Tải bản đầy đủ (.pdf) (129 trang)

Luận văn nghiên cứu các bài tập nhằm phát triển sức mạnh tốc độ kỹ thuật đòn tay cho nam vận động viên karatedo đội tuyển quốc gia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (857.4 KB, 129 trang )

i
MỤC LỤC
Trang bìa
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục chữ viết tắt, ký hiệu và đơn vị đo lường sử dụng trong luận án
Danh mục bảng, biểu đồ, hình vẽ trong luận án

Trang

PHẦN MỞ ĐẦU

1

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

4

1.1

4

Xu thế phát triển Karatedo trên thế giới và ở Việt Nam

1.1.1 Lịch sử phát triển Karatedo trên thế giới
1.1.2 Lịch sử phát triển Karatedo ở Việt Nam
1.1.3 Xu thế phát triển Karatedo hiện đại

4
9


10

1.2

Một số đặc điểm cơ bản trong huấn luyện kỹ thuật đòn tay môn
Karatedo

12

1.2.1 Đặc điểm kỹ thuật trong thi đấu thể thao
1.2.2 Đặc điểm kỹ thuật trong môn Karatedo
1.2.3 Đặc điểm về tâm lý vận động của VĐV nam ĐTQG trong thi đấu đối
kháng môn Karatedo
1.2.4 Đặc điểm huấn luyện kỹ thuật trong môn Karatedo
1.2.5 Hệ thống kỹ thuật đòn tay trong thi đấu Kumite

12
15
18

1.3

25

Đặc điểm phát triển sức mạnh tốc độ trong môn Karatedo

21
23

1.3.1 Đặc điểm phát triển tố chất thể lực trong môn Karatedo

1.3.2 Đặc điểm về phát triển tố chất sức mạnh tốc độ trong môn Karatedo
1.3.3 Đặc điểm về tố chất sức mạnh tốc độ trong thi đấu đối kháng môn
Karatedo

25
32
35

1.4

41

Nghiên cứu có liên quan

CHƯƠNG 2: ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP VÀ TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU

47

2.1

Đối tượng nghiên cứu

47

2.2

Phương pháp nghiên cứu

47


2.2.1
2.2.2
2.2.3
2.2.4

Phương pháp phân tích tổng hợp tài liệu
Phương pháp phỏng vấn tọa đàm
Phương pháp kiểm tra sư phạm
Phương pháp quan sát sư phạm

47
48
48
52


ii
2.2.5 Phương pháp thực nghiệm sinh cơ
2.2.6 Phương pháp thực nghiệm sự phạm
2.2.7 Phương pháp ứng dụng toán thống kê

52
58
58

2.3

Tổ chức nghiên cứu

59


2.3.1 Thời gian nghiên cứu
2.3.2 Địa điểm nghiên cứu

59
60

CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN

61

Nghiên cứu thực trạng huấấn luyện phát triển SMTĐ kyỹ thuật
đòn tay cho nam VĐV Karatedo đội tuyển quốấc gia

61

3.1.1 Thực trạng huấấn luyện tốấ chấất sức mạnh tốấc độ cho nam VĐV
Karatedo đội tuyển quốấc gia
3.1.2 Nghiên cứu thực trạng huấn luyện SMTĐ đòn tay của nam VĐV
Karatedo đội tuyển quốc gia

61

3.2

Nghiên cứu nội dung, tiêu chuẩn đánh giá sức mạnh tốc độ và kỹ
thuật đòn tay cho nam VĐV Karatedo đội tuyển quốc gia

66


3.2.1 Lựa chọn các test đánh giá sức mạnh tốc độ đòn tay cho nam VĐV
Karatedo đội tuyển quốc gia
3.2.2 Xác định các thông số động học của kỹ thuật đòn tay cho nam VĐV
Karatedo đội tuyển quốc gia:

67

3.2.3 Xây dựng tiêu chuẩn đánh giá SMTĐ và kỹ thuật đòn tay cho nam VĐV
Karatedo đội tuyển quốc gia:

77

3.3.

Nghiên cứu lựa chọn các bài tập nhằm phát triển sức mạnh tốc độ
kỹ thuật đòn tay cho nam VĐV Karatedo ĐTQG

85

3.3.1 Lựa chọn các bài tập nhằm phát triển sức mạnh tốc độ kỹ thuật đòn tay
cho nam VĐV Karatedo ĐTQG
3.3.2 Đánh giá hiệu quả hệ thống các bài tập phát triển SMTĐ kỹ thuật đòn
tay cho nam VĐV Karatedo ĐTQG

85

3.1

63


72

93

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

113

Kết luận

113

Kiến nghị

115

Danh mục các công trình công bố liên quan đến luận án

116

Tài liệu tham khảo

117

Phụ lục


iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT, KÝ HIỆU VÀ ĐƠN VỊ ĐO LƯỜNG
I. CÁC CHỮ VIẾT TẮT SỬ DỤNG TRONG LUẬN ÁN:

CLB

Câu lạc bộ

ĐC

Đối chứng

HCM

Hồ Chí Minh

HCV

Huy chương vàng

HLV

Huấn luyện viên

HSTQ

Hệ số tương quan

HSTC

Hệ số tin cậy

NXB


Nhà xuất bản

SMTĐ

Sức mạnh tốc độ

TDTT

Thể dục thể thao

TN

Thực nghiệm

TT

Thứ tự

VD

Ví dụ

VĐV

Vận động viên

II. ĐƠN VỊ ĐO LƯỜNG SỬ DỤNG TRONG LUẬN ÁN

cm


Centimet

g

Gram

Kg

Kilogram

KG

Kilogram lực

m

Mét

m/s

Mét / giây

ms

Mét. giây

s

Giây


sl

Số lần


iv

DANH MỤC BẢNG, BIỂU TRONG LUẬN ÁN
Tt

Bảng

Tên bảng

Trang

1.

3.1

Thời gian huấn luyện tố chất thể lực của nam VĐV Karatedo đội
tuyển quốc gia

63

2.

3.2

Hiệu quả các kỹ thuật đòn tay trong thi đấu Kumite của nam VĐV

Karatedo (n=144)

Sau trang
65

3.

3.3

Kết quả phỏng vấn các test thể lực (n = 25)

Sau trang
68

4.

3.4

Kết quả phỏng vấn các test kỹ thuật (n = 25)

Sau trang
68

5.

3.5

Độ tin cậy của các test đánh giá SMTĐ đòn tay cho nam
VĐV Karatedo đội tuyển quốc gia


70

6.

3.6

HSTQ các test đánh giá SMTĐ đòn tay với thành tích thi đấu của
nam VĐV Karatedo đội tuyển quốc gia

71

7.

3.7

Kết quả kiểm tra các test thể lực của nam VĐV Karatedo đội
tuyển quốc gia
đội tuyển quốc gia

78

8.

3.8

Bảng chuẩn phân loại đánh giá SMTĐ đòn tay của nam VĐV
Karatedo

79


9.

3.9

Bảng điểm chuẩn đánh giá SMTĐ đòn tay cho nam VĐV
Karatedo
đội tuyển quốc gia

80

10.

3.10

Bảng chuẩn điểm đánh giá tổng hợp SMTĐ đòn tay cho nam
VĐV Karatedo đội tuyển quốc gia

81

11.

3.11

Kết quả kiểm tra các thông số kỹ thuật đòn tay
của nam VĐV Karatedo đội tuyển quốc gia

82

12.


3.12

Tiêu chuẩn đánh giá các thông số kỹ thuật đòn tay của nam VĐV
Karatedo đội tuyển quốc gia

84

13.

3.13

Kết quả phỏng vấn lựa chọn hệ thống các bài tập huấn luyện
nhằm phát triển SMTĐ đòn tay cho nam VĐV Karatedo đội tuyển
quốc gia (n = 25)

Sau trang
90

14.

3.14

Kết quả kiểm tra các test đánh giá SMTĐ đòn tay của nam VĐV
Karatedo ĐTQG sau thực nghiệm lần 1

103

15.

3.15


Độ tăng trưởng các test đánh giá SMTĐ đòn tay của nam VĐV
Karatedo ĐTQG sau thực nghiệm lần 1

103

16.

3.16

Kết quả kiểm tra các test đánh giá SMTĐ đòn tay của nam VĐV
Karatedo ĐTQG sau thực nghiệm lần 2

104

17.

3.17

Kết quả kiểm tra các test đánh giá SMTĐ đòn tay của nam VĐV
Karatedo ĐTQG sau thực nghiệm lần 2

104


v
18.

3.18


19.

3.19

20.

3.20

21.

3.21

22.

3.22

23.

3.23

24.

3.24
Hình

26.
27.

2.1
2.2


Biểu đồ
28.

3.1

29.

3.2

30.

3.3

31.

3.4

32.

3.5

33.

3.6

34.

3.7


Độ tăng trưởng SMTĐ đòn tay của nam VĐV Karatedo ĐTQG
qua hai lần thực nghiệm

Sau trang
105

Kết quả so sánh các thông số kỹ thuật đòn tay của nam VĐV
Karatedo đội tuyển quốc gia sau thực nghiệm lần 1
Kết quả so sánh các thông số kỹ thuật đòn tay của nam VĐV
Karatedo đội tuyển quốc gia sau thực nghiệm lần 2
So sánh sự tăng trưởng các thông số kỹ thuật đòn tay của nam
VĐV Karatedo ĐTQG qua các giai đoạn thực nghiệm
Kết quả đánh giá tổng hợp SMTĐ đòn tay của nam VĐV
Karatedo đội tuyển quốc gia sau quá trình thực nghiệm
Kết quả kiểm tra các thông số kỹ thuật đánh giá SMTĐ kỹ thuật
đòn tay của nam VĐV Karatedo đội tuyển quốc gia sau quá trình
thực nghiệm

Sau trang
106
Sau trang
106
Sau trang
106

Hiệu quả các kỹ thuật đòn tay trong thi đấu Kumite của nam VĐV
Karatedo sau thực nghiệm (n=70

Sau trang
111


110
110

Tên hình
Vật chuẩn 3D
Hệ thống tọa độ 3D trên máy tính

55
55

Tên biểu đồ
Độ tăng trưởng SMTĐ đòn tay của nam VĐV Karatedo ĐTQG
qua hai lần thực nghiệm
Sự tăng trưởng thông số đòn tay trước trong kỹ thuật tấn công của
nam VĐV Karatedo đội tuyển quốc gia
Sự tăng trưởng thông số đòn tay sau trong kỹ thuật tấn công của
nam VĐV Karatedo đội tuyển quốc gia
Sự tăng trưởng thông số đòn tay phải trong kỹ thuật phản công
của nam VĐV Karatedo đội tuyển quốc gia
Sự tăng trưởng thông số đòn tay trái trong kỹ thuật phản công của
nam VĐV Karatedo đôị tuyển quốc gia
Hiệu quả sử dụng kỹ thuật tấn công đòn tay của nam VĐV
Karatedo đội tuyển quốc gia qua quá trình thực nghiệm
Hiệu quả sử dụng kỹ thuật phản công đòn tay của nam VĐV
Karatedo đội tuyển quốc gia qua quá trình thực nghiệm

Sau trang
105
Sau trang

106
Sau trang
106
Sau trang
106
Sau trang
106
Sau trang
111
Sau trang
111


0


1
PHẦN MỞ ĐẦU
Thể thao thành tích cao là một bộ phận cấu thành nền thể dục thể thao xã
hội chủ nghĩa. Mục đích của thể thao thành tích cao là vươn tới những đỉnh cao
thành tích. Động cơ thành tích chính là động lực mạnh mẽ thúc đẩy vận động
viên (VĐV) trong việc vươn tới các thành tích kỷ lục, cũng như thúc đẩy hoạt
động khoa học thể thao nhằm tìm ra những phương pháp, biện pháp, yếu tố mới
thúc đẩy, khai thác tối đa khả năng của con người trong việc vươn tới các thành
tích đó. Để thực hiện mục tiêu đó, ngành thể dục thể thao cũng đã đưa ra những
quan điểm, giải pháp hữu hiệu để đổi mới công tác đào tạo tài năng thể thao, chú
ý tập trung phát triển một số môn thể thao mũi nhọn để tham gia các đại hội thể
dục thể thao quốc tế và khu vực, trong đó có môn Karatedo.
Ở nước ta, so với các môn thể thao khác, Karatedo mặc dù được hình
thành muộn hơn song đã nhanh chóng phát triển rộng khắp các tỉnh, thành phố

như Hà Nội, Huế, TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng... và hơn thế nữa đã có những
đóng góp không nhỏ về thành tích thi đấu tại các đấu trường quốc tế. Nhưng, thật
đáng tiếc, tỷ lệ đạt thành tích giữa nam và nữ chưa được đồng đều, đa số vẫn là
các VĐV nữ, tuy vậy để tìm ra được nguyên nhân đích thực không phải dễ dàng.
Trong hệ thống đào tạo VĐV Karatedo nói riêng, cũng như VĐV các môn thể
thao khác nói chung, việc nâng cao thành tích thể thao phụ thuộc rất nhiều vào
các yếu tố tác động như lối sống, điều kiện, môi trường, đào tạo... Ngoài việc
hoàn thiện trình độ kỹ, chiến thuật và rèn luyện ý chí, VĐV còn cần phải chuẩn
bị đầy đủ các tố chất thể lực, mà một trong những tố chất thể lực quan trọng đó
là tố chất sức mạnh. Trong Karatedo, tố chất sức mạnh, đặc biệt là sức mạnh tốc
độ đóng một vai trò rất quan trọng - và cũng là một trong những tiêu chuẩn ghi
điểm trong thi đấu Kumite và Kata.
Trong huấn luyện Karatedo ở nước ta đã có một số nghiên cứu về các
mặt: thể lực, kỹ thuật, tâm lý cho VĐV như các tác giả Vũ Sơn Hà, Nguyễn
Đương Bắc, Trần Tuấn Hiếu, Cao Hoàng Anh,... Các tác giả trên đã nghiên cứu


2
các bài tập phát triển các tố chất thể lực, kỹ thuật cũng như các khả năng vận
động cho các lứa tuổi khác nhau. Về tâm lý cho tác giả Nguyễn Thị Tuyết nghiên
cứu một số chỉ số tâm lý trong VĐV Karatedo. Tác giả Nguyễn Thế Truyền
nghiên cứu kiểm tra đánh giá trình độ tập luyện cho VĐV môn Karatedo đội
tuyển quốc gia. Tác giả Đặng Thị Hồng Nhung nghiên cứu về trình độ thể lực
chuyên môn của nữ VĐV Karatedo đội tuyển quốc gia. Tuy nhiên, vấn đề về sử
dụng các bài tập sức mạnh tốc độ rất ít tác giả nghiên cứu đến, đặc biệt là sức
mạnh tốc độ đòn tay - là kỹ thuật chủ yếu sử dụng trong thi đấu Karatedo, và
cũng là một trong những yếu tố rất quan trọng quyết định đến khả năng cũng như
thành tích của VĐV. Đã có tác giả Trần Tuấn Hiếu nghiên cứu tới sự phát triển
sức mạnh tốc độ của VĐV Karatedo lứa tuổi từ 12 - 15, tác giả Ngô Ngọc
Quang nghiên cứu về nội dung tiêu chuẩn đánh giá sức mạnh cho VĐV Karatedo

lứa tuổi 14 - 16, nhưng đối tượng là các nam VĐV đội tuyển vẫn chưa ai đề cập tới.
Trên cơ sở phân tích ý nghĩa, tầm quan trọng và tính bức thiết của vấn đề,
luận án quyết định chọn luận án: “Nghiên cứu các bài tập nhằm phát triển sức
mạnh tốc độ kỹ thuật đòn tay cho nam VĐV Karatedo đội tuyển quốc gia".
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu của luận án nhằm tìm hiểu đặc điểm phát triển sức
mạnh tốc độ kỹ thuật đòn tay, các test đặc trưng cho phát triển sức mạnh tốc độ
kỹ thuật đòn tay VĐV của nam Karatedo đội tuyển quốc gia, trên cơ sở đó đề
xuất các bài tập để phát triển sức mạnh tốc độ kỹ thuật đòn tay cho các VĐV
nam Karatedo đội tuyển quốc gia, từ đó nâng cao khả năng tập luyện và thành
tích thi đấu của họ.
1.3. Mục tiêu nghiên cứu:
Mục tiêu 1: Nghiên cứu thực trạng huấn luyện phát triển sức mạnh tốc độ
kỹ thuật đòn tay của nam VĐV Karatedo đội tuyển quốc gia.
Mục tiêu 2: Nghiên cứu nội dung, tiêu chuẩn đánh giá sức mạnh tốc độ
và kỹ thuật đòn tay của nam VĐV Karatedo đội tuyển quốc gia.


3
Mục tiêu 3: Nghiên cứu lựa chọn bài tập nhằm phát triển sức mạnh tốc
độ kỹ thuật đòn tay cho nam VĐV Karatedo đội tuyển quốc gia.
1.4. Giả thiết khoa học:
Qua việc tìm hiểu đặc điểm phát triển sức mạnh tốc độ kỹ thuật đòn tay,
giả thiết luận án đánh giá xác định năng lực sức mạnh tốc độ có ảnh hưởng quan
trọng tới kỹ thuật đòn tay của VĐV nam Karatedo đội tuyển quôc gia. Do đó
việc sử dụng hệ thống các bài tập thể lực chuyên môn có kết hợp các yếu tố kỹ
thuật phát triển SMTĐ đòn tay vào các buổi tập sẽ góp phần nâng cao năng lực
SMTĐ và kỹ thuật đòn tay cho nam VĐV Karatedo đội tuyển quốc gia.



4
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Xu thế phát triển Karatedo trên thế giới và ở Việt Nam:
1.1.1. Lịch sử phát triển Karatedo trên thế giới:
1.1.1.1. Lịch sử Karatedo truyền thống:
Lịch sử của môn Karatedo truyền thống được xuất hiện bắt đầu từ võ
thuật Te (bàn tay) phát triển ở Okinawa, ban đầu đây chỉ là một hình thức mang
tính tự vệ. Tuy nhiên, qua thời gian dài thông thương giữa Okinawa và Trung
Quốc, nền võ thuật Okinawa bị ảnh hưởng bởi môn phái Kenpo của Trung Quốc
ở một vài điểm trong quá trình phát triển của mình. Tuy nhiên, sự ảnh hưởng này
mới chỉ mang tính truyền miệng và chưa được sử sách ghi chép một cách chính
thức, cũng không thể chắc chắn khi cho rằng Kate-Te được đặt tên đầu tiên ở
Okinawa. Song không thể phủ nhận rằng nó đã phát triển cách đây xấp xỉ 500
năm, khi người cai trị của triều đại Vua Shoha đã thống nhất lãnh thổ sau nhiều
thập kỷ xảy ra chiến tranh và đã ban hành một sắc lệnh cấm sử dụng vũ khí trên
hòn đảo này. Theo những ghi chép đã được quy ước từ trước thì một điều luật
tương tự cấm sở hữu và sử dụng vũ khí đã được ban hành lại và có hiệu lực bởi
phe cánh của Satsuma, người mà đã xâm chiếm hòn đảo Okinawa vào đầu những
năm 1600 và đưa nó ra dưới điều luật của một viên tướng người Nhật. Do vậy,
trong môi trường này karate đã phát triển như là một hình thức chiến đấu không
vũ khí để bảo vệ bản thân và đất nước của mình, tuy nhiên việc truyền bá và tập
luyện đều trong vùng bí mật.
Sau đó là sừ ra đời của Karate Okinawa do thầy Funakoshi Gichin mang
đến vào năm 1868. Ông đã cống hiến cả đời mình để đẩy mạnh các giá trị của
nền võ thuật, truyền bá con đường của Karate-jutsu tới Nhật Bản, và nó đã được
lan truyền khắp nước Nhật. Vào năm 1949, những môn sinh của ông đã thành lập
một hiệp hội về việc đẩy mạnh karate; họ đặt tên nó là Nihon Karate Kyokai,
hay còn gọi là Hiệp hội Karate Nhật Bản, và đó là bước đi ban đầu của JKA. Và



5
đây là Hiệp hội Karatedo lớn nhất và có uy tín nhất Nhật Bản, nó đại diện cho
Karatedo truyền thống Nhật Bản [67], [68].
1.1.1.2. Lịch sử phát triển môn Karatedo trên thế giới:
Karatedo đối với nhiều người yêu võ thuật vẫn còn mơ hồ về nguồn gốc
của nó. Tuy nhiên, xuất xứ chính xác của môn võ này cũng chưa được xác định,
bởi không tìm được thư tịch cổ nào ghi chép về môn võ này. Ngày nay, môn
Karate được phát triển khá mạnh trên toàn thế giới và được chia ra rất nhiều
nhánh hệ phái khác nhau như: Shotokan Ryu, Shito Ryu, Shorin Ryu, Wado Ryu,
Goju Ryu, Kyokushinkai,… Tuy nhiên, hiện tại chỉ có 4 hệ phái được chính thức
sát nhập vào hệ thống Karate trên toàn thế giới đó là: Shotokan Ryu (do thầy
Ghichin Funakoshi sáng lập), Shito Ryu (do thầy Kenwa Mabuni sáng lập),
Wado Ryu (do thầy Hironori Ohtsuka sáng lập) và Goju Ryu (do thầy Miyagi
Chojun sáng lập) [67].
Karatedo đã được truyền bá và nhân rộng tới nhiều quốc gia ngay từ đầu
những năm 1950, chủ yếu là các võ sư người Nhật trong Hiệp hội Karatedo Nhật
Bản (JKA). Nhưng họ chỉ quan tâm đến việc truyền bá võ thuật mà không quan
tâm đến việc thành lập các tổ chức quốc gia hay quốc tế giống như trong các
môn thể thao khác.
Vào năm 1961, một võ sư người Pháp (Đai đen 4 đẳng) tên là Jacques
Delcuourt tập hợp và cùng với các võ đường tại Pháp thành lập Liên đoàn
Karatedo Pháp.
Sau khi Karatedo được thành lập ở Pháp, thì liền ngay sau đó từ năm
1961 đến 1963 liên tục một số nước châu Âu thành lập liên đoàn (07 liên đoàn),
vào vào thời gian đó một giải Karatedo quốc tế lần đầu tiên được tổ chức ở Pháp
với chỉ có 3 nước tham gia, đó là Bỉ, Pháp, và Anh.
Vào ngày 15 tháng 12 năm 1963 (đây là mốc khởi đầu của phong trào
Karatedo Thế giới), 7 quốc gia đã tập hợp lại tại Pháp để mở đầu một Đại hội
Karatedo Châu Âu lần thứ nhất. Và tên tuổi của một trong số những thành viên
của Đại hội này có một ảnh hưởng rất lớn đối với WKF sau này.



6
Và qua các quá trình tìm hiểu và khảo sát thực trạng môn Karatedo, ngày
24 tháng 5 năm 1964, Đại hội Karatedo châu Âu lần thứ hai lại được tổ chức tại
Paris. Tại Đại hội này, những người Đại diện của các Liên đoàn đã nhận thấy
rằng cần phải có một Ban Chấp hành, do đó Đại hội đã thành lập và bầu ra Ban
điều hành, do ông Jacques Delcourt (người Pháp) làm chủ tịch và ông đã điều
hành cho đến năm 1997 (trong 34 năm), 03 Phó Chủ tịch là ông MM. Briff
(người Đức), Cherix (Thụy Sỹ); Fannoy (Bỉ) và Tổng thư ký là ông M. Sebban
(người Pháp). Trong số những người trong Ban điều hành, chỉ có duy nhất ông
Delcourt tiếp tục công việc và tâm huyết của mình, cũng là người khởi xướng
thành lập lên tổ chức Karatedo Thế giới sau này.
Trong Đại hội năm 1964 đã nghiên cứu các vấn đề, như đề cập tới mở
lớp trọng tài quốc tế, vấn đề truyền thông báo chí, các trận đấu quốc tế, và các
lớp học đầu tiến đã được các chuyên gia Nhật Bản tư vấn với mục đích mong
muốn được tổ chức giải Vô địch Châu Âu.
Đại hội Karatedo lần thứ 3 được tổ chức vào ngày 21 tháng 11 năm 1965,
vẫn tại Paris. Có 10 quốc gia tham dự (với 03 thành viên mới đó là: Áo, Bồ Đào
Nha và Ba Lan). Tại Đại hội này có sự tham gia của các chuyên gia Nhật bản
phụ trách về mảng chuyên môn đó là 04 chuyên gia: Kono, Yamashima, Toyama
và Suzuki.
Vấn đề quan trọng nhất của Đại hội lần này đó là đạt được các thỏa thuận
và sự đồng thuận và thống nhất tên của tổ chức là EKU (Liên hiệp Karatedo
Châu Âu). Đó là họ đã đồng ý không điều kiện với những phương thức điều
hành của Liên hiệp và tiếp tục theo sự điều hành của ủy ban Điều hành do ông
M. Delcourt làm chủ tịch. Về bản chất thì không có sự thay đổi nào so với năm
1964 (ngoại trừ sự ra đi của một vài người trong các ban Điều hành. Tại Đại hội
này cũng đưa ra các quyết định về ngân sách tài chính, các điều luật trọng tài, và
một giải Cúp quốc tế ở Cannes.

Đại hội Châu Âu lần thứ tư được tổ chức vào năm 1966 đây là giải Vô
địch Châu Âu lần đầu tiên được tổ chức vào ngày 7/5/1966 tại Paris với các nội


7
dung: đồng đội (5 VĐV + 1 VĐV dự bị); và các nội dung cá nhân: với 4 VĐV/01
quốc gia không kể hạng cân và hoàn toàn chỉ có nam giới tham gia thi đấu (mà
phải đến 10 năm sau nữ mới có mặt tham gia thi đấu tại các giải của Karatedo,
năm 1974).
Trong giải đấu này có rất nhiều chấn thương ở mặt. Các nhà Điều hành
đã phải họp nhau lại để thảo luận về vấn đề này (đây là vấn đề cho đến 33 năm
sau vẫn chưa giải quyết được).
Trong số những VĐV thi đấu tại giải Vô địch Châu Âu lần thứ nhất này,
có một số VĐV đã trở nên nổi tiếng: Ông T. Morris, người sau này trở thành
Chủ tịch Hội đồng trọng tài Liên đoàn Karatedo thế giới.
Đại hội đã phân tích các kết quả tại giải Vô địch Châu Âu. Có rất nhiều ý
kiến, quan điểm khác nhau: có ý kiến cho rằng các trận đấu quá nặng, căng
thẳng, có người cho rằng các điều luật không ngăn được các tình huống bạo lực
thường xảy ra trong trận đấu, có ý kiến cho rằng phải có sự khống chế.
Năm 1967 Lớp trọng tài đầu tiên được tổ chức ở Rom (Italia). Nhiệm vụ
chính duy trì và phát triển theo tinh thần dựa trên cơ sở các điều luật của Hiệp
hội Karatedo Nhật Bản – JKA (Japan Karate Association).
Giải Vô địch Châu Âu lần thứ 2 được tổ chức vào ngày 5 và 6/5/1967 tại
Luân Đôn (nước Anh). Tại giải lần này có hai nội dung chính được Chủ tịch
Delcourt đề xuất và được Đại hội quyết định hai điểm chính sau:
Các trận đấu đồng đội sẽ là 5 người thi đấu chính và 2 người dự bị (hệ
thống thi đấu này vẫn duy trì cho đến nay).
Các trận đấu cá nhân bị chấn thương và các VĐV bị chấn thương tại các
trận đồng đội hoặc bị kiệt sức trong trận đồng đội sẽ phải được xem xét trước khi
tiếp tục thi đấu. Do đó, Chủ tịch đã đưa khuyến cáo những VĐV tham gia thi đấu

trận đồng đội cần phải tự điều chỉnh mình trước khi bắt đầu đấu trận cá nhân và
mỗi một quốc gia có thể chọn các cá nhân theo tình hình kết quả trong thi đấu
đồng đội của họ.


8
Giải Vô địch Châu Âu lân thứ 3 được tổ chức vào ngày 4/5/1968 ở Paris
(Pháp) và cũng vào ngày 5/4/1968 Đại hội lần thứ 6 được tiến hành.
Đại hội lần thứ 7 tổ chức vào tháng 5/1969 tại Luân Đôn (Anh) với 10
quốc gia tham gia.
Giải Vô địch Châu Âu lần thứ 5 được tổ chức ở Hamburg (Đức) tháng
5/1970, đây là năm đặc biệt quan trọng đối với Karatedo, khi Liên đoàn Karate
Thế giới (WKF – World Karate Federation) được thiết lập và Giải Vô địch thế
giới lần đầu tiên đã được tổ chức vào Tháng 10 năm 1970 tại Tokyo, Nhật Bản.
Năm 1970 có một sự đồng thuận đã được ký kết mang tính lịch sử giữa
hai nhà lãnh đạo (tổ chức Karatedo Nhật bản và Liên đoàn Karatedo Châu Âu)
hợp tác cùng ký kết hợp tác cùng nhau phát triển Karatedo lên khắp thế giới. Và
tổ chức mới này được gọi là WUKO (World Union Karate Organization), ông
Delcourt vẫn là chủ tịch và ông Sasakawa (Nhật) là Chủ tịch danh dự. Đây là cái
mốc khởi đầu sự nghiệp của Karatedo trên toàn thế giới.
Vào năm 1975, kỳ vọng đưa Karatedo vào Olympic, với sự hỗ trợ của Hiệp hội
Karatedo Nhật bản (JKA) giải Cúp Thế giới IKF (International Karatedo Federation – Liên
đoàn Karatedo quốc tế) được tổ chức ở Mỹ, và liên tục được tổ chức thêm được 3 lần nữa. Tuy
nhiên, để đạt được kỹ thuật đích thực và tinh thần Karatedo trong thi đấu, thì phải đến giải Vô
địch Karate Cup Shoto thế giới được tổ chức tại Nhật Bản vào năm 1985 mới thể hiện được
một phần linh hồn của của Karatedo, và đây cũng là một sự chứng nhận Karate trở thành môn
Võ thuật Quốc tế. Giai đoạn này chứng minh cho sự phát triển ngoạn mục của môn Karatedo
trên toàn thế giới.

Năm 1994 các liên đoàn Karatedo các nước trên thế giới đã họp và thống

nhất đổi tên Tổ chức liên hiệp Karatedo Thế giới (WUKO) thành Liên đoàn
Karatedo thế giới (WKF) với hơn 150 quốc gia trong đó có Việt Nam. Cùng năm
này đội tuyển Karatedo Việt Nam cũng đã tham dự giải Vô địch thế giới lần thứ
2 được tổ chức tại Kota Kinabalu, Malaysia [68].
Từ năm 1994 đến nay WKF liên tục phát triển và ngày càng hoàn thiện
hệ thống tổ chức, luật thi đấu nhằm hướng tới có mặt tại Olympic - một đấu
trường cao nhất hành tinh.


9
1.1.2. Lịch sử phát triển Karatedo ở Việt Nam:
Ở Việt nam môn Karatedo được phát triển rất mạnh do tính khoa học và
hiệu quả tập luyện của nó cộng với chủ nghĩa anh hùng dân tộc và tinh thần
thượng võ của người dân Việt Nam. Ở Thành phố Hồ Chí Minh phát triển hệ
phái Kyokyushinkar do võ sư Hồ Cẩm Ngạc truyền bá vào khoảng năm 1950. Ở
Huế phát triển hệ phái Goju do một người Nhật tên là Chojin Suzuki truyền bá,
giảng dạy. Từ Miền Nam và qua một số học giả nước ngoài Karatedo đã được du
nhập vào Hà Nội, nhưng chỉ sau ngày đất nước hoàn toàn thống nhất vào năm
1975, Karatedo mới thực sự được truyền bá và phát triển rộng khắp. Với sự ham
mê võ thuật của người dân Việt Nam, đặc biệt là tầng lớp thanh thiếu niên và
được sự quan tâm đầu tư, khuyến khích của Lãnh đạo các cấp trong và ngoài
ngành thể thao tại các tỉnh, thành ngành trong cả nước, nên đến năm 1980 đã
thành lập được một số câu lạc bộ tập luyện có mặt ở hầu hết các tỉnh, thành trong
cả nước.
Tuy nhiên mãi đến năm 1984 một số giải thi đấu mới được tổ chức nhưng
vẫn mang tính tự phát, vì vậy năm 1987 một cuộc hội thảo về Karatedo tại Huế
đã thống nhất sử dụng Luật trong thi đấu Karatedo (tuy mới chỉ tập trung vào
Luật Kumite). Tháng 7 năm 1988 giải Huế Hữu nghị được tổ chức và tiếp theo
đó năm 1989 tại Hà Nội cũng tổ chức theo phương thức giải này. Tại các giải
này, hệ thống tổ chức chỉ mang tính giao lưu giữa các câu lạc bộ, vùng, miền

trong toàn quốc và một phần mang tính thử nghiệm ứng dụng các điều luật được
đưa vào trong thi đấu Karatedo.
Tháng 7 năm 1989 Sở Thể dục thể thao Hà Nội đã mời võ sư Yamamora
- huyền đai lục đẳng sang chính thức huấn luyện giảng dạy cho các võ sinh tại
các câu lạc bộ trên toàn quốc.
Tháng 8 năm 1991 giải vô địch Karatedo toàn quốc lần thứ nhất được tổ
chức tại Hà Nội. Năm 1992 giải vô địch Karatedo toàn quốc lần thứ hai được tổ
chức tại Huế. Và bắt đầu từ đây hệ thống thi đấu giải toàn quốc chính thức đã
được đưa vào hệ thống thi đấu của Tổng cục Thể dục thể thao (định kỳ mỗi năm


10
1 lần) luân phiên tại các thành phố có phong trào Karatedo mạnh trên cả nước.
Và cũng bắt đầu tại các giải này, Tổng cục thể dục thể thao chính thức tiến hành
phong cấp cho các VĐV đạt giải (từ cấp 1 đến Kiện tướng).
Trong những năm gần đây Karatedo luôn được coi là một trong số các
môn thể thao mũi nhọn của nền thể thao nước nhà. Việc thi đấu xuất sắc và giành
được các thứ hạng cao của các võ sĩ Karatedo Việt Nam tại các giải đấu trong
Khu vực và Quốc tế đã khẳng định vị trí của môn thể thao này và tạo đà cho sự
phát triển mạnh mẽ của phòng trào tập luyện và thi đấu Karatedo trong cả nước.
Để đáp ứng cho yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn và nhằm cung cấp đội ngũ
cán bộ, giáo viên, huấn luyện viên, trọng tài…Tại Việt Nam, Karatedo là một
môn học đã được đưa vào giảng dạy tại các trường đại học chính quy chuyên
ngành giáo dục thể chất và huấn luyện thể thao.
Karatedo còn là môn học đào tạo chuyên sâu hệ chính quy, hệ tại chức tại
các lớp học Chính khóa và ngoại khóa ở các trường Đại học Thể dục Thể thao Đại học sư phạm - Đại học Nông Lâm các trường cao đẳng TDTT... nhằm trang
bị cho sinh viên những kiến thức lý luận chuyên ngành TDTT, năng lực tập
luyện phát huy về chuyên môn Karatedo, với những phương pháp giảng dạy,
huấn luyện, đào tạo, tổ chức, quản lý và trọng tài, tạo tiền đề để phát triển các
Câu lạc bộ Karatedo trên toàn quốc.

1.1.3. Xu thế phát triển Karatedo hiện đại:
Hiện nay trình độ Karatedo thi đấu trên Thế giới đã phát triển đến đỉnh cao
(mặc dù chưa được đưa vào Olympic), nhiều chuyên gia, HLV từ kinh nghiệm
huấn luyện thành công trong môn Karatedo đã cho rằng đặc trưng

chủ yếu

trong kỹ thuật, chiến thuật của VĐV Karatedo là: Nhanh, mạnh, khéo léo và
chuẩn xác với sự khống chế cao khi va chạm vào mục tiêu, hơn nữa những mục
tiêu lại luôn biến hóa khôn lường chỉ trong một hiệp đấu duy nhất. Đây là con
đường tất yếu giành thắng lợi trong thi đấu Karatedo đỉnh cao.
Nhanh: trong môn Karatedo chính là tốc độ ra đòn (tấn công và phản
công) trong Karatedo được các nhà chuyên môn và khoa học đánh giá rất cao về


11
sự biến hóa và tốc độ của nó, thậm chí nếu không tập trung cao thì khó quan sát
được đòn đánh diễn ra như thế nào. Điều này cho thấy tốc độ đòn rất nhanh và
chớp nhoáng. Kỹ thuật dứt điểm nhanh trong thời gian ngắn nhất (có thể chưa
đến 1 giây). Nhanh còn biểu hiện qua phản ứng ra đòn và vào đòn, tần số động
tác, di chuyển và né tránh đòn.
Mạnh: Sức mạnh trong Karatedo thường được thể hiện ở sự kết hợp với
sức nhanh, như sự tung đòn với một tốc độ và sức mạnh tối đa nhưng khi chạm
mục tiêu phải có sự khống chế, đây là khả năng tự điều khiển thần kinh – một
khả năng quan trọng và đặc trưng nhất mà các môn võ khác không có. Sức mạnh
trong Karatedo hay nói cách khác chính là SMTĐ. Sức mạnh trong môn
Karatedo làm chấn động chứ không được phép làm chấn thương đối phương –
đây cũng chính là chữ “Do” - chính là đạo trong môn Karatedo - và cũng là một
trong những tiêu chuẩn ghi điểm trong thi đấu môn Karatedo.
Khéo léo: Đây là một yếu tố mà Karatedo trước kia chưa được chú trọng,

hầu hết là cứng nhắc, chỉ tập trung vào 2 yếu tố nhanh, mạnh. Tuy nhiên, cùng
với sự phát triển, năng lực khéo léo trong môn Karatedo hiện đại ngày càng
không thể thiếu, gần như là yếu tố quyết định đến thành tích của VĐV. Khéo léo
để sử dụng đòn hợp lý và hiệu quả. Khéo léo để né tránh ra đòn phản đòn. Khéo
léo để thực hiện các chiến thuật trong thi đấu một cách hiệu quả. Khéo léo để
thực hiện các kỹ thuật khó và luôn biến đổi trong quá trình thi đấu, như: các tình
huống ra đòn, đối phương.
Chuẩn xác và có sự khống chế: Đây là một đặc điểm mà chỉ có ở
Karatedo. Chuẩn xác cả về vị trí, khoảng cách và lực ra đòn. Đây là mốc đạt tới
sự hoàn thiện của của trình độ phát triển đỉnh cao của thi đấu thể thao trong môn
Karatedo trên thế giới.
Chuẩn xác để ra đòn đúng thời điểm khi tấn công và phản công;
Chuẩn xác để ra đòn vào đúng vị trí ăn điểm;
Chuẩn xác để ra đòn ở khoảng cách hợp lý để đạt hiệu quả cao;


12
Chuẩn xác về lực để khống chế khi va chạm vào mục tiêu trong tấn công
và phản công.
Trong những năm gần đây, việc tập luyện và thi đấu môn Karatedo cho
thấy các kỹ thuật ngày càng đa dạng và biến hóa cao, tuy nhiên vẫn không thể
rời xa 3 đặc điểm chủ yếu ở trên. Theo sự phát triển ngày càng rộng của
Karatedo, ở những quốc gia có ưu thế tập trung vào nhiều kỹ thuật đòn chân,
hoặc đòn tay, hoặc quét, quật đều không thể thiếu các đặc điểm ở trên.
Với xu hướng hiện đại ngày nay, trong thi đấu đối kháng trong môn
Karatedo đã có nhiều biến hóa, đặc biệt trong chiến thuật ra đòn, đó là sự biến
hóa về chiến thuật trong thi đấu để thích ứng với từng trận, từng đối thủ và đặc
biệt là cập nhật và tận dụng tối đa sự hiểu biết về luật trong thi đấu. Có nắm
vững luật, VĐV mới phát huy được hiệu quả cũng như những ưu thế của mình
để giành chiến thắng. Do vậy, một VĐV đỉnh cao, muốn có thành tích cao không

thể không nắm rõ luật thi đấu. Mặc dù, chỉ xoay quanh các kỹ thuật theo các tiêu
chí ở trên, nhưng hàng năm Liên đoàn Karatedo đều có sự điều chỉnh bổ sung
các Điều luật để cho phù hợp cũng như ngắn gọn và rõ ràng hơn để có thể từng
bước tham gia vào Đại hội thể thao Olympic trong tương lai.
1.2.Một số đặc điểm cơ bản trong huấn luyện kỹ thuật
môn Karatedo:
1.2.1. Đặc điểm kỹ thuật trong thi đấu thể thao:
1.2.1.1. Một số khái niệm:
Kỹ thuật của bài tập thể lực (tức kỹ thuật thể thao) là cách thức sắp xếp,
tổ chức và thực hiện hệ thống các động tác để giải quyết nhiệm vụ vận động,
hoặc nói gọn hơn, đó là những cách thức để giải quyết nhiệm vụ vận động [36], [49].
Những cách thức giải quyết nhiệm vụ vận động hợp lý và có hiệu quả
cao nhất được gọi là kỹ thuật thể thao.
Kỹ thuật thể thao luôn được đổi mới và hoàn thiện. Sự tìm tòi, khám phá
khoa học về các quy luật vận động của cơ thể, sự tiến bộ về trình độ thể lực của
VĐV, sự hoàn thiện các phương pháp giảng dạy, huấn luyện, sự đổi mới các thiết


13
bị, dụng cụ, sân bãi thể thao đang là những nhân tố chủ yếu thúc đẩy sự ra đời
các kỹ thuật thể thao mới trong hầu hết các môn thể thao.
Mỗi loại hình bài tập có những yêu cầu chuyên biệt về mặt kỹ thuật thể
thao. Xét theo các yêu cầu chuyên biệt đó, có thể phân tích chia các môn thể thao
nhành ba nhóm:
Nhóm thứ nhất: Gồm các môn thể thao có quy định chặt chẽ cách thức
thực hiện động tác, như các môn thể dục dụng cụ, nhào lộn, và một số môn võ
thuật ở nội dung biểu diễn (kata trong môn Karatedo);
Nhóm thứ hai: Phần lớn gồm các môn vận động có chu kỳ, trong đó phụ
thuộc vào yêu cầu đạt thành tích ở mức tối đa, như các môn cử tạ, điền kinh, bơi,...
Nhóm thứ ba: Gồm tất cả các môn thi đấu đối kháng và các môn bóng.

Đó là những môn đòi hỏi sự biến hoá nhiều trong chiến thuật, kỹ thuật thực hiện
các động tác cho phù hợp với các tình huống luôn luôn thay đổi do sự tác động
qua lại với đối thủ và các điều kiện khác.
1.2.1.2. Cấu trúc của kỹ thuật động tác:
Là mối liên quan lẫn nhau có tính quy luật và tương đối ổn định của tất
cả những yếu tố, khâu tạo nên động tác như một thể hoàn chỉnh thống nhất.
Theo quan điểm sinh cơ học, đặc điểm của các động tác được phân tích
theo cấu trúc chuyển động (kinematic) và cấu trúc về lực (dynamic). Cấu trúc
chuyển động là hình dạng của động tác trong không gian và sự thay đổi hình
dáng đó theo thời gian. Cấu trúc về lực là tổng thể các lực bên trong và bên
ngoài có tác dụng làm thay đổi chuyển động của thân thể và các bộ phận thân thể
để tạo nên động tác. Tóm lại, cấu trúc chuyển động của động tác thể hiện những
đặc tính không gian, đặc tính thời gian và đặc tính không gian-thời gian của động
tác; cấu trúc về lực thể hiện những đặc tính về lực của động tác; cấu trúc nhịp
điệu thể hiện tổng hợp các đặc tính không gian, thời gian và và lực của động tác [49].
1.2.1.2. Đặc tính của kỹ thuật:
Đặc tính không gian: Các đặc tính không gian của kỹ thuật gồm tư thế
của thân và quỹ đạo chuyển động. Tư thế của thân được chia thành các tư thế


14
ban đầu, tư thế trong khi thực hiện kỹ thuật và sau khi thực hiện động tác. Các tư
thế ban đầu của thân trong nhiều hoạt động thể thao đòi hỏi đáp ứng được các
yêu cầu như tạo được thế đứng vững chắc, có khả năng xuất phát nhanh, theo
hướng cần thiết, giảm được mệt mỏi [49]. Trong môn Karatedo tư thế khi kết
thúc đòn chính là một tiêu chuẩn để ghi điểm (Zanshin), do vậy đặc tính về mặt
không gian có vai trò đặc biệt quan trọng quyết định đối với thành tích của VĐV,
đó là tư thế của thân và các bộ phận không những phải hợp lý về mặt sinh-cơ
học, mà còn phải đáp ứng những yêu cầu thẩm mỹ và mang tính truyền thống
của Karatedo.

Quỹ đạo chuyển động là đường đi của một bộ phận nào đó của thân trong
không gian. Quỹ đạo được thể hiện bằng hình dạng, phương hướng và biên độ
chuyển động. Sự đa dạng của hình dáng quỹ đạo động tác phụ thuộc vào khả
năng đa dạng của sự phối hợp thần kinh vận động, độ linh hoạt của các khớp [4], [49].
Đặc tính không gian-thời gian: Đặc tính này biểu hiện bằng tốc độ
chuyển động. Đó là độ nhanh của sự chuyển dịch vị trí trong không gian của vật
thể hay một điểm trong một đơn vị thời gian [49]. Trong các môn thể thao, đặc
biệt là các môn đòi hỏi SMTĐ, phụ thuộc rất nhiều vào khả năng tạo được tốc độ
cao trong động tác của một số bộ phận cơ thể (thí dụ, động tác giậm nhảy trong
các môn nhảy, động tác ra đòn trong các môn võ).
Đặc tính về lực: Mỗi một động tác được thực hiện đều là kết quả của sự
tác động qua lại giữa các lực tạo thành động tác đó. Các lực đó gồm lực bên
trong và lực bên ngoài [49].
Lực bên trong của động tác bao gồm lực kéo của cơ khi co, lực đàn hồi
và độ trơn nhờn của cơ, lực phản hồi do sự tác động qua lại giữa các bộ phận cơ
thể (phản lực).
Lực bên ngoài là những lực tác động lên cơ thể từ phía ngoài, bao gồm
trọng lực của bản thân cơ thể, phản lực điểm tựa, lực ma sát của môi trường
(nước, không khí...) và các lực tác động của người ngoài (đối thủ, người cùng
tập...), của dụng cụ.


15
Đặc tính thời gian của động tác thể hiện ở thời gian kéo dài và nhịp độ
của động tác.
1.2.2. Đặc điểm kỹ thuật trong môn Karatedo:
Khái niệm về kỹ thuật trong môn Karatedo: Thuộc loại hình môn kỹ năng
giao đấu đối kháng trực tiếp, với các quy định về giao tiếp, lễ nghĩa, giáo dục
phẩm chất ý chí; Trong thực hiện kỹ thuật với yêu cầu đòi hỏi cao về tư thế,
động tác chính xác. Là một môn thể thao được đưa vào hệ thống thi đấu bao gồm

Kata (quyền thuật) và Kumite (đối kháng) với rất nhiều nội dung phong phú và
đa dạng.
Về bản chất kỹ thuật Karatedo cũng như kỹ thuật của các môn võ khác,
là nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong tấn công và phòng thủ. Về tổng quát, kỹ
thuật Karatedo gồm có 4 loại khác nhau đó là: chặn đỡ, tấn công, quăng quật và
chộp bẻ, được phân thành 5 loại dựa theo các bộ phận khác nhau của cơ thể như
kỹ thuật tay, kỹ thuật chân, các kỹ thuật quật ngã (quăng, quật, chộp, bẻ), các thế
tấn và các tư thế thân hình. [11], [29], [36].
1.2.2.1. Hệ thống kỹ thuật cơ bản:
Kỹ thuật đòn tay:
Gồm ba nhóm chính là đấm thẳng (Tsuki-waza), đấm móc/vòng (Kakewaza), và chém chặt (Uchi-waza). Mỗi nhóm kỹ thuật này đều có những đặc
trưng có thể phân biệt nhờ các vị trí mà bàn tay (nắm đấm) chạm vào. Ví dụ: Nếu
chia cơ thể con người ra làm ba phần (phần thượng đẳng - tính từ cổ lên đến đỉnh
đầu; phần trung đẳng - từ vai cho đến đan điền; phần hạ đẳng - từ đan điền trở
xuống) thì thấy cùng một đòn đấm thẳng nhưng vị trí có thể ở phần trên của cơ
thể (Jodan Tsuki) hay phần giữa của cơ thể (Chudan Tsuki) hoặc phần dưới của
cơ thể (Gedan Tsuki) và tương tự như với các kỹ thuật đấm khác với các kỹ thuật
có tên gọi tương ứng [11], [29], [36], [67].
Kỹ thuật đòn chân:
Gồm 3 nhóm chính đó là, đá vươn (Geri-keage), đá thốc (Geri-kekomi)
và đá tống (Fumikomi). Mỗi nhóm gồm nhiều cách đá khác nhau và dựa trên


16
phần bàn chân chạm vào đối thủ và cách thức chạm. Thí dụ, tương tự như các kỹ
thuật tay, các phạm vi ra đòn trong kỹ thuật chân cũng phân thành 3 loại (thượng
đẳng, trung đẳng, hạ đẳng) và tuỳ thuộc vào cách thức (là đá vòng hay đá thẳng
hoặc tống) mà có những đặc trưng riêng và tên gọi riêng [11], [22], [27], [36].
Kỹ thuật quét, quật:
Ngay từ đầu những năm 1900, khi Karatedo đã phổ biến ở Nhật Bản, các

kỹ thuật quăng quật, chộp bẻ hầu như bị lãng quên và không được thường xuyên
sử dụng trong tập luyện kỹ thuật của Karatedo mà chỉ tập trung chủ yếu vào các
kỹ thuật tay, chân. Đây chính là lý do nhiều người thường cho rằng Karatedo chỉ
có kỹ thuật tay và chân. Nhưng sự thực Karatedo gồm tất cả các kỹ thuật quăng,
quật, chộp bẻ và đều có quy luật và luật lệ riêng. Thời gian gần đây, theo luật thi
đấu, nếu các kỹ thuật này được kết hợp với các kỹ thuật để ghi điểm thì đây là
một trong những kỹ thuật ghi điểm cao trong Kumite [22], [30], [36].
Các tư thế tấn:
Karatedo có nhiều thế tấn, chúng được sử dụng để biểu diễn nghệ thuật
và trong thi đấu thể thao. Những người chủ trương phòng thủ cũng như những
VĐV thể thao đều tận dụng đến tấn pháp để tìm dịp tốt tung ra những đòn đá
hoặc đòn đấm thích thợi. Trong Karatedo, các thế tấn đều tùy thuộc vào động tác
của tay và chân. Chính thế đứng của cơ thể sẽ quyết định sức mạnh của một đòn
đánh hoặc một đòn đỡ. Nếu thế đứng vững và thăng bằng thì các động tác sẽ rất
mạnh và có hiệu quả. Một số thế đứng tấn cho phép người tập có thể dễ dàng
tiến tới trước để tấn công hoặc lùi nhanh ra phía sau để tránh né. Một số thế khác
giúp người tập có thể tung ra đòn nhanh, mạnh. Các thế tấn không chỉ sử dụng
trong giao đấu đối kháng, chúng còn giúp ổ định thể lực khi người tập bị mệt
hoặc căng thẳng.
Trong Karatedo, có nhiều hệ phái mỗi một hệ phái lại có những đặc trưng
khác nhau, với mỗi thế tấn đều có mục đích sử dụng khác nhau, nhưng tựu chung
đều có những nguyên lý chung và được phân thành 3 nhóm chính với các thế


17
ng t nhiờn, th ng kộo cng ra ngoi v th ng kộo cng vo trong [11], [24],
[36].
Cỏc t th thõn hỡnh gm hai nhúm l t th thng ng v t th ng
ngi, theo 3 cỏch: i din, bỏn din v trc din [11], [29], [36].
1.2.2.2. K thut trong thi u th thao :

Da vo h thng k thut Karatedo, ngi ta a Karatedo vo th thao
theo hai hỡnh thc l tp luyn v thi u. Trong tp luyn Karatedo c bao
gm rt nhiu ni dung, nhng tu chung gm 3 phng thc tp luyn ch yu
l: Kihon (k thut cn bn), Kata (quyn thut) v Kumite (i khỏng) trong
Kumite li bao gm Kihon kumite (i khỏng cn bn); Jiyu kumite (i khỏng
t do) [30], [36], [67], [68].
Kihon chớnh l nn tng ca Karatedo. Thut ng ny dựng núi ti
cỏc k thut c bn hun luyn cho ngi tp. Vic tp luyn Kihon c bit
quan trng trc tt c chng trỡnh hun luyn nõng cao no. trỡnh thp
vic hun luyn Kihon gm: cỏc th tn, ũn m, ũn ỏ, mang tớnh n l,
vi mc ớch tng bc trang b cho VV mt nn tng vng chc trc khi
bc vo tp nõng cao.
Kata l t hp ton b cỏc cỏch thc v phng phỏp c thc hin
trong cỏc bi quyn. Mi bi quyn u l mt h thng cỏc k thut ng tỏc
(tn phỏp, th phỏp, cc phỏp v nhón phỏp) c sp xp b trớ mt cỏch khoa
hc, hp lý da trờn nn tng t tng truyn thng v nhng kinh nghim thu
c t thc tin, ú l bao gm hng lot cỏc chuyn ng, cỏc k thut liên
hoàn, với những động tác rất hài hoà uyển chuyển, mỗi một bài quyền là
một hệ thống các kỹ thuật động tác (gồm cả tấn công lẫn phòng thủ) đợc
hệ thống hoá nh đang giao đấu với một đối thủ ảo nào đó. Trong thi
đấu Kata, ngời tập phải có trình độ nhất định và phải tuân thủ nghiêm
ngặt về đờng di chuyển, thế tấn cũng nh điều hoà về hơi thở khi thực
hiện một bài quyền.


18
“Kumite” nghĩa là thi đấu đối kháng. Trong thi đấu Kumite (thể thao)
luôn luôn phải có khống chế của đòn đánh, điều này rất khác biệt so với phần lớn
các môn võ thuật thể thao khác. Một võ sĩ Karatedo thực sự, là khi ra đòn phải
hiểu rõ và phải có trách nhiệm đối với đòn đánh của mình, tức là phải luôn kiểm

soát được đòn đánh của mình ở mọi nơi, mọi lúc. Có hai dạng Kumite được sử
dụng trong tập luyện đó là Kihon Kumite và Jiyu Kumite [36], [57], [67].
“Kihon Kumite” là những bước căn bản đầu tiên trong thi đấu đối kháng,
nhằm huấn luyện cho VĐV khả năng thi đấu như trong môi trường thi đấu thực
sự. Các kỹ thuật trong Kihon Kumite được sử dụng trong tập luyện và thi đấu cả
trong Kata (trong trình diễn Bunkai) và trong thi đấu Kumite (đối kháng).
“Jiyu Kumite” tương tự như các kỹ thuật trong Kihon Kumite, nhưng có
khác biệt là các kỹ thuật được thực hiện ở một trạng thái tự nhiên của cơ thể (các
thế tấn tự nhiên). Việc sử dụng các kỹ thuật trong Jiyu Kumite đòi hỏi có sự
thành thạo về các kỹ thuật Kihon trước đó. Các kỹ thuật trong Jiyu Kumite cũng
tương tự như các kỹ thuật trong Kihon Kumite, nhưng khác biệt là các đối thủ tự
do thực hiện tất cả các kỹ thuật nếu thấy nó phù hợp với từng điều kiện, hoàn
cảnh, khoảng cách và các nhân tố khác. Việc thi đấu này không có quy ước
trước, khác với Kihon Kumite đã được quy ước khi thực hiện. Do vậy, việc sử
dụng các kỹ thuật trong Jiyu Kumite đòi hỏi phải thành thạo các kỹ thuật Kihon
Kumite trước đó. Các kỹ thuật trong Jiyu Kumite chỉ sử dụng trong tập luyện và
thi đấu Kumite.
1.2.3. Đặc điểm về tâm lý vận động của VĐV nam ĐTQG trong thi đấu
đối kháng môn Karatedo
Trong thi đấu Kumite các quá trình cảm xúc, ý chí, hành động luôn thay đổi
và các tình huống xảy ra trong một trận đấu rất đa dạng, mặc dù chỉ trong thời
gian rất ngắn, do vậy đòi hỏi phải có tri giác nhạy bén cao, tư duy chính xác, tốc
độ và khả năng phán đoán các hành động của đối thủ có thể xảy ra đặc biệt ở
những giây phút cuối trận đấu hoặc ở những trận đấu quyết định.


19
Thi đấu Kumite trong Karatedo là một môn thể thao giao đấu đối kháng cá
nhân trực tiếp, đòi hỏi VĐV phải chịu đựng nặng nề về tâm lý với những áp lực
về khát vọng chiến thắng, do trách nhiệm danh dự và sự tự tôn của bản thân… có

khi còn gắn liền tới tương lai, sự nghiệp của bản thân. Tâm lý tốt hay xấu sẽ chi
phối hiệu quả thi đấu. Để có tâm lý tốt liên quan tới trình độ của VĐV là khả
năng phát triển cao các trạng thái chức năng cơ thể, các chức năng điều hòa thần
kinh và tâm lý, các yếu tố vận động và thể lực đảm bảo cho hoạt động chuyên
môn. [21], [22], [36].
Sự đối kháng cá nhân trực tiếp, hoạt tính hai chiều thể hiện rõ nét trong môn
Karatedo. Nét tiêu biểu hoạt tính tâm lý này là phải chống lại những hành động
đa dạng và luôn biến hóa về lực cũng như biến hóa về hình thức của đối phương.
Do vậy VĐV phải tính toán rất cẩn thận về kỹ thuật, chiến thuật của từng hành
động để thích ứng với từng hành động thi đấu. VĐV không chỉ nâng cao hiệu
quả thi đấu của mình, đồng thời phải có khả năng chống đỡ làm giảm khả năng
ghi điểm của đối phương. Trong thi đấu Kumite các quá trình cảm xúc, ý chí,
hành động luôn thay đổi theo các tình huống thi đấu trong khoảng thời gian rất
ngắn qua các ứng biến của trận đấu [22], [36], [85].
Có sức mạnh thể lực vẫn chưa đủ nếu tâm lý thiếu vững vàng. Trong thi đấu
Karatedo, VĐV mà lâm vào tình thế lưỡng lự, bối rối sẽ không kiểm soát nổi
mình và cũng không thể nhận rõ được đối thủ. Cho nên, dù trong bất kỳ hoàn
cảnh nào VĐV Karatedo phải có một trạng thái luôn bình tĩnh, tỉnh táo. Nét tiêu
biểu hoạt tính tâm lý này là phải chống lại những hành động đa dạng và luôn
biến hóa về lực cũng như về hình thức biến hóa của đối phương, do đó VĐV
phải tính toán rất cẩn thận về kỹ thuật, chiến thuật từng hành động cụ thể để
thích ứng với hoạt động thi đấu. VĐV không chỉ nâng cao hiệu quả thi đấu của
mình, đồng thời phải luôn khống chế bản thân, ứng biến trước các tình huống
khác nhau, chống đỡ làm giảm khả năng ghi điểm của đối phương, khi cần phải
có hành động quyết đoán để ghi điểm hoặc hạn chế hành động của đối phương
[22], [31], [36].


×