Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Tính triết luận, chính luận của Nguyễn Minh Châu Và Nguyễn Khải sau 1975

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (287.26 KB, 18 trang )

Ngay thi: 09/12/2016

Tiết bắt đầu: 1

Phòng: ND403

NGUYỄN MINH CHÂU
1. Tác giả.
− Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiêu biểu cho nền văn học Việt Nam hiện đại trong giai


2.



3.

đoạn kháng chiến chống Mỹ và thời kì đầu đổi mới.
Là một cây bút miệt mài cống hiến cho nghệ thuật “Ông là một tác giả dâng tặng ta
một thứ rượu ngon, được chưng cất kỹ lưỡng, khi uống phải chậm rãi, nhấm nháp và
khi uống là say”
Triết lý và quan niệm nghệ thuật.
Xã hội bước vào thời kì đổi mới, hoàn cảnh sống thay đổi, người đọc lúc này đã có
một trình độ tư tưởng văn hóa cao, họ tìm hiểu tác phẩm không chỉ với mong muốn
giải trí, mà còn tìm cho mình những lời giải đáp đúng đắn trước những băn khoăn day
dứt về những vấn đề đang đặt ra trong cuộc sống và ngay chính bản thân mình. Điều
đó đòi hỏi các nhà văn phải có nhiều đổi mới về tư duy nghệ thuật, tư duy sâu sắc hơn
về những chân lí cuộc sống, triết lý để nhìn nhận cuộc sống một cách sáng suốt.
Không ít tác giả đã đáp ứng được những yêu cầu đó, tiêu biểu là những truyện ngắn
của Nguyễn Minh Châu ra đời những năm sau 1975.
Trước 1975: chủ yếu hướng ngoại, khám phá, phản ánh những đề tài “sinh tử” của cả


cộng đồng và những người anh hùng, tái hiện bức tranh hoành tráng của dân tộc trong
cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại với bút pháp lãng mạn, mang nặng khuynh hướng sử
thi nhằm đáp ứng yêu cầu của lịch sử xã hội.
Sau 1975: chuyển ngòi bút của mình từ hướng ngoại đến hướng nội – đây cũng là sự
chuyển biến chung của cả nền văn học. Vì thế Nguyễn Minh Châu được đánh giá là
một trong những người đi tiên phong trong công cuộc đổi mới văn học sau 1975. Khi
trình bày những vấn đề đạo đức xã hội ông thường tập trung sự chú ý vào những diễn
biến sâu kín mang tính chất quy luật bên trong tâm lí con người – đi tìm “con người
bên trong con người”.
Nguyễn Minh Châu không chỉ thể hiện sự đổi mới của mình bằng những nổ lực cách
tân về nội dung mà bên cạnh đó còn là sự đổi mới về phương diện nghệ thuật: từ nhân
vật đến cốt truyện, nghê thuật trần thuật… tất cả đã cộng hưởng vào nhau để tạo nên
những giá trị chân lí trong các tác phẩm ra đời giai đoạn sau năm 1975.
Cốt truyện
3.1. Cốt truyện xây dựng trên nguyên tắc luận đề
− Vấn đề trung tâm cốt lõi của loại cốt truyện này là vấn đề nhận thức: nhận thức
của con người về xã hội và tự nhận thức về chính mình. Thông qua những
xung đột đầy nghịch lý hoặc những xung đột trong tâm lý của
con người xuất phát từ những tình huống bất ngờ, ngẫu nhiên
nào đó, dẫn con người tới sự phản tỉnh trong nhận thức về một
quan niệm, tư tưởng vốn có.
+ Chiếc thuyền ngoài xa. Cốt truyện tác phẩm này được xây
dựng dựa trên hai phát hiện của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng:
• Phát hiện thứ nhất: đầy lãng mạn, thơ mộng, huyền ảo. Ấy là
khi đôi mắt nhà nghề của anh đã phát hiện ra một vẻ đẹp
“trời cho” trên mặt biển mù sương như “một bức tranh mực
1


Ngay thi: 09/12/2016


Tiết bắt đầu: 1

Phòng: ND403

tàu của một danh hoạ thời cổ”. Toàn bộ khung cảnh từ đường
nét đến ánh sáng đều hài hoà và đẹp, một vẻ đẹp thật đơn
giản và toàn bích…”. Và tâm hồn người nghệ sĩ như được gột
rửa trở nên trong trẻo tinh khôi bởi cái đẹp hài hoà ấy.
• Nhưng ngay sau đó, phát hiện thứ hai đày nghịch lý trớ trêu
đến tàn nhẫn, để lộ ra cái mặt trái của cuộc đời. Đó là một
cảnh tượng quái đản, một người đàn ông độc ác, vũ phu đang
dùng một cái thắt lưng quật tới tấp vào lưng một người đàn bà
đầy cam chịu và nhẫn nhục. Cảnh tượng này đã gây một
“chấn động” tinh thần lớn lao đối với người nghệ sỹ.
Hoá ra, đằng sau cái vẻ đẹp đến “toàn thiện, toàn bích” kia
lại là một hiện thực đến trần trụi đến khắc nghiệt, là cái xấu
xa, độc ác đang hoành hành, là những cảnh đời khắc khổ, bất
hạnh đang tồn tại.
• Cuộc “đối chứng”: buộc người nghệ sĩ phải điều chỉnh lại cách
nhìn cuộc đời và con người của chính mình.
Từ xung đột đầy nghịch lý trong tâm lý người nghệ sỹ nhiếp
ảnh, ta thấy giữa Nguyễn Minh Châu và Nam Cao có sự gặp gỡ
trong quan điểm “nghệ thuật không cầnlà ánh trăng lừa dối,
không nên là ánh trăng lừa dối”. Tuy nhiên, có lẽ cái mà nhà
văn Nguyễn Minh Châu hướng đến không chỉ ở quan niệm
“nghệ thuật vị nhân sinh” mà còn đặt ra một vấn đề hết
sức quan trọng trong cuộc sống: vấn đề nhận thức. Trước
hiện thực cuộc sống muôn hình muôn vẻ, để nhận thức được
đúng bản chất của nó cần phải có cái nhìn đa diện và tỉnh táo,

đối với các nhà văn, vấn đề nhận thức này càng quan trọng
hơn. Đây cũng chính là ý nghĩa luận đề của truyện ngắn, điều
mà nhà văn luôn trăn trở, day dứt trong suốt cuộc đời cầm
bút, nhất là trong thập kỉ cuối đời, khuynh hướng nhận thức ấy
đã trở thành nét phong cách nổi bật trong truyện ngắn của
ông.
+ Trong Sắm vai cốt truyện dựa trên một triết lý nhân sinh sâu
sắc đã từng khiến Nguyễn Minh Châu trăn trở trong nhiều năm
trời, đó là vấn đề lựa chọn cách sống. Câu chuyện xoay quanh
những sinh hoạt hàng ngày tưởng như rất vặt vãnh, nhỏ nhặt
của một cặp vợ chồng. Để chiều lòng cô vợ trẻ xinh đẹp, nhà
văn T đã phải từ bỏ những thói quen hàng ngày đến phong
cách, nếp sống riêng. Anh luôn phải làm ra vẻ “trẻ trung”, giả
vờ “hốt hoảng”, “vội vã…cười ngặt nghẽo như một cái máy”…
Tóm lại là, anh đã phải “sắm vai” một cái “thằng tôi” khác, biến
thành một con rối ngoan ngoãn để người khác điều khiển, khiến
cho không chỉ người ngoài mà ngay chính anh cũng nhận ra cái
2


Ngay thi: 09/12/2016

Tiết bắt đầu: 1

Phòng: ND403

lố bịch đáng thương của mình và cuối cùng đã từ bỏ nó. Từ câu
chuỵện bề ngoài nhuốm vẻ giễu cợt, hài hước này tác giả đưa
tới một nhận thức: xung đột giữa bản ngã thực và những
vai diễn mãi vẫn là một xung đột vĩnh cửu của cuộc sống

bởi cuộc sống trong vai diễn bao giờ cũng là địa ngục. Vì
vậy con người hãy sống cho đúng cái bản ngã đích thực
của mình dù có phải thua thiệt hay khổ sở. Đây chính là ý
nghĩa luận đề của truyện ngắn nà.

3.2. Cốt truyện tâm lý.
− Trước 1975: các sáng tác của Nguyễn Minh Châu chịu sự chi phối của cảm
hứng lãng mạn và khuynh hướng sử thi nên cốt truyện hầu như tập trung vào
mô tả những hành động bên ngoài tạo nên những sự kiện, biến cố chính của
cuộc đời nhân vật như hành động của Lữ (Dấu chân ngưòi lính), Nguyệt (Mảnh
trăng cuối rừng)…
− Sau 1975: vẫn trái tim nhân hậu luôn yêu thương trăn trở, suy tư về con người
và cuộc đời. Cốt truyện của Nguyễn Minh Châu vì thế mà sớm chuyển hướng
tập trung vào những hoạt động bên trong - những trạng thái tâm lý, cảm xúc của
nhân vật.
− Cốt truyện tâm lý: là loại cốt truyện được xây dựng chủ yếu dựa trên quá trình
vận động, diễn biến tâm lý của nhân vật. Hạt nhân cốt lõi tạo nên kiểu cốt
truyện tâm lý trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu là quá trình diễn biến tâm
lý, những vận động trong tinh thần và tương ứng với nó là quá trình nhận thức
và tự nhận thức của nhân vật:
+ Cốt truyện Bức tranh được xây dựng dựa trên cuộc “tự thú” của nhân vật họa
sĩ. Có một anh bộ đội được giao nhiệm vụ thồ tranh cho người hoạ sĩ này và anh
ta đã cứu sống họa sĩ thoát khỏi nguy hiểm của dòng lũ cuốn. Cảm kích trước
hành động đó, người hoạ sĩ đã dồn hết nhiệt tình vẽ bức chân dung cho người
chiến sĩ và hứa sẽ gửi đến tận người mẹ của anh. Nhưng cuối cùng bức vẽ ấy đã
không được đưa đến gia đình người chiến sĩ như đã hứa mà trở thành tác phẩm
dự thi và đoạt giải thế giới. Sau nhiều năm, tình cờ, người hoạ sĩ gặp lại anh bộ
đội đó - bây giờ là một thợ cắt tóc và bà mẹ anh chiến sĩ đã bị loà vì khóc con
quá nhiều khi tưởng con mình đã hy sinh. Trước thực cảnh đó người hoạ sỹ đã
dằn vặt đau đớn và tự phán xét mình trước “toà án lương tâm”. Còn anh chiến sĩ

năm xưa vẫn thản nhiên, cẩn trọng làm công việc cắt tóc như không hề nhận ra
hoạ sĩ. Trong cảm hứng tự phán xét, hoạ sĩ đã vẽ một bức chân dung tự hoạ
nhằm thể hiện “khuôn mặt bên trong của chính mình”. Với một cốt truyện như
vậy, tác phẩm đã cuốn hút người đọc vào một trạng thái tâm lý phức tạp với
những diễn biến đa chiều trong quá trình tự vấn lương tâm của người hoạ sĩ.
Nhân vật hoạ sĩ tự lột mặt nạ, nhận ra bộ mặt bên trong tệ bạc, giả dối, một bộ
mặt xấu xí và lạnh lùng của bản thân mình: “có lẽ thật thế, trong con người tôi
3


Ngay thi: 09/12/2016

Tiết bắt đầu: 1

Phòng: ND403

đang sống lẫn lộn người tốt kẻ xấu, rồng phượng lẫn rắn rết, thiên thần và ác
quỷ?”. Ở đây, vấn đề mà Nguyễn Minh Châu đề cập trong cốt truyện Bức tranh
không chỉ dừng lại ở vấn đề đạo đức, nhâncách của con người trong và sau
chiến tranh, sâu hơn nó còn là vấn đề tự nhận thức lại của mỗi cá nhân trong
cuộc đời.
+ Cốt truyện chính của Cỏ lau xoay quanh quá trình diễn biến tâm lý đầy mâu
thuẫn, chồng chéo lên nhau, không thể giải quyết trong bi kịch của bộ ba nhân
vật chính (Lực- Thai- Quảng). Số phận cuộc đời của Lực thật nghiệt ngã trớ
trêu. Bước vào cuộc chiến tranh là anh thanh niên Lực mới ngoài hai mươi tuổi,
mới cưới vợ chưa được một tuần lễ. Khi trở về đã là một người lính già, một
người khác lạ không có ai chờ đợi bởi người cha, người vợ đã nghĩ anh hi sinh
trong chiến tranh. Lúc này Thai đã có gia đình mới và người cha anh cũng sống
ngay trong gia đình đó. Lực sống trong tâm trạng đau đớn, cố níu giữ những
giây phút hiếm hoi quý giá bên Thai sau hai mươi tư năm xa cách. Người chồng

hiện tại của Thai- Quảng thì lại không đủ sức dứt bỏ tình yêu đau đớn và cái tổ
ấm đang lung lay ấy. Còn Thai, người phụ nữ đứng giữa hai cuộc đời ấy, chịu
sự giằng xé của nhiều, vì thế cũng là người chịu nhiều xung đột nội tâm dữ dội
gay gắt nhất. Trong thế giới tinh thần của mỗi nhân vật ấy đều chịu những xung
đột và mâu thuẫn dữ dội giữa lý trí và tình cảm, giữa ước mơ và thực tế khắc
nghiệt., Nguyễn Minh Châu đã đặt lại cái nhìn về chiến tranh và hậu chiến
tranh. Một nhân vật trong truyện đã nói: “Chiến tranh làm người ta hư đi hơn
là làm người ta tốt hơn!”. Bên cạnh vấn đề chiến tranh, cốt truyện còn đề cập
đến vấn đề về con người: số phận con người bị đặt trong tất cả các mối quan hệ
trớ trêu của cuộc sống qua các bi kịch số phận Lực- Thai- Quảng mà không thể
giải quyết nổi; ở một góc khuất khác là vấn đề được- mất, thiện- ác, sự thay đổi
của con người trong và sau chiến tranh với những “kiểu ác mọc ra từ trong
máu, từ da thịt mình”
3.3. Cốt truyện dựa trên những tình tiết đời thường
− Sáng tác sau 1975 có một số truyện tưởng như “không có chuyện”. Đấy là loại
cốt truyện dựa trên những tình tiết đời thường.
− Cốt truyện dựa trên tình tiết đời thường là kiểu cốt truyện kể về “những sự việc
đơn giản, bình thường”. Kiểu cốt truyện này vắng bóng những thắt nút, mở nút
hồi hộp, chỉ là sự tái hiện những dòng đời đang trôi chảy.
+ Cốt truyện Mẹ con chị Hằng lại xoay quanh câu chuyện một bà mẹ (bà Huân)
ra Hà Nội quán xuyến công việc cho cô con gái (chị Hằng) đang kỳ sinh nở mà
chồng lại đi B. Tất cả tình tiết trong truyện chỉ quanh quẩn mấy việc hàng ngày:
nấu bữa cơm, bế đứa trẻ, vài câu cáu gắt, giận dỗi, nũng nịu…thói thường của
hai người đàn bà với nhau. Những câu chuyện tưởng như rất bình thường của
cuộc sống sinh hoạt hàng ngà nhưng lại tiềm ẩn một vấn đề rất cần báo động.
Người mẹ thương yêu, chiều chuộng con hết mức, vừa hi sinh thầm lặng vừa
nhẫn nhịn bao dung, nhưng đôi lúc chính lòng yêu thương đầy bản năng ấy của
bà đã làm cho con cái trở nên ích kỉ. Không chỉ có Hằng, cả đứa con gái lấy
chồng ở Quảng Ninh và cậu con út lấy vợ ở Vinh khi có công việc bận đều muốn
4



Ngay thi: 09/12/2016

Tiết bắt đầu: 1

Phòng: ND403

kéo mẹ về nhà. Nhưng cả ba người con ấy đều không ai nghĩ đến chuyện phụng
dưỡng mẹ già. Quan trọng hơn là tất cả họ đều coi đây như một việc rất đỗi bình
thường. Tái hiện những câu chuyện hàng ngày như thế Nguyễn Minh Châu
muốn thức tỉnh tình trạng vẫn diễn ra trong cuộc sống hàng ngày của mỗi chúng
ta: có những lúc chúng ta vẫn sống, vẫn cư xử ích kỉ và vô trách nhiệm đối
với cha mẹ và những người thân yêu như vậy.
 Tô Hoài đã nhận xét về Nguyễn Minh Châu: “Những cái tưởng như bình
thường lặt vặt trong cuộc sống hàng ngày, dưới con mắt và ngòi bút Nguyễn
Minh Châu đã trở thành những gợi ý đáng suy nghĩ và có tầm triết lý”
4. Nghệ thuật xây dựng nhân vật.
− Không chấp nhận văn học nhìn và phản ánh cuộc sống bằng cái nhìn hời hợt, sáo
rỗng theo kiểu công thức. Ông đã lánh xa lối văn chương chỉ ca ngợi một chiều và
dần dần lấy số phận con người “coi đó là điểm xuất phát, là chuẩn mực để nhà
văn soi ngắm và định giá thế giới” Chính vì thế ông đã dày công xây dựng nhân
vật của mình một cách thành công để an tâm gửi vào đó những tư tưởng triết lý
sâu sắc.
4.1. Xây dựng tâm lý nhân vật thông qua quá trình độc thoại nội tâm.
− Trước 1975: con người được các nhà văn nhìn bằng cái nhìn đơn giản, đánh giá
nhận xét bằng hành động. Trong khi đời sống tinh thần của con người thì cực kì
phức tạp như nhà thi pháp học Bakhtin nhận xét: “Con người không bao giờ
trùng khớp với bản thân mình (...) sự sống đích thực của cái Bản Ngã diễn ra
dường như chính ở cái điểm con người không trùng hợp với bản thân con người

ấy”. Tâm lý con người chính ở sự không trùng hợp, không đồng nhất với chính
mình. Như vậy, nhân vật của Nguyễn Minh Châu trước năm 1975 chưa hoàn
toàn có “sự sống đích thực của cái Bản Ngã”, tác giả chưa đi đến tận cùng tâm
hồn con người.
− Đến sau 1975: ông mới dồn hết tâm huyết, sức lực, tình cảm của mình đi tìm cái
“con người bên trong con người” của nhân vật, len lỏi vào những ngóc ngách sâu
kín nhất, miêu tả họ từ bên trong với những trạng thái tâm lý phức tạp. Các nhân
vật: “không giống bản thân mình”, không đồng nhất với chính nó. Hành động thể
hiện bên ngoài không đồng nhất với suy nghĩ bên trong, một hành động có thể
xuất phát từ nhiều động cơ tâm lý khác nhau và ngược lại một động cơ tâm lý có
thể phát sinh nhiều hành động khác nhau, vậy nên độc giả khi đọc tác phẩm của
Nguyễn Minh Châu, càng ngẫm nghĩ lại càng thấm thía và cảm thấy có cái gì đó
rất gần với mình.
− Thể hiện qua việc miêu tả tâm lí nhân vật thông qua quá trình độc thoại diễn
ra trong chính nhân vật, đó là những lời nhân vật tự nói với mình, tự bộc lộ những
suy tư thầm kín:
+ Nhân vật Lực trong Cỏ Lau là một ví dụ, ông là người lính bước ra từ chiến,
sau khi trở về lại tiếp tục nghĩa vụ thiêng liêng, trọn tình, trọn nghĩa với đồng đội
nơi chiến trường, vặt từng gốc cỏ lau để đem cho được nắm hài cốt còn lại của họ
trở về với gia đình, Lực là một hình mẫu lý tưởng để mọi người ngợi ca và thán
5


Ngay thi: 09/12/2016

Tiết bắt đầu: 1

Phòng: ND403

phục. Tuy nhiên không ai hiểu Lực bằng chính bản thân anh, dù quyết định một

lần nữa nhường lại hạnh phúc cho người khác“Song dù sao tôi cũng chỉ là một
con người, một người đàn ông, dù sao tôi cũng vẫn thấy một thoáng ghen tỵ với
cái người đàn ông đang hằng ngày sống với Thai, đêm đêm ngủ cạnh Thai”, qua
những lời độc thoại với chính mình, người đọc còn nhận ra ở Lực - một “con
người của chiến tranh” với tất cả sự ích kỉ hèn nhát và tàn nhẫn, gây ra cái chết
vô nghĩa, oan uổng cho một người lính dũng cảm, trẻ trung. Nguyễn Minh Châu
đã rất tinh tế trong việc phát hiện ra những diễn biến tâm lí nhân vật từ trạng thái
“giận cá chém thớt” với Phi đến nỗi đau bất lực khi linh cảm mơ hồ về hậu quả
của cái việc mình làm “Ngay lập tức tôi mơ hồ cảm thấy chỉ ít phút nữa cậu ta sẽ
chết, còn tôi như một người bị chính mình trói, bởi cái mệnh lệnh vô lý vừa ban
ra, tôi tức tốc chỉ muốn tự cởi trói để tự vùng chạy đi cứu lấy một cái gì rất mực
quý giá”. Rồi đến những diễn biến tâm lý của Lực trong buổi lễ hạ huyệt, khi đối
diện với tội lỗi của quá khứ, với nỗi đau hiện tại đang hiện hình trong tiếng khóc
của Huệ, lương tâm Lực lên tiếng xỉ vả, tố cáo mình một cách dữ dội và cảm giác
tự thú mãnh liệt tới mức đã tạo ra ảo giác về sự bị trừng phạt.  Con người
không ai là thánh nhân, dù có sáng suốt đến đâu cũng có lúc không kiểm soát
được chính bản thân mình.
− Thủ pháp nghệ thuật này không có gì là mới mẻ. Đại thi hào Nguyễn Du cách đây
hơn 200 năm đã từng sử dụng độc thoại nội tâm để miêu tả tâm lý và khắc họa
tính cách của Kiều, Mã Giám Sinh, Hoạn Thư,… và đầu thế kỷ này nhà văn Nam
Cao đã đặc biệt thành công trong cách dùng độc thoại nội tâm để xây dựng tính
cách như Chí Phèo, Hộ, Điền, Thứ, v. v. Trong văn học 1945-1975, do hoàn cảnh
của chiến tranh, con người ít có điều kiện và nhu cầu sống riêng với những suy
tư, trăn trở. Do vậy các nhân vật của Nguyễn Minh Châu trước năm 1975 ít khi
được miêu tả thật sâu đời sống nội tâm, chỉ đến sau năm 1975, hướng tới con
người trong bản chất Người, trong những mối quan hệ phức tạp của cái thế giới
tương quan, tương thông, nhà văn không thể chỉ đóng vai trò khách quan,
đứng ngoài quan sát, miêu tả nhân vật chỉ bằng những hành động hướng
ngoại mà phải giúp người đọc nhìn thấu những suy nghĩ bên trong của nhân
vật, độc thoại nội tâm là cách khai thác chiều sâu tâm lí nhân vật một cách

dễ dàng. Trong dòng độc thoại nội tâm, nhân vật tự đối thoại với chính mình
trong những trăn trở tìm kiếm chân lý, vươn tới hoàn thiện. Cả dòng độc thoại và
những cuộc đối thoại trong nội tâm nhân vật được Nguyễn Minh Châu sử dụng
khá điêu luyện, thể hiện trong các nhân vật tư tưởng, những nhân vật tự thú, sám
hối hoặc chiêm nghiệm lẽ đời như người họa sĩ trong Bức tranh, nhà văn trong
Một cuộc đối chứng, người thủ thành trong Dấu vết nghề nghiệp, Hạng trong
truyện ngắn cùng tên…:
+ Người họa sĩ trong truyện Bức tranh đã bị Nguyễn Minh Châu đẩy vào những
đòn tra tấn tâm lý dữ dội. Trong dòng độc thoại nội tâm, người họa sĩ đã dũng
cảm nhìn thẳng vào lòng mình, vào chỗ u ám, sâu kín nhất để tìm ra nguyên nhân
thật sự khiến ông thất hứa: đó là do hoàn cảnh? Hay do thói hám danh, sự đãng trí
6


Ngay thi: 09/12/2016

Tiết bắt đầu: 1

Phòng: ND403

vô ơn thường có trong mỗi con người ? Tự đối thoại với mình, người họa sĩ như
đang chịu một sự phân thân gay gắt:
Một nửa con người của ông, phần Còn một nửa thứ hai, phần gạn lọc tinh túy
khuất trong bóng tối, phần chất nhất, thật trung thực và nghiêm khắc bẻ
chứa
gãy mọi sự ngụy biện giả dối của lương
“rắn rết” và “ác quỷ” lên tiếng biện tâm để nhìn ra bản chất con người mình:
hộ cho thân chủ của mình vì cái lý “A ha! Vì mục đích phục vụ số đông của
do “nhân bất thập toàn”, sự đổ lỗi người nghệ sĩ cho nên anh quên tôi đi
cho hoàn cảnh thậm chí còn ngụy hả ... Có quyền lừa dối hả?. Qua độc

biện bằng tấm bình phong rằng thoại nội tâm, nhân vật họa sĩ đã hiện
mình phải “phục vụ cho một số lên trước mắt người đọc không chỉ là
đông người” nên hy sinh một cá một bài học tư tưởng thấm thía mà còn
nhân để vì cái đích lớn lao của cuộc là một nhân cách trong quá trình đấu
kháng chiến là điều nên làm
tranh tự hoàn thiện
Anh đã không cho phép tôi chạy trốn. Để rồi sau đó, anh lại tự tưởng tượng ra
những cuộc đối thoại phân thân của chính mình với anh thợ cắt tóc:“Bác là cái
ông họa sĩ ngày xưa đấy ư? Bác đã làm cho bà mẹ tôi khóc hết nước mắt để trở
thành mù lòa như thế kia? Được rồi, vậy thì xin mời ngồi vào đây!”. Cái cảm
giác bất an, lo lắng, khó chịu như những cuộc tra tấn tinh thần khiến người họa sĩ
ấy không có một phút giây bình yên, sống trong lo âu, sợ sệt còn đáng sợ hơn là
những cuộc hành hạ về thể xác. Người đọc đâu chỉ biết cười chê, chế nhạo
một con người đáng lên án như nhân vật họa sĩ, mà qua đó nhắc nhỡ phải
biết nhìn vào đó để soi dọi vào chính con người mình, nhận ra thói quen
ngoan cố chống đối, ngụy biện cho những tội lỗi, sai lầm của bản thân, dĩ
nhiên con người không ai là hoàn hảo, vì thế con người phải luôn đấu tranh
để hoàn thiện chính mình, dũng cảm đối mặt với nó là điều đáng ngợi ca.
4.2. Yếu tố ngoại hình và tên gọi
− Một biện pháp nghệ thuật mà Nguyễn Minh Châu dùng không nhiều xong lại rất
thành công vì biết đặt đúng chỗ: Yếu tố ngoại hình và tên gọi.
− Khắc họa ngoại hình không phải để nhà văn khoe trương tài năng trong việc miêu
tả chân dung nhân vật, mà quan trọng hơn, là qua đó ngầm thể hiện dụng ý của
tác giả từ hình tượng nhân vật. Nếu vẻ bề ngoài xấu xí của Thị Nở (Chí Phèo)
được Nam Cao đặc tả để thể hiện sự chối bỏ của xã hội đối với Chí Phèo thì với
Nguyễn Minh Châu, ông lại quan niệm nét xấu xí dị thường như sản phẩm của sự
tương tác lẫn nhau giữa con người và hoàn cảnh.
+ Người đàn bà làng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa: cao lớn, đường nét thô
kệch, tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng, khuôn mặt rỗ
nhợt

trắng vì kéo lưới suốt đêm. Hay hình ảnh người đàn ông: Tấm lưng rộng và cong
như một chiếc thuyền. Mái tóc tổ quạ, hàng lông mày cháy nắng rủ xuống hai
con mắt đầy vẻ độc dữ  Chỉ vài đường nét phác họa cũng đủ làm cho người đọc
hình dung về cuộc sống vất vả, lam lũ của con người miền biển, quanh năm phải
đối mặt với môi trường sống khắc, cùng miếng cơm manh áo.
7


Ngay thi: 09/12/2016

Tiết bắt đầu: 1

Phòng: ND403

+ Nếu trên kia là những nét điển hình của con người miền biển thì đến lão Khúng
trong Khách ở quê ra, là hình ảnh điển hình của người nông dân Việt Nam suốt
ngày “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” mà cả đời vẫn thiếu thốn. Chân dung
của lão được miêu tả: vừa gầy, vừa đen, vừa già lại vừa xấu”, hai bàn tay “đầy
những chỗ nổi u cục, các ngón vặn vẹo và bọc một lớp da giống như một thứ vỏ
cây và cả bàn tay lão giống y như một tòa rễ cây vừa mới đào ở dưới đất lên”,
cái mặt “có màu nước da tai tái và rám nâu với những đường nét gãy khúc đầy
khắc khổ, với những khoảng lồi lõm như những khoảng đất cày đắp lên tất cả
những nét miêu tả ấy làm người đọc như dự đoán được nét tính cách trái khoáy,
gàn dở của nhân vật.
− Song song với việc miêu tả ngoại hình, tên của nhân vật cũng có nhiều ý nghĩa, từ
những người không có tên như nhân vật “người đàn ông”, “người đàn bà” trong
Chiếc thuyền ngoài xa đến những nhân vật có những cái tên thật đẹp như Huệ,
Hùng, Dũng, Nghiên, Bút… lại thêm nhân vật có cái tên chẳng mấy gì tươi tắn,
sáng sủa như Khúng đều chứa đựng những dụng ý sâu xa của nhà văn.
+ “người đàn ông”, “người đàn bà”: chỉ chung cho số phận của rất nhiều con

người khốn khó vất vả của miền biển.
+ Lão Khúng trong Phiên chợ Giát: cái tên phần nào đã nói lên tính cách, số
phận của người nông dân quanh quẩn trong sự bế tắc, không lối thoát, cuộc sống
chỉ là những chuỗi ngày tối tăm, mù mịt. Đặt tên cho con là Nghiên, Bút: muốn
gửi gắm vào đó khát vọng đổi đời: con cái lão sẽ được học hành, sẽ không phải
sống cảnh rừng rú nhưng trong thực tế, lão lại từng biến Huệ từ một con gái thành
phố thành một mụ đàn bà đặc nông dân, với cái tính ky bóp, tham công tiếc việc
lắm điều.
+ Nhĩ trong Bến Quê – một cái tên đầy chất triết lý, triết lý. “Nhĩ” có nghĩa là
“tai”  đôi khi con người phải bình tâm, lắng nghe, để cảm nhận một cách
sâu lắng những thanh vị của cuộc đời. Người vợ của Nhĩ là Liên, tên một loài
hoa dân giã nhưng đượm sắc hương. Người đàn bà ấy chịu thương, chịu khó
chăm sóc cho chồng con: “Anh cứ yên tâm, vất vả, tốn kém đến bao nhiêu em với
các con cũng chăm lo cho anh được”. Vẻ đẹp của Liên bình dị, thuần khiết như
một đóa sen mà từ bấy lâu nay Nhĩ đã vô tâm để quên lại nơi trần thế này như
chính anh đã từng bỏ quên cái vẻ đẹp của bến quê hiền hòa trước nhà mình.
5. Nghệ thuật trần thuật
5.1. Điểm nhìn, chủ thể và ngôi trần thuật

Là vị trí mà người kể chuyện hoặc nhà văn lựa chọn để quan sát những sự việc
được phản ánh trong tác phẩm, điểm nhìn thể hiện phương thức tiếp cận của nhà
văn với hiện thực.

Là phương tiện thể hiện tư tưởng, quan niệm nghệ thuật của tác giả.
5.1.1. Ngôi thứ ba điểm nhìn bên ngoài
− Ở đó chủ thể trần thuật chỉ đóng vai trò là người quan sát, dẫn dắt và kể lại
câu chuyện, giữa nhà văn và nhân vật luôn tồn tại một khoảng cách. Nhà
văn là người biết hết mọi điều, thấu hết mọi lẽ, lèo lái câu chuyện đi theo ý
định của mình. Với cách trần thuật này rất thích hợp cho nhà văn phản ánh
8



Ngay thi: 09/12/2016

Tiết bắt đầu: 1

Phòng: ND403

các vấn đề thế sự, nhà văn đứng bên đường cuộc đời bằng sự quan sát tinh
tế đã phát hiện ra cái không bình thường trong cái bình thường của cuộc
sống và con người.
+ Để nhân vật tự bộc lộ tính cách của mình qua lời nói, cử chỉ, việc làm và
các mối quan hệ ứng xử khác đối với những người xung quanh. Cô Hoằng
trong truyện ngắn Lũ trẻ ở dãy K . Ngay từ đầu tác phẩm, người đọc được
biết đến nhân vật này qua lời nhận xét đánh giá chủ quan của chủ thể trần
thuật vắng mặt “Cô Hoằng là một người đàn bà miền Nam đã trạc xấp xỉ
năm mươi, rất thích ăn mặc và hay khoe.”, nhưng điều khiến mọi người ấn
tượng nhất khi nghĩ về cô đó là “tính nết cứ y như trẻ con, lắm khi đến
buồn cười ..cô là người tốt bụng nhất trong dãy, chả bao giờ biết thủ
đoạn, độc ác hay nói dối.” Bằng cách quan sát, phán đoán ở nhiều
khía cạnh: đôi khi con người ta cũng cần có một tâm hồn trẻ nhỏ
trong chính bản thân mình. Đó là sự hồn nhiên, vui tươi, vô tư sẽ làm
cho cuộc sống xung quanh mình thú vị hơn. Nhưng rồi suy nghĩ một
cách nghiêm túc, cái trẻ con, ngây thơ ấy chỉ phát huy tác dụng khi nó
dùng đúng chỗ, một người trưởng thành không thế cứ sống hồn nhiên mãi
được. Như việc cô đứng ra bảo lãnh cho Huấn và giúp nó hoàn lương
khiến cho mọi người càng yêu mến cô hơn. Nhưng mọi người cũng không
quên đã một lần bị hú vía vì tính đễnh đoảng, vội vàng của cô.
+ Câu chuyện được kể từ một chủ thể trần thuật ẩn danh nhưng quyền kết
thúc và tự rút ra vấn đề của chuyện lại thuộc về phần người đọc. Mẹ con

chị Hằng bất ngờ đánh thức người đọc những triết lý nhân sinh sâu sắc
“Đời con người ta vay của cha mẹ rồi trả cho con cái” là câu nói tự an ủi
trước sự đời bất thường nhưng lại được thốt ra một cách đầy trải nghiệm từ
một bà cụ già. Ở vị trí khách quan bên ngoài, vừa quan sát vừa thuật kể
câu chuyện đồng thời cũng tỏ ra đầy hoài nghi và băn khoăn: chuyện Mẹ
con chị Hằng có phải là phổ biến trong xã hội hiện tại? Nếu đã là phổ biến
thì vấn đề đạo đức và nhân cách trong quan hệ ứng xử giữa những người
thân trong gia đình rốt cuộc sẽ như thế nào trong sự vận động không
ngừng của cuộc sống sắp tới?
5.1.2. Ngôi thứ ba điểm nhìn bên trong
− Thâm nhập vào thế giới bên trong của nhân vật để thấy được những dòng
suy nghĩ thầm kín đang không ngừng vận động.
+ Nhĩ trong Bến quê là một trường hợp, Lần thứ nhất “Nhĩ nghĩ thầm”
khi nằm yên để vợ chải tóc. Lần thứ hai “Nhĩ vừa ngồi để vợ bón từng
thìa thức ăn vừa nghĩ”. Lần ba “Nhĩ nghĩ một cách buồn bã” khi thấy con
chùng chình việc phải làm. Lần thứ tư “Nhĩ chợt nhớ ngày anh mới cưới
Liên” khi dõi mắt nhìn sang bờ bên kia sông Hồng. Lần thứ năm “Nhĩ
đang nhìn thấy trong tưởng tượng…” khi thấy con đò đã qua quá nửa
sông.  Nguyễn Minh Châu đã từng bước thâm nhập và chiếm lĩnh thế
giới nội tâm nhân vật, như một sự hóa thân hoàn toàn. Người đọc có thể
bắt gặp ở đây lối viết vừa kể vừa tả tâm trạng nhân vật. Cho thấy một
9


Ngay thi: 09/12/2016

Tiết bắt đầu: 1

Phòng: ND403


triết lý: con người đến khi không còn khả năng đi lại mới nhận ra vẻ đẹp
của bãi bồi ngay trước nhà mình, sự tần tảo, hy sinh của người vợ
bao nhiêu năm chung sống cùng mình. Nhưng nhận ra để rồi nuối tiếc,
đau khổ vì sự bất lực của bản thân khi tất cả đã không thể thực hiện như
mình mong muốn. Đó là sự thức tỉnh sau một giấc ngủ dài mộng mị với
những vẻ đẹp xa vời mà quên lãng đi những giá trị gần gũi ở ngay bên
cạnh mình.
+ Phiên Chợ Giát, khi thì tác giả đứng ở ngôi chủ thể, khi thì hòa nhập
vào nhân vật, mượn điểm nhìn của nhân vật, nương theo dòng suy tưởng
của nhân vật để trần thuật, cách trần thuật này không lạ. Nhưng dòng suy
tưởng ấy cứ từng hồi rối rắm, mạch trần thuật cũng có vẻ lan man, không
chủ đích, cách trần thuật “lạ” này đã làm cho kết cấu tác phẩm có vẻ lỏng
lẻo, chắp vá giống như hình ảnh của những giấc mơ luôn có sự đứt nối
giữa các mạch đoạn. Giấc mơ ẩn ức, ham muốn lẫn sợ hãi dồn nén bởi
ban ngày của con người. Từ những giấc mơ của lão Khúng (lần thứ nhất:
lão mơ thấy mình là hung thần giết chết bò khoang; lần thứ hai: lão mơ
thấy chiếc xe chiếc xe đít tròn của chủ tịch Bời chạy là là trên mặt đất; lần
thứ ba: lão mơ thấy mình là bò, trong dạng thức nửa người nửa bò), quyết
định thả bò khoang vào rừng, người đọc có thể hiểu được nhân vật đang
chịu ám ảnh về giới hạn của sự sống và cái chết, nỗi băn khoăn và nhu
cầu được giải phóng mình khỏi cuộc sống vất vả hiện tại, cũng như niềm
dự cảm bắt nguồn từ kinh nghiệm sống của lão về con đường Hợp tác xã,
về cuộc “đại công nghiệp hoá” mà người đứng đầu Huyện đang hô hào và
thúc giục mọi người cùng tham gia.
5.1.3. Chủ thể trần thuật ngôi thứ nhất, người kể xưng Tôi, là cái Tôi hướng nội,
cái Tôi nhân chứng.  làm tăng tính thuyết phục
- Ở truờng hợp này, Tôi – nhân chứng trong truyện ngắn Nguyễn Minh
Châu thường là nhà văn, nhà báo, người nghệ sĩ...chứng kiến, cảm nhận và
thuật kể sự việc.
+ Cuộc gặp gỡ sau hai mươi năm xa cách của hai mẹ con được kể lại của

cái nhìn của người trần thuật ở đây là một anh nhà báo, từ sự cảm nhận về
hình thể, dáng đi của Toàn đến những nét tinh vi của đôi bàn tay, những
cảm giác khó tả của cái bắt tay cùng với chi tiết thật đắt giá khi người con
đưa tay lên ngửi mùi nước mắt của mẹ mình… dường như anh đã bắt trúng
mạch suy nghĩ và tất cả những điều thầm kín nhất của nhân vật. Là người
quan sát, tiếp xúc với Toàn trong cách cư xử với tất cả các mối quan hệ,
với từng loại người càng giúp anh nhận diện rõ hơn bản chất xấu xa, đê
hèn của Toàn.
5.1.4. Chủ thể trần thuật ngôi thứ nhất, người kể chuyện đồng thời cũng là chủ
thể trần thuật
− Nhìn chung, ở những truyện ngắn này, chủ thể trần thuật đồng thời cũng
là nhân vật chính thường có đời sống nội tâm phong phú, dễ xúc động,
giàu lòng yêu quý cái đẹp và không ngừng khát khao vươn tới sự tự hoàn
10


Ngay thi: 09/12/2016

Tiết bắt đầu: 1

Phòng: ND403

thiện bản thân. Đó là một anh chàng giàu trí tưởng tượng và thích đùa
(Sân cỏ ở Tây Ban Nha), là nhà văn (Chú chim, Một lần đối chứng), là
người hoạ sĩ (Bức tranh), là anh bộ đội trở về từ cuộc chiến (Cỏ lau)
+ Ở Bức tranh, nhân vật họa sĩ đã bộc lộ tâm trạng của mình, đối diện với
mình trong những cuộc chất vấn lương tâm căng thẳng, Tự nguyện ép
buộc mình vào một phiên tòa do chính lương tâm đặt ra, không cho phép
mình có cơ hội chối bỏ quá khứ, chối bỏ tội lỗi của bản thân, tự “hành tội”
mình bằng cách trở đi trở lại cái quán cắt tóc của người lính năm xưa. Quá

trình tự vấn lương tâm để tìm về bản ngã đích thực của con người được
Nguyễn Minh Châu xây dựng thành công ở nhân vật Lực nhờ một phần rất
lớn vào việc sử dụng ngôi kể thứ nhất để trần thuật. Lực có dịp nhìn lại
những mất mát, đau thương mà chiến tranh đã mang đến cho mình, bên
cạnh những chiến công sáng ngời là những sai lầm không thể cứu vãn.
Sự ích kỉ, nhỏ nhen luôn hiện hữu trong mỗi con người đôi nó vượt
ra khỏi vòng kiểm soát của lương tâm một cách vô thức làm cho con
người trở thành “quỷ dữ”. Con người không ai hoàn hảo, song cuộc
đấu tranh để tìm đến sự hoàn hảo chính là điều đáng ca ngợi và tôn
vinh, không ai không mắc sai lầm mà cái quan trọng phải biết nhìn lại
và sữa chữa nó là điều thật sự cần thiết.
+ Trong Một lần đối chứng là một nhà văn – là người mang nỗi đau mất
mát của người trong cuộc. Từ góc nhìn chủ quan của bản thân, Tôi đã
không ngại trực tiếp bày tỏ cảm xúc của mình trước hai con vật rất bình
thường: một con mèo hoang và một con mèo nhà. Người đọc có thể cảm
nhận được ở đây tất cả sự căm ghét và ghê tởm của Tôi khi tiếp xúc với
con mèo hoang bệnh hoạn, bẩn thỉu. Trong khi đó, Tôi lại tỏ ra yêu quý rất
mực cô mèo nhà của mình – cô gái nhà lành xinh đẹp và hiền ngoan. Câu
chuyện kết thúc trong bi kịch với cái chết của lũ mèo con và nỗi đau thất
thần của cô con gái nhỏ. Chủ thể trần thuật xưng Tôi đã trực tiếp giãi bày
những suy tư, chiêm nghiệm của bản thân về tình yêu thương, sự trân
trọng nâng niu tâm hồn con trẻ trước sự vấy bẩn của tội ác giết chóc. 
Khép lại trong sự trở về với bản năng hoang dại và man rợ của loài vật ,
câu chuyện là tiếng nói cảnh báo của tác giả đối với con người về ranh
giới mong manh nhưng cũng thật rạch ròi giữa cái xấu và cái ác; cái
thánh thiện của phần thiên lương đáng quý và sự độc ác giả trá ủ mầm
trong bản năng của mỗi giống loài.
5.1.5. Chủ thể trần thuật ngôi thứ nhất, người kể chuyện vừa là nhân chứng vừa
là nhân vật chính
+ Quỳ vừa là nhân vật chính trong “câu chuyện đời tự kể” vừa là chủ thể

trần thuật chính của câu chuyện. Tác giả trao cho Quỳ quyền tự do bộc
bạch tâm sự của mình, từ những băn khoăn, trăn trở của Quỳ, Quỳ rút ra
những chiêm nghiệm: “Cuộc đời không có thánh nhân, cũng như không
có một người nào mà tâm hồn hoàn toàn không thể cứu chữa được”. Đấu
tranh để vượt lên chính mình là cuộc đấu tranh chính đáng nhất, chúng ta
11


Ngay thi: 09/12/2016

5.2.






Tiết bắt đầu: 1

Phòng: ND403

sẽ có được nhiều hơn những điều chúng ta mong muốn khi con người biết
cố gắng hơn những gì mình đang làm và dự định sẽ làm, đó là cách ta dần
hoàn thiện chính mình, cuộc sống sẽ trở nên ý nghĩa và tươi đẹp hơn.
Giọng điệu trần thuật giàu chất triết lý
Sáng tác của Nguyễn Minh Châu trong những năm sau này, hướng vào việc
phản ánh các vấn đề thế sự kéo theo là sự thay đổi giọng điệu mang đậm màu
sắc triết lý.
Đa giọng, đa thanh  cái cao thượng, cái ti tiện, cả cái bi lẫn cái hài
+ Bức tranh, Nguyễn Minh Châu đã chọn chỗ đứng bình đẳng với nhân vật để

cho nhân vật nói thật tiếng nói của mình, làm người đọc khó nhận ra đâu là
tiếng nói của nhân vật, đâu là giọng của tác giả: “Hàng ngày anh vẫn cứ nói
đùa một cách độc đáo với bạn rằng: Tạo hóa nặn ra muôn loài...để nặn ra
anh?”. Cuộc độc thoại nội tâm mang tính chất là một cuộc đối thoại với nhiều
giọng điệu: khi thì mỉa mai, giễu cợt, khi thì tư biện, khi thì đanh thép ...nhưng
nổi bật lên vẫn là giọng điệu khắc khoải, thâm trầm của một tâm hồn bị nổi đau
tinh thần giằng xé:“Đồ dối trá, mày hãy nhìn coi, bà mẹ tao khóc đã lòa cả hai
mắt kia!...Thật là danh tiếng quá!”. Vị chua chát đắng cay của cuộc đời thường
chen vào giọng kể của Nguyễn Minh Châu và đằng sau những điều tưng hửng,
bàng quan là những lẽ đời sâu sắc.
+ Giọng điệu triết lý xuất hiện trong lời nói của Anh T trong Sắm vai: “Trong
những cái đánh mất, có thể đánh mất vàng bạc châu báu, nhưng
không thể được đánh mất mình”. Một sự chiêm nghiệm nhẹ nhàng mà thật
đúng đắn khi con người phải được sống là chính mình.
Giọng điệu trữ tình. Tuy nhiên giọng điệu trữ tình, có phần trầm
lắng hơn, đượm nhiều trắc ẩn hơn so với trước đây.
+ Trong hai truyện Chiếc thuyền ngoài xa và Phiên chợ Giát là những truyện
khá tiêu biểu về giọng điệu, vẫn còn một chút gì đó vương vấn hương vị trữ
tình, nhưng chất trữ tình ấy đã có vẻ thâm trầm hơn thể hiện sự trải nghiệm
trong chiều sâu của sự suy ngẫm, lý giải

+ Hay ở Bến Quê, chất giọng triết lý này được thể hiện đằm sâu trong niềm
thao thức của Nhĩ về một bến đỗ bình yên và hạnh phúc “Lần đầu tiên Nhĩ để ý
thấy Liên mặc tấm áo vá”. “Nhĩ đã tìm thấy được nơi nương tựa là gia đình
trong những ngày này” , giọng điệu trần thuật suy tư, nhẹ nhàng xong thế hiện
một sự chiêm nghiệm về triết lý nhân sinh, những quy luật vĩnh hằng trong cuộc
sống qua bao điều nghịch lý trớ trêu.
6. Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện.
− Khi viết truyện ngắn, các nhà văn hết sức quan tâm đến việc xây dựng tình huống
truyện, chính Nguyễn Minh Châu cũng vậy, việc xây dựng tình huống truyện được

coi là một nhân tố làm nên chất triết lý trong các sáng tác của Nguyễn Minh Châu
trong những năm gần đây.
Trước 1975, tình huống truyện của NMC Sau chiến tranh, đặt nhân vật trong
không mấy gì đặc biệt. Để thể hiện tư tưởng những tình huống nhận thức, đối
12


Ngay thi: 09/12/2016

Tiết bắt đầu: 1

Phòng: ND403

yêu nước, hy sinh vì Tổ quốc, nhân vật thường mặt với một bài học nhận thức,
được ông đặt vào các tình huống giao tranh những vấn đề nhân sinh cần phải vỡ
căng thẳng giữa cái chung và cái riêng, giữa sự lẽ, giác ngộ
sống và cái chết để cuối cùng cái chính cần
làm nổibật lên vẫn là phẩm chất anh hùng.
+ “Chiếc thuyền ngoài xa”. Việc chứng kiến người chồng vũ phu đánh đập dã man
vợ của mình còn người đàn bà cam tâm chịu đựng sự hành hạ đó không một lời than
vãn là một nghịch cảnh đối lập hoàn toàn với những gì người phóng viên Phùng đã
nghĩ. Tình huống càng trở nên đắt giá khi người phóng viên hiểu được cái lí do sâu xa
khiến cho cuộc sống vợ chồng của những người ngư dân này luôn luôn là như vậy,
người đàn bà ở trên thuyền không thể thiếu được chỗ dựa của một người đàn ông, còn
người đàn ông đánh vợ đó chẳng qua là cách giải tỏa nỗi ức chế về nỗi khổ đông con
và cái đói cái nghèo cứ vây hảm lấy cuộc đời của họ. Tình huống đó đã buộc người
phóng viên nhận thức ra quan điểm nhìn nhận về nghệ thuật của mình, những điều
đang tồn tại ngoài cuộc sống một cách hiển nhiên, nhưng đối với những người nghệ sĩ
như Phùng còn quá ư mới mẻ.
+ Sự thức tỉnh trong Bến quê, nhân vật Nhĩ “người từng đi không sót một xó xỉnh nào

trên trái đất” cho đến lúc ốm liệt giường mới phát hiện ra việc mình “để quên” cái
bến sông quê tuyệt đẹp ngay trước nhà mình và ước ao được đặt chân đến đó. Nhưng
không thực hiện được ước nguyện cuối cùng của mình, con trai anh lại đi vào sai lầm
ngày còn trẻ của anh, nó cứ sà vào hết chỗ này đến chỗ khác làm lỡ mất chuyến đò
duy nhất trong ngày, nó lại lãng phí thời gian khi chưa nhận ra được vẻ đẹp ở cái bãi
bồi bên kia sông. Tình huống trong Bến quê đến gần cuối đời mới chiêm nghiệm
và nhận ra những chân lý.
+ Nếu người họa sĩ trong Bức tranh không có lương tâm thì anh vẫn có quyền chối
bỏ lỗi lầm của mình trong quá khứ bằng những lời biện minh khôn ngoan mà không ai
có thể trách cứ chê bôi anh được. Mặt khác, nếu người thợ cắt tóc là anh lính năm xưa
chỉ cần tỏ thái độ rằng mình đã nhận ra người họa sĩ thì tình huống truyện đã khác.
Đằng này, người thợ cắt tóc vẫn cần mẫn hành nghề dưới một vẻ ngoài lạnh lung bình
thản và chính thái độ đó đã đánh thức lương tâm cùng thói sĩ diện thường tình của
người tri thức vốn chưa bị mất trong con người họa sĩ, đã dẫn đến việc anh trở đi trở
lại cái quán cắt tóc. Cũng từ đó những cuộc đối thoại ráo riết, càng ngày càng căng
thẳng buộc bản thân người nghệ sĩ phải nhận thức lại mình.
NGUYỄN KHẢI
1. Tác giả
− Là một trong những gương mặt nổi bật của thế hệ nhà văn trưởng thành sau cách

mạng tháng Tám 1945.
− Chủ đề các tác phẩm của Nguyễn Khải khá phong phú: về nông thôn trong quá trình

xây dựng cuộc sống mới, về bộ đội trong những năm chiến tranh chống Mỹ, về
những vấn đề xã hội-chính trị có tính thời sự và đời sống tư tưởng, tinh thần của con
người hiện nay trước những biến động phức tạp của đời sống.
13


Ngay thi: 09/12/2016


Tiết bắt đầu: 1

Phòng: ND403

− Sáng tác của Nguyễn Khải thể hiện sự nhạy bén và cách khám phá riêng của nhà văn

với các vấn đề xã hội, năng lực phân tích tâm lý sắc sảo, sức mạnh của lý trí tỉnh táo.

2. Triết lý và quan niệm nghệ thuật.
− Trước 1977:

+ Tìm hiểu những mâu thuẫn căng thẳng và phản ánh cuộc đấu tranh quyết liệt giữa
hai thế lực là bọn phản động đội lốt thầy tu và những người cách mạng. Kéo người
dân từ dưới đáy vực sâu của sự ngu dốt, mê muội, đưa họ lên trên mặt đất để nhìn mọi
vật dưới ánh sáng thật của ban ngày
+ Quan tâm: giải phóng tâm hồn con người, sự hồi sinh tâm hồn họ
+ Đòi hỏi người cán bộ lãnh đạo phải có “ Tầm nhìn xa”, thoát khỏi cái “tôi” cá



nhân ích kỷ đang ràng buộc.
+ những chiêm nghiệm, suy ngẫm của ông do bị chi phối bởi cách nhìn và cách
đánh giá con người, đánh giá đời sống chỉ trên bình diện xã hội chính trị cho
nên vẫn chưa hề vượt ra khỏi phạm vi đời sống chính trị, đạo đức cách mạng.
cách giải quyết vấn đề không sao tránh khỏi công thức hoặc mang nặng tinh
thần giáo huấn.
Sau 1977: Trong sự chuyển biến chung của văn học thời đại, tiếp tục bám sát
những vấn đề về của đời sống chính trị xã hội. Nếu trước đây ông nhìn con
người ở góc độ lý tưởng phục vụ cho lý tưởng của thời đại, phục vụ cho mục

đích chính trị thì giờ đây con người còn được nhìn nhận ở tư cách cá nhân với
những mối quan hệ đa chiều của cuộc sống. Chất chính luận trong các sáng tác
trước đây chuyển thành những triết luận về con người.
3. Cốt truyện
− Do ý thức bám sát hiện tại nên tác phẩm của ông thường giàu tính thời sự và

mang đậm chất kí  khiến cho việc xây dựng cốt truyện thường đơn giản. Nhưng
Nguyễn Khải luôn cố gắng tổ chức theo một hình thức nhất định để làm nổi rõ
những nội dung triết luận.
3.1. Cốt truyện xây dựng trên tình huống gặp gỡ của các nhân vật
− Thông thường trong những cuộc gặp gỡ, bao giờ cũng xảy ra đối thoại,
tranh luận, trò chuyện, giãi bày suy ngẫm triết lý về đời sống.
+ Gặp gỡ với hai ông già ở Đồng Tháp Mười, nghe nhân vật kể về cuộc
đời, về số phận chìm nổi của mình mà tác giả suy tư sâu xa về tiềm lực sống,
về những giá trị cao quý của tình người. Một ông già đã ở tuổi “xưa nay
hiếm” mới thấm thía sâu sắc cái tình người đầy bao dung nhân ái.
+ Cuộc gặp gỡ với cặp vợ chồng dưới chân động Từ Thức lại giúp tác giả suy
ngẫm về nghị lực cao quý của những con người trong hoàn cảnh nghèo khó
mà vẫn luôn có ý thức tạo dựng được niềm tin, được nụ cười.
+ Cuộc gặp gỡ với ông Quải (Giận ông giời), với anh Dụ (Nghệ nhân của
làng)  suy tư về hạnh phúc, về số phận của con người trong xã hội.

14


Ngay thi: 09/12/2016

Tiết bắt đầu: 1

Phòng: ND403


+ Cuộc gặp gỡ của các nhân vật trong Chúng tôi và bọn hắn tạo điều kiện để
nhân vật được đối thoại, tranh biện, triết lí về giá trị, lối sống gắn với từng
lớp người, từng thời thế..
3.2. Cốt truyện xuyên suốt cuộc đời nhân vật
− Cốt truyện ở đây theo lời thuật kể của nhà văn, mà không theo kiểu cốt
truyện truyền thống nên hầu như không có cao trào, thắt, mở nút. Dòng đời
trong truyện cứ trôi chảy tự nhiên như bản than cuộc sống vốn đang dang dở,
bề bộn, nhiều chiều, nhiều cung bậc.
+ Ở những tác phẩm như Nếp nhà, Tiền, Người của ngày xưa, Danh dự… cốt
truyện được xây dựng theo diễn biến suốt cuộc đời nhân vật. Cô Hiền trong
Một người Hà nội:
• Lúc còn son trẻ, đến gần 30 tuổi cô mới lấy chồng, sau khi thực hiện thiên
chức của một người mẹ - sinh con gái út thì cô đã 40 tuổi, cô tính toán rất
chu đáo, đến 60 tuổi mắt mờ chân yếu thì cô con út cũng 20 đã tự lập
được  hiểu biết về cuộc đời, cô luôn sống tốt cho gia đình và tổ quốc,
sau bao thăng trầm của đất nước vẫn giữ được phẩm chất cốt cách truyền
thống của người Hà Nội
Nhà văn tạo dựng kiểu cốt truyện này để chiêm nghiệm về lẽ sống, về
những giá trị mà con người tạo nên cho mình và đóng góp cho đất nước
qua nhiều giai đoạn lịch sử.
3.3. Cốt truyện kết nối từ nhiều câu chuyện khác nhau
Từ những mẩu truyện có vẻ rời rạc, tản mạn, nhà văn kết nối lại để
người đọc cùng suy ngẫm, chiêm nghiệm về bao nhiêu sự phức tạp, đa đoan
của cuộc đời.
+ Như Đất kinh kỳ, Sống ở đời là những truyện có cốt truyện rất tản mạn.
+ Ở Đất kinh kỳ, tác giả kể về cuộc sống của nhiều nhân vật trong những hoàn
cảnh khác nhau: Nghĩa tình sâu nặng của vợ chồng Hồ DZếnh; cái thú của nhà
văn Kim Lân khi gác bút chơi cây cảnh; cái mộc mạc chân chất của anh Trần
Quốc Tiến - nhà văn của làng…

+ Sống ở đời gồm mười mẩu truyện khác nhau về những kiểu người trong cái
xã hội đầy phức tạp của thời kinh tế mở cửa. Mỗi mẩu chuyện là một cảnh đời:
trí thức, bộ đội về hưu, kẻ đã từng là quan chức cấp cao, người làm thợ…
4. Nghệ thuật xây dựng nhân vật.
4.1. Thuật kể bao quát về số phận và cuộc đời nhân vật
- Thuật lại một cách tóm lược các sự kiện, biến cố trong đời sống của nhân vật hơn
là miêu tả tỉ mỉ các chi tiết.
- Sử dụng lối thuật kể, nhà văn đã thể hiện cái nhìn bao quát về số phận cuộc đời
nhân vật để từ đó triết luận về cuộc đời:
+ Triết lí về tiềm lực sống thông qua nhân vật ông Ba Quốc hội những suy
ngẫm về sức mạnh của con người biết vượt lên mọi thời thế và hoàn cảnh.
+ Gặp lại những con người trên mảnh đất Đồng Tiến như anh Phúc, anh Khang
(Cái thời lãng mạn) nhà văn có dịp nhìn lại cả một quá trình chuyển biến về nhận
thức của mình, của văn học thời đại. Suy nghĩ của nhân vật Khang cũng là triết lý
15


Ngay thi: 09/12/2016

Tiết bắt đầu: 1

Phòng: ND403

của bao người về một thời “sống cho mình và cho xã hội với bao nhiêu là mơ
mộng, thật giả….niềm vui nào khác”
+ Thuật kể bao quát về cuộc đời của bà Bơ (Nắng chiều)  rút ra những suy
ngẫm sâu xa: “Một đời của bà Bơ có cái gì của riêng mình đâu, đến một thằng
đàn ông của riêng mình cũng không có… hãnh diện lắm”
4.2. Xây dựng tâm lý nhân vật thông qua quá trình đối thoại và độc thoại nội tâm.
• Đối thoại

− Trong cuộc đối thoại chan chát, nảy lửa giữa người kể và nhân vật trong Chúng
tôi và bọn hắn, cuộc đối thoại của hai thế hệ ở hai thời cuộc khác nhau ấy thể
hiện những quan niệm, những triết lí khác nhau về cuộc sống.
- Tôi hỏi: anh không thích nói chuyện với bọn tôi à.
- Nó nhè miếng xương nhăn mặt: “Toàn chuyện ông này ra, ông kia vào, ông
này lên, ông kia xuống; chuyện của các cơ quan quyền lực dính líu gì đến bọn
cháu”.
- Quyền lực vẫn chỉ huy kinh tế đấy anh ạ.
- Nó cười “danh nghĩa là thế còn thực chất vẫn là tiền chỉ huy. Đồng tiền lớn
chỉ huy đồng tiền bé, chúng cháu chỉ có một ông chủ
thôi, đó là thị trường, mà quy luật của thị trường thì biến mất nên dễ úng xử
lắm”.
 Cuộc đối thoại đã diễn tả sự cọ xát của hai luồng tư tưởng: một bên khăng
khăng bảo vệ những quan điểm chuẩn mực đã có từ bao năm về cuộc sống,
về nghệ thuật, còn một bên muốn đặt đồng tiền như một tiêu chí để định đọat
mọi vấn đề. Sự khác biệt giữa hai thế hệ: già và trẻ, quá khứ và hiện tại 
triết luận về lối sống của từng lớp người trong xã hội.
− Cuộc đối thoại của ông Sính (Ông trưởng họ) với mong muốn làm sống lại
những trang sử hào hùng của một dòng họ:
- Cái đời thứ 35 của tôi, của chú coi như bỏ nhưng chúng ta có trách nhiệm với
những đời sau. Phải dạy cho chúng nó biết sống dũng cảm, sống vị tha và
dám hi sinh (…) Các cách sống ấy rồi sẽ trở thành một truyền thống mới của
dòng họ,
- Cái công việc bạc bẽo của anh sẽ khong ai dám tiếp nối đâu. Anh mất đi là
anh em, con cháu lại rời xa như cát. ….
 Trong đoạn đối thoại trên nhân vật sử dụng lời đối thoại với giọng triết lí.
Người đọc nhận ra ở đây bản lĩnh của một con người dám sống cho một
niềm tin đầy trách nhiệm với thế hệ sau, khi chiêm nghiệm về cái đượcmất, đúng - sai, xấu - tốt của thế hệ mình
Độc thoại: khám phá chiều sâu nội tâm nhân vật  thể hiện triết lý về cuộc
đời

− Ông Trác (Lạc thời) đau đớn, nhức nhối về vấn đề nhân sinh, thế sự, về sự
giả dối của người đời. Cái cảm giác bị bỏ quên cứ xoáy vào lòng ông như
một lưỡi dao oan nghiệt. Ông nuối tiếc cái ngày xưa, “cái thời gian nan
nhưng bạn bè ấm cúng…một ngày thật buồn”
16


Ngay thi: 09/12/2016

Tiết bắt đầu: 1

Phòng: ND403

Người ông (Ông cháu) đã bao lần dằn vặt nội tâm qua lời độc thoại:
“Tại sao ông lại khỏe thế mà con ông lại bệnh tật thế? Tại sao ông không
chết mà con ông lại chết để vợ con nó chịu cảnh góa bụa sớm? …”. Những
lời day dứt ấy bắt nguồn từ một trái tim nhân hậu, bao dung giàu đức hi
sinh
5. Nghệ thuật trần thuật
5.1. Điểm nhìn, chủ thể và ngôi trần thuật.
5.2. Giọng điệu trần thuật
− Trước 1977: giọng điệu khẳng định, ngợi ca với thái độ tin tưởng, lạc quan bao
trùm hầu khắp các tác phẩm của các tác giả. Sáng tác của Nguyễn Khải nằm
trong mạch chung ấy, nhưng nhà văn vẫn tạo cho mình một chất giọng riêng vừa
chứa đựng sự lạnh lùng, tỉnh táo thể hiện tính luận đề, lí sự khô khan.
− Sau 1977:
• Giọng triết lý tranh biện mang tính đối mặt. Các nhân vật bị cuốn hút vào
câu chuện để bàn bạc, tranh luận về một vấn đề nào đó. Chẳng hạn trong
cuộc đấu lý của 2 con người thuộc 2 thời cuộc khác nhau (Chúng tôi và bọn
hắn, Người kể chuyện thuê…);

• Nếu trước đây nhà văn “thường đứng cao hơn nhân vật để phân tích”
thì những năm gần đây tác giả đã tạo cho nhân vật khả năng làm chủ, có
một giọng điệu riêng. Từ đó xuất hiện giọng văn đa thanh, đa giọng điệu và
vì thế mà màu sắc triết luận cũng phong phú hơn:
+ Giọng điệu trải nghiệm cá nhân: thể hiện mong muốn đúc kết một vấn đề
nhân sinh sau một thời gian dài tự nghiệm: “mới biết thời thế đã đổi thay,
một đời người là ngắn ngủi. Đã ngắn lại còn những giấc mộng hão huyền,
những tham vọng vớ vẩn, nhưng việc làm vô ích và buồn cười”. Khi nhà văn
đã ở vào cái tuổi “Tri thiên mệnh” “ngẫm lại nhiều đời người, tôi được biết
dẫu không tin vẫn phải tin là con người ta quả có số thật…”. Giọng điệu trải
nghiệm cá nhân chứa đầy nỗi niềm suy tư như kéo người đọc lại gần để tâm
sự, giãi bày, chia sẻ.
+ Giọng điệu ngậm ngùi tiếc nuối. “Lúc khôn ra, hiểu ra, tỉnh ra thì già mất
rồi, làm lại không được nên buồn, buồn và giận, iận mình là chính chứ
không giận đời”
+ Giọng hài hước, hóm hỉnh: Trong Nắng chiều, nhà văn nhập trong vai
người kể để cùng bàn cãi triết lí và nhất là thể hiện chất giọng hài hước, bông
lơn, dí dỏm đầy chất nhân văn - “Cái sức mạnh thầm kín nào đã khiến một
bà lão trẻ hẳn lại (…), còn dám tính toán cả việc tương lai? Là tình yêu
chăng. Này các bạn trẻ, các bạn các bạn chớ vội cười (…) chớ có tự phụ
rằng chỉ ở lứa tuổi các bạn mới biết mãnh lực của tình yêu (…) Các bà nội
cũng vẫn có, nếu như cái ma lực ấy các cụ không tiêu sài quá phung phí lúc
thiếu thời”
 Giọng điệu hài hước của Nguyễn Khải không mang tính chất mỉa mai châm
biếm như Vũ Trọng Phụng mà nhẹ nhàng “mỉm cười hiền lành, vui một chút
nghịch một chút cho câu chuyện được đậm đà”. Có khi lại là tự trào khi giễu


17



Ngay thi: 09/12/2016

Tiết bắt đầu: 1

Phòng: ND403

mình trước lúc giễu người “Văn tôi (…) người ra kẻ vào ồn ào (..) chõ vào
mặt nhau mà nói, lý sự”. “Văn anh buồn (…) chữ nghĩa mệt mỏi, nhưng đã
đọc thì không thể quên, nó dính vào da thịt mình đến tận bây giờ”
 Giọng điệu hài hước hóm hỉnh tuy không phải là giọng “chủ âm” nhưng góp
phần tạo nên phong cách triết luận riêng của Nguyễn Khải. Điều đó không
dễ nhận thấy mà người đọc phải nghiền ngẫm mới hiểu được ý nghĩa triết
lý sâu xa đằng sau mỗi nụ cười ấy

18



×