt động rất kém, nội bộ mất đoàn kết, không thống nhất; mặt khác còn do sự can thiệp không
đúng của chính quyền địa phương…
Thứ hai, theo kết quả nghiên cứu, đến thời điểm này chưa có doanh nghiệp nhà nước nào sau khi
cổ phần hóa biến thành tư nhân hóa. Tuy nhiên, trong đánh giá của Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh
tế và Ngân sách của Quốc hội Đặng Văn Thanh - người tham gia đoàn giám sát của Quốc hội -
bên cạnh việc công nhận một số kết quả do cổ phần hóa mang lại, cũng đã chỉ rõ: có tình trạng,
một số doanh nghiệp nhà nước sau khi cổ phần hóa đang dần chuyển hóa thành doanh nghiệp tư
nhân do một số cổ đông đã bán, chuyển nhượng số cổ phần của mình, hoặc làm trung gian thu
gom cổ phần cho tư nhân ngoài doanh nghiệp nắm giữ, có trường hợp đã nắm hơn 50% tổng giá
trị cổ phần danh nghĩa để trở thành chủ nhân đích thực của doanh nghiệp. Theo ông Thanh, đây là
Trang 2
điều trái với chủ trương cổ phần hóa của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên \, đã lkà kinh tế thị trường
thì chúng ta phải chấp nhận quy luật cung - cầu.
2. Những vấn đề đặt ra của quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
Thực trạng quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở nước ta nói trên đang đặt ra nhiều vấn
đề cả về mặt lý luận, tư duy kinh tế lẫn thực tiễn quản lý, tổ chức hoạt động doanh nghiệp.
a. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam có những đặc điểm khác với tính quy luật
chung ở các nước, bởi:
Các doanh nghiệp mà Việt Nam thực hiện cổ phần hóa được hình thành trong quá trình thực hiện
công hữu hóa, tập thể hóa nền kinh tế trước đây. Điều này khác với các doanh nghiệp thực hiện cổ
phần hóa ở các nước phát triển: là kết quả của quá trình phát triển lực lượng sản xuất đã vượt quá
tầm của sở hữu tư nhân, đòi hỏi phải mở rộng quan hệ sở hữu.
Các doanh nghiệp mà nước ta thực hiện cổ phần hóa vốn tồn tại lâu năm trong cơ chế bao cấp và
kế hoạch của Nhà nước và mới làm quen với cơ chế thị trường, khác với các doanh nghiệp thực
hiện cổ phần hóa ở các nước là đã tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường, cạnh tranh.
Các doanh nghiệp mà nước ta tiến hành cổ phần hóa chủ yếu được tổ chức và hoạt động theo yêu
cầu và kế hoạch của Nhà nước, khác với các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa ở các nước là tổ
chức và hoạt động vì lợi nhuận tối đa của bản thân và tuân theo quy luật thị trường.
Lý do chính của chủ trương cổ phần hóa ở nước ta là các doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém
hiệu quả, nhiều doanh nghiệp đứng trước nguy cơ phá sản, khác với lý do thực hiện cổ phần hóa

doanh nghiệp ở các nước phát triển là chuyển từ giai đoạn tập trung tư bản sang giai đoạn tập
trung vốn xã hội (trong và ngoài doanh nghiệp) để nâng cao chất lượng và quy mô sản xuất trong
cạnh tranh.
b. Từ những sự khác biệt đó cho thấy:
Chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở nước ta là một trong những giải pháp quan
trọng nhằm giải quyết những tồn tại và tình trạng sản xuất, kinh doanh kém hiệu quả của các
doanh nghiệp nhà nước, đang gây trở ngại cho tiến trình phát triển kinh tế thị trường và hội nhập
kinh tế quốc tế. Tình hình đó không giống với yêu cầu có tính quy luật là cổ phần hóa doanh
nghiệp là một bước tiến của quá trình xã hội hóa, tuân theo quy luật khách quan: quan hệ sản xuất
phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Đối tượng cổ phần hóa ở nước ta khác hẳn với các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa trong nền
kinh tế thị trường phát triển cao. Ở nước ta, một bộ phận doanh nghiệp nhà nước sau khi được cổ
phần hóa vẫn chưa thoát khỏi cơ chế tập trung quan liêu cả về tài chính, tổ chức bộ máy và cơ chế
quản lý, tức là, chưa hẳn là một tổ chức hoạt động tuân theo quy luật khách quan của kinh tế thị
trường.
Chính sách và quy trình cổ phần hóa ở nước ta, trên thực tế, vẫn dựa trên tư duy cũ. Vì vậy, từ
khâu định giá tài sản doanh nghiệp, cho đến tổ chức quản lý sau khi doanh nghiệp đã cổ phần hóa
đều tồn tại nhiều vấn đề. Việc giải quyết vấn đề tài chính trước, trong và sau khi cổ phần hóa còn
nhiều bất cập như:
Xác định giá trị doanh nghiệp để cổ phần hóa chưa đúng, gây nên thất thoát và lãng phí tài sản
nhà nước trong và sau quá trình cổ phần hóa. Việc xác định giá trị doanh nghiệp trải qua hai giai
đoạn khác nhau. Trong giai đoạn chưa có Nghị định 187: việc xác định giá trị doanh nghiệp do
một Hội đồng hoặc doanh nghiệp tự đảm nhận. Điều đó dẫn đến việc xác định thấp hoặc quá thấp
giá trị doanh nghiệp, do đó, phần lớn cổ phần rơi vào tay một nhóm người. Trong giai đoạn sau
khi có Nghị định 187: sự thất thoát tài sản nhà nước đã được hạn chế, nhưng lại nảy sinh tình
trạng liên kết, gian lận trong đấu thầu.
Việc xử lý các khoản nợ tồn đọng gây nhiều khó khăn. Tính đến ngày 31-12-2005, dư nợ cho vay
đối với các công ty cổ phần vào khoảng 51.603 tỉ đồng. Đặc biệt, việc xử lý nợ xấu đã mất rất
nhiều thời gian do thiếu sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các ngành ngân hàng, thuế, tài chính.
Chất lượng định giá doanh nghiệp của nhiều tổ chức cung ứng dịch vụ thẩm định giá trị có độ tin

cậy thấp. Mặt khác, quy chế lựa chọn, giám sát hoạt động tư vấn và xác định giá trị doanh nghiệp
Trang 3
chưa được quy định rõ, chưa gắn trách nhiệm của tổ chức tư vấn, định giá với việc bán cổ phần.
Quy trình cổ phần hóa (từ xây dựng đề án đến thực hiện đề án) chưa sát thực tế, còn rườm rà,
phức tạp nên đã kéo dài thời gian cổ phần hóa. Bình quân thời gian để thực hiện cổ phần hóa một
doanh nghiệp mất 437 ngày, tổng công ty mất 554 ngày. Sau khi cổ phần hóa, rất nhiều doanh
nghiệp vẫn hoạt động như cũ; quản lý nhà nước vẫn chi phối mọi hoạt động, kể cả trong các
doanh nghiệp mà vốn nhà nước chưa tới 30% vốn điều lệ doanh nghiệp; bộ máy quản lý cũ trong
nhiều doanh nghiệp vẫn chiếm giữ đến 80%.
Thực tiễn 15 năm thực hiện chủ trương cổ phần hóa ở nước ta cho thấy: chúng ta còn chậm trễ
trong việc tiếp tục đổi mới tư duy kinh tế khi chuyển sang kinh tế thị trường và trước yêu cầu hội
nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu, rộng.
Như vậy, doanh nghiệp nhà nước do chế độ công hữu hóa xã hội chủ nghĩa trước đây để lại đang
là một bài toán khó khi chúng ta chuyển sang kinh tế thị trường. Những vấn đề này đang trở thành
một thách thức đối với công tác lý luận, đổi mới tư duy, công tác tổ chức và quản lý nền kinh tế
quốc dân.
3. Những việc cần làm để nâng cao hiệu quả quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước:
Sau 20 năm chuyển đổi nền kinh tế, nước ta đã đạt được một số thành tựu về tăng trưởng kinh tế,
nhưng hiệu quả, chất lượng tăng trưởng còn chưa cao. Trên nền chung đó lại diễn ra quá trình cổ
phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Vì vậy, triển vọng của quá trình cổ phần hóa sẽ như thế nào có
quan hệ chặt chẽ với chất lượng đổi mới nền kinh tế từ nay trở về sau.
Quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước chỉ có hiệu quả khi đồng thời tạo được các điều
kiện sau đây:
Thứ nhất, điều chỉnh phương hướng đầu tư từ ngân sách nhà nước nhằm sử dụng có hiệu quả
nguồn vốn này, khai thác những lợi thế của đất nước và các nguồn đầu tư bên ngoài để đưa đến
một mô hình kinh tế hợp lý.
Theo dõi quá trình phát triển kinh tế Việt Nam, giáo sư Đa-vít Đa-pi (David Dapice đại học Ha-
vớt) nêu rõ: thực tế mỗi năm Chính phủ Việt Nam đầu tư khoảng 30% GDP, nhưng chỉ tăng
trưởng 7%-8%. Nếu biết đầu tư đúng thì tăng trưởng phải đạt ở mức 9%-10% như Trung Quốc.
Theo cách tính toán trên, do đầu tư không phù hợp, chúng ta đã làm tổn thất 2% GDP của đất

nước (khoảng 1 tỉ USD mỗi năm). Vì thế, quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước phải dựa
trên quan điểm tiết kiệm ngân sách, đầu tư khôn ngoan, chứ không phải chỉ là giải pháp cho
những yếu kém trong kinh tế nhà nước. Trên thế giới, đã có những nước sử dụng rất hiệu quả
ngân sách nhà nước. Ví dụ, Đài Loan vào thập kỷ 1960-1970 chỉ có mức thu nhập bình quân đầu
người như Việt Nam hiện nay, nhưng họ đã đạt được tăng trưởng kinh tế ở mức 11% trong suốt
10 năm liền, tuy lượng đầu tư chỉ chiếm 25% ngân sách.
Thứ hai, cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước phải hướng tới sự thu hút và tập trung các nguồn
vốn xã hội vào phát triển kinh tế, tạo ra hình ảnh nhân dân xây dựng và làm chủ nền kinh tế. Khi
điều này được thực hiện thì các khâu của quy trình cổ phần hóa sẽ thay đổi, từ việc định giá doanh
nghiệp, cơ cấu vốn điều lệ doanh nghiệp cổ phần, cơ cấu cổ đông, tổ chức bộ máy, đến những vấn
đề nhân sự khác… sẽ không như hiện nay, mà sẽ bảo đảm cho doanh nghiệp hoạt động tốt hơn
trước, có lợi cho người lao động, nhà đầu tư và cho cả nền kinh tế.
Thứ ba, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước phải tính tới những yêu cầu đặt ra khi Việt Nam đã
trở thành thành viên chính thức của WTO để sau khi cổ phần hóa thì các doanh nghiệp có thể tồn
tại và phát triển. Tác động của việc gia nhập WTO tốt hay xấu đối với doanh nghiệp đã cổ phần
hóa hoàn toàn phụ thuộc vào quan điểm và định hướng quy trình cổ phần hóa. Ở đây xin nêu lên
hai vấn đề quan trọng:
Cần xác định rõ: ai là chủ sở hữu thực tế của công ty cổ phần và chủ sở hữu phải gắn liền với
trách nhiệm đối với công ty như thế nào?. Trong vấn đề này có một nội dung phải làm rõ: ai đại
diện chủ sở hữu số vốn nhà nước trong công ty cổ phần nhằm chấm dứt quan hệ sở hữu nhà nước
chung chung và không có trách nhiệm, kéo dài nhiều năm nay.
Cần vận dụng: “Quy chế quản trị công ty” nhằm tạo ra môi trường đầu tư minh bạch, lành mạnh.
Trang 4
Yêu cầu này chỉ thực hiện được khi có sự lựa chọn những giám đốc phù hợp với quy chế quản trị
công ty, nhất là phải sớm đào tạo và bố trí các giám đốc tài chính của công ty (có vai trò và phạm
vi hoàn toàn khác với kế toán trưởng trong doanh nghiệp kiểu cũ).

PHẦN II: QUÁ TRÌNH VÀ CÁC BƯỚC ĐỂ CỔ PHẦN HÓA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
NHÀ NƯỚC:
1. Quá trình cổ phần hóa Ngân hàng thương mại Nhà nước:

Quá trình cổ phần hóa Ngân hàng thương mại Nhà nước được xác định sẽ trải qua 2 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Nâng vốn điều lệ.
Nâng cao năng lực tài chính dường như là bắt buộc đối với tất cả các Ngân hàng thương mại hiện
nay. Vào năm 2006, Vietcombank là Ngân hàng đầu tiên phát hành trái phiếu tăng vốn, với tổng
giá trị xấp xỉ 1.400 tỷ đồng để bổ sung vốn cấp 2, giúp tăng vốn tự có của Ngân hàng. Đầu năm
2007, BIDV là Ngân hàng tiếp theo phát hành 2.200 tỷ đồng trái phiếu tăng vốn và tháng 10/2007
vừa qua, Agribank cũng phát hành 3.000 tỷ đồng trái phiếu đợt một để bổ sung vốn tự có của
Ngân hàng này.
Sở dĩ các Ngân hàng thương mại nhà nước phải thực hiện điều này bởi hệ số an toàn vốn CAR
(vốn tự có/tổng tài sản rủi ro) còn thấp, chưa đạt mức 8% theo thông lệ quốc tế. Hiện mới chỉ có
Vietcombank đạt được chỉ tiêu này, các Ngân hàng còn lại hầu hết ở mức 5-6%. “Yêu cầu của
Ngân hàng nhà nước là các Ngân hàng thương mại Nhà nước là phải lành mạnh hóa tài chính
trước khi cổ phần hóa”, Oâng Lê Xuân Nghĩa nói.
Tuy nhiên, việc phát hành cổ phiếu ưu đãi lại vướng quy định chỉ có Doanh nghiệp cổ phần mới
được phát hành cổ phiếu. Mà mục tiêu chính của việc cổ phần hóa của các Ngân hàng thương mại
Nhà nước là nhằm tăng vốn điều lệ chứ không phải huy động vốn. Vì vậy, để cổ phần hóa được,
theo Oâng Thúy – Nguyên Thống đốc Ngân hàng nhà nước đồng thời với quá trình xúc tiến đề án
phát hành cổ phiếu ưu đãi, Ngân hàng thương mại Nhà nước sẽ phải tìm được một đối tác chiến
lược tham gia quản trị điều hành theo đúng chuẩn mực quốc tế.
Giai đoạn 2: Tiến hành cổ phần hóa.
Để vấn đề cổ phần hóa thực sự có thể hoàn tất thì vấn đề lớn nhất là phải định giá Ngân hàng
thương mại nhà nước cần cổ phần hóa là bao nhiêu. Muốn vậy, phải thuê tổ chức tư vấn quốc tế
có kỹ năng kinh nghiệm.
Các phương pháp xác định giá trị Doanh nghiệp: phương pháp tài sản, phương pháp dòng tiền
chiết khấu và các phương pháp khác.
Phương pháp tài sản:
Giá trị thực tế của Ngân hàng thương mại nhà nước cổ phần hóa là giá trị toàn bộ tài sản hiện có
của Ngân hàng thương mại nhà nước tại thời điểm cổ phần hóa có tính đến khả năng sinh lời của
Ngân hàng thương mại nhà nước mà người mua, người bán cổ phần đều chấp nhận được.
Giá trị thực tế vốn nhà nước tại Ngân hàng thương mại nhà nước cổ phần hóa là giá trị thực tế của

Ngân hàng thương mại nhà nước sau khi đã trừ các khoản nợ phải trả, số dư Quỹ khen thưởng,
Quỹ phúc lợi và số dư nguồn kinh phí sự nghiệp (nếu có).
Khi cổ phần hóa toàn bộ tập đoàn, tổng Ngân hàng thương mại nhà nước thì giá trị vốn nhà nước
là giá trị thực tế vốn nhà nước được xác định tại tập đoàn, tổng Ngân hàng thương mại nhà nước.
Trường hợp cổ phần hóa Ngân hàng mẹ trong tổ hợp Ngân hàng mẹ – Ngân hàng con thì giá trị
vốn nhà nước được xác định tại tập đoàn, Ngân hàng mẹ.
Đối với các Tổ chức tài chính, Tín dụng khi xác định giá trị Doanh nghiệp theo phương pháp tài
sản được sử dụng kết quả kiểm toán báo cáo tài chính để xác định tài sản vốn bằng tiền, các khoản
công nợ nhưng phải thực hiện kiểm kê, đánh giá đối với tài sản cố định, các khoản đầu tư dài hạn
và giá trị sử dụng đất theo chế độ Nhà nước quy định.
Phương pháp dòng tiền chiết khấu:
Giá trị thực tế phần vốn nhà nước tại Ngân hàng thương mại nhà nước được xác định theo phương
pháp dòng tiền chiết khấu dựa trên khả năng sinh lời của Ngân hàng thương mại trong tương lai.
Trang 5

×